Phần Hai

27 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 19396)


SỰ CỐNG HIẾN CỦA ĐẠO PHẬT

CHO CUỘC ĐỜI
Truyền Đan

Phần Hai

Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thích và tin tưởng càng ngày càng lớn. Bây giờ tôi đã như một con kiến bò quanh một cái bánh kem để trên đĩa, tôi mon men nhấm nháp, càng vào sâu càng thấy hương vị đậm đà, càng ích lợi.

Trong các tôn giáo lớn, Đạo Phật đứng một mình. Có người nói Phật Giáo không phải là tôn giáo, có người lại cho rằng Phật Giáo tôn giáo hơn tất cả các tôn giáo. Đạo Phật không quan tâm danh từ chữ nghĩa khen chê, có phải là tôn giáo hay không, vì tất cả danh tướng, phân biệt, đều là sản phẩm của vọng tưởng, Đạo Phật chỉ chú trọng khai thị và hướng dẫn con người xa lìa vọng tưởng (nguồn gốc của đau khổ) để tự lực giải thoát, việc đó không một thần thánh nào làm được dùm hắn.

Học giả Smith Huston, trong cuốn The Religions of Man trình bày những tôn giáo lớn của con người, ông vạch ra sáu điểm đặc biệt khác đời của Phật Giáo là:

- Không quyền lực,

- Không nghi lễ,

- Không tính toán, suy lường,

- Không tập tục truyền thống,

- Không khái niệm về quyền tối thượng và ân điển của một Thượng-đế,

- Không bí mật.

Ông cũng nhắc lại câu truyện một người hỏi Phật:

- Ngài có phải là Thượng-Đế không? Đáp: Không.

- Ngài có phải là một Thiên Thần không? Đáp: Không.

- Ngài có phải là một vị Thánh không? Đáp: Không.

- Vậy thì Ngài là gì?

Đáp: Ta là Bậc Giác Ngộ.

Việc tìm hiểu Phật-Giáo dành cho ta nhiều bất ngờ thích thú và cũng đầy ngưỡng mộ, có người đã nói "đọc Phật, tôi đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác". Tạp chí L'Express tại Pháp trong số đặc biệt tháng 10-1996 dành cho "Làn Sóng Phật-Giáo" có nhắc lại lời nói của bác-học A.Einstein: "Phật-Giáo là tôn giáo duy nhất dung hợp được với khoa-học hiện đại". Ông còn nói rõ: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật Giáo. Phật Giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hoá với những khám phá mới của khoa học.

Phật Giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học vì Phật Giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua Khoa học." - Triết gia Michel Hulin cũng cho rằng "Phật-Giáo là triết học của thời đại chúng ta". Kết quả một cuộc thăm dò cho biết có khoãng hai triệu người hiện nay tán thành Phật-Giáo trong một nước Pháp có truyền thống Kitô lâu đời và vững chắc ở Âu-Châu. Có nhiều người Pháp thường xuyên đến tu tập tại hàng trăm ngôi chùa Mật-Tông Tây-Tạng, một số thọ giới Tỳ Kheo, và chùa Thiền Tào-Động Nhật-Bản sẵn có hoặc mới được xây cất thêm rải rác khắp nước Pháp.

Điều thích thú khi tôi đến với Đạo Phật là tôi vẫn là tôi, tôi phục vụ tôi, tự chủ, độc lập, tự do, không sợ hãi thần phục một sức mạnh, không nô lệ. Hồi đầu, khi nghe lời nào không hợp ý là tôi cãi lại, tôi nói rằng Ông Phật nói vậy tôi thấy không đúng. Năm mười sáu tuổi, nghe Ông nói: "Tình thương là nguồn gốc của đau khổ", tôi không chịu. Tôi nhớ lúc còn nhỏ nằm trong lòng mẹ, ấm áp trong tình thương của mẹ, tuyệt vời như vậy sao là khổ được? 

Nhưng hơn mười năm sau, khi đã có gia đình, con tôi còn bé nhỏ, gặp khi bị nóng sốt li bì, suốt đêm tôi ngồi bên con săn sóc, lòng dạ sót sa lo lắng, chợt nhớ lại lời Ông Phật nói, tôi mới biết mình sai, nếu không thương con thì đâu có khổ. Bốn năm trước đây, ở xa được tin mẹ mất quê nhà, tôi òa lên khóc như một trẻ thơ, thật không có một đau khổ nào lớn như thế. Lúc đầu theo học Thày, tôi cũng cãi, cãi rồi mới biết mình sai.

Vậy mới hay con người ngu như tôi đâu biết được cái dốt của mình, hệt như con cá dưới nước nghe con rùa đi chơi trên cạn về kể chuyện không cho là thật. Nay tôi có lễ Phật, lạy Thày, đều là do lòng tự nhiên kính phục, biết ơn, trọng người chỉ lối, chẳng có mảy may nô lệ, sợ hãi, mà chính các Vị đó cũng dạy như vậy, nhất định không chịu trói cột, dầu bằng một sợi chỉ nhỏ bằng vàng. 

Đạo Phật tuyệt đối không khống chế con người, người Phật tử chỉ tin nơi Tự Tâm mình, tự mình làm chủ mình chứ không ỷ lại vào thần linh. Chữ "Phật" không chỉ danh một ngôi vị thánh linh cao cả do con người sợ hãi vì yếu đuối, bất lực trước những sức mạnh của thiên nhiên và những bất công của xã hội, nên tự nhiên nghĩ tưởng phải có một Đấng Toàn Năng ngự trị nơi cao để nương tựa, để thờ phượng, để cầu xin. Phật phiên âm từ chữ Phạn Buddha chỉ đơn giản có nghĩa là "Người Biết" (Giác Giả), người nào giác ngộ người đó là Phật. Ông Phật cũng nói rõ ràng không được thần phục mù quáng, đối với tất cả các học thuyết, kể cả học thuyết của Ông nói, ta phải nghe, suy xét, thực hành, nếu có thấy kết quả thật sự làm cho cuộc đời hết hẳn đau khổ thì hãy tin nghe.

Tôi cũng nhận thấy rằng cái Pháp ông Phật cho tôi chỉ là một cống hiến, nó phục vụ tôi, nó chỉ dẫn tôi đi đường xa đến đích, khi đến nơi nó trở nên vô dụng, vì qua sông rồi đâu còn cần bè, và tôi phải bỏ nó đi, nếu không thì mất tự do vì nó (Kinh Kim Cang), lúc nào tôi cũng vẫn là chủ của mình. Thành ra tôi đến với Đạo Phật chẳng phải vì ông Giáo-Chủ, cho ông Giáo-Chủ mà chỉ vì hạnh phúc, tự do cho chính mình, để phục hồi sự trọn vẹn cố hữu của mình, sung sướng là vậy. Nay mỗi lần vào chùa, đứng trước Đức Phật ngồi trên tòa cao, tôi ngước mắt nhìn khuôn mặt an lành từ bi của Phật, lòng hân hoan mỉm cười như nhìn mặt mẹ, chẳng cần nghiêm nghị cúi đầu, lo lắng e sợ có thể bị trừng phạt, cũng chẳng cần cầu xin ân huệ vì như Ông dạy luật nhân quả, cầu đâu có được. Hơn năm chục năm rồi, tôi vẫn ở trong đạo như ở trong vườn hoa trái nhà mình, với lòng thích thú say mê như thế.

Khác hẳn với các tôn giáo khác, Phật Giáo có mặt trên thế gian không phải cốt cho người ta tôn thờ, cúi lạy, cầu xin mà chỉ có mục đích duy nhất là khai thị cho con người biết ra chỗ sai lầm căn bản nó là nguyên nhân của tất cả đau khổ, và cống hiến cho thế gian cái nhận thức đúng đắn về một hạnh phúc tột cùng, rồi chỉ cho con đường thực hiện hạnh phúc đó. Tiến-sĩ Hubert Benoit trong hàn-lâm-viện Pháp là một học giả triết gia, ông nói trong bài tựa bộ Doctrine Suprême của ông (có dịch ra Anh ngữ) đại ý là không có một học thuyết nào, một tôn giáo nào đã đưa ra được phương thức giải quyết trọn vẹn vấn đề thân phận con người, ngoài Phật-Giáo Thiền-Tông.

Vì làm chủ nên chỉ trông cạy chính yếu vào sức mình, phải đốt đèn lên mà đi bằng đôi chân của chính mình và thụ hưởng cái kết quả do chính mình thành tựu được, chẳng phải là ân huệ ai ban. Nhưng tại sao tôi tin được có cái hạnh phúc tột cùng ở cuối đường xa? Không phải như A, nhắm mắt tin lời nói của B, B tin lời C, tin đuổi theo nhau đến Z, mà thực sự Z cũng chưa hề đích thân sờ mó đến Sự-Thật. Sự-Thật (hay Chân-Lý) chẳng phải là cái biết bằng tri thức do nghiên cứu, học hỏi mà được. Sự-Thật chỉ là chỗ cảm chứng sâu xa vĩnh hằng bằng thực nghiệm.

Tôi tin chỗ chưa đến vì chẳng riêng một Ông Thích-Ca nói vậy mà đã có đến mười ngàn người tại nhiều quốc gia Á-châu nghe Ông chỉ đạo đã thành tựu được quả vị giải thoát, cũng kinh nghiệm và cũng nói như nhau. Hơn nữa, tôi thấy lý thuyết phân minh rành rẽ, chẳng một mảy may mê tín hoang đường, và chính bản thân mình trong khi thực hành đúng cách quả đã thấy khởi đầu cái sức mạnh có khả năng chuyển đổi tâm linh.

Quán xét sâu rộng cái thân phận làm người bị bó buộc, sướng ít khổ nhiều, khi nó hiển lộ rõ ràng ghê gớm, lúc nó ẩn núp dưới lớp vỏ hào nhoáng lừa gạt, tôi nghĩ ta không thể mê muội mãi tình trạng này và, như ý Kinh Pháp-Hoa, nó cần được giải quyết tận cùng rốt ráo, nếu lối đi có nhiều bậc thì phải đi hết bậc cuối cùng để bước lên tầng lầu trên, không chịu dừng lại nửa đường, đi hết đường mới thôi, cũng không chịu uống aspirin cho êm dịu nhất thời, tùy trình độ mình mà khởi hành từ bậc thích hợp. Đạo Phật cho đó là việc quan trọng của con người, chẳng phải là việc quan trọng nhất, mà là việc quan trọng duy nhất, không có việc thứ hai đáng coi là quan trọng. Nếu có muốn giúp ai thì cũng nên giúp người đó làm xong việc này, nếu có người đói lạnh thì cho ăn cho mặc cũng là để bảo họ tiếp tục làm xong việc này, gọi là bố thí cứu cánh, cũng gọi pháp thí.

Về Phật Pháp, không ai dám tự nhận là diễn tả trung thực, đầy đủ được Đạo Phật, kể cả Đức Phật, bởi nên Ngài nói trong Kinh Lăng-Nghiêm : "Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa". Chỗ Thật-Nghĩa phải là đích thân đi đến, sống và kinh nghiệm Nó, nếu chưa chứng ngộ, cũng là chưa kiến tánh thành Phật, thì dù ông có mang danh hiệu gì, hình tướng nào, tu tập phép lạ, nói năng biện tài, vẫn chỉ là phàm phu trong luân hồi, đối với Thật-Nghĩa chưa hề dính dáng. Mà với Chân-Lý (Thật-Nghĩa), chỉ có thể chứng được, kinh nghiệm được, chứ không thể nói được, vì ngôn ngữ của thế gian không thể diễn tả, cho nên Tổ-Sư nói "Uống nước lạnh nóng tự biết", huống là người còn đang đi đường như tôi, cho nên những điều tôi viết đây chỉ là cái thấy biết nông cạn bằng tri thức về Đạo Phật, chỉ đáng được coi như phương tiện khơi mở giúp người hướng về Đạo. Tôi rất ước mong chúng ta nhận được rằng Đạo Phật là kho báu vô lượng cống hiến cho con người nhiều, rất nhiều ích lợi hơn như đa số chúng ta, dàu là tăng tục Phật tử, đã biết, đã nói.

Giáo Pháp do Phật nói chia ra nhiều thời kỳ: Hoa-Nghiêm, A-Hàm, Phương-Đẳng, Bát Nhã, Pháp-Hoa, nhưng nói chung vẫn là tùy bệnh cho thuốc, đại khái có 5 loại thuốc dành cho 5 căn cơ trình độ cao thấp, cũng gọi là "thừa" (cỗ xe): Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh-Văn Thừa, Duyên-Giác Thừa, Bồ-Tát Thừa. Các thừa ấy là những bậc thang kế tiếp phương tiện lập ra để chung cuộc đưa đến Phật Quả. Người tu không được chấp vào một thừa nào để trụ tại đó, nên Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phương-Tiện, Phật nói: "Đức Phật dùng sức phương tiện nơi một Phật Thừa phân biệt nói thành ba.", và "Không có thừa nào khác, chỉ có một Phật Thừa".

Những lời dạy này nên được hiểu là việc tu học phải nhắm đến mục đích tối hậu là giác ngộ thành Phật, được giải thoát cứu cánh, không có chuyện hoặc cốt tu để an tâm chốc lát, thành thiện nhân, được nhiều phước đức, hoặc cốt lên cõi trời, hoặc cốt được những quả vị Nhị Thừa rồi thôi. Không nên chỉ đi một phần đường rồi đứng lại. Phật vì lòng từ bi bình đẳng mà lập ra nhiều bậc cốt giúp người trung hạ căn là đa số chúng sanh niềm tin chưa trọn, được đi lên từng bậc dễ dàng, với người thượng căn thì đốn tu đốn ngộ, thẳng đến Phật Quả.

Những lời dạy trong Nhân Thừa, Thiên Thừa đều nhắm vào luân lý thế gian, làm con người lương thiện, có nhân nghĩa, ngay thẳng, làm lành lánh dữ, thương yêu giúp đỡ đồng loại và súc vật ... và chuẩn bị cho bước xuất thế gian. Trong phạm vi này, Phật dạy con người biết tin nhân quả, biết sợ họa báo mà không làm ác, biết chọn làm thiện để được phước quả. Tiêu chuẩn thiện ác ở đây căn cứ vào lợi ích chúng sanh gồm cả người và súc vật. Ở trình độ này, có những pháp môn tiêu biểu như sau:

- Thập thiện: thực hành 10 điều thiện gồm 3 điều thuộc hành động của thân là không giết hại và không xúi người khác giết hại người và súc vật, không trộm cắp, không tà dâm; 4 điều thuộc lời nói: không nói điều bịa đặt, không nói lời không đúng, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác; 3 điều thuộc ý tưởng: không khởi các ý nghĩ tham lam, sân hận, ngu si.

- Tứ Nhiếp Pháp: gồm bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.

- Tứ Ân: trong đời sống, con người phải lo báo đền bốn ơn nặng gồm ơn Phật, ơn Thày, ơn Cha Mẹ và ơn Chúng-Sanh.

Việc vun trồng phước đức là bổn phận của nguời con Phật (tu sĩ và cư sĩ) làm suốt trên đường tu đạo, trước là chánh (nhân thừa và thiên thừa), sau là phụ (Tam Thừa: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát), tuy phụ nhưng vẫn cần thiết.

Lên đến Tam Thừa là đã qua lãnh vực xuất thế gian. Quả vị cao nhất của Thanh văn là A-La-Hán, người đắc A-La-Hán đã ra khỏi tam giới (Dục, Sắc, Vô sắc giới), thoát hẳn luân hồi trong sáu đạo (Trời, Người, Atula, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục), chỗ đó là Niết-Bàn. Chữ Niết-Bàn chỉ thường dùng với Nhị-Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác), vì người Nhị-Thừa còn chấp và trụ vào chỗ đến. Bồ-Tát và Phật không trụ và không chấp bất cứ gì, nên ít nói Niết-Bàn. A-La-Hán đã giải quyết xong phân đoạn sanh tử (sanh tử từng đoạn, từng kiếp) nhưng biến dịch sanh tử (chuyển dịch từ vị này qua vị khác trên đường đến Phật Quả) hãy còn, cho nên nói là giữa dòng.

Bồ-Tát Diệu-Giác là bậc Thánh đã siêu cả hai bờ, đã thành tựu quả vị cứu cánh nhưng chưa nhập Pháp-Thân, còn tự do ra vào sáu cửa (lục đạo) để thực hành đại nguyện độ sanh. Chỗ này là điểm sai khác quan trọng giữa Đại-Thừa và Tiểu-Thừa. Tuy còn trên đường nhưng người phát tâm Đại-Thừa đã lấy việc độ sanh làm bổn phận, cảm cái khổ của chúng sanh nên tu giác ngộ để giúp chúng sanh thực hiện giác ngộ, giúp họ chuyển nghiệp, chẳng phải cầu Niết-Bàn riêng cho mình và trụ ở đó. Người có tâm nguyện hạn hẹp như thế, Phật gọi là "tiêu nha bại chủng", cái mầm hư thối, đã uổng ơn Phật còn phụ chúng sanh.

Độ sanh là giúp chúng sanh đi con đường làm Phật, các đại nguyện của Đức Dược-Sư Lưu-Ly Quang Như-Lai cũng ghi rõ là cứu giúp chúng sanh ra khỏi các nạn khổ "rồi tu đắc đạo Vô-thượng Bồ-đề" (lời trong kinh), chứ không phải chỉ hết khổ rồi thôi. Xin chớ hiểu độ sanh là lo học lấy một mớ tri giải nông cạn, suy đoán, tưởng tượng theo ý riêng, vốn là sai lầm, rồi đi nói dạy lại người khác mà không chân thật tự tu thân mình nhắm đến thành Phật; lại càng không phải là thuộc lòng năm ba bài cúng làm kế sinh nhai, hoặc lợi dụng lời nói hay hình thức nhà Phật để tổ chức những việc giả dối bên ngoài, hoàn toàn không ăn nhằm gì đến Phật Pháp, hay dùng chữ "Phương tiện" để dối mình gạt người (chỉ có Phật và Tổ Sư kiến tánh mới có thể phương tiện), thâm tâm cốt cầu lợi dưỡng hoặc đề cao cá nhân, muốn mọi người qui tụ về mình, lấy ta làm trung tâm chớ không lấy Phật Pháp làm trung tâm.

Những tội này Kinh Đại-thừa có kể ra và Tổ Bách-Trượng (thế kỷ thứ 9) đã nhắc đến trong bộ Thanh Qui của Ngài. Cũng để có đủ năng lực độ sanh nên người tu Đại-Thừa phải đi đến cứu cánh, được tròn Phật Quả, không chịu một nửa đã thôi, tự giác rồi để giác tha mới gọi giác hạnh viên mãn. Giác nghĩa là giác ngộ, nhập vào Tri-Kiến Như-Lai, thành Phật, chẳng phải cái biết suông bằng tri thức. Đại-Thừa là Bồ-Tát-Đạo, có tâm Bồ-Tát mới gọi Đại-Thừa, nên người tu Đại-Thừa tuy còn phàm phu đã thọ giới Bồ-Tát. Giới Thanh-Văn (Sa-Di, Tỳ-Kheo) là thân giới, thọ rồi xả được, khi chết mất giới, khi đại vọng ngữ (chưa ngộ nói đã ngộ) cũng mất giới, kiếp sau mới thọ lại được. Giới Bồ-Tát là tâm giới, thọ rồi tồn tại mãi mãi, thành Phật vẫn còn, không thể xả được. Giới Thanh Văn y cứ vào tướng (cạo đầu, mang y), giới Bồ-Tát không trụ nơi tướng, vì thế Thanh-Văn có hành động trái mới phạm giới, nhưng Bồ-Tát chỉ mới khởi ý xấu (chưa hành động) là đã phạm giới.

Theo Giáo-môn, con đường Bồ-Tát có 56 bậc: thập Tín, thập Trụ, thập Hạnh, thập Hồi Hướng, tứ Gia-Hạnh, thập Địa, Đẳng-Giác, Diệu-Giác. Hàng Thánh (Trụ, Hạnh, Hướng) đã biết Pháp-Thân, hàng Địa (từ Sơ-Địa đến Thập-Địa) mới lần lần chứng Pháp-Thân. Quả A-La-Hán bằng mãn Thất-Địa, lên Bát-Địa, đã sạch ngã chấp vi tế, không còn luân hồi trong tam giới, nhưng pháp chấp vẫn còn, khi nhập Diệu-Giác chấp này mới hết hẳn, cả thô lẫn tế.

Tại sao Phật Pháp có đến 5 thừa, giáo pháp chia ra làm nhiều thời khác nhau như vậy? Vì chúng sanh có nhiều trình độ và Đạo này siêu việt khó hiểu, khó tin, khó vào, tri kiến của Phật lại không thể nghĩ bàn. Cảnh giới thánh trí Phật thuyết ban đầu, người nghe chỉ ngơ ngác nhìn nhau không hiểu, lại dễ sanh tâm phỉ báng. Do vậy, Phật phải mở thời A-Hàm, cũng đạo giải thoát nhưng phương tiện biến chế cho hợp với căn cơ con người, được khai mở rồi dần dần hướng dẫn lên cao. Kinh Pháp-Hoa, phẩm Hóa-thành dụ, Phật nói như con đường đến chỗ trân bửu đã nguy hiểm, nhiều nạn dữ lại quá dài xa, chúng nhân đi mệt nhọc, sợ sệt, muốn lui về, vị Đạo-Sư thương sót bèn biến hoá ra một cái thành cho họ được vào nghỉ ngơi, an ổn, lấy sức, sau đó lại thẳng đến chỗ châu báu cũng được.

Phật nói với hàng Thanh-Văn: "Chỗ tu của các ông chưa xong, bậc của các ông (chỉ mới) ở gần với huệ của Phật. Phải quan sát suy lường Niết-Bàn đã đặng đó chẳng phải chơn thật vậy. Chỉ là sức phương tiện của Như-Lai, ở nơi một Phật Thừa phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo-Sư kia, vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa làm thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo họ rằng chỗ châu báu ở gần, thành này không phải thật, chỉ là của ta biến hoá làm ra đó thôi." (Bản dịch của Hòa-Thượng Trí Tịnh) . Tuy vậy, vẫn có một số người thiển cận, mới được ít vội cho là đủ, ham vui dừng lại Hóa-thành, cốt hưởng lạc riêng, bỏ trốn phận sự độ sanh.

Bài học Phật dạy cho hàng Nhị-Thừa gồm các giáo lý: Tứ Đế, Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, Vô Ngã ... Lên Đại-Thừa Phật mới thuyết các giáo pháp Phương Quảng, Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, riêng pháp đốn ngộ chỉ thân truyền cho Ma-Ha Ca-Diếp, chẳng phải riêng ưa ông này mà vì giữa Hội Linh-Sơn, Phật dùng phương tiện đặc biệt để tiếp dẫn, trong đại chúng có một mình Ca-Diếp ngộ được. Đó là chuyện Niêm Hoa Thị Chúng, ngày nay vẫn còn truyền tụng trong nhà Thiền.

Tại đây tôi không đi vào chi tiết các giáo lý kể trên, xin quí vị tìm đọc các sách biên khảo để biết rõ. Tôi thấy cuốn What the Buddha Taught của Ngài Rahula do Ni-Sư Trí-Hải dịch lấy tên là Tư-Tưởng Phật Học trình bày các giáo lý căn bản, rất có giá trị. Bộ Phật Học Phổ Thông của Hòa-Thượng Thiện-Hoa cũng rất lợi ích mà dễ hiểu. Thật không có một tôn giáo nào đã có một kho tàng Kinh, Luận, sách, vĩ đại như Phật Giáo, tha hồ cho các đệ tử và học giả tìm hiểu, nhận được biết bao ích lợi và vui thú trong đó. Nhưng có điều xin người đọc chớ có ôm chặt những kiến thức, chấp nó, mà bị nó trói buộc; cho rằng chỉ những điều mình thâu lượm được, mình phán đoán chấp nhận mới là Chân-Lý cố định, thì sẽ sai lầm hoặc chôn chân tại đó, không còn thể tiến xa hơn.

Kinh của Phật thuyết, Luận của Tổ nói, mỗi cuốn chỉ diễn tả một số khía cạnh của Sự-Thật, như hạt kim cương nhiều mặt, mỗi mặt cho thấy một màu sắc khác nhau mà màu sắc nào cũng đẹp, nhưng một màu sắc không thể là hạt kim cương mà cũng chẳng phải chẳng là hạt kim cương, tất cả các mặt đều qui vào một đỉnh. Lời Phật, lời Tổ còn không thể chấp huống chi những điều viết trong các sách của các tu sĩ, cư sĩ hay học giả, nhất là các vị không thực hành đúng đắn một pháp tu chân truyền hoặc chỉ nghiên cứu qua sách vở và suy đoán, đều là những người chưa hề đến Bồng-Lai, mới chỉ được nghe nói về Bồng-Lai rồi tưởng tượng nghĩ lường ra cảnh Bồng-Lai trong trí óc, theo cái trí khôn chật hẹp méo mó của phàm phu, để nay nói viết về Bồng-Lai.

Tôi đã từng đọc những bài viết, nghe những lời nói của tăng nhân, học giả nói sai ngược Phật Pháp, thật là độc hại. Tuy vậy, không phải là phủ nhận hoàn toàn giá trị các sách, có những tác phẩm ích lợi ít nhiều, nhưng không có sách nào hoàn toàn đúng, tất cả đều tương đối, chỉ xin thận trọng và tránh thái độ chấp trước, rồi trong tổng thể các điều đã đọc sẽ dệt lên một cái biết khá trong sáng.

Lại nữa, học Phật như dò đường trên bản đồ: từ Saigon đi Vũng-Tàu, theo xa lộ Biên-Hoà chạy đến Long-Bình thì phải quẹo mặt, cứ đứng trên xa lộ thì không thể đến biển Vũng-Tàu. Còn qua nhiều chỗ tẽ, nhiều thị tứ mà không nên rẽ vào, không nên dừng lại, cho đến đúng chỗ giáp biển mới ngưng. Người học Phật trên lý thuyết xin học hết các giáo lý căn bản mới có được một khái niệm tương đối đầy đủ về chỗ cứu cánh, nếu mới biết được một chút, một phần đã cho là đủ thì chắc chắn trong khi thực hành sẽ rơi vào ngã tẽ, nhất là gặp phải tà sư ngoại đạo mang bảng hiệu Phật nhưng dạy pháp ma, không những không được cái kết quả thật sự như Phật mong ước mà còn "nhận giặc làm con", uổng phí một cơ hội làm người, phụ trọng ân Phật. Kinh điển Đại-Thừa vừa giúp ta nhận ra các chỗ chấp trước để trừ bỏ và, quan trọng hơn cả, chỉ cho thấy mình có Tự Tâm, đây chính là Phật, lòng tin Tự Tâm là điều kiện cốt yếu cho việc thành tựu Phật Quả.

Tuy vậy, bấy nhiêu mới chỉ là cái biết suông bằng tri thức. Cái biết này chỉ có ích lợi thật sự nếu từ đó hạ thủ công phu, hiển lộ Tự Tánh ngay nơi tâm mình (Kiến Tánh), phát huy tất cả công đức, tất cả diệu dụng, nhưng sẽ có hại nếu khư khư ôm giữ làm cái vốn tri giải để luận bàn, tranh cãi, kinh gọi sở-tri chướng.

Cũng như dò đường xong, ta phải cất bước đi bằng đôi chân của chính mình đến tận mí nước Vũng-Tàu, lội xuống dầm mình trong nước biển mênh mông, trong suốt mát mẻ, tự do vũng vẫy, hưởng tất cả khoái lạc. Được rồi mới hay lời Phật, Tổ nói thật không gạt người. Đến đó không phải chỉ ngồi bên cạnh Phật, đến đó là làm Phật, Phật không riêng là Người Giác, khi nhập Pháp Thân, Phật là Tánh Giác bao trùm khắp không gian và thời gian. Đây là bản thể tuyệt đối siêu việt, người thế gian có đặt tên là Thượng-Đế hoặc Ngôi Vị gì cũng chỉ là danh từ, không gọi là gì càng đúng vì nơi đó lìa danh tướng, lìa ngôn thuyết, lìa tâm duyên, ngôn ngữ và trí óc con người không đến được. Nên nói "Ngôn ngữ đạo đoạn, Tâm hành xứ diệt".

Sau cùng, cũng không nên quên rằng còn có một yếu tố quyết định cho việc tu học là Thiện Tri-Thức. Đây, nếu không phải là một Vị Tổ-Sư đã kiến tánh thì cũng phải là Vị Thày đức lớn có chánh kiến, cái thấy biết đúng đắn và rốt ráo về Chánh Pháp, là Vị đã dày công hành trì và kinh nghiệm thực hành trong một dòng tu chân truyền đã sản xuất nhiều Thánh nhân. Người xưa nói "Thiện Tri-Thức một đời khó gặp", nên có khi đi bộ hàng trăm dặm, trải qua nhiều tháng, nhiều năm, chịu nhiều gian lao cực khổ, thời xưa nếu may mắn được gặp, còn bị đuổi, bị thử thách tam tứ phen mới được thâu nạp. Kinh Viên-Giác, phẩm Phổ-Giác Bồ-Tát, Phật nói: "- Thiện nam tử, chúng sanh đời mạt pháp, người muốn tu hành nên phát đại tâm cầu thiện tri-thức, tức là phải cầu người có chánh tri-kiến."

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn