Phần Ii Nhiệt Tình Và Tình Thương Của Con Người

15 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 19669)

NGHỆ THUẬT TẠO HẠNH PHÚC - THE ART OF HAPPINESS
Tác Giả: Đức Đạt Lai Lạt ma và Bác Sĩ Howard C. Cutler
Dịch Giả: Tỳ kheo Thích Tâm Quang
Chùa Tam Bảo, Fresno, California, Hoa Kỳ - Phật Lịch 2547 - D.L. 2003

PHẦN II
NHIỆT TÌNH VÀ TÌNH THƯƠNG CỦA CON NGƯỜI

 

CHƯƠNG 5
KIỂU MẪU MỚI CHO SỰ THÂN THIỆN

CÔ ĐƠN VÀ QUAN HỆ

Tôi vào phòng khách của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại khách sạn, và Ngài ra hiệu cho tôi ngồi. Trà được rót ra, Ngài tuột đôi giầy Rockport mầu bơ và ngồi thoải mái trên một chiếc ghế lớn. 

""Sao?" Ngài hỏi tôi với môt giọng thường lệ thay đổi ngữ điệu có ý là Ngài đã sẵn sàng cho bất cứ điều gì. Ngài mỉm cười và giữ im lặng. Chờ đợi.

Mấy phút trước đây, trong khi ngồi tại hành lang khách sạn, chờ đến giờ gặp gỡ, tôi lơ đãng nhặt một tờ báo địa phương bỏ lại nơi đây; tờ báo đã được lật tới mục "Việc Riêng". Tôi liếc qua mục quảng cáo dầy đặc hết trang này đến trang khác tìm người, hết sức mong có liên hệ tới một người nào khác Vẫn hãy còn nghĩ tới những quảng cáo ấy lúc ngồi xuống bắt đầu cuộc gặp với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi đột nhiên quyết định bỏ qua một bên những câu hỏi đã được chuẩn bị, và hỏi Ngài: "Có bao giờ Ngài cảm thấy cô đơn không?" 

"Không" Ngài trả lời đơn giản. Tôi đã không chuẩn bị trước cho câu trả lời này. Tôi cho rằng câu trả lời của Ngài phải là những dòng sau: "Đương nhiên", mọi người ai cũng có lúc có lúc cảm thấy lẻ loi.." Rồi tôi dự định hỏi Ngài làm sao Ngài đối phó với cô đơn. Tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi lại gặp một người không bao giờ cảm thấy cô đơn. 

"Không" tôi hỏi Ngài lần nữa, ngờ vực

"Không" 

"Ngài cho điều đó là cái gì?

Ngài nghĩ một chút."Tôi nghĩ rằng một nhân tố mà tôi nhìn vào bất cứ ai là từ một khía cạnh tích cực; tôi cố gắng tìm kiếm những khía cạnh tích cực của họ. Thái độ này tạo ngay một cảm giác đồng cảm, một loại liên hệ.

"Một phần là vì lẽ về phần tôi ít có sự e sợ, ít sợ hãi hơn, và nếu tôi hành động theo một cách thức nào đó, có thể mất đi sự kính trọng hay nghĩ rằng tôi là người xa lạ Cho nên vì thường là không có loại e sợ và sợ hãi đó, thì sẽ có loại cởi mở. Tôi nghĩ đó là nhân tố chính." 

Phấn đấu để lãnh hội phạm vi và khó khăn trong việc áp dụng một thái độ như vậy, tôi hỏi "Nhưng làm sao Ngài có thể cho rằng người ta có khả năng để cảm thấy thoải mái với người khác, lại không có sự sợ hãi và e sợ bị người ta không thích hay phán xét. Phải chăng có phương pháp đặc biệt để một người trung bình có thể sử dụng để phát triển thái độ ấy?"

"Niềm tin căn bản của tôi là trước tiên bạn cần hiểu sự ích lợi của từ bi."Ngài nói với một giọng quả quyết."Đó là nhân tố chính. Một khi bạn chấp nhận sự thật là từ bi không phải là một thứ ngấy ngô con nít hay tình cảm, một khi mà bạn hiểu từ bi là cái thực sự đáng giá, hiểu giá trị sâu xa của nó, thì bạn phát triển ngay sự lôi cuốn hướng về nó, thiện ý để trau dồi nó. 

"Và một khi bạn kích thích tư tưởng từ bi trong tâm, một khi tư tưởng đó trở thành tích cực, thì thái độ của bạn đối với người khác tự động thay đổi. Nếu bạn gần gũi người khác với tư tưởng từ bi, sự sợ hãi tự động giảm thiểu và bạn sẽ cởi mở với người khác. Cởi mở tạo một bầu không khí tích cực và thân hữu. Bằng thái độ ấy, bạn tiến tới mối quan hệ mà chính bạn là người đầu tiên tạo ra khả năng nhận sự cảm tình hay sự đáp ứng tích cực của người khác. Và với thái độ ấy, cho dù người ta không thân thiện với bạn hoặc bạn không được đáp ứng bạn một cách tích cực, thì ít nhất bạn cũng đã gần gũi người với cảm giác cởi mở làm cho bạn linh hoạt và tự do thay đổi cách tiếp xúc cần thiết. Loại cởi mở ấy ít nhất cho bạn khả năng có cuộc đối thoại đầy ý nghĩa với họ. Nhưng không có thái độ từ bi, nếu bạn cảm thấy như mậc cảm, tức tối hay lãnh đạm, thì dù người bạn thân nhất đến với bạn, bạn vẫn cảm thấy không thoải mái. 

"Tôi nghĩ rằng trong nhiều trường hợp, người ta có khuynh hướng mong người khác đáp họ một cách tích cực trước, hơn là tự mình chủ động tạo ra khả năng đó. Tôi cảm thấy thế là sai, nó dẫn đến khó khăn và sẽ trở thành rào cản làm tăng thêm cảm giác lẻ loi và cô đơn. Vậy, nếu bạn muốn khắc phục cảm giác lẻ loi và cô đơn ấy, tôi nghĩ rằng thái độ tiềm ẩn của bạn có thể tạo ra sự khác biệt to lớn. Gần gũi người khác với tư tưởng từ bi trong tâm là phương cách tốt nhất để làm điều này. 

Sự kinh ngạc của tôi về việc Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Ngài chẳng bao giờ cô đơn hoàn toàn tương xứng với niềm tin của tôi vào sự lan tràn của cảnh cô đơn trong xã hội của chúng ta. Niềm tin này không chỉ sanh ra từ cảm giác chung về sự cô đơn của riêng tôi hay sợi chỉ xuyên suốt sự cô đơn hình như là chủ đề quan trọng nhưng ít được chú ý trong toàn bộ cơ cấu hành nghề y khoa tâm thần của tôi. Trong 20 năm qua, các nhà tâm lý học đã bắt đầu nghiên cứu về sự cô đơn trong cách thức khoa học, thực hiện nhiều khảo sát và nghiên cứu về đề tài này. Một trong những khám phá nổi bật về những nghiên cứu này là hầu như tất cả mọi người đều cho biết họ đã kinh nghiệm qua sự cô đơn, hiện thời hoặc trong quá khứ. Trong một cuộc thăm dò rộng rãi, một phần tư những người trưởng thành tại Hoa Kỳ cho biết họ cảm thấy hết sức cô đơn ít nhất một lần trong hai tuần. Mặc dù, chúng tôi thường nghĩ rằng cô đơn kéo dài là mối ưu phiền đặc biệt lan rộng nơi người già, lẻ loi trong các khu nhà trống trải hay ở khu sau của viện dưỡng lão, nhưng công cuộc nghiên cứu cho thấy những thiếu niên và thanh niên cũng cho biết họ cũng cô đơn như người già. 

Vì mức độ cô đơn lan tràn, những người điều tra nghiên cứu bắt đầu xem xét những thay đổi phức tạp góp phần gây ra cô đơn. Chẳng hạn, họ đã tìm ra những người cô đơn thường có những vấn đề mặc cảm, gặp khó khăn trong giao tiếp với người khác, ít chịu lắng nghe, và thiếu khéo léo trong việc giao tế xã hội như chọn lựa cách cư xử thông tục (biết khi nào gật đầu, đáp lại thích hợp, hay giữ im lặng). Sự nghiên cứu này đề xuất một chiến lược khắc phục cô đơn là tác động vào cải tiến kỹ năng giao tế xã hội. Tuy nhiên chiến lược của Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như là tránh tác động vào kỹ năng giao tế xã hội hay cách ứng xử đến từ bên ngoài, ủng hộ phương pháp đi thẳng vào tâm - nhận thức giá trị của từ bi và trau dồi nó. 

Bất chấp sự ngạc nhiên lúc ban đầu của tôi, khi tôi nghe thấy Ngài nói bằng sự quả quyết như vậy, tôi tin tưởng chắc chắn rằng Ngài không bao giờ cô đơn. Có những bằng chứng hậu thuẫn cho lời tuyên bố của Ngài. Tôi thường chứng kiến tác động của Ngài với người lạ, bao giờ cũng tích cực không thay đổi. Bây giờ thì rõ ràng là những tác động qua lại không phải là ngẫu nhiên hay chỉ là kết quả của một cá tính thân thiện tự nhiên. Tôi cảm thấy Ngài đã bỏ ra nhiều thời gian suy tư về tầm quan trọng của từ bi, thận trọng trau dồi nó, dùng nó để làm phong phú và mềm dẻo vấn đề trong kinh nghiệm hàng ngày, làm đất trở nên phì nhiêu và sẵn sàng tiếp nhận những tương tác tích cực với người khác - một phương pháp thực tế có thể được sử dụng bởi bất cứ ai đau khổ vì cô đơn.

DỰA VÀO NGƯỜI KHÁC SO VỚI TỰ LỰC 

Trong tất cả chúng sanh, có hạt giống toàn thiện. Tuy nhiên, từ bi cần kích hoạt, hạt giống ấy vốn có trong tim và óc chúng ta..."Bằng điều đó Đức Đạt Lai Lạt Ma giới thiệu đề tài từ bi trước một cuộc họp yên lặng. Thuyết giảng trước một cử tọa ngàn rưởi người gồm phần lớn những học sinh mộ Đạo Phật, Ngài bắt đầu thảo luận học thuyết Phật Giáo về Lãnh Vực Công Đức.

Trong ý nghĩa Phật Giáo, Công Đức được mô tả như một dấu ấn tích cực về tâm của con người, hay "sự tiệm tiến tinh thần" xuất hiện do những hành động tích cực. Đức Đạt Lai Lạt Ma giải nghĩa Phước Điền Công Đức là nguồn, hay nền tảng mà từ đó người ta có thể tích lũy công đức. Theo lý thuyết Phật Giáo, chính kho công đức của một người quyết định hoàn cảnh tốt đẹp cho những tái sanh của một người đí trong tương lai. Ngài giải thích bằng học thuyết Phật Giáo về Công Đức định rõ hai Phước Điền Công Đức: Phước Điền Công Đức của các vị Phật, và Phước Điền Công Đức của chúng sanh. Một phương pháp tích lũy công đức liên quan đến việc tạo ra sự kính trọng, đức tin, và lòng tin vào Chư Phật, những bậc Giác Ngộ. Những phương pháp khác liên quan đến việc tu tập như lòng tốt, rộng lượng, khoan dung, và vân vân.. và có ý thức kiềm chế các hành động tiêu cực như sát sinh, trộm cắp, và nói dối. Tạo dựng phương pháp thứ hai này đòi hỏi sự tác động qua lại với người khác, hơn là tác động qua lại với Chư Phật. Trên ccơ sở đó Đức Dạt Lai Lạt Ma chỉ ra rằng người khác sẽ là sự giúp đỡ chúng ta rất nhiều để tích lũy công đức. 

Những người khác là Phước Điền công đức mô tả của Đức Đạt Lai Lạt Ma có một đặc tính đẹp, trữ tình đối với điều đó, hình như chính nó làm phong phú thêm hình ảnh. Lập luận trong sáng của Ngài và sự quả quyết đằng sau những lời nói của Ngài hợp lại thành sức mạnh đặc biệt và ảnh hưởng đến cuộc nói chuyện của Ngài chiều đó. Khi tôi nhìn quanh phòng, tôi thấy nhiều cử tọa xúc động rõ rệt. Chính tôi không say mê bằng. Do các cuộc đàm thoại trước đây, tôi đã ở giai đoạn hiểu biết sơ đẳng về tầm quan trọng sâu xa của từ bi, tuy vẫn còn bị ảnh hưởng nặng bởi những năm dài trong tiến trình khoa học duy lý, làm cho tôi coi bất cứ cuộc nói chuyện gì về lòng tốt hay từ bi chỉ là chút đa cảm vì ý thích của mình. Nghe Ngài nói, tâm trí tôi bắt đầu nghĩ lan man. Tôi bắt đầu ngấm ngầm nhìn quanh phòng, tìm các bộ mặt nổi tiếng, đáng chú ý, hay quen thuộc. \n một bữa cơm quá no trước cuộc nói chuyện, tôi bắt đầu buồn ngủ. Tôi vật vờ lúc tỉnh lúc không. Có lúc trong buổi nói chuyện, tâm trí tôi nghe thấy Ngài nói"... hôm nọ, tôi đã nói về những nhân tố cần thiết để có một cuộc đời hạnh phúc và sung sướng. Những nhân tố như sức khỏe, của cải vật chất, bạn bè vân vân... Nếu bạn điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng, bạn sẽ thấy tất cả những thứ đó lệ thuộc vào người khác. Muốn giữ sức khỏe, bạn đưa vào thuốc men do người khác làm, và chăm sóc sức khỏe do người khác lo liệu. Nếu bạn xem xét tất cả những tiện nghi bạn sử dụng để hưởng thụ cuộc sống bạn sẽ thấy hầu như không có đồ vật nào không liên hệ đến người khác. Nếu bạn suy nghĩ cẩn thận, bạn sẽ thấy tất cả những hàng hóa ấy có được là do cố gắng của nhiều người hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhiều người đã tham gia đến để làm những thứ đó thành tựu. Không cần phải nói khi chúng ta đề cập về bạn tốt, là một nhân tố cần thiết khác cho cuộc đời hạnh phúc, chúng ta đang nói đến sự tác động qua lại với những chúng sanh khác, những con người. khác. 

"Cho nên bạn có thể thấy rằng tất cả những nhân tố đó gắn chặt với những nỗ lực và hợp tác của những người 

khác. Những người khác là không thể thiếu. Cho nên, dù thực tế là tiến trình giao tiếp với người khác có thể có gian khổ, cãi cọ, và khó chịu, chúng ta vẫn phải cố duy trì một thái độ thân thiện và niềm nở để có lối sống có đủ tác động qua lại với người khác đặng vui hưởng một cuộc đời hạnh phúc." 

Khi Ngài nói, tôi cảm thấy một sự phản kháng theo bản năng. Mặc dầu tôi thường trân trọng và vui sướng với bạn bè và gia đình, nhưng tôi vẫn coi mình là một người độc lập. Tự lực Thật ra là hãnh diện về đức tính ấy. Ngấm ngầm, tôi có khuynh hướng coi thường những người phụ thuộc quá mức - một dấu hiệu yếu kém. 

Tuy vậy, chiều này khi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng, đã xẩy ra một việc. Vì 'Tùy Thuộc Vào Người Khác" không phải là đề tài mà tôi ưa thích, tâm trí tôi lại bắt đầu lan man, tôi thấy tôi quên không cắt bỏ sợi chỉ lòng thòng trên tay áo sơ mi của tôi. Chú ý vào một lúc, tôi nghe thấy Ngài nói nhiều người đã tham gia vào việc làm ra tất cả những của cải của chúng ta. Khi nghe Ngài nói, tôi bắt đầu xem xét có nhiều người tham gia làm cái áo sơ mi của tôi. Tôi bắt đầu tưởng tượng đến người nông dân trồng bông. Kế tiếp người bán máy cầy cho người nông dân cầy ruộng. Rồi vì việc đó hàng trăm hay thậm chí hàng ngàn người tham gia làm máy cày, gồm có người khai quặng để chế tạo các bộ phận bằng kim loại của xe máy cày và tất cả những người thiết kế máy cày. Rồi đương nhiên, người làm bông, người dệt, người cắt, người nhuộm, người may. Những người vận chuyển và tài xế xe tải giao áo đến tiệm, và người bán hàng bán cho tôi. Tôi chợt hiểu, hầu như mọi khía cạnh trong đời tôi xẩy ra đều là do nỗ lực của nhiều người. Sự tự lực quý giá cùa tôi hoàn toàn là một ảo tưởng, một ý nghĩ kỳ quặc. Khi sự nhận thức này bừng sáng trong tôi, tôi bị chinh phục bởi ý nghĩa sâu xa của sự liên kết và tùy thuộc lẫn nhau trong tất cả chúng sinh. Tôi cảm thấy dịu đi. Một điều gì đó; tôi không biết. Điều ấy làm tôi muốn khóc.

SỰ RIÊNG TƯ 

Chúng ta cho rằng cần phải vì người khác là nghịch lý. Cùng lúc văn hóa của chúng ta bị hút vào sự tận dương tính độc lập cao độ, chúng ta cũng mong mỏi sự riêng tư và mối liên hệ với người yêu đặc biệt nào đó. Chúng ta tập trung tất cả năng lực vào việc tìm kiếm một người với hy vọng có thể chữa cho ta khỏi cô đơn tuy vẫn chống đỡ cho ảo tưởng là chúng ta vẫn độc lập. Tuy mối liên hệ này rất khó để đạt được thấm chí chỉ một người, nhưng tôi thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma có khả năng và giữ được sự thân mật với thật nhiều người mà Ngài có thể. Thực tế mục đích của Ngài là liên kết với mọi người. 

Gặp Ngài trong một phòng khách sạn tại Arizona vào một buổi xế chiều, tôi bắt đầu "Trong buổi nói chuyện truớc công chúng chiều qua, Ngài nói đến tầm quan trọng của những người khác, mô tả họ là Phước Điền Công Đức. Nhưng khi quan sát sự quan hệ với người khác, thực sự là có rất nhiều cách khác nhau dính dáng với nhau, nhiều loại quan hệ khác nhau ..." 

"Rất đúng " Ngài nói.

"Chẳng hạn có một loại quan hệ hết sức được chuộng ở Phương Tây", tôi nhận xét " Đó là quan hệ có đặc điểm là mức riêng tư sâu giữa hai người, một người đặc biệt để chia sẻ cảm nghĩ thầm kín nhất, nỗi sợ hãi và vân vân...Người ta cảm thấy, nếu không có loại quan hệ ấy, họ sẽ thấy một điều gì thiếu thốn trong cuộc đời của họ. Thực ra, phép chữa bệnh bằng tâm lý thường tìm cách giúp đỡ người ta biết cách phát triển loại quan hệ riêng tư này."

"Vâng, tôi tin là loại riêng tư này có thể được nhìn nhận là tích cực". Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý." Tôi nghĩ rằng người bị tước đoạt loại riêng tư ấy có thể dẫn đến những vấn đề". 

"Tôi chỉ băn khoăn là ..." Tôi tiếp tục " khi Ngài lớn lên tại Tây Tạng, Ngài không những được coi như một ông vua mà còn được coi như một vị thánh. Tôi cho rằng dân chúng kinh sợ Ngài, có lẽ thấm chí là một chút bồn chồn lo lắng hay sợ hãi đứng trước mặt Ngài. Điều đó không tạo ra sự cách biệt cảm xúc nào đó với người khác chứ, cảm giác bị lẻ loi ? Ngoài ra Ngài cũng bị xa gia đình, được nuôi dưỡng như một nhà sư từ nhỏ, và là một nhà sư chưa bao giờ lấy vợ và vân vân... tất cả những sự việc ấy có góp phần vào cảm giác cách biệt với người khác không? Có bao giờ Ngài cảm thấy mất cơ hội phát triển mức độ riêng tư cá nhân sâu hơn đối với người khác, hay với một người đặc biệt nào đó, như vợ chồng? 

Không chút ngập ngừng, Ngài trả lời:"Không. Không bao giờ tôi cảm thấy thiếu riêng tư. Đương nhiên, cha tôi mất đã nhiều năm qua, nhưng tôi cảm thấy rất gần gũi với mẹ tôi, các vị thầy của tôi, các gia sư của tôi, và nhiều người khác. Và với nhiều trong số những người ấy, tôi có thể chia sẽ cảm nghĩ sâu xa nhất, sợ hãi và lo lắng. Khi tôi ở Tây Tạng, vào những dịp lễ lớn trong nước hay công cộng, có một số thủ tục, một số nghi thức, nghi lễ ngoại giao được cử hành nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Có những lần, thí dụ, tôi thường xuống bếp và trở nên hết sức gần gũi với những người làm bếp và chúng tôi có thể đùa rỡn hay to nhỏ chuyện tầm phào, hay chia sẻ những sự việc, và như vậy rất thoải mái không có chút nghi thức nào hay cách biệt. 

Cho nên, khi tôi ở Tây Tạng hay từ khi tôi trở thành người tị nạn, tôi không bao giờ cảm thấy thiếu người mà tôi có thể chia sẻ mọi sự. Tôi nghĩ rằng nhiều việc liên quan đến bản tính của tôi.Với tôi chia sẻ sự việc với người khác rất dễ dàng, tôi không giữ bí mật tốt lắm đâu? Ngài cười" Đương nhiên đôi khi nó có thể là một điều tiêu cực. Thí dụ, có thể là một số thảo luận nào đó trong Kashag (Nội Các của Chính Phủ Lưu Vong Tây Tạng). Về những việc mật, tôi đem thảo luận ngay những việc ấy với người khác. Nhưng trên mức độ cá nhân, cởi mở và chia sẻ mọi sự sẽ rất lợi ích. Vì có bản tính như vậy, tôi có thể kết bạn một cách dễ dàng hơn, không phải là vấn đề biết người và có sự trao đổi bề ngoài mà thực sự là chia sẻ những vấn đề sâu kín nhất và đau khổ sâu xa của tôi. Và cũng như vấy khi tôi nghe được tin vui, tôi cũng chia sẻ ngay với người khác. Cho nên tôi cảm nhận thấy sự riêng tư và mối liên hệ với bạn bè. Đương nhiên, đôi khi đối với tôi thiết lập mối liên hệ với người khác thật dễ dàng vì thường thường họ rất sung sướng chia sẻ những khổ đau và niềm vui của họ với Vị Lạt Ma, 'Đức Tối Thượng Đạt Lai Lạt Ma'. Ngài lại cười, làm sáng tỏ tước vị của Ngài." Dù sao, tôi cũng cảm nhận thấy mối liên hệ, sự chia sẻ với nhiều người. Chẳng hạn, trong quá khứ, nếu tôi cảm thấy thất vọng hay không hài lòng với đường lối chính trị của Chính Phủ Tây Tạng, hay tôi quan ngại về một số vấn đề, cả đến sự đe dọa xâm lăng của Trung Quốc, thì tôi trở về phòng và chia sẻ những việc ấy với người quét phòng. Theo một điểm nào đó, có lẽ dường như đúng là ngớ ngẩn trước con mắt của một số người khi Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đứng đầu Chính Phủ Tây Tạng, đang đương đầu với những vấn đề quốc tế và quốc gia mà lại chia sẻ những chuyện này với một người quét nhà." Ngài lại cười nữa."Nhưng về mặt cá nhân tôi cảm thấy rất hữu ích vì lẽ những người khác tham dự và chúng ta cùng đương đầu với khó khăn hay đau khổ."

MỞ RỘNG VIỆC XÁC ĐỊNH VỀ SỰ RIÊNG TƯ 

Hầu hết tất cả những nhà nghiên cứu trong lãnh vực quan hệ con người đều đồng ý riêng tư là trung tâm của cuộc sống. Nhà tâm lý học người Anh có nhiều ảnh hưởng tên John Bowlby viết:"Sự gắn bó riêng tư với những người khác là trung tâm mà cuộc sống của một con người xoay quanh nó... Từ sự gắn bó riêng tư này người ta giành được sức mạnh và niềm vui cuộc sống, qua những gì người đó đóng góp, người đó mang lại sức mạnh và niềm vui cho người khác. Đó là những vấn đề mà khoa học hiện đại và trí tuệ truyền thống nhất trí."

Rõ ràng là sự riêng tư thúc đẩy cả hạnh phúc thể chất lẫn tâm lý. Nhìn vào lợi ích sức khỏe trong sự quan hệ riêng tư, những nhà nghiên cứu y học thấy người có tình bạn thân, người mà họ tìm đến để được xác quyết, đồng cảm, và thương yêu rất có khả năng vượt những thách thức về sức khỏe như đau tim, những ca giải phẫu nghiêm trọng, và ít bị những chúng bệnh như ung thư hay bị lấy về hô hấp. Thí dụ trong một công cuộc nghiên cứu trên một ngàn bệnh nhân đau tim tại Trung Tấm Y Khoa Đại Học Duke thấy rằng những người không có chồng hoặc vợ hay bạn tâm tình thân tín có khả năng tử vong gấp ba lần trong vòng năm năm khi chẩn đoán bị đau tim so với những người có vợ chồng hay bạn thân. Một cuộc nghiên cứu khác hàng ngàn người cư dân tại Quận Alameda, California, trong suốt thời kỳ chín năm cho thấy những người có hậu thuẫn xã hội và quan hệ riêng tư có tỷ lệ tử vong chung thấp hơn và tỷ lệ bệnh ung thư cũng thấp hơn. Một cuộc nghiên cứu hàng trăm người cao niên tại Đại Học Y Khoa tại Nebraska cho thấy những người có sự quan hệ riêng tư có chức năng miễn dịch tốt hơn và mức độ cholesterol thấp hơn. Trong khoảng thời gian mấy năm vừa qua, đã có nửa tá những cuộc điều tra nghiên cứu rộng rãi của một số các nhà nghiên cứu khác nhau nhắm vào sự tương quan giữa sự riêng tư và sức khỏe. Sau khi phỏng vấn hàng ngàn người, tất cả những người điều tra nghiên cứu đều đi đến một kết luận chung: Quan hệ mật thiết thực tế làm tăng thêm sức khỏe. 

Sự riêng tư cũng quan trọng như việc duy trì tình trạng cảm xúc lành mạnh. Nhà phân tích tâm lý và triết học xã hội Erich Fomm cho rằng sự sợ hãi căn bản nhất của loài người là sự đe dọa bị tách khỏi những người khác. ông tin rằng kinh nghiệm về tính riêng biệt, lần đầu vấp phải trong thời kỳ thơ ấu, là nguồn gốc của tất cả những lo ấu trong đời sống con người. John Bowlby đồng ý, khi viện dẫn nhiều bằng chứng và nghiên cứu thực nghiệm hậu thuẫn cho khái niệm xa cách người chăm sóc - thường là mẹ hay cha- trong nửa cuối năm đầu tiên của cuộc đời, không thể tránh khỏi tạo ra sợ hãi và buồn bã nơi đứa trẻ. ông cảm thấy chia lìa và sự mất mát giữa cá nhân với cá nhân nằm ở chính nguồn gốc kinh nghiệm của con người về sợ hãi, buồn bã, và phiền muộn. 

Vậy thì căn cứ vào tầm quan trọng sống còn của sự riêng tư, làm sao chúng ta bố trí để đạt được sự riêng tư trong đời sống hàng ngày? Theo cách giải quyết của Đúc Đạt Lai Lạt Ma phác họa ở Chương trước, dường như hợp lý là bắt đầu bằng học tập - hiểu được sư riêng tư là gì, tìm một định nghĩa và kiểu mẫu về sự riêng tư có thể thực hành được Tuy nhiên chờ khoa học trả lời, xem ra có vẻ là chỗ sự đồng ý kết thúc mặc dù có sự đồng ý chung giữa những người nghiên cứu về tầm quan trọng của sự riêng tư. Có lẽ nét nổi bật nhất, trong khi điểm lại các nghiên cứu về sự riêng tư là tình trạng định nghĩa và lý thuyết về sự riêng tư chính xác là thế nào rất khác xa nhau. 

Ở phía quan điểm cụ thể nhất là tác giả Desmond Morris, ông viết về sự riêng tư từ một cái nhìn của một nhà động vật học được đào tạo về hoạt động động vật. Trong cuốn sách của ông, Hoạt Động Riêng Tư, Morris định nghĩa sự riêng tư: "Muốn được riêng tư có nghĩa là gần gũi... Theo tôi, hành động trong sự riêng tư xẩy ra khi hai cá nhân đi vào tiếp xúc thân thể". Sau khi định nghĩa sự riêng tư bằng sự tiếp xúc hoàn toàn thể chất, ông tiếp tục khảo sát vô số phương cách mà con người tiếp xúc thể chất với nhau, từ cái vỗ lưng mộc mạc đến cái ôm khiêu dấm. ông thấy sự đụng chạm là phương tiện để chúng ta an ủi lẫn nhau và được an ủi qua những cái ôm chặt hay vỗ tay, khi chúng ta không dùng được những cách đó, có những phuơng cách gián tiếp về sự tiếp xúc thể chất như cắt sửa móng tay. ông cũng lý luận rằng những sự tiếp xúc thể chất với những vật thể chung quanh ta từ điếu thuốc lá tới đồ trang sức, tới cái giường có đệm nước, hoạt động thay thế cho sự riêng tư. 

Hầu hết những người điều tra nghiên cứu không định nghĩa cụ thể về sự riêng tư, nhưng đống ý sự riêng tư không chỉ là sự gần gũi vật chất. Nhìn vào gốc từ riêng tư, từ tiếng La Tinh intima có nghĩa là "bên trong" hay ở "tận trong cùng", hầu như họ thường tán thành một định nghĩa rộng hơn, như một định nghĩa của Tiến Sĩ Dan MacAdams, tác giả của một số sách về đề tài riêng tư: Sự ham thích riêng tư là ham thích chia sẻ cái thầm kín nhất của mình với một người khác". 

Nhung định nghĩa về sự riêng tư không dừng ở đó. Ở phía quan điểm đối lập với Desmond Morris là các nhà chuyên gia như nhóm tinh thần cha/con, các bác sĩ Thomas Patrick Malone và Patrick Thomas Malone. Trong cuốn sách của họ, Nghệ Thuật về Sự Riêng Tư, họ định nghĩa sự riêng tư là "kinh nghiệm về tính liên hệ". Sự am hiểu về riêng tư của họ bắt đầu với việc khảo sát kỹ lưỡng về "tính liên hệ" của chúng ta với người khác, tuy nhiên, họ không giới hạn quan niệm riêng tư vào quan hệ con người. Định nghĩa của họ quá rộng, thực ra, nó gồm cả sự quan hệ của ta với các vật vô tri - cấy cối, tinh tú, và cả không gian. 

Những khái niệm về trạng thái riêng tư lý tưởng nhất cũng khác nhau khắp trên thế giới và lịch sử. Khái niệm lãng mạn về"Người Đặc Biệt" mà chúng ta có mối quan hệ riêng tư say đắm là sản phẩm của thời gian và văn hóa của chúng ta. Nhưng mẫu riêng tư này không được mọi người chấp nhận trong tất cả những nền văn hóa. Chẳng hạn, người Nhật dường như dựa nhiều vào tình bằng hữu để có được sự riêng tư, trong khi người Mỹ tìm nó trong quan hệ lãng mạn với bạn trai, bạn gái, hay người hôn phối. Nhận thấy vấn đề này, một số các nhà nghiên cứu cho rằng người Á Đông là những người ít khi nhắm vào cảm nghĩ cá nhân thí dụ như say mê và quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh thực tiễn của sự gắn bó xã hội, hình như ít bị tổn thương trước sự vỡ mộng dẫn đến sự tan rã mối quan hệ. 

Thêm vào những khác nhau giữa những nền văn hóa, khái niệm về sự riêng tư cũng thay đổi một cách đột ngột theo thời gian. Trước đây tại thuộc địa Mỹ, mức độ về sự riêng tư vật chất và quan hệ gần gũi thường lớn hơn bây giờ, khi gia đình và kể cả những người lạ cùng chia sẻ một khoảng không gian nhỏ, ngủ cùng trong một căn phòng, dùng một phòng chung, để tắm, ăn và ngủ. Tuy nhiên mức giao tiếp thông thường giữa vợ chồng đúng là có nghi thức chuẩn mực như ngày nay - không khác biệt nhiều so với cách làm quen biết hay cách láng giềng nói chuyện với nhau. Chỉ ở thế kỷ sau đó, tình yêu và hôn nhân trở nên lãng mạn cao độ và sự tự bộc lộ chuyện riêng tư được cho là chất liệu cho bất cứ sự liên kết tình yêu nào. 

Những khái niệm được coi là cách ứng xử riêng tư và thân mật cũng thay đổi theo thời gian. Ở thế kỷ thứ 16 tại Đức chẳng hạn, nột cặp chồng mới được yêu cầu qua đêm tân hôn trên một cái giường do những người làm chứng khiêng, những người sẽ công nhận giá trị của hôn nhân. 

Cách bày tỏ cảm xúc cũng đã thay đổi. Vào thời Trung Cổ, bày tỏ công khai rộng rãi cảm nghĩ với cường độ mạnh mẽ và trực tiếp - niềm vui, giận dữ, sợ hãi, lòng mộ đạo, thậm chí vui thú hành hạ và giết kẻ địch được coi là bình thường. Bày tỏ sự thái quá tiếng cười cuồng loạn, khóc lóc thảm thiết và cuồng bạo hơn được chấp nhận trong xã hội chúng ta. Nhưng sự bày tỏ cảm xúc và cảm nghĩ tầm thường trong xã hội ấy đã không chấp nhận khái niệm xúc cảm riêng tư, nếu phơi bày tất cả những cảm xúc một cách công khai và bừa bãi, thì không còn có cảm nghĩ riêng tư nào còn lại để biểu lộ cho một số ít người đặc biệt. 

Rõ ràng những khái niệm mà ta đương nhiên cho là sự riêng tư không phải là phổ thông. Chúng thay đổi theo thời gian và thường được hình thành do hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa. Rất dễ bị nhầm lẫn bởi hàng loạt định nghĩa khác nhau về sự riêng ở Phương Tây đương đại - biểu hiện từ kiểu cắt tóc đến mối quan hệ của ta với những vầng trăng của Sao Hải Vương (Neptune). Vậy nên, vấn đề này để chúng ta ở vị trí nào trong khi tìm hiểu thế nào là sự riêng tư? Tôi nghĩ sự hàm ý rất rõ ràng. 

Con người có nhiều vẻ khác nhau lạ kỳ giữa trong đời sống, những sự thay đổi vô hạn về cách con người trải nghiệm cảm giác gần gũi thân mật. Chỉ riêng hiểu biết này đã cho chúng ta cơ hội lớn. Có nghĩa là vào chính lúc này chúng ta đã có luôn nguồn vui to lớn về sự riêng tư. Sự riêng tư hoàn toàn ở quanh ta. 

Ngày nay quá nhiều người bị đè nặng bởi cảm thấy thiếu điều gì đó trong đời sống, quá đau khổ vì thiếu riêng tư. Điều này đặc biệt đúng khi trải qua những thời kỳ không thể tránh được trong cuộc sống mà chúng ta lại không để tâm đến mối quan hệ lãng mạn nào, hay khi sự đam mê tàn đi trong quan hệ. Có một khái niệm phổ biến trong văn hóa chúng ta là sự riêng tư sâu sắc đạt được hiệu quả nhất trong bối cảnh có mối quan hệ lãng mạn say đắm - Người Đặc Biệt nào đó mà chúng ta nâng cao hơn tất cả những người khác. Điều này có thể là một quan điểm giới hạn sâu xa, tách chúng ta khỏi những suối nguồn riêng tư tiềm tàng và là nguyên nhân của nhiều thống khổ và bất hạnh phúc khi Người Đặc Biệt đó không ở đây. Nhưng trong phạm vi khả năng của chúng ta có những phuong tiện để tránh điều này, chỉ cần chúng ta phải có can đảm mở rộng khái niệm riêng tư gồm cả tất cả những hình thái khác chung quanh chúng ta trên cơ sở hàng ngày. Bằng cách mở rộng định nghĩa về sự riêng tư, chúng ta tự bộc lộ để khám phá những cách thức mới và đủ vừa ý về sự quan hệ với người khác. Điều này mang chúng ta trở lại cuộc thảo luận đầu tiên về sự cô đơn với Đức Đạt Lai Lạt Ma, bật ra cuộc thảo luận bởi việc ngẫu nhiên đọc kỹ "Mục Việc Riêng" trên tờ báo địa phương, làm cho tôi băn khoăn. Vào đúng lúc những người ấy viết lời quảng cáo, vật lộn tìm ra đúng chữ để đưa lãng mạn vào đời sống và chấm dứt cô đon; bao nhiêu người trong số những người ấy đã được bạn bè, gia đình hay người quen xung quanh - những quan hệ được vun đắp thành quan hệ riêng tư đủ sâu sắc và đích thực ? Nhiều, tôi đoán chừng. Nếu điều mà ta tìm cầu trong đời sống là hạnh phúc, và sự riêng tư là thành tố quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc hơn thì rõ ràng là nó làm cho đời sống có ý nghĩa trên cơ sở kiểu riêng tư bao gồm càng nhiều hình thái liên kết với người khác càng tốt. Kiểu riêng tư của Đức Đạt Lai Lạt Ma căn cứ trên trên thiện chí bộc lộ mình với nhiều người khác, với gia đình, bè bạn và cả đến những người lạ, hình thành sự gắn bó chân thật và sâu xa căn cứ vào bản chất thông thường của con người. 

 

CHƯƠNG 6
LÀM ĐẰM THẮM THÊM QUAN HỆ CỦA CHÚNG TA VỚI NGƯỜI KHÁC

Một buổi chiều sau bài thuyết trình trước công chúng của Ngài, tôi đến phòng của Ngài tại khách sạn như đã được hẹn vào mỗi ngày, tôi đến sớm hơn một chút. Người thị giả kín đáo ra gặp tôi tại hành lang và cho tôi biết Ngài đang bận tiếp kiến riêng và ít phút nữa tôi mới vào được. Tôi làm ra vẻ vị trí quen thuộc của tôi là bên ngoài cửa phòng khách sạn và dùng thời gian này để kiểm lại những ghi chú sửa soạn cho cuộc hội kiến này, đồng thời cố gắng tránh cái nhìn chằm chằm nghi ngờ của người lính gác - cùng một cái nhìn như vậy vào những học sinh cấp 2 đang lảng vảng quanh giá tạp chí của những người bán hàng trong tiệm đồ tiện dụng. 

Chỉ một lúc, cửa mở và một cặp vợ chồng tuổi trung niên ăn mặc lịch sự bước ra. Trông họ rất quen thuộc. Tôi nhớ tôi được giới thiệu vắn tắt với họ một vài ngày trước đây. Tôi được biết người vợ là một người thừa kế nổi tiếng và người chồng rất giàu có, một luật sư tăm tiếng tại Manhattan (Nữu Ước). Vào lúc giới thiệu chúng tôi chỉ trao đổi vài lời xã giao, nhưng tôi thấy cả hai con người này khinh người một cách lạ thường. Khi họ xuất hiện từ phòng khách sạn của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi nhận thấy có một sự thay đổi đáng sửng sốt. Không còn cái điệu bộ cao ngạo, và cái vẻ tự mãn thiển cận, và thay vào hai bộ mặt tràn đầy dịu dàng và xúc cảm. Họ như hai đứa trẻ. Những dòng lệ chẩy trên gương mặt họ. Mặc dầu tác động đến người khác của Đức Đạt Lai Lạt Ma thường không gây quá xúc cảm, tôi nhận thấy bao giờ những người khác cũng trả lời Ngài bằng sự thay đổi nào đó về cảm xúc. Từ lâu tôi đã kinh ngạc trước tài gắn kết với người khác của Ngài, dù ở tầng lớp xã hội nào, và lập được sự trao đổi tình cảmsâu xa đầy ý nghĩa. 

THIẾT LẬP SỰ THẤU CẢM 

Trong khi nói chuyện về tầm quan trọng của sự niềm nở và tình thương con người qua những cuộc đàm thoại tại Arizona, không đến mấy tháng sau tại nhà Ngài ở Dharamsala, tôi đã có cơ hội xem xét mối quan hệ con người chi tiết hơn cùng với Ngài. Vào lúc đó tôi rất nóng lòng muốn thấy liệu chúng tôi có thể khám phá ra được một tập hợp các nguyên tắc cơ bản mà Ngài sử dụng trong việc tác động qua lại với người khác không - những nguyên tắc có thể áp dụng để cải thiện bất cứ mối quan hệ nào, dù là với người lạ, gia đình, bè bạn, hay người yêu. Nóng ruột để bắt đầu, tôi nhẩy ngay vào vấn đề: 

"Bây giờ về đề tài quan hệ con người ... Ngài sẽ nói gì về phương pháp hữu hiệu nhất hay kỹ thuật liên hệ với người khác bằng một phương pháp đầy ý nghĩa và giảm bớt mâu thuẫn với người khác?" Ngài trừng trừng nhìn tôi một lúc. Không phải là một cái nhìn trừng trừng không tốt nhưng nó làm cho tôi cảm thấy như tôi mới đòi Ngài cho tôi thành phần hóa học chính xác của bụi trên cung trăng.

Sau khi dừng lại một chút Ngài trả lời:"Được, giao tiếp với người khác là một vấn đề rất phức tạp. Không có cách gì mà bạn có thể tìm thấy một công thức lại giải quyết tất cả mọi vấn đề. Cũng giống một chút như nấu ăn. Nếu bạn nấu một bữa cơm ngon, một bữa cơm đặc biệt, thì có nhiều giai đoạn trong việc nấu nướng. Trước hết bạn phải trần rau riêng rồi bạn phải chiên rồi bạn phải nhào trộn một cách đặc biệt, rồi nêm gia vị vân vân... Và cuối cùng kết quả sẽ là món ăn ngon. Giống như vậy, để khéo léo trong việc giao tế với người khác, bạn cần phải có nhiều nhân tố. Bạn không thể chỉ nói "Đấy là phương pháp" hay "Đấy là kỹ thuật"

Không chính xác là câu trả lời mà tôi mong muốn. Tôi nghĩ rằng Ngài lảng tránh, và cảm thấy rằng chắc chắn Ngài có điều gì cụ thể hơn để đưa ra. Tôi nhân mạnh tiếp:"Vậy thì không có một giải pháp nào để cải thiện mối quan hệ của chúng ta, có lẽ những hướng dẫn chung chung hơn có thể là hữu ích chăng? 

Đức Đạt Lai Lạt Ma suy nghĩ một chút rồi mới trả lời: "Đúng. Trước đây chúng ta có đề cập đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc người khác bằng tâm tưởng từ bi. Điều đó rất quan trọng. Đương nhiên chỉ nói với một người,' Này từ bi là rất quan trọng, bạn phải có nhiều tình thương hơn nữa cũng chưa đủ. Một toa thuốc đon giản như vậy không có hiệu quả. Tuy vậy cách dạy dỗ hữu hiệu một người nào đó làm sao niềm nở hơn và từ bi hơn phải bắt đầu bằng cách dùng lý lẽ để giáo dục cá nhân ấy về giá trị và lợi lạc thực tiễn của từ bi, và cũng để cho họ suy ngẫm xem họ cảm thấy ra sao khi một người nào đó tử tế với họ vân vân... Trong một ý nghĩa nào đó điều này chuẩn bị cho họ, cho nên sẽ có nhiều hiệu quả hơn khi họ tiến hành bằng nỗ lực của họ để họ từ bi hơn. 

"Bây giờ nhìn vào những cách phát triển từ bi khác nhau, tôi nghĩ rằng thấu cảm là một nhân tố quan trọng. Khả năng cảm nhận được nỗi đau khổ của người khác. Thực ra, theo truyền thống, một trong những kỹ thuật của Phật Giáo để tăng thêm lòng từ bi liên quan đến việc tưởng tượng tình trạng một chúng sanh đang đau khổ - chẳng hạn, giống như một con cừu sắp sửa bị người đồ tể giết. Và cố gắng tưởng tượng nỗi đau khổ mà con cừu phải chịu đựng vân vân...Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút để ngẫm nghĩ, ngón tay lần chuỗi tràng hạt một cách lơ đãng. Ngài bình luận, "Tôi chợt nghĩ rằng khi tôi phải tiếp xúc với người rất hờ hững và lãnh đạm, thì loại kỹ thuật này không mấy hiệu quả. Dường như thể là bạn bảo người đồ tể làm việc tưởng tượng đó: người đồ tể quá chai sạn, quá quen với toàn bộ sự việc nên không có một tác động nào. Vậy nên, thí dụ, sẽ rất khó khăn giảng nghĩa và dùng kỹ thuật ấy với một số người Tây Phương quen thói đi săn hay đi câu cho vui, như một hình thức của tiêu khiển.." 

"Trong trường hợp này", tôi đề nghị, "Có lẽ không phải là một kỹ thuật hiệu quả bảo khi bảo một người đi săn tưởng tượng sự đau khổ của con mồi, nhưng người ta có thể thức tỉnh những cảm tính từ bi bằng cách bảo người ấy mường tượng đến con chó săn yêu quý của anh ta bị sa vào bẫy và kêu la đau đớn..."

"Vâng đúng như vậy..." Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý, "Tôi nghĩ rằng tùy theo hoàn cảnh mà ta có thể thay đổi kỹ thuật. Chẳng hạn, người không có cảm tính mạnh mẽ về sự thấu cảm đối với loài vật, nhưng ít nhất cũng có phần nào đồng cảm với người thân trong gia đình hay bạn bè. Trong trường hợp này người ấy có thể mường tượng đến tình trạng người thân yêu đang đau khổ hay đang trong tình trạng bi thảm và tưởng tượng đến cách anh ấy hay chị ấy sẽ đối phó điều đó, phản ứng trước điều đó. Cho nên ta có thể cố gắng tăng thêm lòng từ bi bằng cách cố gắng đồng cảm với cảm nghĩ hay kinh nghiệm của người khác. 

"Tôi nghĩ rằng thấu cảm không những quan trọng vì là một phương tiện để nâng cao lòng từ bi, mà tôi còn nghĩ rằng nói chung khi phải tiếp xúc với người khác ở bất cứ mức độ nào, nếu bạn gặp phải một số khó khăn, hết sức có ích là đặt mình vào địa vị người khác, và xem bạn sẽ phản ứng ra sao trong tình trạng ấy. Cho dù bạn không có kinh nghiệm thông thường về người khác hay có một lối sống khác biệt hẳn, bạn vẫn có thể làm được nhờ tưởng tượng. Bạn có thể cần đến một chút sáng tạo. Kỹ thuật này liên quan đến khả năng tạm thời không áp đặt quan điểm riêng tư của mình mà tốt hơn là nhìn từ cách nhìn của người khác để tưởng tượng rằng tình trạng này sẽ ra sao nếu mình ở trong tình cảnh của người đó, mình phải đối phó ra sao. Điều này giúp cho bạn phát triển sự tỉnh thức và tôn trọng cảm nghĩ của người khác, đó là một nhân tố quan trọng nhằm giảm thiểu mâu thuẫn và khó khăn với người khác. 

Cuộc phỏng vấn của chúng tôi chiều nay rất ngắn ngủi. Tôi đã được bố trí vào chương trình công việc bận rộn của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào giấy phút cuối cùng và giống như một vài cuộc đàm thoại, nó xẩy ra muộn. Bên ngoài trời mặt trời bắt đầu lặn, căn phòng tranh tối tranh sáng, làm bức tường mầu vàng úa trở thành mầu hổ phách đậm, chiếu sáng những bức tượng Phật màu vàng quí giá trong phòng. Người thị giả của Ngài lặng lẽ bước vào phòng và ra hiệu cuộc gặp đã đến lúc chấm dứt. Hoàn thành cuộc thảo luận, tôi hỏi Ngài "Tôi biết chúng ta phải kết thúc, nhưng Ngài có lời khuyên nào khác hay phương pháp nào mà Ngài có thể sử dụng nhằm thiết lập sự đồng cảm với người khác không?" Những lời Ngài giảng trước đây cách đây mấy tháng còn vang vọng, với một sự bình dị hiền hòa, Ngài trả lời "Bất cứ lúc nào, tôi gặp ai, tôi bao giờ cũng tiếp cận với họ bằng lập trường của các sự việc căn bản nhất mà chúng ta đều có. Mỗi người chúng ta đều cùng có cấu tạo vật chất, tâm trí và cảm xúc. Tất cả chúng ta sanh ra cùng một cách, và chúng ta đều phải chết. Tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Nhìn vào những người khác từ quan điểm ấy chứ không phải là nhân mạnh vào những dị biệt phụ ví như thực tế tôi là người Tây Tạng hay khác mầu da, tôn giáo, hay bối cảnh văn hóa, cho phép tôi có cảm nghĩ đang gặp một người nào đó cũng giống như tôi. Tôi thấy rằng liên hệ với người khác trên bình diện ấy dễ dàng làm cho việc trao đổi và giao tiếp với nhau dễ hơn nhiều." Bằng điều đó, Ngài đứng dậy, mỉm cười, siết chặt tay tôi rất nhanh, và lui về nghỉ tối.

Buổi sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục cuộc thảo luận tại nhà Ngài. 

"Tại Arizona, chúng ta nói đến nhiều về sự quan trọng của từ bi trong quan hệ con người, và ngày hôm qua chúng ta thảo luận về vai trò của thấu cảm để cải thiện khả năng quan hệ với người khác..." 

"Phải", Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu. 

"Thưa Ngài ngoài điều đó ra Ngài có thể cho thêm phương pháp hay kỹ thuật đăc biệt nào không để giúp người ta tiếp xúc với người khác hiệu quả hơn không?

"Cũng như tôi có nói ngày hôm qua chẳng có cách nào mà bạn có thể tim thấy một hay hai kỹ thật đơn giản lại có thể giải quyết tất cả các vấn đề. Dầu rằng nói là như vậy, tuy nhiên tôi nghĩ có một số nhân tố khác có thể giúp tiếp xúc với người khác một cách khéo léo hơn. Trước tiên, hiểu và đánh giá đúng những thông tin cơ bản mà bạn tiếp xúc là rất hữu ích. Ngoài ra cởi mở và thành thật hơn nữa là những đức tính rất có ích khi tiếp xúc với người khác."

Tôi chờ đợi, nhưng Ngài không nói gì thêm nữa. 

"Ngài có thể cho biết phương pháp nào khác để cải thiện mối quan hệ?

Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ ngợi một lúc rồi nói: "Không", Ngài cười. 

Tôi cảm thấy những lời khuyên ít ỏi ấy quá đơn giản và thực sự tầm thường. Tuy vậy khi điều đó dường như là tất cả những gì Ngài đã nói về đề tài cho đến lúc này, chúng tôi quay sang đề tài khác. 

Buổi tối hôm ấy, tôi được bạn hữu mời đến ăn cơm chiều tại nhà một người bạn Tây Tạng tại Dharamsala. Bạn tôi sắp xếp buổi tối hôm đó thật sôi nổi. Bữa ăn thật tuyệt, nổi bật với sự bày biện thật sững sờ các món ăn đặc biệt, món ăn chính của Tây Tạng gọi là Mo Mos, một loại thịt hấp ngon. Khi bữa ăn vẫn còn kéo dài, cuộc chuyện trò trở nên náo nhiệt hơn. Chẳng mấy chốc, thực khách trao đổi những câu chuyện khó nghe về sự việc hết sức bối rối mà họ đã từng làm trong khi say. Một vài người khách được mời dự gồm có một cặp vợ chồng nổi tiếng đến từ Đức, người vợ là kiến trúc sư và người chồng, là nhà văn, tác giả một tá sách. 

Thích sách, nên tôi đã tới gần tác giả và bắt chuyện. Tôi hỏi ông ta về việc viết văn của ông. Cấu trả lời của ông cộc lốc và chiếu lệ, ông không giữ lịch sự và lạnh lùng. Nghĩ rằng ông không thân thiện mà còn có tính trưởng giả học làm sang, tôi tức khắc không thích ông. Ít ra tôi đã cố gắng liên hệ với ông, tôi tự an ủi và hài lòng rằng ông chỉ là một người khó chịu và tôi quay sang trò chuyện với một vài người khách dễ thương hơn. 

Ngày hôm sau, tôi tình cờ gập bạn tôi tại một quán cà phê trong làng, và trong lúc uống trà tôi kể lại những sự kiện tối hôm trước. 

"... Tôi thực sự vui với tất cả mọi người ngoại trừ Rolf, nhà văn ấy ... hình như quá tự cao tự đại hay đại loại như vậy... không thân thiện" "Tôi biết ông ta mấy năm nay rồi" bạn tôi nói ".. Tôi biết ông ta hay như vậy, nhưng đúng là ông ta hơi nhút nhát, và hơi dè dặt lúc đầu. ông ta thực sự là một người tuyệt vời nếu ông biết ông ta..." Bạn tôi chưa thuyết phục được tôi. Bạn tôi tiếp tục thanh minh, "Cho dù ông ta là một nhà văn thành công, ông đã trải qua nhiều khó khăn trong đời ông. Rolf thực sự bị đau khổ rất nhiều. Gia đình ông bị đau khổ khủng khiếp dưới bàn tay của Quốc Xã trong Thế Chiến Thứ Hai. ông có hai người con mà ông hết sức tận tâm với chúng, lúc sinh ra bị chứng rối loạn di truyền ít thấy làm cho chúng tật nguyền rất sớm về thể xác và tinh thần. Và thay vì trở nên cay đắng hay sống một cuộc đời đọa đầy, trước những khó khăn như thế ông đã chìa tay giúp đỡ mọi người, bỏ nhiều năm tận tụy làm việc với những người tàn tật với tư cách một người tình nguyện. ông quả là một người đặc biệt nếu ông biết ông ta".

Hóa ra tôi lại gặp Rolf cùng vợ ông ta vào cuối tuần ấy tại một vùng đất nhỏ chạy dài dùng làm sân bay địa phương. Chúng tôi sẽ cùng đi trên chuyến bay đi Đề Li, nhưng chuyến bay này bị hủy bỏ. Phải mất mấy ngày nữa mới có chuyến bay khác., cho nên chúng tôi quyết định cùng nhau thuê một chiếc xe và đi Đề Li, một cuộc hành trình 10 tiếng mệt nhoài. Một ít tin tức về tiểu sử mà bạn tôi cho tôi biết đã thay đổi cảm nghĩ của tôi về Rolf, và trong cuộc hành trình dài đi Đề Li tôi cảm thấy cởi mở hơn. Kết quả là tôi đã nỗ lực đàm thoại với ông. Lúc đầu thái độ của ông vẫn như vậy. Nhưng chỉ một chút ông cởi mở và bền chí, tôi sớm khám phá ra đúng như lời bạn tôi nói, sự lạnh lùng của ông là do tính nhút nhát hơn là tính trưởng giả học làm sang. Chúng tôi nói chuyện huyên thiên khi xe chạy trên con đường bụi bậm oi bức của miền quê Bắc Ấn, càng đi sâu vào trò chuyện, ông càng chứng tỏ ông là một người ân cần, chân thật và là người bạn đồng hành đáng tin cậy 

Khi đến Đề Li, tôi nhớ lại lời khuyên của Đức Đạt Lai Lạt Ma là "hãy tìm hiểu những thông tin cơ bản của một người" không phải là sơ đẳng và nông cạn như lúc đầu ta tưởng. Tuy, có lẽ nó tầm thường nhưng không đơn giản. Đôi khi nó là lời khuyên căn bản nhất và thẳng thắn nhất, loại mà ta hay gạt đi vì cho là ấu trĩ, nó có thể là phương tiện hữu hiệu nhất để thúc đẩy giao tiếp. 

Mấy hôm sau tôi vẫn còn ở lại Đề Li, trên chặng đường hai ngày trước khi trở về nhà. Thay đổi từ cái yên tịnh của Dharamsala làm tôi khó chịu, và tôi ở trong tâm trạng bực bội. Ngoài việc vật lộn với cái nóng ngột ngạt, ô nhiễm, và đông người, vỉa hè nhung nhúc những loại thú ăn thịt ở thành thị dành cho Phố Xá Lừa Bịp. Đi bộ trên đường phố nóng như thiêu ở Đề Li, một Người Phương Tây, một Người Ngoại Quốc, một Mục tiêu, bị xúm lại bởi hàng nửa tá gái điếm mỗi đoạn đường, làm cho tôi cảm thấy như thể tôi là người xăm chữ Ngố trên trán. Quả là nản lòng Sáng hôm ấy, tôi đã rơi vào mưu đồ bất lương của hai kẻ bịp trên đường phố. Một đứa lấy sơn đỏ quẹt vào giầy tôi trong khi tôi không để ý. Đi xuống cuối đường, kẻ đồng lõa, một em bé đánh giầy giả bộ ngấy thơ, chỉ cho tôi biết giầy tôi dính sơn và đề nghị tôi cho nó đánh giầy với giá thường lệ. Nó khéo léo đánh giầy tôi xong trong vòng ít phút. Sau khi xong, nó thản nhiên đòi tôi một số tiền lớn - bằng số tiền lương hai tháng của nhiều người tại Đề Li. Khi tôi không chịu, nó khẳng định là giá mà nó đã đề nghị trước. Tôi phản đối, và thằng nhỏ bắt đầu kêu rống lên, làm một đám đông bấu đến chung quanh tôi, nó khóc lóc và nói tôi từ chối không trả tiền công cho nó. Vào cuối ngày đó, tôi được biết đó là một sự lùa bịp thông thường hay xẩy ra với nhừng du khách vô tình, sau khi đòi số tiền lớn, thằng bé đánh giầy cố ý làm om xòm để người đi đường xúm đông lại, với ý đồ tống tiền du khách bị bối rối và muốn tránh cảnh tượng này. 

Chiều hôm ấy, tôi dùng bữa cùng với một bạn đồng sự tại khách sạn. Tôi đã quên hẳn những chuyện xẩy ra sáng nay khi bà hỏi tôi về hàng loạt cuộc phỏng vấn gần đây của tôi với Đức Đạt Lạt Ma. Chúng tôi mải mê bàn luận những khái niệm của Đức Đạt Lạt Ma về sự thấu cảm và tầm quan trọng của việc đặt mình vào cách nhìn của người khác. Sau khi dùng bữa, chúng tôi nhẩy lên một xe taxi đi thăm một số bạn bè chung của chúng tôi. Khi xe bắt đầu đi, những ý nghĩ của tôi lại quay về vụ đánh giầy bịp bợm sáng nay, và khi những hình ảnh tăm tối hiện trong tâm tôi, đột nhiên tôi nhìn vào đồng hồ tính tiền của xe. 

"Ngưng lại Taxi! Ngưng lại" Tôi la lên. Bạn tôi giật nảy mình vì sự bộc phát thình lình. Người tài xế giận dữ nhìn tôi qua kính chiếu hậu. nhưng vẫn cho xe chạy.

"Đậu lại đi" tôi yêu cầu, giọng nói của tôi run lên để lộ vẻ kích động. Bạn tôi hình như sửng sốt. Xe ngừng. Tôi chỉ vào đồng hồ tính tiền, giận dữ chém tay vào không khí: "Ông không chỉnh lại đồng hồ. Hơn 20 đồng trên đồng hồ khi bắt đầu đi"

"Xin lỗi Ngài" Người tài xế nói bằng một giọng buồn nản lạnh lùng càng làm tôi tức điên lên, "Tôi quên không vặn lại...Tôi sẽ bắt đầu lại" 

"Ông không vặn lại gì cả" Tôi bốp chát: "Tôi chán ngấy các người đang cố gắng làm tăng tiền xe, chạy vòng vòng, hay làm bất cứ cái gì có thể làm được để đánh lừa người ta... Tôi thật chán ngấy". Tôi lắp bắp và nổi đóa với một xúc cảm ra vẻ cao đạo. Trông bạn tôi có vẻ bối rối. Người tài xế chằm chằm nhìn tôi với cùng cái vẻ thách thức thường thấy ở những con bò linh thiêng đi lang thang giữa đường phố Đề Li tấp nập này, chúng ngưng lại như có ý định nổi loạn để cản trở giao thông. Anh ta nhìn tôi cứ như thể là cơn giận của tôi chỉ là mệt nhọc và buồn bực. Tôi ném vài ru pi vào ghế trước và không bình luận gì thêm nữa, mở cửa xe cho bạn tôi xuống xe ra ngoài. Chỉ vài phút sau, chúng tôi lại gọi một taxi khác và chúng tôi lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng tôi không thể bỏ qua. Khi chúng tôi đi qua các dẫy phố tại Đề Li, tôi tiếp tục phàn nàn là làm sao mà "ai" tại Đề Li này cũng lừa đảo du khách, chúng tôi chẳng là gì cả mà chỉ là con mồi. Người bạn đồng sự của tôi lặng lẽ nghe khi tôi huênh hoang và nói say sưa. Cuối cùng bà nói "Được, hai mươi Ru Pi chỉ khoảng 25 xu (tiền Mỹ). Tại sao phải nổi giận chứ?" Tôi sôi lên với sự phẫn nộ đạo đức giả. "Nhưng đó là nguyên tắc đáng quan tâm " Tôi tuyên bố: "Tôi không hiểu sao mà bà lại có thể bình tĩnh trước toàn bộ sự việc này khi lúc nào nó cũng xẩy ra. Bà không thấy khó chịu sao?"

"Được, bà nói chậm rãi," Khó chịu một phút thôi, nhưng tôi bắt đầu nghĩ tới những gì chúng ta nói chuyện trong bữa ăn trưa, về Đức Đạt Lai Lạt Ma nói đến tầm quan trọng khi nhìn nhận vấn đề bằng cách nhìn của người khác. Khi bạn nóng giận thì tôi cố gắng nghĩ về những gì tôi có thể cũng giống như người tài xế taxi Cả hai chúng tôi đều muốn ăn ngon, ngủ ngon, cảm thấy dễ chịu, được yêu mến vân vân... Rồi tôi cố gắng tôi tưởng tượng chính mình là người tài xế taxi, tôi ngồi suốt ngày trong chiếc xe ngột ngạt không máy lạnh, có thể tôi cáu kỉnh và ganh ghét với người ngoại quốc giàu có... và cách tốt nhất mà tôi có thể nghĩ tới là cố gắng làm cho sự việc "công bình", để được hạnh phúc là tìm cách lừa gạt để lấy tiền. Nhưng vấn đề là, dù cho nó thành công, bóp nặn được vài Ru Pi của du khách vô tình, tôi không thể tưởng tượng nổi ngưới ta lại thỏa mãn với cách đó để được hạnh phúc hơn hay một cuộc sống vừa ý hơn .. Dù sao, tôi càng nghĩ mình là người tài xế taxi, tôi càng bớt giận anh ta. Cuộc sống anh ta có vẻ buồn buồn ..có nghĩa là, tôi vẫn không đồng ý về điều anh ta đã làm, và chúng ta có quyền ra khỏi xe, nhưng đúng là tôi không thể nổi giận đến mức ghét anh ta về chuyện đó..." 

Tôi im lặng. Giật mình, thực ra tôi chưa hấp thụ được bao nhiêu từ Đức Đạt Lai Lạt Ma. Lúc này, tôi bắt đầu hiểu giá trị thực tiễn trong lời khuyên của Ngài, như "hiểu biết tiểu sử người khác", và đương nhiên, tôi đã tìm được sự mẫu mực về cách thực hiện những nguyên tắc này trong cuộc đời của Ngài đang truyền cảm hứng. Nhưng khi tôi nghĩ lại về hàng loạt cuộc thảo luận với Ngài, bắt đầu từ Arizona, và bây giờ tiếp tục tại Ấn Độ, tôi nhận ra rằng ngay từ lúc đầu, những cuộc phỏng vấn của chúng tôi có vẻ có không khí bệnh viện, như thể tôi hỏi Ngài về khoa giải phẫu, ở trong trường hợp này, đó là khoa giải phẫu tâm trí và tinh thần của con người. Tuy nhiên cho đến lúc này, không biết làm sao mà tôi vẫn chưa nẩy ra ý áp dụng đầy đủ tư tưởng của Ngài vào đời sống của tôi, ít ra không phải là lúc này - Tôi luôn có một ý định mơ hồ sẽ cố gắng thực hiện những khái niệm của Ngài trong đời tôi ở một lúc nào đó trong tương lai, có lẽ khi tôi có nhiều thì giờ hơn.

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ CỦA SỰ QUAN HỆ 

Những cuộc đàm thoại với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Arizona bắt đầu bằng cuộc bàn thảo về nguồn gốc hạnh phúc. Mặc dầu thực tế là Ngài chọn cuộc sống làm một nhà sư, nhưng các cuộc nghiên cứu cho thấy hôn nhân góp phần thực tế mang đến hạnh phúc - mang đến sự riêng tư và mối liên kết chặt chẽ làm tăng thêm sức khỏe và thỏa mãn cách sống chung. Hàng ngàn cuộc thăm dò người Mỹ và Âu Châu cho thấy người có gia đình hài lòng và hạnh phúc với cuộc sống hơn người độc thân hay người góa.- nhất là so với những người ly dị hay ly thân. 

Một cuộc thăm dò cho thấy sáu trong số mười người Mỹ đánh giá hôn nhân của họ là "rất hạnh phúc" và cũng xem cuộc đời họ nói chung là "rất hạnh phúc". Trong cuộc bàn luận về đề tài quan hệ con người, tôi nghĩ rằng nếu đưa ra vấn đề là nguồn hạnh phúc chung cũng rất quan trọng.

Ít phút trước giờ ấn định phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi ngồi với một người bạn ở hành lang lộ thiên của một khách sạn tại Tuscon uống một ly nước mát giải khát. Đề cập đến chủ đề lãng mạn và hôn nhân mà tôi dự định nêu lên trong cuộc phỏng vấn của tôi, bạn tôi và tôi động lòng trắc ẩn nghĩ đến những người độc thân. Trong khi chúng tôi trò chuyện, một cặp vợ chồng trẻ trông có vẻ lành mạnh, có thể là những người chơi gôn, sung sướng nghỉ hè vào lúc cao điểm của mùa du lịch, ngồi bàn bên cạnh chúng tôi. Trông họ có vẻ như đã lấy nhau khá lâu - không còn ở trong tuần trăng mật nữa, nhưng vẫn còn trẻ và chắc chắn hãy còn mặn nồng. Rất tốt đôi, tôi nghĩ như vậy. 

Nhưng vừa ngồi xuống họ bắt đầu cãi nhau. 

"... Tôi đã bảo anh anh chúng ta bị trễ rồi", người thiếu phụ buộc tội một cách gay gắt, giọng nói của cô ta khàn lạ thường, tiếng rè của dấy thanh bị ngâm bởi nhiều năm thuốc lá và rượu."Bây giờ chúng ta không có đủ thì giờ mà ăn. Tôi không thể ăn ngon miệng được."

"... nếu cô không chuẩn bị quá lâu ..." người đàn ông phản pháo một cách vô ý thức bằng một giọng nhỏ nhẹ hơn, nhưng mỗi ấm nặng trĩu khó chịu và hằn học. 

Đốp lại."Tôi đã sẵn sàng từ nửa giờ trước rồi. Chính anh mới là người chậm trễ vì phải đọc xong tờ báo" ...

Và cứ như thế lời qua tiếng lại không ngừng. Giống như nhà soạn kịch Hy Lạp Euripides nói, "Hôn nhân có thể tốt đẹp. Nhưng khi hôn nhân thất bại, thì những người đó ở nhà như trong địa ngục" 

Tranh luận, nhanh chóng leo thang, rồi chấm dứt bằng nhữn lời than vãn về cuộc sống đôc thân. Bạn tôi đảo mắt và trích một câu trong Seifeld, nói "Ờ phải, tôi muốn lấy vợ thật sớm!"

Chỉ ít phút trước đây, tôi có ý định bắt đầu cuộc gặp bằng cách xin Đức Đạt Lai Lạt Ma ý kiến về niềm vui và ưu điểm của tình yêu lãng mạn và hôn nhân. Thay vì như thế, khi vào phòng của Ngài tại khách sạn, và sắp sửa ngồi xuống, tôi lại hỏi:"Tại sao Ngài lại cho là mâu thuẫn hình như thường trong hôn nhân phát sinh?"

"Khi đề cập đến mâu thuẫn, đương nhiên có thể là rất phức tạp". Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích.""Có thể có nhiều nhân tố liên quan. Cho nên, khi chúng ta xử trí bằng cách cố gắng tìm hiểu những vấn đề quan hệ, giai đoạn đầu tiên trong tiến trình này đòi hỏi phải suy ngẫm kỹ lưỡng về bản chất và cơ sở căn bản của mối quan hệ ấy. 

"Vậy, trước tiên, ta phải công nhận có nhiều loại quan hệ khác nhau và hiểu biết những dị biệt giữa chúng. Thí dụ, hãy để qua một bên vấn đề hôn nhân, ngay cả trong phạm vi tình bạn bình thường, chúng ta cũng phải công nhận có những loại tình bạn khác nhau. Có khi tình bạn dựa vào của cải, quyền thế, hay địa vị. Trong những trường hợp này, tình bạn còn tiếp tục với điều kiện là bạn còn giữ được quyền thế, của cải và địa vị. Khi những căn cứ ấy không còn, thì tình bạn cũng sẽ bắt đầu biến mất. Mặt khác có một loại tình bạn khác. Tình bạn này không căn cứ vào tính toán về của cải, quyền thế và địa vị mà đúng ra là cảm tính thực sự con người, một cảm tính gần gũi trong đó có ý thức chia sẻ và quan hệ. Loại tình bạn hữu này là cái mà tôi gọi là tình bạn chân chính vì nó không bị ảnh hưởng bởi tình trạng của cải, quyền thế và địa vị của một cá nhân dù nó tăng hay giảm. Nhân tố giữ vững tình bạn chân chính là cảm tính và tình cảm. Nếu bạn thiếu điều đó, bạn không thể giữ được tình bạn chân chính. Chắc chắn chúng ta đã nói đến điều này trước đây và tất cả điều đó là rất rõ ràng, nhưng nếu bạn đi vào vấn đề quan hệ, thường thường sẽ rất hữu ích nếu biết dừng lại và suy ngẫm về cơ sở của mối quan hệ ấy. 

Cũng giống như vậy, nếu ai đó vấp phải khó khăn với chồng mình hoặc vợ mình, sẽ rất hữu ích nếu biết nhìn vào cơ sở căn bản của mối quan hệ. đó. Chẳng hạn, bạn thường thấy nhiều mối quan hệ chỉ căn cứ vào sự lôi cuốn giới tính ngay từ đầu. Khi một cặp mới gặp nhau, chỉ gặp nhau vài lần, họ có thể yêu nhau say đắm và rất hạnh phúc." Ngài cười " nhưng bất cứ quyết định nào về hôn nhân vào lúc ấy rất dễ lung lay. Về một ý nghĩa nào đó cũng như người ta có thể trở nên mất trí, vì sức mạnh của cơn giận hay hận thù mãnh liệt, về một ý nghĩa, người ta cũng có thể bị mất trí bởi sức mạnh của đam mê hay ham muốn. Và đôi khi bạn có thể thấy trạng thái mà một cá nhân có thể cảm thấy, "ôi người bạn trai của tôi, hay người bạn gái của tôi thực sự không phải người tốt, không phải là người tử tế, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị lôi cuốn bởi anh ấy hay cô ấy". Cho nên sự quan hệ dựa vào cái lôi cuốn ban đầu thật không thể tin cậy được, thực sự không vững vàng vì nó căn cứ vào nhiều hiện tượng tạm thời. Cảm giác này tồn tại rất ngắn ngủi, và sau một thời gian, cảm giác này không còn nữa". Ngài bật tách tách ngón tay.."Cho nên đừng quá ngạc nhiên nếu kiểu quan hệ như thế rơi vào chuyện rắc rối, và hôn nhân căn cứ vào điều đó cuối cũng rơi vào rắc rối ...Nhưng ông nghĩ thế nào? 

"Vâng, tôi phải đồng ý với Ngài về việc đó", tôi trả lời." Hình như trong bất cứ mối quan hệ ngay cả những mối quan hệ nồng cháy, sự say mê lúc ban đầu cuối cùng cũng nguội đi. Một số nghiên cứu cho thấy những người coi sự say mê và lãng mạn lúc ban đầu là tối cần thiết cho quan hệ của họ, cuối cùng đi đến vỡ mộng và ly dị. Ellen Bercheid, nhà tâm lý học xã hội của Đại Học Minnesota,đã xem xét vấn đề và kết luận rằng không đánh giá đúng phân nửa thời gian có giới hạn của tình yêu say đắm có thể hủy diệt mối quan hệ. Bà và những đồng sự của bà cảm thấy mức độ ly dị gia tăng trên hai mươi năm qua một phần liên quan việc người ta ngày càng coi trọng những kinh nghiệm cảm xúc rất được tin cậy trong đời họ - những kinh nghiệm giống như tình yêu lãng mạn. Nhưng có một vấn đề là những loại kinh nghiệm như vậy có thể rất khó đứng vững với thời gian..." "Điều này hình như rất đúng" Ngài nói."Cho nên khi đề cập đến những vấn đề quan hệ bạn sẽ thấy ý nghĩa quan trọng to lớn trong việc nghiên cứu và hiểu biết bản chất cơ bản của mối quan hệ. 

"Bây giờ, trong khi có một số quan hệ căn cứ vào sự lôi cuốn giới tính ngay từ đầu, thì mặt khác, bạn có thể có những kiểu quan hệ khác mà trong đó những người có tâm trạng điềm tĩnh có thể nhận thức rằng nói về thân thể bề ngoài bạn trai hay bạn gái của tôi có thể không hấp dẫn nhưng anh ấy hay cô ấy thực sự là một người tốt, một người tử tế hòa nhã. Sự quan hệ được xấy dựng bằng điều đó hình thành loại liên kết lâu dài hơn vì nó thuộc loại giao tiếp thành thật ở mức thực sự riêng tư và con người giữa hai người..." 

Đức Đại Lai Lạt Ma ngưng một chút như thể nghiền ngẫm về vấn đề rồi nói thêm, "Đương nhiên tôi phải nói cho rõ ràng là người ta có thể có quan hệ tốt lành mạnh bao gồm cả sự lôi cuốn giới tính như là một thành tố. Cho nên hình như có loại quan hệ chính dựa vào vào sự lôi cuốn giới tính. Một loại hoàn toàn dựa vào sự ham muốn giới tính. Trong trường hợp này, động cơ hay sự thúc đẩy đằng sau sự liên kết thực sự chỉ là sự thỏa mãn tạm thời, sự vừa lòng trước mắt. Trong loại quan hệ này, các cá thể gắn liền với nhau không thật là con người mà đúng hơn là đối tượng. Loại quan hệ này không lành mạnh. Nếu sự quan hệ chỉ căn cứ trên sự ham muốn giới tính, không có thành tố tôn trọng lẫn nhau, thì sự quan hệ này hầu như trở thành mại dâm, trong đó cả hai bên dều không tôn trọng lẫn nhau. Sự quan hệ lúc đầu xấy dựng trên ham muốn giới tính giống như căn nhà xấy dựng trên nước đá, đúng lúc đá tan ra, căn nhà xụp. 

"Tuy nhiên có một loại quan hệ thứ hai, cũng căn cứ trên sự lôi cuốn giới tính, nhưng trong đó sự lôi cuốn thể xác không phải là cơ sở chiếm ưu thế ưu tiên trong quan hệ này. Trong kiểu quan hệ thứ hai này, có sự đánh giá căn bản đúng về giá trị của nhau căn cứ vào cảm nghĩ người kia là người tốt, tử tế, và hòa nhã, và bạn có sự tôn trọng và phẩm giá của người kia. Bất cứ sự quan hệ nào căn cứ trên tinh thần ấy sẽ lâu bền và chắc chắn đáng tin cậy Loại này thích hợp hơn. Và muốn thiết lập loại quan hệ này, điều chủ yếu là phải dành đủ thì giờ để hiểu nhau với ý thức chân thật, hiểu biết những đặc tính căn bản của nhau. 

"Cho nên, khi những bạn bè tôi hỏi tôi về hôn nhân của họ, tôi thường hỏi lại họ đã quen nhau bao lâu rồi. Nếu họ nói mới có mấy tháng, thì tôi thường nói:"Vậy quá ngắn ngủi". Nếu họ nói một vài năm, thì tôi nói thế thì tốt. Bây giờ họ không những biết mặt hay bề ngoài, mà tôi còn nghĩ, hiểu bản tính sâu xa của nhau" "Điều đó hồ như nhà Văn Mark Twain đã nói "không có người đàn ông nào hay người phụ nữ nào thực sự hiểu tình yêu hoàn hảo là gì cho đến khi họ đã thành hôn với nhau trong một phần tư thế kỷ..." 

"Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu và nói tiếp tục: Đúng.. cho nên, tôi nghĩ, nhiều vấn đề xẩy ra chỉ vì không đủ thì giờ để tìm hiểu lẫn nhau. Dù sao, tôi nghĩ nếu ta tìm cách xấy dựng mối quan hệ thực sự vừa ý, con đường tốt nhất dẫn tới điều đó là phải hiểu biết bản tính sâu xa của người kia và quan hệ với anh ấy hay cô ấy trên mức độ đó, thay vì chỉ chú trọng đến những đặc điểm bên ngoài. Và trong kiểu quan hệ đó có vai trò của tình thương chân chính.

"Bây giờ tôi nghe nhiều người nói hôn nhân của họ có ý nghĩa sâu xa hpn trên sự quan hệ giới tính, hôn nhân đòi hỏi hai người cố gắng liên kết với nhau, cùng nhau chia sẻ cuộc đời thăng trầm, chia sẻ niềm riêng tư mật thiết. Nếu lời nói đó là chân thật, tôi tin tưởng đó là cơ sở thích hợp để xấy dựng quan hệ. Quan hệ lành mạnh gồm có ý thức trách nhiệm và cam kết với nhau. Đương nhiên, sự tiếp xúc thể chất, sự quan hệ giới tính thích đáng và thông thường của một cặp vợ chồng, có thể đem đến một sự thỏa mãn nào đó, có thể có hiệu quả làm dịu tâm. Nhưng rốt cuộc nói về mặt sinh học, mục đích chính của quan hệ nhục dục là sinh sản. Và muốn thành công trong việc này, bạn cần phải có ý thức tận tâm với con cái, để cho chúng có thể tồn tại và mau lớn. Vậy, phát triển khả năng có ý thức trách nhiệm và cam kết có tính quyết định. Không có điều đó, sự quan hệ chỉ mang lại sự thỏa mãn tạm thời. Chỉ cho vui". Ngài cười, một nụ cười dường như kinh ngạc trước phạm vi mênh mông về cách ứng xử của con người. 

QUAN HỆ DỰA VÀO TÌNH CẢM LÃNG MẠN 

Tôi cảm thấy kỳ quặc khi nói về tình dục và hôn nhân với một người nay đã trên sáu mươi tuổi mà suốt đời độc thân. Ngài không thấy ghét những vấn đề ấy, nhưng có một sự xuy xét độc lập trong những bình luận của Ngài. 

Nghĩ về cuộc nói chuyện của tôi với Ngài sau tối hôm ấy, tôi chỉ nghĩ rằng còn một thành tố quan trọng trong quan hệ chưa được nói đến, và tôi tò mò tôi muốn biết quan điểm của Ngài đối với vấn đề này ra sao. Tôi đã nêu vấn đề này ra ngày hôm sau. 

"Ngày hôm qua, chúng ta thảo luận về các mối quan hệ và tầm quan trọng của việc đặt quan hệ thân thiết hay hôn nhân hơn cả vấn đề nhục dục", tôi bắt đầu " Nhưng theo văn hóa Tây Phương, không phải chỉ là hành động xác thịt mà toàn bộ ý niệm lãng mạn.- ý niệm phải lòng ai, yêu say đắm người tình- được coi như một ham muốn cao độ. Trên màn ảnh, văn chương, và văn hóa đại chúng, người ta đề cao loại tình yêu lãng mạn này. Quan điểm của Ngài thế nào về vấn đề này?

Không một chút do dự, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: "Tôi nghĩ rằng, chưa cần xét đến theo đuổi tình yêu lãng mạn có thể ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển tinh thần ra sao, thậm chí từ quan điểm của lối sống thông thường, lý tưởng hóa tình yêu lãng mạn có thể được coi là một cực đoan. Không giống như những quan hệ căn cứ trên tình cảm chu đáo và chân thật, đây là một vấn đề khác. Nó không thể được coi là tích cực, Ngài quả quyết."Nó dựa vào ảo tưởng, không thể đạt được, cho nên nó là nguồn gốc của vỡ mộng. Vậy, trên cơ sở đó nó không thể được coi như tích cực". 

Giọng nói như kết thúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma, cho thấy Ngài không có gì để nói thêm về đề tài này nữa. Vì xã hội chúng ta đặt tầm quan trọng to lớn lên tình yêu lãng mạn, tôi cảm thấy Ngài bác bỏ sự cám dỗ của tình yêu lãng mạn quá nh nhàng vì Đức Đạt Lai Lạt Ma được dạy dỗ trong tu viện, tôi cho rằng Ngài không cảm nhận đầy đủ niềm vui của tình yêu lãng mạn, và hỏi Ngài về những vấn đề liên quan đến tình yêu lãng mạn thì cũng chẳng khác gì yêu cầu Ngài ra bãi đậu xe để Ngài giải quyết cái khó khăn của tôi về bộ truyền lực của xe. Không được vừa lòng lắm, tôi lóng ngóng với ít điểm ghi chép rồi chuyển sang đề tài khác. 

Cái gì đã làm cho tình yêu lãng mạn quyến rũ đến thế? Nhìn vào câu hỏi này, ta thấy Thần Ái Tình (Eros) - tình yêu lãng mạn, xác thịt, say đắm - trạng thái ngấy ngất cuối cùng, là một ly cốc tay mạnh có các thành phần văn hóa, sinh học, và tâm lý. Trong văn hóa Tây Phương, khái niệm về tình yêu lãng mạn đã thăng hoa từ trên hai trăm năm qua dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, một phong trào đã ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành sự nhận thức của chúng ta về thế giới. Chủ nghĩa lãng mạn phát triển như là một sự bác bỏ Thời Đại Ánh Sáng đó, nhân mạnh đến lý trí con người. Phong trào mới này đề cao trực giác, xúc cảm, cảm tính và say mê. Nó nhân mạnh đến tầm quan trọng của thế giới giác quan, kinh nghiệm chủ quan của cá nhân, và có khuynh hướng về thế giới tưởng tượng, ảo tưởng, tìm cầu một thế giới không phải là - một quá khứ lý tưởng hay tương lai không tưởng. Quan niệm này không những đã có một tác động sâu xa vào văn học nghệ thuật mà còn vào cả chính trị và mọi mặt phát triển của văn hóa của Tây Phương hiện đại. 

Yếu tố hấp dẫn nhất trong khi theo đuổi tình yêu lãng mạn là cảm giác yêu phải lòng. Những ảnh hưởng mạnh mẽ hoạt động thúc đẩy chúng ta tìm kiếm cảm giác ấy, còn nhiều hơn cả sự suy tôn tình yêu lãng mạn mà ta thấy từ văn hóa. Nhiều nhà nghiên cứu cảm thấy những sức mạnh ấy đã được lập trình trong các gien từ lúc sinh ra đời. Cảm giác yêu phải lòng bao giờ cũng hòa lẫn với cảm giác của sự lôi cuốn xác thịt, có thể là thành phần bản năng do gien quyết định trong hành vi giao phối. Từ cái nhìn tiến hóa chức năng cá nhân của sinh vật là sinh tồn, sinh sản, và bảo đảm sự tồn tại liên tục của giống loài. Vì lợi ích tốt nhất của giống loài, cho nên nếu chúng ta được lập trình để yêu, chắc chắn nó sẽ gia tăng lợi thế mà chúng ta kết đôi và sinh sản. Vì vậy, chúng ta có những cơ cấu gắn liền giúp cho điều đó xẩy ra, đáp ứng một số tác nhân kích thích, não bộ sản xuất và tiết ra những hóa chất tạo thành cảm giác phân khích cái "đê mê" kết hợp với tình yêu. Và trong khi bộ não của chúng ta ngâm với những hóa chất ấy, cảm giác đó áp đảo chúng ta đến mức mọi thứ khác dường như bị ức chế .

Ảnh hưởng tâm lý thúc đẩy ta tìm cảm giác tình yêu cũng hấp dẫn như ảnh hưởng sinh học. Trong tập khảo luận của Plato, Socrates kể một câu chuyện huyền thoại về Aristophanes liên quan đến nguồn gốc tình yêu xác thịt. Theo huyền thoại này, những cư dân đầu tiên trên trái đất là những sinh vật tròn có bốn tay, bốn chân, và cùng với lưng và hông làm thành hình tròn. Những sinh vật vô tính độc lập này rất cao ngạo và thường tân công các vị thần. Để trừng phạt chúng, Thần Zeus phóng sấm sét vào chúng và phân đôi chúng ra. Mỗi chúng sanh bây giờ là hai, nửa này mong mỏi hợp nhất với nửa kia. Thần Ái Tình (Eros) ham muốn tình yêu mê say, lãng mạn, có thế được xem là khao khát thời cổ muốn hợp nhất với nửa kia. Nó dường như là nhu cầu vô tình phổ biến của con người. Cảm tính đó kéo theo cảm giác hợp nhất với người kia, ranh giới bị phá tan, trở thành một với người mình yêu. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự sụp đổ ranh giới cái tôi. Một số người nghĩ rằng tiến trình này bắt nguồn từ kinh nghiệm sớm nhất của ta, một cố gắng vô thức để tái tạo kinh nghiệm có từ lúc còn thơ ấu, trạng thái căn bản mà trong đó đứa trẻ hoàn toàn gần gũi với cha mẹ hay người nuôi nâng lúc đầu 

Bằng chứng cho thấy những đứa trẻ sơ sinh không phân biệt chính chúng với phần còn lại của thế giới. Chúng không có ý thức nhận dạng cá nhân hay ít ra cũng nhận dạng được mẹ, những người khác hay những đồ vật chung quanh. Chúng không biết đâu là giới hạn của chúng và đâu là chỗ bắt đầu của những cái khác. Chúng không biết gì là đồ vật đang tồn tại: đồ vật không có sự tồn tại độc lập, nếu chúng không tác động qua lại với một đồ vật, đồ vật này không tồn tại. Thí dụ, đứa trẻ đang cầm cái lúc lắc, nó nhận biết cái lúc lắc là một phần của chính nó, và nếu cái lúc lắc bị lấy đi hay dấu đi, với nó cái lúc lắc đó không còn tồn tại. 

Vào lúc mới sanh bộ não chưa hoàn toàn "kết nối chắc chắn" nhưng khi đứa bé lớn lên thì bộ não trưởng thành, sự tác động qua lại với thế giới trở nên tinh vi hơn và đứa bé dần dần phát triển ý thức nhận dạng riêng, biết "tôi" hay đối lập với "cái khác". Cùng với điều đó, ý thức riêng biệt phát triển, dần dà đứa bé phát triển nhận thức về giới hạn của mình. Sự hình thành cá tính đương nhiên tiếp tục phát triển qua thời kỳ thơ ấu và thời kỳ thanh niên rồi đứa trẻ vào đời. Ý thức về mình là ai xuất hiện là kết quả của sự phát triển những hình dung bên trong, phần lớn đã hình thành do cảm nghĩ về những tác động qua lại lúc ban đầu với những người quan trọng sống với nó, và suy nghĩ về vai trò của chúng trong xã hội nói chung. Dần dần cá tính riêng, và cấu trúc nội tâm lý trở nên phức tạp hơn.

Nhưng một số người vẫn tìm cách đi ngược trở lại trạng thái cuộc sống trước đó, một trạng thái hạnh phúc trong đó không có cảm giác bị cô lập, không có cảm giác bị phân cách. Nhiều nhà tâm lý hiện đại cảm thấy kinh nghiệm có "tính tổng thể" được đưa vào tiềm thức, và khi trưởng thành nó thấm vào sự tưởng tượng vô thức và riêng tư của mình. Họ tin là hòa mình vào với người yêu khi một người "đang yêu" gợi nhớ lại kinh nghiệm hòa hợp với người mẹ thời thơ ấu. Nó tái tạo cảm nghĩ kỳ diệu, một cảm nghĩ tuyệt đối, như thể là mọi sự đều có thể làm được. Một cảm nghĩ như thế khó mà đẩy lùi. 

Thảo nào mà sau này sự theo đuổi một mối tình lãng mạn lại mạnh mẽ như thế. Vậy vấn đề này là thế nào, và tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma lại dễ dàng quả quyết cho rằng theo đuổi mối tình lãng mạn là chuyện tiêu cực? 

Tôi coi vấn đề quan hệ dựa vào tình yêu lãng mạn, nương vào tình cảm lãng mạn là nguồn gốc của hạnh phúc. Một bệnh nhân trước đây của tôi, David, hiện ra trong tâm trí tôi. David, một kiến trúc sư 34 tuổi về ngành xấy dựng vườn hoa và công viên, đến phòng bệnh của tôi với triệu chứng điển hình của một sự suy nhược nghiêm trọng. Anh ta giải thích sự suy nhược này là do một số công việc lặt vặt làm cho anh bị căng thẳng, nhưng "đại loại là mới bắt đầu" Chúng tôi chọn cách dùng thuốc chống suy nhược, anh ta đồng ý, và chúng tôi cho anh thử thuốc chống suy nhược bình thường. Thuốc chứng tỏ có hiệu quả, trong vòng ba tuần lễ triệu chứng đau cấp tính của anh đã thuyên giảm và anh trở lại làm việc bình thường. Tuy nhiên trong khi tìm hiểu bệnh sử của anh chảng mấy chốc tôi nhận thức ra rằng thêm vào cái suy nhược cấp tính anh đã bị suy nhược nhẹ (dysthymia), một dạng suy nhược kinh niên ở mức độ thấp ấm ỉ từ nhiều năm. Sau khi bình phục chứng suy nhược cấp tính, chúng tôi bắt đầu tìm hiểu tiểu sử của anh, đặt nền móng giúp chúng tôi tìm hiểu những động lực tâm lý bên trong đã gây ra chứng suy nhược nhẹ từ nhiều năm. Sau một vài lần khám bệnh, một hôm David vào phòng tôi với bộ dạng hớn hở. Anh nói " tôi cảm thấy tuyệt vời", "tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy từ nhiều năm nay ". 

Phản ứng của tôi về tin vui này là ngay lập tức đánh giá xem liệu có phải là anh đã đi vào giai đoạn tính khí rối loạn thất thường không, tuy nhiên điều đó không đúng.

Anh nói với tôi " Tôi đang yêu. Tôi gặp nàng tuần trước tại chỗ tôi đấu thầu. Nàng là người đẹp nhất mà tôi đã từng được thấy".

Tuần này đêm nào chúng tôi đều đi chơi với nhau, quả thật chúng tôi là một cặp tâm hồn - hoàn toàn hợp với nhau. Tôi thật không thể tin là như vậy! Tôi không hẹn hò gì hai ba năm nay, và đi đến chỗ nghĩ rằng sẽ không bao giời có thể gặp được ai vùa ý, rồi thì bỗng nhiên có nàng".

Trong suốt buổi nói chuyện với tôi, David liệt kê những ưu điểm đáng chú ý của người bạn gái mới của mình."Tôi nghĩ rằng chúng tôi hoàn toàn hợp nhau trên mọi phương diện. Không phải chỉ về xác thịt, chúng tôi quan tâm giống nhau đến mọi sự, thật là dễ sợ sao mà chúng tôi lại suy nghĩ giống nhau đến thế. Đương nhiên, tôi rất thực tế, và tôi hiểu rằng chẳng ai mười phân vẹn mười. Một đêm nọ tôi hơi khó chịu một chút vì tôi nghĩ nàng có vẻ cợt nhả vài gã trong câu lạc bộ mà chúng tôi đến chơi tại đây... nhưng cả hai chúng tôi đều uống quá nhiều và cô ấy chỉ muốn vui mà thôi. Chúng tôi bàn cãi về chuyện ấy, và sau mọi chuyển ổn thỏa".

David trở lại phòng mạch tuần lễ sau đó và báo cho tôi biết anh đã quyết định thôi không chữa bệnh nữa." Mọi sự đều tuyệt vời trong đời tôi, tôi không thấy còn gì phải nói về chữa bệnh" Anh giải thích."Chứng suy nhược của tôi đã hết, tôi ngủ như một đứa trẻ, tôi trở lại làm việc rất tốt, tôi có quan hệ tuyệt vời, dường như càng ngày càng tốt hơn. Tôi nghĩ rằng tôi đã được lợi ích gì đó trong những lần chữa bệnh, nhưng nay tôi thấy không thể tốn kém tiền bạc để chữa bệnh khi không còn gì phải làm". 

Tôi nói với anh tôi rất vui biết mọi việc tốt đẹp với anh nhưng cũng nhắc anh lưu ý đến một vài vấn đề gia đình mà chúng ta nhận biết có thể dẫn đến bệnh suy nhược kinh niên. Suốt lúc ấy những thuật ngữ tâm thần thông thường như "đề kháng" và "bảo vệ" bắt đầu hiện ra trong tâm trí tôi. 

Anh không tin: "Được đây; có thể là những chuyện mà một ngày nào đó, tôi sẽ xét đến" Anh nói. "Nhưng tôi thực sự nghĩ rằng phần lớn do sự cô đơn, một cảm giác thiếu ai đó, cần phải có một người đặc biệt để chia sẻ mọi thứ, và nay tôi đã tìm thấy nàng."

Anh nhất quyết muốn chấm dứt việc chữa trị vào ngày đó. Chúng tôi sắp xếp để vị bác sĩ gia đình của anh theo dõi chế độ thuốc men, phê duyệt và chấm dứt khám bệnh, tôi kết thúc với sự bảo đảm là phòng mạch của tôi lúc nào cũng sẵn sàng tiếp đón anh. 

Một vài tháng sau, David trở lại phòng mạch của tôi. 

"Tôi hết sức đau khổ", anh nói với một giọng buồn nản. "Lần trước, tội gặp ông, mọi sự đều tuyệt vời. Tôi thực sự nghĩ rằng tôi đã tìm được người bạn đời lý tưởng thậm chí tôi đã nghĩ đến việc hôn nhân. Nhưng dường như tôi càng tiến gần bao nhiêu thì nàng lại càng lùi xa bây nhiêu. Cuối cùng nàng đã chấm dứt quan hệ với tôi. Quả thật tôi bị suy nhược một đôi tuần sau đó. Thậm chí tôi bắt đầu gọi điện thoại chỉ để nghe giọng nói của nàng, và lái xe đến chỗ nàng làm việc chỉ để xem xe của nàng có ở đây không. Sau khoảng một tháng tôi ốm vì làm việc đó - thật là quá nực cười - và dù sao triệu chứng suy nhược của tôi cũng tăng lên. Tôi vẫn ăn uống, ngủ nghỉ tốt, vẫn đi làm tốt, và tôi vẫn có dồi dào sức lực nhưng tôi vẫn cảm thấy như thể là mất mát một phần nào trong tôi. Giống như tôi lại trở về với tình trạng trước đây, giống như cảm tưởng mà tôi đã bị nhiều năm. 

Tôi lại bắt đầu điều trị cho anh. 

Dường như rõ ràng là nguồn hạnh phúc, tình ái lãng mạn để lại nhiều điều khắc khoải. Và có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã biểu lộ sự bác bỏ khái niệm tình yêu lãng mạn là cơ sở để quan hệ và Ngài mô tả tình yêu lãng mạn chỉ là "ảo tưởng không thể đạt được", không đáng nỗ lực. Quan sát kỹ lưỡng hơn, có lẽ Ngài đã mô tả bản chất của tình yêu lãng mạn một cách khách quan chứ không phải dưa ra phán xét giá trị tiêu cực bị ảnh hưởng sau nhiều năm tu tập với tư cách một nhà sư. Ngay cả nguồn tham khảo khách quan như tự điển cũng chứa đựng một tá định nghĩa về "lãng mạn", "mơ mộng", có quá nhiều cách nói như "truyện hư cấu", "sự cường điệu", "sự bày tỏ sai lầm", "không có thật hay tưởng tượng", "không thực tiễn", "không có cơ sở thực tế", " tiêu biểu cho hay bận tâm với sự làm tình hay tỏ tình được lý tưởng hóa" vân vân... Hiển nhiên dọc tiến trình văn minh Tây Phương đã có một sự thay đổi. Quan niệm thời cổ Thần Ái Tình (Eros), với ý nghĩa cơ bản hợp thành một, hay hợp nhất với người kia, nay đã có ý nghĩa mới. Tình yêu lãng mạn chỉ đạt được phẩm tính giả tạo, có hương vị gian lận và dối trá, một phẩm tính khiến Oscar Wilde chán nản nhận xét "Khi yêu, bao giờ cũng bắt đầu bằng cách tự lừa dối mình, rồi bao giờ cũng chấm dứt bằng cách lừa dối người khác. Đó là cái mà thế giới gọi là tình yêu lãng mạn". 

Ở phần trước, chúng ta đã khảo sát vai trò của sự thân mật và riêng tư như một thành phần quan trọng trong hạnh phúc con người. Không có gì nghi ngờ gì về việc đó cả. Nhưng nếu tìm cách kéo dài sự thỏa mãn trong quan hệ, nền móng của quan hệ ấy phải vững chắc. Chính vì lý do đó mà Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyến khích chúng ta nên xét đến cơ sở căn bản của mối quan hệ, nếu chúng ta thấy mình đang ở trong quan hệ sắp trở thành tồi tệ. Sự lôi cuốn xác thịt, và thấm chí cả cảm tưởng mạnh của sự phải lòng nhau, có thể đóng vai trò trong việc hình thành sự ràng buộc đầu tiên giữa hai người, thu hút họ gắn bó với nhau, giống như keo dán, tác nhân liên kết đầu tiên cần phải kết hợp với những chất liệu khác trước khi chúng có thể dính chặt lâu dài nhau. Nhận biết ra những chất liệu này, chúng ta quay trở lại với cách giải quyết của Đức Đạt Lai Lạt Ma là phải xấy dụng mối quan hệ mạnh mẽ - quan hệ của chúng ta dựa vào những đức tính về sự yêu mến, tình thương, tôn trọng lẫn nhau là con người. Quan hệ dựa trên những đức tính ấy giúp chúng ta đạt được mối liên kết sâu xa và có ý nghĩa không chỉ với người tình, hay chồng vợ mà còn với bạn bè, người quen, và cả những người lạ - thực tế là bất cứ con người nào. Nó mở ra vô số khả năng và cơ hội cho việc giao tiếp. 

CHƯƠNG 7
GIÁ TRỊ VÀ LỢI ÍCH CỦA TỪ BI

ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ BI 

Khi các cuộc thảo luận của chúng tôi tiếp diễn, tôi khám phá thấy sự phát triển từ bi đóng một vai trò trong cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma lớn hơn chỉ là phương tiện để trau dồi cảm nghĩ nhiệt tình và tình cảm, một phuơng tiện cải thiện mối quan hệ với người khác. Thực ra rõ ràng, là với tư cách một người Phật Tử đang tu hành, phát triển lòng từ bi là một phần tối thiết trên con đường huân luyện tinh thần của Ngài. 

"Vì tầm quan trọng đó mà Phật Giáo coi từ bi là một phần thiết yếu trong việc phát triển tinh thần", tôi hỏi" Ngài có thể định nghĩa rõ ràng hơn cái mà Ngài gọi là từ bi? 

Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Từ bi có thể định nghĩa đại thể là trạng thái tâm không dùng bạo lực, không làm hại ai, và không hiếu chiến. Đó là một quan điểm tinh thần căn cứ vào sự mong muốn người khác thoát khỏi khổ đau, và kết hợp với ý thức tận tâm, trách nhiệm và tôn trọng đối với người khác. "Bàn đến định nghĩa về từ bi, tiếng Tây Tạng từ Tse-wa cũng có nghĩa là trạng thái tâm bao gồm một sự mong ước điều tốt lành cho chính mình. Trong việc phát triển từ bi, ta có thể bắt đầu bằng mong ước cho chính mình thoát khỏi khổ đau, và rồi thì đem cảm nghĩ tự nhiên này hướng về chính mình, trau dồi và nâng cao nó, mở rộng nó ra cho cả những người khác. 

"Bây giờ, khi người ta nói đến từ bi, tôi nghĩ rằng thường có nguy cơ lầm lẫn tình thương với lòng quyến luyến. Cho nên khi thảo luận về từ bi, trước tiên chúng ta phải phân biệt hai loại thương yêu hay tình thương. Một loại tình thương nhuốm màu luyến ái - cảm tưởng kiểm soát ai đó, hay thương yêu một người nào đó để người đó yêu lại mình. Loại thương yêu hay tình thương thông thường này khá không công bằng và thiên vị. Và sự quan hệ chỉ dựa vào điều đó không vững bền. Loại quan hệ thiên vị dựa vào quan sát và nhận biết người đó là bạn, có thể dẫn đến một sự gắn bó cảm xúc nào đó và cảm nghĩ muốn gần gũi. Nhưng trong tình trạng ấy chỉ cần nếu có một sự thay đổi nhỏ như bất hòa, hay người bạn làm điều gì đó khiến cho bạn tức giận, thì đột nhiên tất cả dự định tinh thần đều thay đổi, khái niệm"bạn tôi" không còn nữa. Rồi bạn sẽ thấy sự gắn bó cảm xúc đó tan biến, và thay vì cảm giác thương yêu và lo lắng, bạn có cảm nghĩ căm ghét. Cho nên loại tình yêu dựa vào sự quyến luyến, có thể dính chặt chẽ với hận thù.

"Nhưng có một loại từ bi thứ hai không có sự gắn bó quyến luyến như thế. Đó là từ bi chân chính. Loại từ bi này không dựa nhiều vào việc người này hay người kia thân mật với tôi. Đúng hơn là, từ bi chân chính dựa vào nhân tố căn bản là tất cả mọi người đều có một ham thích bẩm sinh muốn hạnh phúc và khắc phục khổ đau, giống như chính tôi. Và cũng giống như chính tôi, tự nhiên họ có quyền thực hiện nhiệm vụ khao khát căn bản này. Trên cơ sở công nhận định sự bình đẳng và tính phổ biến của con người, bạn phát triển ý thức quan hệ và gần gũi với người khác. Trên cơ sở đó, bạn cảm thấy từ bi dù bạn nhìn người khác là bạn hay thù cũng vậy. Nó căn cứ trên quyền căn bản của con người hơn là dự tính tinh thần riêng của bạn. Trên cơ sở đó, bạn tạo ra tình thương và từ bi. Đó là từ bi chân chính. 

"Vậy ta có thể thấy cách phân biệt giữa hai loại từ bi này và trau dồi từ bi chân chính rất là quan trọng trong đời sống hàng ngày. Chẳng hạn, trong hôn nhân thường có thành phần gắn bó tình cảm luyến ái. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu có thành phần từ bi chân chính, dựa vào vào sự tôn trọng lẫn nhau như hai con người, hôn nhân sẽ lâu dài. Trong trường hợp gắn bó tình cảm không có từ bi, hôn nhân không vững vàng bằng và có thể chấm dứt mau chóng hơn ". 

Ý định phát triển một loại từ bi khác, phổ quát hơn, một loại từ bi có đặc điểm chung là tách khỏi cảm nghĩ cá nhân, dường như giống một nhiệm vụ quá nặng. Đắn đo như thể nói ra, tôi hỏi,"Nhưng tình yêu và từ bi là cảm nghĩ chủ quan. Dường như sắc thái tình cảm hay cảm nghĩ về tình yêu và từ bi thì cũng như nhau dù chúng có pha chút luyến ái hay "chân thành". Vậy nếu một người kinh qua cùng một cảm xúc hay cảm nghĩ giống như thế trong cả hai loại, tại làm sao phân biệt giữa hai loại lại quan trọng? 

Bằng một giọng dứt khoát, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Trước nhất tôi nghĩ rằng nét khác biệt giữa cảm nghĩ thương yêu chân chính hay từ bi và thương yêu căn cứ vào sự gắn bó. Nó không phải là cảm nghĩ giống nhau. Cảm nghĩ về từ bi chân chính mạnh mẽ hơn và rộng lớn hơn nhiều, nó có đặc tính rất sâu sắc. Ngoài ra tình yêu và từ bi chân chính vững vàng hơn nhiều và đáng tin cậy hơn. Thí dụ nếu bạn nhìn thấy một con vật đang bị đau đớn hết sức như con cá đang quằn quại vì lưỡi câu, cùng lúc bạn có thể có cảm nghĩ không thể chịu đựng được cái đau đớn như con cá đó. Cảm nghĩ đó không căn cứ vào mối liên tưởng đặc biệt nào đến riêng con vật đó, một cảm nghĩ, "Ô, con vật đó là bạn tôi". Trong trường hợp đó lòng từ bi của bạn chỉ dựa vào sự thật là chúng sanh cũng có cảm giác đớn đau, và có quyền không chịu cái đau đớn như vậy. Cho nên loại từ bi này không hòa lẫn với ham thích và luyến ái, có cơ sở hơn, và lâu bền hơn."

Đi sâu vào chủ đề từ bi, tôi tiếp tục: "Bây giờ theo thí dụ của Ngài khi nhìn thấy một con cá hết sức đau đớn vì lưỡi câu móc trong miệng nó, Ngài đã nêu ra vấn đề chính yếu - liên quan đến cảm nghĩ không thể chịu đựng được cái đau đớn của con cá"

"Đúng" Ngài trả lời."Thực ra, trong một ý nghĩa nào đó ta có thể định nghĩa từ bi là cảm nghĩ không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy người khác khổ đau, những chúng sanh khác khổ đau. Và để tạo ra cảm nghĩ ấy ta phải cảm nhận tính chất nghiêm trọng hay trạng thái đau khổ của người khác. Vì vậy, tôi nghĩ là càng thấu triệt sự đau khổ, các loại đau khổ mà chúng ta phải chịu, thì mức độ từ bi càng sâu ".

Tôi đưa ra câu hỏi: "Được, tôi đánh giá cao sự thật là càng nhận thức được khổ đau của người khác có thể nâng cao khả năng có tâm từ bi. Thực ra, theo định nghĩa, từ bi đòi hỏi mở rộng lòng mình trước sự khổ đau của người khác. Chia sẻ nỗi khổ đau của người khác. Nhưng có một câu hỏi căn bản hơn: Tại sao chúng ta chạnh lòng trước cái khổ đau của người khác mà lại không quan ngại đến khổ đau của chính chúng ta? Tôi muốn nói là đa số chúng ta sẵn sàng làm mọi việc để tránh cái đau đớn và khổ đau của chính mình, thậm chí đến chỗ dùng ma túy vân vân... Tại sao chúng ta lại cố ý quan tâm đến khổ đau của người khác? 

Không chút ngập ngừng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: "Tôi nghĩ rằng có sự khác biệt quan trọng giữa cái khổ đau của chính mình và cái khổ đau mà bạn có thể nếm trải trong trái thái từ bi khi bạn quyết định chia sẻ niềm đau của người khác - khác biệt trong tính chất". Ngưng một chút, và như thể là dễ dàng nhằm vào cảm nghĩ riêng tư của tôi, Ngài tiếp tục: "Khi bạn nghĩ về đau khổ của chính bạn, bạn có cảm giác hoàn toàn bị lân áp. Có cảm giác nặng trĩu, bị cái gì đó dồn ép - một cảm tưởng bất lực. Có một sự buồn nản, cứ như thể là tất cả năng lực của bạn đã trở thành tê liệt.

"Bây giờ, để tạo ra lòng từ bi, khi bạn nhận lấy cái khổ đau của người khác, bước đầu bạn cũng có thể thấy khó chịu ở một mức độ nào đó, một cảm giác bực bội hay không chịu đựng nổi. Nhưng trong trường hợp có lòng từ bi, cảm giác lại khác hẳn., bên dưới cảm nghĩ khó chịu là tính hoạt bát quyết tâm ở mức độ rất cao vì bạn tự nguyện và chủ ý chấp nhận cái khổ đau của người khác vì mục đích cao cả hơn. Bạn sẽ thấy liên đới và ràng buộc, chìa tay ra giúp người khác, một cảm giác sảng khoái chứ không buồn nản. Giống như người lực sĩ trong khi tập luyện nghiêm ngặt, người lực sĩ phải trải qua nhiều thứ - lập kế hoạch, đổ mồ hôi, gắng sức. Tôi nghĩ rằng nếm trải điều đó đúng là khó nhọc và mất nhiều công sức Nhưng người lực sĩ không coi đó là sự nếm trải khổ đau. Người lực sĩ hiểu điều đó là một thành quả to lớn, mộtsự nếm trải liên kết với cảm giác vui sướng. Nhưng nếu cũng con người ấy phải làm công việc lao động thân thể không phải là một phần tập luyện thể thao, thì người lực sĩ ấy sẽ nghĩ rằng: "Ồ, tại sao tôi phải chịu sự thử thách khủng khiếp này?" Vì vậy, thái độ tinh thần gây ra sự khác biệt to lớn."

Những lời nói đó, được nói bằng sự quả quyết như vậy, đã kéo tôi ra khỏi cái cảm giác bị đè nén thành người tìm cách giải quyết khổ đau, vượt qua khổ đau. 

"Ngài nói bước thứ nhất trong việc tạo ra loại từ bi đó là cảm nhận đúng sự khổ đau. Nhưng có kỹ thuật đặc biệt nào khác trong Phật Giáo dùng để nâng cao lòng từ bi của một con người không? 

"Có. Thí dụ trong truyền thống của Đại Thừa Phật Giáo, chúng tôi thấy có hai loại kỹ thuật chính để trau dồi từ bi. Chúng là phương pháp "bẩy điểm nhân và quả" và phương pháp quan điểm và bình đẳng giữa ta và người" Phương pháp "quan hệ và bình đẳng là kỹ thuật bạn có thể tìm thấy tại chương tám trong cuốn "Chỉ dẫn về lối sống của Bồ Tát" của Shantideva. Nhưng, nhìn vào đồng hồ tay của Ngài, Ngài thấy đã hết giờ, Ngài nói " Tôi nghĩ chúng ta sẽ thực hành một vài bài tập hay thiền định về từ bi trong các cuộc nói chuyện trước công chúng vào cuối tuần này. 

Nói xong, Ngài mỉm cười nồng hậu và đứng lên chấm dứt cuộc thảo luận.

GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI

Tiếp tục thảo luận về từ bi trong buổi gặp sau đó, tôi bắt đầu: "Bây giờ chúng ta đang nói về tầm quan trọng của từ bi", về niềm tin mà Ngài cho rằng tình cảm con người, thân thiện, tình bạn, và vân vân... là những diều kiện tối thiết cho hạnh phúc. Nhưng tôi băn khoăn - thí dụ, một thương gia giàu có đến gặp Ngài và nói " Thưa Ngài, Ngài nói rằng muốn hạnh phúc thì thân thiện và từ bi là rất quyết định. Nhưng bản tính của tôi không phải là người ân cần và dễ thương. Thành thực mà nói, tôi thực sự không cảm thấy động lòng hay có lòng vị tha. Tôi có khuynh hướng đúng hơn là người khá lý trí, thực tiễn và có lẽ là một người trí thức, và không cảm thấy những loại xúc cảm như vậy. Tuy nhiên tôi cảm thấy dễ chịu về cuộc sống của tôi, tôi cảm thấy hạnh phúc về điều kiện sống của tôi. Tôi rất thành công trong thương mại, bạn hữu, và tôi chu cấp đầy đủ cho vợ con, và tôi có mối quan hệ tốt với họ. Tôi không cảm thấy thiếu thốn gì. Phát triển từ bi, vị tha, ân cần và vân vân nghe có vẻ hay lắm, nhưng với tôi vấn đề ấy là thế nào? Dường như chỉ là quá ủy mị..."

"Trước hết" Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời " nếu ai đó nói điều đó, tôi vẫn còn ngờ rằng liệu người ấy có thực sự hạnh phúc trong thực tế không. Tôi thật sự tin là từ bi cung cấp cơ sở cho sự sinh tồn của con người, giá trị thực sự của đời sống con người, không có điều đó sẽ thiếu một bộ phận căn bản. Hết sức nhậy cảm trước cảm nghĩ của người khác là một yếu tố của thương yêu và từ bi. và không có nó, thí dụ, tôi nghĩ người đó gặp khó khăn trong quan hệ với vợ. Nếu một người thực sự có thái độ lãnh đạm đối với đau khổ và cảm nghĩ của người khác, dù cho là tỷ phú, có học vân, không có vấn đề gì với vợ và con, và được quấy quần bởi bạn bè, những thương gia giàu có, chính trị gia, và những nhà lãnh đạo quốc gia, tôi nghĩ bất chấp những thứ đó, hiệu quả của tất cả những thứ tích cực đó chỉ ở trên trên bề mặt.

Nhưng nếu người đó vẫn tiếp tục không cảm thấy từ bi, không cảm thấy thiếu thốn gì ...thì có thể là có chút khó khăn giúp cho người ấy hiểu được sự quan trọng của từ bi..." 

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại hồi lâu để suy nghĩ. Thỉnh thoảng ngừng lại trong suốt những buổi đàm đạo, không tạo sự im lặng khó xử nào, mà đúng hơn là những lúc ngừng lại này giống như lực hấp dẫn, thấu thập thêm sức thuyết phục và ý nghĩa cho những lời của Ngài khi cuộc đàm đạo tiếp nối trở lại. 

Cuối cùng Ngài tiếp tục, "Tuy nhiên cho dù là đúng, vẫn có một vài điều mà tôi cần lưu ý. Trước nhất, tôi có thể gợi ý cho người đó suy nghĩ về kinh nghiệm của chính mình. Người ấy sẽ thấy rằng nếu có một người nào đó đối xử với mình bằng lòng từ bi và tình cảm, điều đó sẽ làm cho người ấy cảm thấy hạnh phúc. Vì vậy nên trên cơ sở kinh nghiệm ấy, nó sẽ giúp cho người ấy nhận ra rằng người khác cũng cảm thấy vui khi được đối xử ân cần và từ bi. Cho nên, công nhận sự việc này sẽ làm cho người ấy tôn trọng hơn nữa độ nhậy cảm xúc của người khác và làm cho người ấy thiên về việc đem từ bi và ân cần đến cho người khác. Đồng thời người ấy khám phá ra rằng mình càng ân cần với người khác bao nhiêu thì mình lại càng nhận được nhiều ân cần bây nhiêu. Tôi không nghĩ rằng phải mất nhiều thời gian người đó mới nhận thức ra điều đó. Thành thử, điều này trở thành cơ sở cho tình bạn và sự tin cậy lẫn nhau. "Bây giờ, giả dụ người này có tất cả những điều kiện thuận lợi cụ thể này, thành công trong đời, bạn hữu xum vầy, tài chính bảo đảm, và vân vân..., tôi nghĩ thấm chí có thể là gia đình con cái đều nương tựa vào người ấy và hồ như thỏa mãn vì người ấy thành công, và họ có nhiều tiền bạc và một cuộc sống sung túc. Tôi nghĩ rằng ở mức độ nào đó thậm chí không cần có cảm xúc ân cần và tình cảm của con người, người ấy không nếm mùi cảm giác thiếu thốn. Nhưng nếu người ấy cảm thấy mọi thứ đều ổn thỏa, không thực sự cần phát triển từ bi, tôi cho rằng cách nhìn đó là do vô minh và thiển cận. Dù cho có vẻ là những người khác phải nương nhờ vào người ấy khá nhiều, trên thực tế những gì đang xẩy ra là quá nhiều quan hệ hay tác động qua lại của những người đó với người ấy chỉ căn cứ trên sự nhận thức rằng người ấy là nguồn thành công giàu có. Họ có thể chịu ảnh hưởng bởi của cải và quyền thế của người ấy và chỉ liên hệ vói người ấy về những thứ đó chứ không phải là chính người ấy. Cho nên trong một ý nghĩa nào đó, mặc dầu họ không nhận được sự ân cần và tình cảm của người ấy, nhưng họ vẫn bằng lòng, và có thể không mong muốn gì hơn nữa. Nhưng điều gì sẽ xẩy ra khi cơ đồ của người ấy bị sa sút, lúc ấy cơ sở của sự quan hệ sẽ suy yếu. Rồi người ấy sẽ bắt đầu thấy hậu quả của sự không có ân cần và lập tic bắt đầu đau khổ. 

"Tuy nhiên, nếu có lòng từ bi, đương nhiên đó là điều mà họ có thể trông cậy vào, cho dù có những khó khăn kinh tế, và sự giàu có xuống dốc, họ vẫn có điều gì đó để chia sẻ với đồng loại. Kinh tế thế giới lúc nào cũng mong manh và chúng ta phải chịu quá nhiều mất mát trong đời sống, nhưng thái độ từ bi là điều chúng ta lúc nào cũng phải mang theo với chúng ta". 

Người thị giả mặc áo choàng nấu sẫm vào phòng và lặng lẽ rót trà, trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, "Đương nhiên muốn giảng giải cho ai đó về sự quan trọng của từ bi, trong một số trường hợp, bạn phải đối đầu với người rất cứng rắn, cá nhân chủ nghĩa và ích kỷ, người đó chỉ biết đến mình, quyền lợi của mình. Và thậm chí có thể là có những người không có khả năng thông cảm ngay cả những người mà họ thương yêu hay gần gũi với họ. Nhưng ngay cả với những người như thế, vẫn có thể bày tỏ tầm quan trọng của từ bi và tình thương trên cơ sở rằng đó là cách tốt nhất để đáp ứng lợi ích cho bản thân họ. Họ mong muốn có sức khỏe tốt, sống lâu, và an tâm, hạnh phúc và sung sướng. Và nếu đây là những thứ mà họ ham thích, tôi nghe nói rằng có cả bằng chứng khoa học là những thứ đó có thể được tôn lên bởi cảm nghĩ thương yêu và từ bi... Nhưng là một bác sĩ, bác sĩ tâm thần, có lẽ ông phải biết nhiều hơn về những xác nhận khoa học này?"

"Thưa vâng", tôi đồng ý, "Tôi cho rằng rõ ràng là có bằng chứng khoa học hậu thuẫn cho những xác nhận về lợi ích vật chất và cảm xúc từ những trạng thái từ bi của tâm".

"Cho nên tôi nghĩ rằng giáo dục ai đó về những sự việc ấy và các nghiên cứu khoa học tất sẽ khích lệ một số người trau dồi trạng thái tâm từ bi...", Đức Đạt Lai Lạt Ma bình luận." Nhưng tôi nghĩ rằng ngoài những nghiên cứu khoa học, có những lập luận khác cho rằng con người có thể hiểu và cảm nhận từ những những kinh nghiệm thực tiễn hay trực tiếp hàng ngày. Thí dụ, bạn có thể vạch ra rằng không có từ bi sẽ dẫn đến một sự tàn nhẫn nào đó. Có nhiều thí dụ cho thấy trong một số thực tế ở một mức độ nào đó, người tàn nhẫn thường bất hạnh phúc và không vừa lòng như Stalin và Hitler. Những người như vậy thường chịu đựng cảm giác khó chịu bất an và sợ sệt dai dẳng. Thậm chí khi họ ngủ tôi cho là họ vẫn cảm thấy sợ hãi... Tất cả những điều đó có thể khó hiểu, nhưng một điều mà bạn có thể nói là những người như vậy thiếu một cái gì mà bạn có thể tìm thấy ở một người từ bi hơn - ý thức về tự do, ý thức xả bỏ, cho nên khi bạn ngủ bạn sẽ nguội đi và không nghĩ nữa. Người tàn nhẫn không bao giờ có được kinh nghiệm ấy. Một cái gì đó lúc nào cũng kìm kẹp họ, ảnh hưởng tới họ, và họ không thể có được cảm nghĩ buông bỏ, ý thức về tự do." Ngài ngừng một chút, lơ đãng gãi đầu, và tiếp tục."Mặc dầu tôi mới chỉ ức đoán, nhưng tôi nghĩ rằng nếu bạn hỏi một số người tàn nhẫn: Lúc nào thấy hạnh phúc hơn khi ở thời thơ ấu được mẹ chăm sóc và được gần gũi gia đình nhiều hơn hay bây giờ khi có nhiều quyền uy hơn, ảnh hưởng và địa vị hơn? Tôi nghĩ rằng họ sẽ trả lời họ thích hơn lúc còn nhỏ. Tôi nghĩ rằng cả đến Stalin cũng được thương yêu bởi người mẹ khi còn thơ ấu."

Tôi nhận xét, "Đưa Stalin ra, tôi nghĩ Ngài đã tìm ra một thí dụ điển hình chứng minh điều Ngài nói, về hậu quả của cuộc sống không từ bi. Ai ai cũng biết hai đặc điểm trong trong cá tính của ông ta là tàn nhẫn và nghi kị. Stalin xem tàn nhẫn là một đức hạnh, thực tế là ông ta đã đổi tên Djugashvili thành Stalin, có nghĩa là "con người thép" Và trong cuộc đời ông ta ông càng tàn nhẫn ông ta lại càng trở nên nghi kị. Sự nghi kị của ông ta ai cũng biết. Rốt cuộc sợ hãi và nghi kị người khác dẫn đến những cuộc thanh trừng lớn và những chiến dịch chống lại nhiều nhóm người khác ở đất nước ông ta, dẫn đến tù đầy và hành quyết hàng triệu người. Nhưng ông vẫn thấy kẻ thù ở khắp nơi. Không lâu trước khi ông chết, ông ta đã nói với Nikita Khruschev, "tôi không tin ai cả, kể cả chính tôi nữa". Lúc cuối đời ông ta còn thù địch cả với bộ tham mưu tin cẩn nhất của ông. Rõ ràng là càng tàn nhẫn và oai quyền, ông ta càng bất hạnh phúc. Một người bạn của ông đã nói cuối cùng nét nhân tính duy nhất của ông để lại là sự bất hạnh của ông. Svetlana, con gái của ông mô tả ông sao mà khổ vì cô đơn và trống trải đến mức ông không còn tin tưởng là người ta có thể thực sự thành thực hay nhiệt tâm. 

"Dầu sao, tôi biết thật khó mà hiểu được một con người như Stalin và tại sao họ có thể làm được những việc kinh khủng như vậy. Nhưng một trong những điểm mà chúng ta nói tới là ngay cả những thí dụ cực đoan về người tàn nhẫn họ cũng luyến tiếc quá khứ khi nhìn lại một số khía cạnh êm đềm hơn trong thời thơ ấu của họ, như tình thương yêu từ người mẹ. Nhưng sẽ ra sao đối với nhiều người không có tuổi thơ êm đềm hay không có người mẹ thương yêu? Những người bị ngược đãi vân vân? Hiện tại, chúng ta đang thảo luận về đề tài từ bi, Để mọi người phát tâm từ bi Ngài có nghĩ rằng họ cần được chăm sóc nuôi dưỡng bởi những bậc cha mẹ hay bảo mẫu có tính ân cần và tình cảm không?"

"Vâng, tôi nghĩ điều đó rất quan trọng."Ngài ngưng một chút, tự động lần tràng hạt một cách khéo léo trong những ngón tay của Ngài và ngẫm nghĩ." Có một số người, ngay từ lúc đầu, chịu nhiều đau khổ và thiếu tình cảm của người khác.- cho nên sau này trong đời sống hầu như họ không có cảm tính con người, không có khả năng từ bi và tình cảm, những người đó rất nhẫn tâm và tàn bạo..." Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lại nữa, và dường như cân nhắc vấn đề một cách nghiêm chỉnh một lúc. Khi Ngài cúi xuống uống trà, ngay đường nét đôi vai Ngài cũng cho thấy Ngài đang suy nghĩ lung lắm. Ngài không chứng tỏ ra ý định tiếp tục ngay, và chúng tôi lặng lẽ uống trà. Cuối cùng Ngài nhún vai như thể thừa nhận Ngài không có giải pháp. 

"Vậy Ngài có nghĩ là những kỹ thuật nâng cao sự đồng cảm và phát triển từ bi sẽ không giúp ích gì cho hạng người có một quá trình khó khăn nhu vậy?"

"Bao giờ các lợi ích cũng có mức độ khác nhau nhận được khi thực hành những phương pháp và kỹ thuật khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người", Ngài giảng giải."Cũng có thể trong một số trường hợp những kỹ thuật ấy hoàn toàn vô hiệu quả..." 

Cố gắng làm sáng tỏ, tôi cắt ngang: "Những kỹ thuật đặc biệt để nâng cao từ bi mà Ngài nói đến là...?

"Đó là điều mà chúng ta vừa nói đến. Trước nhất, nhờ học hỏi, hoàn toàn hiểu biết giá trị của từ bi - nó cho bạn cảm tưởng tin chắc và quyết tâm. Rồi sử dụng các phương pháp nâng cao sự đồng cảm, như dùng óc tưởng tượng, sáng tạo và hình dung mình trong tình cảnh của người khác. Và cuối tuần này trong cuộc nói chuyện trước công chúng, chúng ta sẽ bàn về một số bài tập hay cách thực hành mà bạn sẽ tu tập như cách tu tập Tong-Len, dùng để củng cố từ bi của bạn. Nhưng tôi nghĩ rằng quan trọng là phải nhớ rằng những kỹ thuật này như sự tu tập Tong Len,được phát triển để giúp ích càng nhiều càng tốt, ít nhất cũng một phần nhân loại. Nhưng không bao giờ có thể mong ước là kỹ thuật ấy có thể giúp ích cho 100 phần trăm con người, toàn thể dân số con người. 

"Nhưng vấn đề chính thực ra là nếu chúng ta nói đến những phuơng pháp khác nhau để phát triển từ bi -- điều quan trọng là người ta có thành thực nỗ lực trong việc phát triển khả năng phát tâm từ bi không. Mức độ mà họ thực sự có thể trau dồi từ bi tùy thuộc vào quá nhiều sự thay đổi, ai có thể nói được? Nhưng nếu họ hết sức nỗ lực, nhằm tử tế hơn, để trau dồi từ bi, và làm cho thế giới này tốt đẹp hơn, rồi thì đến cuối ngày, họ có thể nói "Ít nhất tôi đã làm hết mình".

LỢI ÍCH CỦA TỪ BI 

Trong những năm vừa qua đã có nhiều cuộc nghiên cứu ủng hộ ý kiến cho rằng phát triển từ bi và vị tha đã có một tác động tích cực về sức khỏe thể chất và cảm xúc. Thí dụ trong một thử nghiệm nổi tiếng, David MacClelland, một nhà tâm lý học thuộc Đại Học Harvard cho một nhóm sinh viên xem cuốn phim về Mẹ Teresa hoạt động giúp những người đau yếu và nghèo khổ tại Calcutta. Những sinh viên này thuật lại cuốn phim kích thích cảm nghĩ từ bi. Sau đó nhà tâm lý học này phân tích nước bọt của các sinh viên này và phát hiện ra có sự gia tăng chất immuno-globulin-A, một kháng thể có thể giúp chống lấy nhiễm đường hô hấp. Trong một cuộc khảo cứu khác của James House tại Trung Tấm Nghiên Cứu của Đại Học Michigan, những nhà nghiên cứu thấy làm những công việc thiện nguyện đều đặn, tương tác với người khác bằng thái độ từ bi và ân cần, tăng tuổi thọ thêm và chắc chắn là tăng sức sống chung. Nhiều nhà nghiên cứu khác trong lĩnh vực mới về tâm-thể trong y học đã chứng minh những khám phá tương tự, dẫn chứng trạng thái tích cực của tâm có thế cải thiện sức khỏe thể chất của chúng ta. 

Thêm vào hiệu quả lợi ích về sức khỏe thể chất của ta, có bằng chứng là từ bi và ứng xử chu đáo có lợi cho sức khỏe xúc cảm. Những cuộc nghiên cứu cho thấy chìa tay ra giúp đỡ người khác có thể đem lại cảm giác hạnh phúc, điềm tĩnh hơn, và ít chán nản hơn Trong một cuộc nghiên cứu ba mươi năm của một nhóm tốt nghiệp tại Đại Học Harvard, nhà nghiên cứu George Vaillant kết luận, thực tế áp dụng lối sống vị tha là một thành tố cốt yếu có lợi cho sức khỏe tinh thần. Một cuộc khảo sát khác của Allan Luks, được tiến hành với vài ngàn người thường xuyên tham gia các hoạt động tình nguyện giúp đỡ người khác, cho thấy hơn 90 phần trăm những người tình nguyện ấy báo cáo họ '"hân hoan" liên tưởng đến hoạt động này, có đặc điểm là cảm thấy ấm áp tình người, nhiều nghị lực hơn, hồ như phớn phở. Họ cũng cảm thấy cảm giác bình thản rõ ràng, và nâng cao giá trị của mình sau hành động mà cách ứng xử chu đáo không chỉ mang lại tác động nuôi dưỡng xúc cảm mà người ta còn thấy rằng sự điềm tĩnh của người giúp đỡ liên quan đến sự giảm bớt các loại rối loạn thể chất do căng thẳng. 

Trong khi rõ ràng bằng chứng khoa học là hậu thuẫn cho lập trường Đức Đạt Lai Lạt Ma về giá trị thực sự và thực tiễn của từ bi, ta không cần phải chỉ dựa vào những công cuộc thử nghiệm và khảo sát để xác định sự đứng đắn của quan điểm này. Chúng ta có thể nhận ra sự liên quan chặt chẽ của quan tâm, từ bi, và hạnh phúc riêng tư trong đời sống của chúng ta và đời sống của những người chung quanh. Joseph, một nhà thầu xấy cất sáu mươi tuổi, mà tôi gặp vài năm nay, là một minh họa tốt cho việc này. Trong ba mươi năm, Joseph điều khiển công việc kiếm tiền dễ dàng, lợi dụng việc xấy cất tăng vọt dường như vô tận tại Arizona để trở thành triệu phú. Tuy nhiên vào cuối thập niên 80, việc buôn bán bất động sản địa ốc đổ vỡ tồi tệ nhất trong lịch sử Arizona. Joseph bị thiệt hại nặng và mất mọi thứ. Cuối cùng ông phải tuyên bố phá sản Những khó khăn về tài chánh gây căng thẳng trong hôn nhân của ông, dẫn đến ly dị sau 25 năm chung sống. Không đáng ngạc nhiên lắm, Joseph đã không chịu đựng được mọi sự. ông bắt đầu uống rượu nhiều. May mắn là cuối cùng ông đã bỏ được rượu nhờ sự giúp đỡ của Hội Bài Trừ Rượu (AA). Là thành viên trong hoạt động của Hội này, ông trở thành người bảo trợ, và giúp người khác chừa rượu. Ông nhận ra ông rất vui trong vai trò bảo trợ, chìa tay giúp người khác, và tình nguyện gia nhập vào các tổ chức khác. ông đã đem kinh nghiệm làm ăn của ông để giúp đỡ những người bị thiệt thòi kinh tế. Nói về đời sống hiện tại, ông nói, "Hiện tôi có một cơ sở tân trang nhỏ Cơ sở này có thu nhập vừa phải, nhưng tôi hiểu rằng tôi sẽ không bao giờ giàu có bằng trước đây. Điều nực cười là tuy vậy tôi thực sự không muốn có tiền như truớc đây nữa. Tôi muốn dành nhiều thì giờ tình nguyện làm cho các đội ngũ khác nhau, trực tiếp làm việc với mọi người, và giúp đỡ họ bằng tất cả khả năng của tôi. Những ngày này, tôi cảm thấy hoàn toàn vui sướng từng ngày hơn là cả tháng kiếm được nhiều tiền. Tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết trong đời tôi."

THIỀN ĐỊNH VỀ TỪ BI 

Như đã hứa trong khi đàm đạo, đúng theo lời Ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma kết thúc bài giảng trước công chúng bằng một cuộc hành thiền về từ bi. Đó là một bài tập đơn giản. Tuy vậy bằng một lối nói mạnh mẽ và tao nhã, dường như Ngài tóm tắt và kết tinh lại cuộc thảo luận về từ bi trước đây, biến nó thành một buổi tập chính thức trong năm phút, trực tiếp vào ngay điểm. 

Muốn phát tâm từ bi, bạn bắt đầu bằng cách công nhận bạn không muốn khổ đau và bạn có quyền có hạnh phúc. Điều này có thể được kiểm chứng hay được công nhận là đúng bằng kinh nghiệm của bạn. Rồi bạn công nhận những người khác, cũng giống như bạn, cũng không muốn khổ đau và cũng có quyền có hạnh phúc. Vậy nên việc đó trở thành cơ sở để bạn phát tâm từ bi. 

"Vậy... hôm nay chúng ta hãy thiền định về từ bi. Bắt đầu mường tượng đến một người hết sức đau khổ, một người đau đớn hay ở trong một tình trạng rất bất hạnh. Trong ba phút đầu thiền tập, suy ngẫm về đau khổ của một cá nhân theo phép phân tích - hãy nghĩ đến sự đau khổ dữ dội và tình trạng sống bất hạnh của người ấy. Sau khi nghĩ đến sự đau khổ của người ấy trong vài phút, kế đến, cố gắng liên hệ việc đó đến chính mình, nghĩ rằng cá nhân ấy cũng có khả năng chứng nghiệm đau khổ, niềm vui và hạnh phúc, và cũng đau khổ như mình đau khổ. Rồi, cố gắng để câu trả lời tự nhiên của bạn phát sinh - một cảm tính từ bi tự nhiên đối với người ấy. Cố gắng đi đến kết luận, hãy nghĩ xem bạn mong muốn người ấy thoát khỏi khổ đau mạnh đến đâu. Giải quyết điều đó sẽ giúp người đó thoát khỏi khổ đau. Cuối cùng, hãy trụ tâm vào loại kết luận hay giải pháp đó, và trong mấy phút cuối cùng của buổi thiền tập, cố gắng phát tâm trong một trạng thái từ bi hay thương yêu."

Với lời giảng trên, Đức Đạt Lai Lạt Ma khoanh chân ngồi trong tư thế thiền định, hoàn toàn bất động Ngài hành thiền cùng với cử tọa. Một sự im lặng hoàn toàn. Nhưng có điều gì đó đang khơi dậy trong khi ngồi ở cuộc họp sáng đó. Tôi nghĩ rằng cả đến người cứng cỏi nhất cũng không thể tránh bị lay chuyển khi bị vấy quanh bởi một nghìn rưởi người, mỗi người đều nắm giữ tư tưởng từ bi trong tâm. Sau một vài phút, Đức Đạt Lai Lạt Ma thốt lên một câu kinh bằng tiếng Tây Tạng, giọng của Ngài trầm trầm, nhịp nhàng, lên bổng xuống trầm gây lắng dịu và khoan khoái.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn