Chương 2 : Không Gian Vật Lý

13 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13398)
CHƯƠNG 2
KHÔNG GIAN VẬT LÝ

Không gian vật lý là đối tượng được nhận thức rõ ràng của khoa học hôm nay. Với người xưa, không gian này là một thế giới nhỏ bé với vòm trời phủ lên mặt đất, các ngôi sao lấp lánh vào ban đêm, ánh trăng treo nghiêng nghiêng và ánh mặt trời rực rỡ.

Hôm nay không gian là cả một vũ trụ bao la với vô số thiên thể tập hợp thành thiên hà. Mặt trời của chúng ta là một ngôi sao nhỏ bé nằm trong một thiên hà có tên là Ngân hà.

Với sự quan sát theo điều kiện của trái đất, thời gian có một hệ thống căn bản là giây phút giờ. Đơn vị đo thời gian được lấy theo vòng quay của trái đất, hoặc sóng giao động của các nguyên tử.

Với một hệ thống không gian thời gian này, mọi qui luật vật lý đang được khám phá dần dần tới từng electron điện tử và tới những hạt bức xạ vô cùng nhỏ hơn nữa.

Các tàu ngầm lang thang dưới biển để tìm hiểu thế giới đại dương. Các mũi khoan dò vào lòng đất tìm hiểu cấu tạo địa chất. Các tấm kính thiên văn hướng vào vũ trụ mênh mông để tìm hiểu thiên thể xa xăm. Các kính hiển vi điện tử đang đột phá vào thế giới vi mô của cấu trúc nguyên tử.

Các nguyên tắc về chuyển động được tìm hiểu khá rõ ràng (trừ nguyên tắc chuyển động của các UFO) đủ cho con người thực hiện các chuyến bay ra khỏi trọng trường của trái đất.

Môi trường sinh thái của Địa cầu được theo dõi chặt chẽ để con người có thể phát hiện ra từng biến đổi nhỏ nhất. Các sóng điện tử phủ trùm cả mặt đất để làm phương tiện thông tin khắp nơi. Máy vi tính đã có thể thực hiện những tính toán vô cùng phức tạp và người ta đang ra sức tìm kiếm trí tuệ nhân tạo. Những bệnh nan y như ung thư, AIDS được hiểu thấu tới từng đường tơ kẽ tóc (thực ra đường tơ kẽ tóc quá lớn) và việc tìm cách chữa trị cho hiệu quả chỉ là vấn đề thời gian. Tia laser xâm nhập vào mọi ngành nghề làm tăng thêm hiệu quả.
Khoa học phát triển với tốc độ chóng mặt. Và tội ác cũng chạy đua với tốc độ tương đương.

Khắp nơi, con người vẫn tiếp tục lừa đảo, giết hại, chia rẽ, thù hận lẫn nhau không giảm bớt chút nào. Phương tiện về vũ khí, liên lạc làm cho kẻ khủng bố gia tăng mức độ phá hoại nguy hiểm hơn. Sức tàn phá của chiến tranh dữ dội hơn.

Những điều mà khoa học tìm thấy nơi không gian vật lý này không giúp ích gì cho con người cải tạo đạo đức của họ!

Với hình học Euclide và vật lý học Newton, không gian này khá ổn định, ngay ngắn, đơn giản. Hai đường thẳng song song sẽ không bao giờ giao nhau. Lực hấp dẫn tuỳ thuộc vào khối lượng vật thể, khoảng cách và với hằng số K. Ba ngày ở trái đất cũng giống như ba ngày ở một ngôi sao xa xăm nào đó.

Nhưng với Einstein, không gian và thời gian bị biến dạng một cách kỳ cục theo các điều kiện. Ví dụ ở một thiên thể mà mật độ trọng trường cao hơn, nghĩa là một người nặng 50 kg ở Địa cầu, sẽ nặng cả tỷ ký ở đó, thì thời gian và không gian không giống như ở Địa cầu.

Chuyện này giống như chuyện cổ tích Từ Thức lạc vào động tiên vài năm đến khi trở lại trần gian thì ở đây đã trôi qua vài chục năm rồi.

Khoảng cách cũng bị thay đổi tương tự. Một vật dài ba mét ở Địa cầu, có thể chỉ còn vài phân ở thiên thể kia.

Hoặc vận tốc cũng làm thay đổi thời gian và không gian. Với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng, vật thể còn lại phân nửa chiều dài ở quả đất, và thời gian dường như chỉ vài giờ, trong khi ở quả đất vài mươi năm.

Một sự biến đổi nơi này đều có ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ, dù rất ít. Vì cả vũ trụ là sự tổ hợp cấu thành chặt chẽ bởi toàn bộ vật chất - năng lượng - không gian -thời gian. Nếu không có vật chất thì không có cái khoảng không mênh mông kia. chúng ta đừng nghĩ đơn giản không gian tức là không có gì, không bị ảnh hưởng bởi không có điều gì. Trái lại không gian là cái được tạo thành bởi vật chất.

Với cấu trúc của các thiên thể như hiện nay thì không gian là như khoảng không bây giờ. Nếu các thiên thể có cấu trúc khác hẳn, gần hơn, xa hơn hình dáng lạ lùng hơn thì không gian sẽ biến đổi kỳ cục hơn. Nhưng kỳ cục như thế nào thì hãy đợi tính toán.

Một xác thú vật bị mục rữa, tan hoại, mất dần dường như không có ảnh hưởng gì đến toàn nhân loại đang nhởn nhơ sinh sống và giành giật. Thật ra nó đã thải vào không khí nhiều thành phần mới lạ do các vi khuẩn tạo ra trong khi gặm nhấm xác chết. Ảnh hưởng của các khí thải đó tuy nhỏ nhưng cũng góp phần làm biến đổi môi trường.

Một người bị giết hình như không ảnh hưởng gì đến toàn trái đất đang tỉnh bơ ăn uống hưởng thụ. Nhưng đằng sau đó là sự thay đổi lớn lao cho gia đình thân quyến. Người vợ có thể sẽ tái giá. Con cái có thể sẽ hư hỏng và xã hội thêm nhiều nguy hiểm.

Điều chúng ta quan tâm là chính nơi không gian vật lý này, mọi người gây lấy nghiệp nhân và nhận lấy quả. Nhưng chúng ta không thể tìm thấy đường đi của Nghiệp Báo nơi đây vì sự ngăn cách của thời gian và không gian
Ví dụ, một tên cướp giết người và trốn được sự điều tra của pháp luật, mười năm sau y lái xe qua dốc núi, tay lái bị tuột ốc, xe không thể giữ phương hướng đã lao xuống vực thẳm.

Có thể suy luận viễn vông rằng sau cái chết của nạn nhân, người vợ tảo tần nuôi cho con ăn học, nhưng không đủ sức, đã cho người con đi học nghề ở xa. Người con này về sau có nhiều bạn bè và một trong những người bạn đó là thợ sửa xe hơi. Vào lần giỗ thứ mười của người cha mình, người con đã mời bạn bè đến dự tiệc. Vì vội vàng lo đi dự đám giỗ, người thợ máy đã lắp không kỹ volant cho đúng chiếc xe của tên giết người ngày xưa. Khi leo lên dốc núi, tên này nhận lấy quả báo

Hoặc viễn vông hơn, ví dụ như ông Đình đã bố thí một số tiền lớn để đắp con đường trong làng rồi ông chết, sinh qua một quốc gia khác. Nhờ con đường đó đời sống trong làng dễ dàng hơn. Nhiều đứa trẻ trong làng được ăn học tới nơi tới chốn. Một trong những đứa trẻ đó đi du học, trở thành giáo sư dạy cho ông Đình (lúc này còn trẻ). Nhờ vị giáo sư đùm bọc, ông Đình ở kiếp này thành công lớn lao.

Có thể là nghiệp đã đi theo con đường ngoằn ngoèo đó để đến được quả báo. Nhưng nếu đi tìm Nghiệp Báo theo không gian vật lý này, thì chúng ta sẽ bối rối vì mỗi trường hợp đều có đường đi riêng, không trường hợp nào giống trường hợp nào. Khó hơn nữa là sự ảnh hưởng lan truyền dần đến khi người tạo nhân đã sinh qua kiếp khác mà vẫn nhận được ảnh hưởng do chính mình đã tạo nên từ kiếp trước. Làm sao kiểm soát được một người sẽ tái sinh về đâu, trong khi khoa học chưa có loại máy dò tái sinh này.

Hoặc như anh Khải học rất giỏi toán nhờ một vị giáo sư am tường toán học dạy dỗ. Chính vị giáo sư này giỏi toán nhờ vào một số sách được soạn rất công phu. Không ngờ rằng các sách đó là do Khải soạn từ kiếp trước.

Có những trường hợp phải qua cả trăm trung gian, người ta mới hưởng được thành quả của mình. Tìm đường đi của nghiệp trong trường hợp này thật không đơn giản.

Có những điều được xem là may mắn hay rủi ro. Kỳ thực, nó hoàn toàn là kết quả của một nghiệp từ trước. Ảnh hưởng của nghiệp đó đi lang thang trong không gian vật lý (cuộc sống thực tại) qua nhiều trung gian, cuối cùng gặp lại người đã tạo ra nó.

Tác giả Kim Dung chuyên viết các truyện võ hiệp của Trung Hoa, người mà tên tuổi vang lừng khắp thế giới vì tính triết lý sâu thẳm chứa đựng trong tác phẩm, đã tâm đắc loại Nghiệp Báo có tác dụng trực tiếp ngay trong cuộc sống thực tại này. Các tác phẩm của ông đều có một cấu trúc chặt chẽ về Nhân Quả. Ông không bỏ sót một hành vi thiện ác nào mà không nói đến quả báo của nó.

Thạch phá Thiên hy sinh ăn giùm cháo lạp bát cho các đồng đạo võ lâm, ai cũng nghĩ cháo có độc, nên vô tình được tăng công lực lên nhiều lần (Hiệp Khách Hành).

Tây Độc Âu Dương Phong vì tâm niệm độc ác nên cuối cùng trở thành người điên. Nhưng trong khi điên,ông trở nên hiền lành tốt bụng, và cuối cùng ông tỉnh lại, chết trong hân hoan.

Quách Tĩnh giúp cho Thành Cát Tư Hãn xâm chiếm khắp nơi, cuối cùng phải tự tử vì giữ không được thành Tương Dương trước quân đội của nhà Nguyên (Võ Lâm Ngũ Bá)

Toàn bộ những tác phẩm của Kim Dung đều không bị sơ hở về Nghiệp Báo. Tuy nhiên ông thích chứng minh loại Nghiệp Báo cụ thể, dễ thấy được ảnh hưởng của nghiệp đưa đến quả báo như thế nào ngay trong cuộc đời của nhân vật.
Dĩ nhiên là đường đi của nghiệp trong không gian vật lý này không phải là cốt lõi của luật Nghiệp Báo vì nó không đi theo một quy luật nào. Đôi khi chúng ta thấy nó có tính may rủi. Ví như việc mà người thợ máy vì vội vàng đi ăn giỗ đã ráp cái volant không kỹ cho tên cướp, sự kiện này giống như vô tình hên xui vậy thôi chứ không có vẻ chắc chắn, Nhưng chính sức mạnh Nghiệp Báo trong vô hình đã ráp nối các sự kiện lại, để cho tên cướp nhất định phải đưa xe đến sửa vào lần giỗ thứ mười của nạn nhân của y.

Như vậy trong không gian vật lý này, chúng ta có thể quan sát ảnh hưởng của nghiệp đi dần đến quả báo như thế nào, nhưng chúng ta vẫn không thể "thấy" bản chất của luật Nghiệp Báo ở đâu vì luật Nghiệp Báo là một tính chất của Bản Thể Tuyệt Đối. Chỉ những vị thánh siêu phàm đã chứng đạt Bản Thể mới “nắm” được quy luật này một cách tường tận mà thôi.

Tuy nhiên, vũ trụ vật lý này là bề ngoài của Bản Thể. Vũ trụ vật lý không tách rời với Bản Thể. Chúng ta có thể ví Bản Thể như gốc cây mà vũ trụ vật lý giống như là hoa trái muôn màu muôn vẻ. Dù cho vũ trụ có ngàn sai muôn khác nhưng đều quy đồng ở Bản Thể. Chúng ta có thể ví Bản Thể như bóng đèn mà vũ trụ vật lý giống như ánh sáng qua lăng kính nhiều màu. Ánh sáng tuy nhiều màu sắc nhưng đều quy đồng tại bóng đèn. Cũng vậy, các hiện tượng của vũ trụ vật lý sinh sinh hóa hóa vô cùng tận nhưng đều chung đồng ở Bản Thể. Chính trong Bản Thể này luật Nghiệp Báo hình thành và chi phốí đời sống của mọi người trong thế giới vật lý. Sức mạnh của luật Nghiệp Báo vô cùng to lớn dù chúng ta không thể trông thấy bằng mắt thường.

Trong thế giới vật lý, ảnh hưởng của một nghiệp nhân đi ngoằn ngoèo lang thang qua trung gian người này đến người khác rồi giống như vô tình, gặp lại tác giả đã tạo ra nghiệp ban đầu để đem cho tác giả niềm vui hay nỗi khổ. Nếu quan sát trên thế giới hiện tượng, chúng ta thấy đường đi có vẻ mông lung, hên xui, nhưng tại sao nó luôn luôn gặp lại tác giả. Thật ra trong vô hình, luật Nghiệp Báo trong Bản Thể chi phối một cách không sơ hở.

Một tay buôn ma tuý bị bắt, bị kết án chung thân. Theo luật pháp, y đã nhận lấy hậu quả của tội lỗi mình một cách thỏa đáng. Nhưng ảnh hưởng của nghiệp chưa buông tha y. Sau khi chết y sinh vào một gia đình có cha mẹ là những kẻ nghiện ngập ma túy nằm trong đường dây buôn lậu của y từ kiếp trước. Cha mẹ y phạm tội rồi bị giam. Y trở thành kẻ lêu lỏng, sa vào ma tuý, đi cướp giật và bị bắn chết. Chưa hết, nhiều đời sau nữa, cái nghiệp ma tuý vẫn đeo đuổi y, y tiếp tục sinh vào những môi trường chung quanh nhiều người nghiện ngập. Cái sa đọa mà y gieo rắc cho kẻ khác đã trở thành máng nhện quấn lấy y trong nhiều kiếp luân hồi.

Như vậy cái bản án của luật pháp dành cho kẻ phạm tội không phản ảnh được cái quả báo của luật Nghiệp Báo. Luật này có đường đi riêng mà luật pháp xã hội chỉ là một khía cạnh nhỏ của nó. Kẻ vào tù chưa phải là đã trả xong mọi món nợ trước kia.

Ví dụ một tay lừa đảo bị bắt đi tù. Những đời sau y luôn luôn rơi vào tình trạng nghèo túng thiếu thốn và bị lừa gạt liên tục.

Trong suốt một cuộc đời, chúng ta đã tạo nên vô số nghiệp bằng ý nghĩ, lời nói và việc làm. Cả mấy tỷ người cũng như vậy. Tất cả tạo nên một ảnh hưởng của nghiệp lan đi khắp muời phương bốn hướng gieo xen chằng chịt lẫn nhau mà không có cái nào lẫn lộn với cái nào. Nếu đưa vào máy tính để giải mã, có lẽ đây là một bài tính cực kỳ thú vị và phức tạp. Khoa học đang dồn hết sức mình để tìm hiểu cho hết mọi quy luật của không gian vật lý này. Các quy luật ở đây có tính cách khách quan. Ý muốn của con người không thể làm thay đổi các quy luật này. Như cỏ cây có khuynh hướng hướng về ánh sáng. Chúng ta có thể chặt đứt ngọn cây, hoặc bẻ uốn ngọn cây đi vào bóng tối, nhưng rồi sẽ có những chồi khác vươn ra ánh sáng. Chúng ta chỉ tác động một cách hình thức chứ không thể thay đổi quy luật đó.

Các nhà khoa học đi tìm quy luật của Virus gây bệnh tật để tùy theo đó tìm cách chữa trị. Nếu chưa nắm vững qui luật, sự chữa trị không hiệu quả, có khi còn nguy hiểm. Một chất kích thích tố steroid từ ngoài đưa vào cơ thể gây nên hưng phấn nhất thời, nhưng sẽ gây tác hại về sau.

Nguyên lý bảo toàn động lượng là cơ sở cho máy bay phản lực, theo đo,ù khi hỏa tiễn phun ra phía sau một khối lượng vật chất với vận tốc lớn, thì bản thân hỏa tiễn sẽ di chuyển về phía trước với một vận tốc tương ứng. Hiện nay nguyên tắc này là cao nhất về phương pháp di chuyển của người Địa cầu. Còn các đĩa bay thì có phương pháp khác rất lạ mà chúng ta chưa biết.

Các kính hiển vi với tia quét điện tử đã giúp con người đi vào thế giới vi mô, có thể thấy được hình ảnh nguyên tử, hoạt động của tế bào, và từ đó, họ biết rõ hơn những quy luật chưa được biết.

Con người chỉ có khám phá các quy luật của vũ trụ và tìm cách áp dụng có lợi cho mình. Các quy luật này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người. Chính vì tính khách quan này mà khoa học được đề cao. Người ta không dùng quyền lực để thay đổi được sự thật của vũ trụ, quy luật của xã hội, người ta không thể dùng các lý thuyết về tín ngưỡng, đảng phái... để che lấp chân lý. Cuối cùng Khoa học sẽ khám phá, giải đáp tất cả và ai đi ngược với khoa học sẽ bị đào thải không thương tiếc. Đã đến thời kỳ mà các nhà hoạt động tôn giáo không được quyền thiếu kiến thức khoa học. Hầu hết các triết lý tôn giáo đều có tuổi từ mấy nghìn năm trước. Các tín đồ đều tự mãn cho rằng tôn giáo của mình là chân lý, dù thời gian có trôi mãi, khoa học có tiến bộ đến đâu thì các giáo lý, giáo điều của tôn giáo họ vẫn bất biến.

Quan niệm tự mãn, độc tôn, cố chấp này hoàn toàn bất lợi cho con người muốn tìm chân lý tối thượng.

Con đường không có ích lợi cho kẻ không muốn đi. Ánh sáng không có ích lợi cho kẻ không muốn nhìn thấy. Cũng vậy, chân lý không giúp gì được cho kẻ tự chôn mình trong những niềm tin lạc hậu.

Nếu chúng ta hỏi các tín đồ của các tôn giáo, họ sẽ luôn luôn cho con đường của họ là hơn hết. Ngay trong đạo Phật, mỗi hệ phái đều cho mình là cao hơn hết và chê bai các hệ phái khác. Cuốn "Hành trình qua phương Đông" gần đây đã nêu ra việc này rất rõ. Các tu sĩ để dành nhiều thì giờ đả kích nhau hơn là lo tu hành thật sự.

Muốn tìm được chân lý đích thực, chúng ta phải cởi bỏ mọi thành kiến từ trước. Đừng vì chấp ngã để rồi luôn luôn cho những cái gì liên hệ với mình đều tốt đẹp cả như ý kiến của tôi, hệ phái của tôi, tôn giáo của tôi, chủ thuyết của tôi... Chân lý không liên quan đến những cái tôi này.

Đức Phật dạy mọi người phải có tinh thần hoài nghi khi đi tìm lẽ thật. Không nên tin bất cứ điều gì dù đó là do truyền thống để lại, do người khác truyền đạt, do người khả kính nói ra, do ý riêng mình chấp nhận. Chúng ta phải biết hoài nghi trong khiêm hạ. Hoài nghi tất cả kể cả ý nghĩ của chính mình. Không nên hoài nghi ý nghĩ của người khác nhưng lại cả tin vào ý nghĩ của mình.

Các nhà hoạt động tôn giáo trong thời đại khoa học tiến bộ hôm nay càng phải biết hoài nghi hơn nữa. Những tư tưởng, những giáo lý được giảng dạy từ xưa đến giờ có vẻ hợp lý, nhưng nếu được suy xét kỹ hơn,vẫn có thể bộc lộ nhiều sai lầm lớn lao.

"Những gì giáo chủ tôi đã dạy, thầy tôi đã giữ gìn, là luôn luôn đúng". Tư tưởng bảo thủ này không thích hợp cho xã hội loài người của thời đại hôm nay.

Chân lý là sự khách quan không tùy thuộc vào ý muốn của mỗi người. Quá tin vào ý nghĩ của cái tôi, chúng ta sẽ rời xa chân lý. Tính khách quan của vũ trụ vật lý càng khiến chúng ta phải rời bỏ những thiên chấp chủ quan của mình nếu muốn hiểu được sự thật.

Ai cũng nói mình đi tìm chân lý, sống với chân lý. Nhà khoa học nói như thế và nhà đạo học cũng nói như thế. Nếu cùng đi tìm chân lý thì ắt phải có ngày gặp nhau. Nhà đạo học phải có tinh thần, có hiểu biết về khoa học, cũng như nhà khoa học phải biết những vấn đề của đạo giáo. Đôi khi tinh thần của tôn giáo gợi ý nhiều vấn đề cho khoa học. Ví dụ như đạo Phật đã từng nói đến vô số thế giới trong vũ trụ. Và ngược lại khoa học cũng giúp cho nhà hoạt động tôn giáo bớt đi vào mê tín, cuồng tín. Nhiều người đã e ngại về sau này, sự bạo động không bắt nguồn từ các tổ chức thuần túy chính trị mà lại bắt nguồn từ các tôn giáo có khuynh hướng cuồng tín.

Tóm lại không gian vật lý này có tính khách quan và tương đối. Những qui luật của nó không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Đồng thời tính chất của không gian, thời gian, khối lượng...bị thay đổi theo nhiều điều kiện. Trong không gian này con người tạo nghiệp và nhận lấy quả báo. Những nghiệp do con người tạo ra đã gây ảnh hưởng vào trong cuộc đời và ảnh hưởng đó lan đi mãi cho đến khi nó gặp lại tác giả đã tạo ra nó và đem đến cho tác giả niềm vui hay nỗi khổ một cách tương xứng.

Tuy nhiên không gian này không phải là duy nhất trong vũ trụ. Nó chỉ là hiện tượng của Bản Thể và mọi sự vận động sinh hóa của nó đều xuất phát từ những quy luật bí mật từ Bản Thể. Ngay cả một ảnh hưởng của nghiệp đi lang thang trong cuộc đời cũng không phải tự phát ngẫu nhiên, nó luôn luôn chịu sự chi phối của Nghiệp Báo từ Bản Thể.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn