Phần Ba

27 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 17380)


SỰ CỐNG HIẾN CỦA ĐẠO PHẬT

CHO CUỘC ĐỜI
Truyền Đan

Phần Ba

 

Con người tiếp nhận lợi ích của Đạo Phật ở nhiều mức độ khác nhau, tùy theo khả năng tiếp thu và nhân duyên của mỗi người. Kinh Pháp-Hoa nói như mưa lớn tưới đều xuống khắp mặt đất, cây to hút được nhiều nước, cây nhỏ chỉ nhận được ít phần. Cũng vậy, Phật Pháp bình đẳng nhưng chúng sinh căn trí đã khác nhau mà cơ duyên lại không đồng nên lợi ích thâu được kẻ nhiều người ít, còn có người đối diện mà không thấy.

Từ trên 25 thế kỷ nay, Đạo Phật khởi nguyên từ Bắc Ấn, phát triển gần khắp Ấn-Độ, Nepal, Sikkim, Butan, A-Phú-Hãn và Tây-Tạng, rồi truyền qua hầu hết các nước đông và nam Á-Châu. Đến đâu Phật Giáo cũng ảnh hưởng sâu rộng từ vua quan đến quần chúng, giới trí thức hâm mộ nghĩa lý cao siêu, nhiều người gia nhập giáo đoàn tăng lữ để thực hành tu tập, hạng bình dân thì thấm nhuần luật nhân quả, luân hồi, nên mọi người đều lo vun bồi đạo đức, tạo lập phước lành để đời sau được hưởng. Cho đến nay, tác dụng này đã ăn sâu vào tâm hồn mọi người, dầu cho từ hơn hai thế kỷ nay một số dân chúng tuy cải giáo theo tây phương nhưng vẫn tin ở nhân quả.

"Làm lành, lánh dữ, lóng tâm thanh tịnh" là pháp tu căn bản phổ biến nhất, thích hạp với mọi lớp Phật tử, nhất là hàng tại gia vừa muốn tạo phước vừa tập cho tâm ý được bình an, giải tỏa các căng thẳng hàng ngày. Với người xuất gia thì các chữ: lành, dữ, thanh tịnh, còn có nghĩa sâu hơn nên vẫn được chú trọng trong việc tu tập. Như vậy ảnh hưởng tích cực kể trên của Phật Giáo đã giúp cho người dân Á-Châu được sống an vui trong một niềm tin vững chắc ở tương lai và các xã hội tại đó thêm phần tốt đẹp.

Luật nhân quả là một trong những cột trụ của Phật Giáo vì nó liên thuộc Pháp-Giới Tánh, tánh trùng trùng duyên khởi, tác dụng cùng khắp thế gian và xuất thế gian. Trong lịch sử Thiền-Tông, công án Bách-Trượng kể chuyện một cao tăng vì bác không nhân quả, "Bậc đại tu hành không lạc nhân quả", mà bị đọa làm thân chồn, qua 500 kiếp sau gặp Tổ cho một chuyển ngữ, "Bất muội nhân quả", mới được ra khỏi thân thú vật. Người phàm phu tạo nghiệp, khi tu thành Phật, nhân trước vẫn còn. Thành Phật cũng không thể thay đổi nhân quả cho mình và cho người khác. Kinh kể chuyện Thích-Ca Như-Lai đau đầu ba ngày vì khi còn là cậu bé đã gõ đầu cá ba cái.

Lại còn chuyện Phật phải ăn mã mạch, chuyện dòng họ Thích-Ca bị dòng họ Lưu-Ly tàn sát, đệ nhất thần thông Mục-Kiền-Liên bỏ 500 người dòng Thích-Ca vào trong bình bát rồi đưa lên không trung để tránh bị giết hại mà rốt cuộc cũng thành bát máu. Luật này thường được nói ra như sau: "Như thị nhân như thị quả" (Kinh Pháp-Hoa), có nhân ắt có quả, nhân nào quả nấy, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, trồng dưa không thể được đậu, không trồng không được. Bây giờ có người dạy cầu điều này, cầu điều nọ hoặc làm cái này làm cái khác thì được tài lợi hay khỏi ách nạn, đây không phải là Phật Pháp vì nhân quả là tuyệt đối, không gieo nhân mà cầu quả là điều vô lý, nhân đã gieo xuống mà muốn tránh quả là chuyện không tưởng. Nhân thiện thì đem phước quả, nhân ác thì tạo họa báo, thiện ác không thể bù trừ cho nhau. Cái gì là nhân? Nghiệp là nhân, chữ "nghiệp" này xin giải thích trong một đoạn sau.

Có điều xin chú ý là nhân cần đủ duyên mới kết quả, có nhân kết quả trong cùng một kiếp, có nhân phải chờ một, nhiều hoặc rất nhiều kiếp sau mới kết quả, nhưng có nhân ắt có quả tương xứng. chỉ người chứng ngộ thành Phật, đủ thần thông diệu dụng, thấy hết quá khứ vị lai mới thấy hết nhân quả. Nên người thế gian tuy chưa thấy hết luật này nhưng vẫn phải tin và lo nhân quả. Mình tin nhân quả, khuyên người tin nhân quả, phước báu vô lượng.

Khai thị luật nhân quả và dạy người tin hành theo nhân quả là sự cống hiến to lớn đầu tiên của Đạo Phật cho nhân loại. Luật này cũng chứng minh sự làm chủ của con người đối với suốt quá khứ, hiện tại, vị lai của mình; hạnh phúc và đau khổ là do chính mình quyết định, không phải là thưởng phạt từ một thần thánh nào hết. Chớ lo về cái khổ hiện tại, ta không thể thay đổi vì là quả của nhân quá khứ, hãy công bằng mà chấp nhận, sòng phẳng trả hết nợ cũ, hãy lo cho cái quả tương lai bằng cách gieo trồng nhân lành hiện tại, đó là khôn ngoan, "Bồ-Tát lo nhân, phàm phu sợ quả", người tu muốn sớm trả quả, trả mau cho chóng hết.
 

Lý luân hồi khởi nguyên từ Ấn-Giáo, Phật cũng chứng ngộ lý này, đem dạy lại đệ tử. Chết chẳng phải là hết, chúng ta luân lưu từ vô lượng kiếp trước đến vô lượng kiếp sau, trồi lên hụp xuống trong sáu đạo. Ngày nay sách vở đông tây cũng ghi chép về nhiều trường hợp người kiếp này còn nhớ rõ những chi tiết của đời sống kiếp trước. Tôn giáo tây phương vốn không chấp nhận luân hồi, nhưng ngày nay đứng trước sự thật hiển nhiên này, đành giải thích: "Đó là cơ hội do Chúa ban cho con người để tự hoàn thiện". Tái sanh do nghiệp lực (Kinh Lăng-Nghiêm), do tái sanh mà nhân quả không mất. Biết rõ lý nhân quả và luân hồi thì đứng trước cái chết ta vẫn bình tâm, không sợ hãi vì biết trước nơi về.

Nếu quá khứ tạo thiện thì nơi về hẳn sướng, nếu vừa qua làm ác thì sau này sẽ công bằng sòng phẳng trả quả, kiếp sau sẽ thay đổi. Đời người như một đường thẳng kéo dài từ vô cực âm đến vô cực dương, chia ra làm nhiều khúc dài ngắn tiếp liền nhau, mỗi kiếp là một khúc, chấm hết khúc này là khởi đầu khúc kia, như người đi đường xa gặp sông qua đò, đến bờ lại đi. Chết là hiện tượng tự nhiên, là một đổi mới, chẳng có gì đáng sợ hãi. Người già kiệt sức, người bệnh nan y không thể chữa lành thì bỏ thân này sẽ lấy thân mới có thể còn sướng hơn, chẳng cần lo lắng, lo lắng cũng không được. Trước đây, chúng tôi có người bạn đạo bị ung thư sắp chết, Thày chúng tôi được mời tới, đã khai thị về điều không sợ chết như sau: "Muốn không sợ chết chỉ cần không tránh cái chết, hãy sẵn sàng chết bất cứ lúc nào". Nếu thật có điều đáng quan tâm thì chỉ là lo sao bứt ra khỏi cái vòng sống chết luân hồi, chấm dứt vĩnh viễn mọi đau khổ, ưu phiền, đó mới là chí nguyện của bậc trượng phu.

Cho rằng chết là điều đáng sợ thì nên làm sao cho "khỏi phải chêt". Sự tồn tại vĩnh viễn, bất diệt chỉ có ở nơi "không còn có sống chết", Đạo Phật gọi là "thoát vòng sanh tử". Đức Phật muốn chúng ta thực hiện mục tiêu này, chớ không nên đến với Đạo chỉ để lễ lạy cần an, cầu phước hoặc được an tâm một thời gian, vẫn luẩn quẩn trong sanh tử luân hồi. Cho đến cảnh giới tịch lặng của thiền định cũng vẫn ở trong sanh tử, vì còn có xuất, có nhập. Nếu Đạo Phật có "đi vào cuộc đời" như có người đề xướng thì cũng nên nhằm mục đích giải thoát này, còn như nếu chỉ cho cuộc đời uống thuốc an thần, trấn thống, tác dụng xoa dịu tạm bợ hoặc tô điểm che dấu vết đau, kéo dài mạng sống để cũng tiếp tục tạo nghiệp và chiêu quả báo, lên cõi thiên xuống súc vật, làm người làm quỉ, thì giá trị của cái "đạo đi vào" đó chẳng có là bao.

Mà thực ra thì Đạo Phật vẫn "là" cuộc đời tự bao giờ, chỉ do vọng kiến nên ta không biết, tưởng như Đạo ở ngoài đời, Tổ-Sư nói "Hồi đầu thị ngạn" (chỉ cần quay đầu lại thì ngay chỗ đứng này đã là bờ). Cho nên câu "Đạo Phật đi vào cuộc đời" dễ sanh hiểu lầm vì Đạo Phật vẫn là bản thể của cuộc đời tự bổn lai, không có đời thì đâu có đạo, đạo với đời không là hai, dàu ta chưa thấy là một. Nhưng đạo ở trong đời là để chuyển hóa cuộc đời, để giúp cuộc đời tự giải thoát, thành tựu tự do tự tại, hạnh phúc chân thật và vĩnh viễn, hoàn toàn không phải để chạy theo cuộc đời cho "đời-hóa" đạo mà cũng không có chủ ý nắm lấy thế gian làm của riêng tư.

Trong đời sống, con người nếu tạo được nhiều phước đức, ắt được hưởng vinh hoa phú quí về sau. Nhưng sự sung mãn về sức khoẻ, tài sản, danh vọng, quyền thế ở kiếp sau cũng lại là môi trường kích thích cho sự gia tăng tham vọng thủ đắc và hưởng thụ và từ đó con người lại càng dễ tạo thêm nhiều nghiệp ác để dẫn tới những quả báo đau khổ sau này. Ngoài ra, dù kiếp sau có nhờ phước đức mà được đầu thai vào nơi sung sướng thì cũng vẫn mang thân người, kéo dài sinh tử.

Làm ông Hoàng bà Chúa, làm triệu phú tỷ phú, cũng không thoát khỏi: cái khổ của sanh lão bệnh tử, sự đau đớn thân xác do các thiên tai như núi lửa, động đất, bão lụt gây nên, do các tai hoạ như chiến tranh, thù hận từ người khác đưa đến, ấy là chưa nói đến những bực tức, hờn giận trong tâm khi cái ngã bị thương tổn, những lo sợ khi bị đe dọa, những tiếc nhớ vì mất mát v.v... Vì phước đức vốn không cứu được con người tức là không giải quyết được cái khổ của sanh tử luân hồi, cho nên Đạo Phật khuyến khích con người tu phước là cốt để sửa soạn và trợ duyên cho việc tu huệ trong sự nghiệp xuất thế gian, khởi sự ngay trong kiếp này, nếu lần lữa tới kiếp sau biết có còn nhân duyên gặp được Chánh Pháp hay chăng.

Con đường xuất thế gian xuất phát từ việc Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, đó là khởi lên lòng khao khát, chí nguyện mạnh mẽ thực hiện giải thoát cứu cánh, kiến tánh thành Phật. Người đi con đường Đạo Phật, tại gia cũng được, xuất gia cũng được, quan trọng là tâm nguyện thiết tha, lâu dài và ý chí kiên cố thực hành đến nơi, giải quyết xong việc lớn sanh tử, ý niệm này chẳng có một phút lơi lỏng, không có một mối quan tâm thứ hai, Tổ-Sư nói "Chưa ngộ như đưa ma mẹ", cấp thiết vậy đó.

Nếu được xuất gia thì phải ở trong chúng, nơi tu viện, tòng lâm mà tu hành, có giới luật, có qui củ giữ gìn không bị buông lung, có Thiện Tri-Thức ở bên hàng ngày hướng dẫn, cảnh sách. Tu hành là có tu tập thực hành liên tục để thực hiện giác ngộ, chẳng phải chỉ ở trên danh tướng suông. Nếu ham có chùa riêng, ham được cung kính cúng dường, ham tiếng dạy đời, thì chỉ tăng trưởng ngã chấp, thêm nhiều tham vọng, chạy theo thế tục

Giới như bộ xương giữ cho xác thịt khỏi đổ, giới luật do Phật, Tổ chế ra đến nay chưa hề có điều nào lạc hậu, vì văn minh vật chất càng tiến thì tâm hạnh con người càng lùi, nên tất cả mọi giới, nhất là những giới trọng, đều vẫn cần thiết. Có người tu đời nay, chính vì tập khí sâu nặng, rồi bị ảnh hưởng trầm trọng bởi cảnh sống vật chất xung quanh, tâm lực hèn yếu, lại so bì với tu sĩ tôn giáo khác, tự ý sửa đổi giới Phật để phá giới khỏi tội, đã không hổ thẹn lại còn tự cho là thức thời, hành động như vậy chỉ chiêu quả địa ngục, làm cho tuyệt đại đa số tu-sĩ chân chánh phải ngậm ngùi thương sót.

Giới có giới trọng, giới khinh. Trọng giới gồm: Sát, Đạo, Dâm, Vọng, Tửu là những điều cấm căn bản có giá trị muôn đời, đệ tử Phật ở mọi cấp bắt buộc phải theo, không thể sửa được. Nếu muốn sửa đổi giới khinh cho phù hợp với hoàn cảnh đương thời thì thẩm quyền đó cũng thuộc một Hội Đồng Tăng Già Cao cấp thảo luận cứu xét và quyết định, một vài cá nhân, dù là cao tăng nhưng chưa kiến tánh cũng không thể tự ý thay đổi giới luật.

Nội các trọng tội, dù âm thầm hay bộc lộ, có lẽ dâm dục đã gây nhiều bất ổn nhất trong tâm người tu sĩ. Trong thế kỷ 20, có phong trào tân tăng lấy vợ xuất hiện tại Nhật, sau lan qua Triều-Tiên. Hồi đầu thập niên 60, một vị tăng Việt-Nam, nay là thiền sư đạo thức tỉnh tại Pháp, viết sách khởi xướng ý tưởng này tại Saigon và còn khuyên Tăng Ni nên lấy lẫn nhau, lồng trong một chủ trương cải đổi qui chế giáo sĩ Phật-Giáo. Tuy không được Giáo-Hội và đa số tăng ni chấp nhận nhưng ông vẫn tự áp dụng cho chính mình và lập ra một bộ phái riêng ở ngoại quốc.

Khoảng năm 1970, tôi được một vị cao tăng đã từng du học Nhật trở về cho biết rằng tân tăng lấy vợ tại Nhật chỉ là một số, họ không được Giáo-Hội và đa số dân chúng tán thành. Bị trục xuất khỏi chùa, những ông tân tăng có vợ này dựng những căn nhà nhỏ sau chùa sinh sống riêng biệt giống như trại gia đình binh sĩ, có ông để tóc dài, y nạp cải lại tới mức trông không khác người tại gia là bao. Cuốn The Zen Monastic Experience của Robert E. Buswell Jr., một ông tăng người Mỹ tu học Tổ-Sư Thiền 5 năm tại một thiền viện miền núi Koréa, cũng cho biết rằng phong trào tân tăng lấy vợ, dù lúc đầu được sự khuyến khích mạnh mẽ của chính quyền cai trị Nhật Bản, vẫn không tạo được ảnh hưởng bao nhiêu và vẫn bị chống đối trên đất Hàn.

Từ xưa, người xuất gia tu hành nhằm kiến tánh thành Phật đều cố gắng nghiêm trì giới luật, nhất là giới dâm. Một số rất rất ít, vì tập khí mạnh mà không giữ nổi thì hoặc xả giới ra lập gia đình hoặc lén lút phá giới. Người công khai phá giới không chịu xả bây giờ mới có, họ lý luận như phàm nhân rằng dâm dục là bản năng tự nhiên của con người, không nên dồn ép tránh né đi ngược lại tự nhiên. Tất nhiên lý luận này đúng, nhưng chỉ đúng với thế gian, còn với Phật Pháp là đạo xuất thế gian thì không thể đúng được. Tại sao?

Trước hết, Phật Pháp là pháp tự lực giải thoát, giải thoát triệt để và vĩnh viễn cái sai lầm nó là căn nguyên của mọi khổ mà dâm dục, sinh lý và tâm lý, lại là sự trói buộc chặt chẽ nhất; nó cũng kéo dài cùng là tạo thêm sanh tử luân hồi. Dâm dục là bản năng, đúng, nhưng theo Phật Pháp, bản năng chính là cái khối to lớn và nặng chịch của những tập khí sai lầm dựa trên những chấp trước tự ngàn xưa kết lại và tiếp tục lớn mạnh hơn, mà con người tu giải thoát quyết liệt phải đập vỡ trên đường thành tựu Phật Quả.

Thứ hai, Đạo Phật là đạo trí huệ, đạo của cái thấy biết sáng suốt "như thật", trong khi dâm dục lại làm mờ ám tâm trí rất nhiều, kinh nghiệm này ai cũng đã trải qua. Ngoài ra, cũng còn có những lý do kém quan trọng hơn, tất cả những duyên cớ ấy cùng chứng minh rằng người xuất gia tu giải thoát hoàn toàn không thể hành dâm dục, chỉ có cư sĩ mới được chánh dâm.

Tuy nhiên, Đức Phật rất thấu hiểu nỗi khó khăn này của người tu sĩ. Dù họ được sự nâng đỡ giữ gìn của giới luật nhưng có người bản chất còn yếu đuối có lúc không khắc phục nổi tập khí gặp thuận duyên nổi lên mạnh mẽ nên nạn nhân dễ bị áp đảo rồi ngã quị. Do tâm từ bi thương sót, Phật mở cho họ lối thoát là được chánh thức xả bỏ giới luật, trở lại thế gian lập gia đình như cư sĩ để tu tại gia rồi khi đủ nhân duyên lại tái xuất gia. Đã có nhiều tăng sĩ ở vào trường hợp này (xả giới rồi mới lấy vợ). Đó là cách giải quyết thích hạp và có phẩm cách, tất nhiên con đường thực hiện giải thoát sẽ dài hơn. Nhưng nếu con người còn ngoan cố muốn vừa giữ hình tướng tăng sĩ để thọ nhận cung kính và cúng dường của người tín thí, vừa được sống phóng túng trong phòng the của thế gian thì còn gì để nói nữa. Cố tình vi phạm thánh giới, lừa mình gạt người, kết quả sao tránh khỏi địa ngục, đáng thương sót lắm thay.

Đường lối tu hành có tiệm có đốn, đốn tiệm là do căn cơ, chẳng phải nơi pháp. Tu hành là thực hành việc chuyển đổi tâm linh, nhắm đến, thành đạt chứng ngộ, chẳng phải là chỉ làm nghi lễ lăng xăng, vái lạy cầu xin cho đến tụng đọc lia lịa mà chẳng chú tâm, chẳng hiểu ý nghĩa và cũng chẳng thật hành lời dạy trong Kinh. Tất cả các pháp tu chân truyền đến nay đều do Phật và chư Tổ triệt chứng lập ra và truyền dạy. Các Ngài là Đại Y-Vương, là người mắt sáng làm thuốc công hiệu trị hết bệnh mê lầm cho thế gian, xin người tu đời nay hãy tìm học đến nơi, được dùng thuốc thật, chớ nên chạy theo phát minh của mấy ông thày tân thời, học nói hoa mỹ, biết không đến nơi, hành theo ý riêng, chỉ làm thuốc giả; chính người làm bán thuốc còn mù (phàm phu chưa ngộ), làm sao trị cho người khác được sáng mắt (Thiền Tông nói "mắt sáng" để chỉ người đã giác ngộ).
 

-----===-----


Phật-Pháp được truyền vào Việt-Nam theo hai đường: Bắc-Tông từ Trung-Quốc xuống, Nam-Tông từ Thái-Lan và Căm-Bốt qua. Nam-Tông, chủ yếu là Phật-Giáo Nguyên-Thủy, đến miền Nam Việt-Nam sau nên không phát triển được nhiều. Hiện nay tại Saigon và một số tỉnh miền nam, nơi có những cộng đồng người Căm-bốt, đã có nhiều chùa Theravada lớn đẹp với khá đông tăng-sĩ. Về chùa Nguyên-Thủy Việt-Nam tôi biết có chùa Phật-Bảo trên đường Lạc-Long-Quân quận Tân-Bình là một ngôi tự viện khá lớn đẹp, có bảo tháp thờ Xá-Lợi Phật, có đông tăng ni tu tập, giới hạnh trang nghiêm, Ngài Giới-Hiền là vị cao tăng danh tiếng ở đây, nay đã tịch.
 

Phật-Giáo Bắc-Tông du nhập Việt-Nam rất sớm, từ đầu kỷ nguyên này, là phần chánh yếu, gồm 10 tông phái chia làm 3 nhóm:

Phật-Giáo Bắc-Tông du nhập Việt-Nam rất sớm, từ đầu kỷ nguyên này, là phần chánh yếu, gồm 10 tông phái chia làm 3 nhóm:

- Tiểu-Thừa có:  
- Câu-Xá Tông
- Thành-Thật Tông

- Đại-Thừa có: 

- Giáo Môn gồm 4 tông:  

- Thiên-Thai Tông, y cứ Kinh Pháp-Hoa 

- Hiền-Thủ Tông, y cứ Kinh Hoa-Nghiêm 

- Pháp-Tướng Tông, y cứ Duy-Thức luận 

- Tam-Luận Tông, y cứ 3 bộ luận của Bồ-Tát Long-Thọ và Ngài Đề-Và 

 4 Tông phái đặc biệt:  

- Mật Tông 

- Luật Tông 

- Tịnh-Độ Tông 

- Thiền Tông

Phật-giáo Nhật-Bản có thêm 2 tông:  

 - Nhật-Liên Tông, cũng y cứ Kinh Pháp-Hoa 

 - Tịnh-Độ Chân Tông cũng niệm Phật A-Di-Đà
 

Cách thực hành tu tập của 10 tông phái trên đây gom lại trong 4 phương pháp:

- Quán tưởng: chú tâm quán sát sâu xa chi tiết một đề mục rút trong giáo lý.

- Trì chú : chú tâm đọc những câu chú gồm những chữ bí ẩn.

- Niệm Phật : chú tâm niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà.

- Tham thiền : chú tâm tham một công án hoặc một thoại đầu.

Các pháp này đều là chuyên tu, người hành giả cần phải thực hành chuyên chú một pháp môn duy nhất, đúng theo tông chỉ của pháp môn đó, mới có kết quả. Vì mỗi pháp có một tác dụng khác nhau, nếu đồng thời trì chú một chút, quán tưởng một chút, niệm Phật một chút, ngồi thiền tịnh tâm một chút thì chẳng thể vãng sanh hay giải thoát, đây gọi là tạp tu, cổ nhân nói như người qua sông hai chân đặt trên hai con thuyền. Còn như chỉ lễ lạy, cúng dường, cầu an, cầu siêu, tụng kinh suông thì cũng là việc tốt, tuy có chút phước đức nhưng chẳng phải là tu.

Ngoại trừ Mật-Tông và Thiền-Tông chuyên hành pháp tu riêng biệt, còn tất cả các tông khác đều thực hành quán tưởng. Riêng Tịnh-Độ vừa thực hành quán tưởng vừa niệm Phật, nhưng nay Tịnh-Độ chỉ niệm Phật, gần như không còn ai hành quán Vô-Lượng-Thọ.

Đề mục quán tưởng của các tông phái Tiểu-Thừa rất nhiều, khởi đầu là quán hơi thở vào hơi thở ra, có người vừa quán vừa tự kỷ ám thị, hoặc đếm hơi thở (sổ tức), khi công phu đã thuần thục, tâm đã tương đối an thì quán các đề mục trích trong giáo lý như: Tứ niệm xứ, Tứ vô lượng tâm, Tứ chánh cần, Thất giác chi, v.v... Khi hành giả ngồi tịch lặng, chú tâm quán sát sâu xa đề mục mà quên cả cảnh cả thân, đề mục đó tự nhiên dần dần ăn sâu vào tiềm thức. Ví dụ quán "Bi"(trong tứ vô lượng tâm), hành giả khởi tâm quán tưởng và đắm chìm sâu xa trong tình thương rộng lớn bình đẳng trải khắp, rồi quên cả năng sở. Hành động quán tưởng gây nên một ấn tượng rất sâu đậm trong tâm thức, dần dần chuyển đổi con người.

Các tông phái thuộc Giáo-Môn Đại-Thừa thì y kinh khởi quán, nghĩa là quán tưởng lời Phật dạy trong Kinh hay Luận mà tông phái mình y cứ, đi sâu vào ý nghĩa lời Kinh, chớ không phải chỉ tụng đọc suông, lấy số lượng làm công khóa. Ngoài ra Thiên-Thai tông còn thực hành Tam Chỉ Tam Quán. Ngài Trí Khải, một vị Tổ Thiên-Thai tông còn viết cuốn Lục diệu pháp môn phổ biến sáu phép quán riêng. Hiền-Thủ tông có phép Pháp-Giới Quán, quán về bốn pháp giới Phật thuyết trong Kinh Hoa-Nghiêm, Tịnh-Độ Tông có 16 đề mục để quán nói trong Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ.

Riêng ba tông Mật, Tịnh-Độ và Thiền có phương pháp hành trì riêng biệt, hoàn toàn không giống và cũng không thể pha trộn với nhau hoặc với bất cứ pháp nào khác.
 

Mật Tông là pháp môn chánh yếu thực hành tại Tây-Tạng, chú trọng việc trì những thần chú. Các thần chú được đọc lên liên tiếp, tâm đồng thời khởi niệm nhưng liền bị tắc nghẹn vì lời chú không có một ý nghĩa nào để hiểu được. Chính cái niệm bế tắc này hợp với niệm tưởng mạnh mẽ về oai thần của Phật, cảm giác của những ngón tay bắt ấn, trong một khung cảnh của chánh điện bập bùng trong ánh sáng hàng trăm ngọn đèn thắp bằng bơ sữa bò yak, cộng với âm thanh vang động ầm ỹ của những trống, phèng la đánh mạnh, những kèn đồng phát ra những tiếng khàn khàn kéo dài, khói nhang mù mịt, hương nhang thơm hắc, đã tác động đồng thời và mãnh liệt qua các giác quan vào tâm thức hành giả. Ngoài những thời khóa này, chư tăng còn có những buổi học kinh, tập định và lâu lâu lại tổ chức một thời kỳ luận đạo rất sôi nổi và hào hứng, kéo dài nhiều ngày.

Trên đây là quang cảnh trong tu viện, mà tu sĩ thì sống đa số thời gian trong tu viện, hết lễ nọ đến lễ kia. Ra đến ngoài thì thần chú cũng hiện diện khắp chốn: viết lên những mảnh vải giăng trên các sợi dây hay cột trên các cây gậy dài, để cho gió thổi chú lực bay đi khắp chốn, thanh tịnh cuộc đời ô nhiễm này, đục trên những hòn đá lớn nhỏ chồng chất thành vách cao, thành đống lớn sừng sững tồn tại giữa cảnh núi gió lạnh giá hoang vu. Như vậy chư tăng Tây-Tạng có một nếp tu tập rất tích cực trong tu viện, dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của vị Viện Trưởng, suốt ngày bận rộn với Đạo, nghiêm trì giới luật và qui củ, hoàn toàn xa hẳn tất cả những hưởng thụ và cám dỗ giác quan. Quí vị đó cũng nương theo tam tạng giáo điển, chú trọng tu Lục Ba-La-mật, hành đạo Bồ-Tát cứu độ chúng sanh và còn có những pháp tu thần bí truyền riêng.

Còn người dân Tây-Tạng thì kính tín Đức Phật vô cùng, người tây phương cho rằng họ là những người mộ đạo nhất thế giới. Họ được thấm nhuần sâu xa giáo lý Phật-Đà, cũng trì chú và thờ Phật tại tư gia, thường xuyên đông đảo đến tu viện chiêm bái và cúng dường. Hình ảnh những người dân nghèo rách rưới, trên đường đến chùa, không quản cực nhọc, mỗi bước lại sụp lạy sát đất, và lời của một phóng viên kể truyện một bà già đói hành khất bên đường được người ngoại quốc này cho một cái bánh mì nhỏ, ngay đó có một con chó đói chạy đến, bà ta đã không ngần ngại, thản nhiên bẻ nửa chiếc bánh chia cho con vật, những hình ảnh này đã làm nhiều người xúc động.

Mật-Tông cũng được truyền qua Trung-Quốc và Việt-Nam nhưng sự thực hành không được như ở Tâỵ-Tạng. Ngay lúc này tại Việt-Nam vẫn có một số nhỏ tu-sĩ và cư-sĩ đang thực hành Măt-Tông, tôi không rõ quí vị đó dụng công thế nào.
 

Tịnh-Độ là pháp tu phổ biến nhất tại các quốc gia theo Phật-Giáo Đại-Thừa miền Đông Á Châu như Trung-Quốc, Việt-Nam, Nhật-Bản, Đại-Hàn. Ngoại trừ Tịnh-Độ Chân tông do Đại sư Thân-Loan thành lập tại Nhật bản có một quan niệm và cách tu độc đáo riêng biệt (coi Tannisyo), còn toàn thể các hành giả khác ngày nay đều lấy việc niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, nguyện vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc làm bổn phận. Đến cõi này là đã ra khỏi tam giới, không còn bị luân hồi trong sáu đạo, ở đó có đầy đủ thuận duyên, nhất là không có giới tính nam nữ, để người đệ tử tu thẳng đến Phật-Quả không còn chướng ngại. Đây là "nguyện" vãng sanh, không phải "cầu" vãng sanh.

Nguyện là tích cực, nói lên một quyết định, một ý chí mạnh mẽ thực hành, khác với cầu là cầu xin từ nơi khác đến, là tiêu cực. Như tôi đã trình bày trên, Phật Pháp nếu cầu mà được, nghĩa là không gieo nhân mà được quả, thì luật nhân quả để cho ai? Chỉ do tâm nguyện của ta ứng với đại nguyện của Phật, ta có đi, Phật có đón, việc vãng sanh mới thành tựu. Dụng công, khởi đầu chỉ là niệm trong tâm, miệng có đọc cũng chỉ thì thầm không ra tiếng để cột tâm, nhưng sau rồi vì tâm ý quá buông lung nên phải đọc ra lời, có khi còn đọc to để cố gắng kìm tâm. Lần chuỗi cũng cốt để giúp chú tâm trì danh niệm Phật, chớ không có gì linh thiêng nơi chuỗi tràng cả, tín đồ nhiều tôn giáo khác cũng lần chuỗi khi đọc kinh.

Nhưng thực tế nhiều hành giả Tịnh-Độ lại chú trọng việc đếm chuỗi, lấy số chuỗi làm thành tích tu hành, như vậy ắt tâm không thể chuyên nhất niệm Phật, công phu sẽ kém hiệu lực, không thể về Tịnh-Độ, vì tâm đã bận đếm, theo dõi con số thì còn tâm nào để niệm, chúng ta đâu có hai tâm. Điều quan trọng là "niệm", niệm chỉ có thể hành nơi tâm, nếu chỉ miệng đọc danh hiệu Phật mà tâm không niệm nghĩa là không nhớ nghĩ đến Phật, không tưởng ra hình ảnh Ngài trong trí, không tin chắc ở Đại Nguyện của Phật tiếp độ cho ta, và nhất là ta không nguyện quyết định sẽ đi đến nước đó, thì chẳng phải là niệm Phật A-Di-Đà. Trong niệm phải đủ cả tưởng, tín, nguyện như vậy, người niệm Phật thuần thục tuy vẫn làm mọi việc nhưng chỉ im lìm suốt ngày, mải miết niệm trong đầu, chẳng thấy thốt nên lời nào. Trong tất cả các pháp tu của Đạo Phật, công phu cần phải chuyên nhất, miệt mài, Thiền Tông rất chú trọng điểm này, gọi là miên mật tức là liên tiếp không một kẽ hở.

Phật dạy pháp môn Tịnh-Độ để độ cho đại đa số chúng sanh thoát vòng sanh tử luân hồi một cách mau chóng. Đây là pháp đơn giản, chỉ cần tín tâm mạnh mẽ, hạnh chuyên cần, nguyện kiên cố, sự hiểu biết các giáo lý cao siêu của Phật Pháp đã không cần thiết mà còn có thể chướng ngại. Pháp này rất tôn rất quí, Phật truyền dạy trong các Kinh Di-Đà tiểu bổn, Kinh Vô-Lượng-Thọ và Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, người tu có thể đọc thêm A-Di-Đà Sớ Sao, Tịnh-Độ Thánh Hiền Lục (có 2 bản dịch ra Việt văn của các Ngài Trí-Tịnh và Thiền Tâm), Tịnh-Độ Thập Nghi Luận, Lá Thư Tịnh-Độ gồm những thư chỉ dẫn của Tổ Ấn-Quang, và gần đây có cuốn Niệm Phật Thập Yếu do Hoà-thượng Thích-Thiền-Tâm biên soạn rất hay và dễ hiểu, người tu Tịnh-Độ rất cần đọc và theo đó thực hành chuyên cần thì lúc lâm chung mới hy vọng được tiếp dẫn.

Trong Tịnh-Độ ta còn nghe nói "Thiền Tịnh song tu". Thiền đây không phải là Thiền-Tông (Thiền Đốn Ngộ hay Tổ-Sư Thiền), mà chỉ có thể là thiền quán Phật dạy trong Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, hoặc thiền định là cái định khi đã được vô niệm niệm rồi nhập Niệm-Phật-Tam-Muội. Vô niệm chẳng phải là không niệm mà là không khởi tưởng niệm, không biết mình đang niệm. Người đã nhập Niệm-Phật-Tam-Muội khi lâm chung đương nhiên vãng sanh Tịnh-Độ. Trong kinh có chữ "nhất tâm bất loạn" cũng chỉ cái định vừa kể.

Bình thường nghe nói nhất tâm bất loạn, ta cho là khó quá, không thể làm nổi. Xin hành giả Tịnh-Độ chớ nghĩ vậy mà thối lui, nếu khả năng con người không thể làm được thì Phật nói làm chi, phải biết quí vị chắc chắn làm được vì nhất tâm bất loạn không khó, chỉ khó không dám buông bỏ vạn duyên. Nếu được vạn duyên buông hết, buông cả cái tâm muốn lo đủ việc thế gian, muốn tạo phước, muốn học đạo, cho đến muốn hoằng pháp độ sanh ..., chỉ hướng tất cả thân tâm vào tín nguyện, thì còn tâm nào để loạn. Cái khó là chỉ muốn bước có một chân vào Tịnh-Độ, và chỉ trong thời khoá công phu mà thôi, ngoài ra vẫn giữ một chân kia ở đời này để nắm bắt đủ thứ, chẳng riêng người tại gia mà nhiều người xuất gia cũng như vậy.
 

Cuối cùng là Thiền-Tông, tôi nói đến tông này sau chót vì là pháp môn trực tiếp chỉ thẳng duy nhất, tối ưu tối thắng, đã giúp cho rất nhiều người, bất luận tăng tục, nam nữ, già trẻ, sang hèn, lợi độn, nếu tin được nổi, dụng công đúng cách và miên mật, thì sẽ ngộ đạo ngay trong một kiếp. Khác với các tông Giáo-Môn là Phật-Ngôn-Tông y cứ giáo điển, Thiền-tông là Phật-Tâm-Tông nên không thực hành theo giáo lý từ một kinh luận nào nhưng cái hành và chỗ đến vẫn ứng hợp với tất cả ý Phật nói trong các Kinh Đại-Thừa. Chỗ Thiền-Tông nhắm tới là thực hiện một cách trực tiếp và cụ thể hiện tượng "Ngộ", đó là sự chuyển biến đột ngột và triệt để, là sự lật ngược nền tảng tâm thức, biến ngay phàm phu thành Phật, đến chỗ Vô-Niệm, thực chứng cảnh giới tự giác thánh trí, cũng gọi tri-kiến Như-Lai.

Ngộ này là "chứng ngộ", như ăn một miếng bánh vào miệng biết hết hương vị, được hết bổ dưỡng, không phải "giải ngộ" là cái biết trên tri thức, dù có sâu rộng, cũng chỉ là tri giải, như người nhìn cái bánh trong hình ảnh. Chư Phật tam thế, cả Đức Thích-Ca Mâu-Ni cũng do chứng ngộ mà thành, tất cả các pháp môn do Phật dạy cũng nhắm đến kết quả rốt ráo là ngộ, có ngộ thì trọn vẹn và vĩnh viễn có tất cả, hoàn toàn giải thoát tất cả khổ, không còn tạo nghiệp mới, tuyệt đối tự do tự tại, được đủ Bi Trí, vô lượng công đức, hằng sa diệu dụng. Không ngộ thì dù có tu luyện được bao nhiêu phép lạ cũng chỉ cục bộ và nhất thời, còn trong sanh diệt, Tổ-Sư gọi "đồ trang sức giả". Ngộ là tấm vách ngăn giữa phàm và thánh, Lai-Quả Thiền-Sư nói tấm vách này chỉ mỏng như một tờ giấy. Riêng Thiền-Tông là pháp đốn tu đốn ngộ, trực tiếp và mau chóng đến thẳng Phật Quả, do đó mà phương châm của Thiền Tông là :

Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật
 

Nói về chữ "thiền", chúng ta biết rằng có nhiều thứ thiền. Khởi đầu là thiền của đạo Du-Già (Yoga) bên Ấn-Độ nay vẫn còn có người thực hành. Khi mới xuất gia, Phật cũng học thiền này, đã thực hành đến trình độ cùng tột, nhưng thấy không thực hiện được giải thoát cứu cánh nên Ngài lại bỏ. Các pháp quán tưởng tôi kể trên cũng gọi là thiền quán, ngồi tịch lặng để quán tưởng một đề mục. Trong các Kinh Lăng-Nghiêm, Viên- Giác, Phật có dạy ba pháp thiền: Sa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Tịnh-lự, riêng trong Viên- Giác, còn có sự phối hợp giữa ba pháp này thành 25 định luân. Trong Đại-thừa Khởi Tín Luận, Bồ-Tát Mã-Minh dạy pháp thiền chỉ-quán, và trong Phật Pháp còn có những pháp thiền khác nữa. Đấy là những pháp chân truyền của Đạo Phật.

Đến nay, có nhiều tôn giáo khác và nhiều cá nhân tu đạo (kể cả tu-sĩ Phật-giáo) cũng sáng chế ra những pháp thiền riêng theo kiến giải và ý riêng của mình, nhưng tất cả những pháp này chưa có một pháp nào thực hiện được hiện tượng ngộ như Thiền-Tông, nên nói thiền chung chung thì chẳng rõ được là thiền nào, dễ gây lẫn lộn.

Kinh Lăng-Già kể ra 4 loại thiền: Ngu Phu Sở Hành Thiền, Quán Sát Nghĩa Thiền, Phan Duyên Như Thật Thiền và Như Lai Thiền. Thiền-Sư Khuê-Phong Tông-Mật (Tông Hiền-Thủ), trong sách Nguồn Thiền, sắp thành 5 loại: Phàm Phu Thiền, Ngoại-Đạo Thiền, Tiểu-Thừa Thiền, Đại-Thừa Thiền và Tối Thượng Thừa Thiền. (Ghi chú: chữ "ngoại, ngoại đạo" do Phật-Giáo dùng chỉ có nghĩa là "ngoài", như ta nói ngoại kiều, ngoại quốc. Ngoại đạo là đạo ngoài Phật-Giáo, không có ý khác).

Thiền này (Thiền-Tông, Tổ-Sư Thiền, Tối Thượng-Thừa Thiền, Thiền Đốn Ngộ) được biết đến từ khi có nụ cười của Lão tăng Ma-Ha Ca-Diếp nơi Pháp-Hội Linh-Sơn. Vua trời Phạm-Thiên cúng dường Phật một nhánh hoa. Phật dơ nhánh hoa lên giữa đại chúng, mọi người ngơ ngác không hiểu ý gì, riêng Ca-Diếp nhìn Phật mỉm cười. Phật trao nhánh hoa cho Ca-Diếp, dạy rằng: "Chánh-Pháp Nhãn Tạng, Niết-Bàn Diệu Tâm, Thật-Tướng Vô-Tướng, nay ta trao cho ông, hãy giữ gìn và truyền cho hậu thế, chớ để mai một." 

Từ đó Ngài Ca-Diếp thành Sơ Tổ Thiền-tông, sau truyền cho Tôn-Giả A-Nan rồi lần lượt truyền đến Bồ-Đề Đạt Ma (thế kỷ thứ 5) là Tổ thứ 28. Tổ coi thiên văn biết đất Trung-Quốc là linh-địa, có người căn khí thượng thừa, bèn dong thuyền đến Quảng-Châu năm 520 tây lịch. Tuy được vua Lương Võ Đế mời vào triều hỏi pháp, nhưng thấy vua chấp nặng phước đức hữu vi nên Tổ qua đất Ngụy, đến dãy Tung-Sơn, ở trong hang núi Thiếu-Lâm 9 năm ngồi nhìn vách đá, từ đó Ngài là Sơ Tổ Thiền-Tông Đông độ. Sau y bát được truyền cho Nhị Tổ Huệ-Khả, Tam Tổ Tăng-Xán. Tổ Tăng-Xán có hai đệ-tử triệt ngộ: Ngài Đạo-Tín nhận y bát làm Tứ Tổ, Ngài Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi sang Việt-nam hoằng hoá, ngụ tại vùng Thuận-Thành tỉnh Bắc-Ninh, sau này nơi đó cất chùa Pháp-Vân, tức chùa Dâu, được tu bổ nhiều lần, còn tồn tại đến nay.

Tứ Tổ Đạo-Tín truyền cho Ngũ Tổ Hoàng-Nhẫn, rồi đến Lục Tổ Huệ-Năng là vị Tổ Thiền danh tiếng nhất. Trong đám đệ tử của Lục Tổ có 43 người khai ngộ, từ đó đạo phong Thiền-Tông mạnh mẽ truyền bá khắp Trung-Quốc, truyền qua đến những quốc gia lân cận như Triều-Tiên, Nhật-Bản, Việt-Nam, người theo học đã đông mà người ngộ cũng nhiều, riêng Ngài Mã-Tổ Đạo Nhất có đến 139 đệ tử ngộ đạo, trong đó các vị Bách-Trượng, Nam-Tuyền và Trí-Tạng đứng đầu. Đọc các sách cổ mới hay trong các Thiền-Viện, Tòng-Lâm thời xưa, thường có khoảng từ 500 đến 2000 tăng sĩ tu tập.

Phật-Giáo qua nhiều đại nạn tại Trung-Quốc (do kỳ thị của một số vua tôn sùng Khổng Giáo để cai trị) đã bị tổn hại rất nhiều, tu viện bị phá hủy, tăng sĩ buộc phải hoàn tục, duy có Thiền-Tông vì không chấp hình tướng, nghi lễ, không chùa không y cũng tu được nên nguồn đạo vẫn tuôn chảy không ngừng. Nhưng thịnh mãi rồi cũng có suy, thủy triều lên xuống là hiện tượng tự nhiên của vạn vật, đến nay dòng thiền không còn mạnh như xưa, nhất là sau những biến cố chính trị lớn gần đây.

Ngày nay, Nhật-Bản còn bảo tồn được một số thiền viện, tại Triều-Tiên, Việt-Nam, Hồng-Kông, Đài-Loan vẫn có những tăng ni cư-sĩ thực hành pháp môn này. Trong giờ phút tôi đang viết đây, giữa thành phố Saigon vẫn có bốn chùa có người Việt và người Hoa thường xuyên tu tập Tổ-Sư Thiền, nơi lớn nhất là chùa Từ-Ân mỗi tháng có tổ chức Thiền-Thất, nhân số đông đảo tăng tục tham thiền liên tiếp trong bảy ngày.

Trong những năm 1980, 81, 82, tại đây mỗi thiền thất có khoảng 400 tăng ni, cư-sĩ tham dự, dưới sự hướng dẫn của Hoà-Thượng Duy-Lực, thực hành pháp tham thoại đầu. Đầu năm 1983 đạo tràng bị giải tán, Thày bị quản thúc, đệ tử thất tán, một số phải đi tìm những chùa nhỏ ở xa "tu chui", được ít lâu lại bị phát giác và giải tán, chui miết đến sáu chùa, tới năm 1988 mới được tạm yên ở một chùa nhỏ.

Thiền Thất tại Từ-Ân được tái lập từ cuối 1992, đến nay sinh hoạt đã phục hồi gần được như trước (Cước chú: Từ giữa năm 1995, Thiền Thất Từ Ân lại bị nhà cầm quyền cấm chỉ cho tới nay vẫn chưa được mở lại). Trong bảy ngày đả thất, hành giả tham câu thoại đầu liên tục, lúc ăn trưa, lúc nghỉ, lúc đi về, lúc ở nhà sáng hôm sau đi đường đến thiền đường, lúc nào cũng ráng giữ công phu (công phu là tham câu thoại đầu có nghi tình, nếu chỉ niệm câu thoại thì không phải công phu). Tại các thiền đường thời xưa, theo sách chép, mỗi kỳ tham kéo dài từ 3 đến 10 thất (21 đến 70 ngày), tu-sĩ ở liền tại thiền-đường hay tòng lâm, qui củ rất nghiêm khắc, tham liên tục.

Nhờ công phu không gián đoạn như vậy, sức nghi liên tiếp lớn mạnh mới đưa hành giả đến ngộ. Người nào chưa ngộ thì trong ngày thường, lúc làm việc, lúc không làm việc, cũng ráng giữ công phu, chờ ngày đả thất lại tham mạnh mẽ. Chư tăng ni giới hạnh trang nghiêm, dụng công tinh tấn, luôn luôn là gương mẫu cho các cư-sĩ phấn khởi hành theo. Ta đứng ngoài nhìn vào thấy có vẻ khó, thực ra, việc thực hành với người có tín tâm và ý chí giải thoát mạnh mẽ, chỉ khó lúc đầu, về sau có trớn tự nó đưa đi, có khi công phu miên mật làm chủ hành giả, nghi tình mạnh, muốn ngưng không được, muốn nổi vọng niệm cũng không được. Có một đạo hữu đạp xích lô, anh vừa tham vừa kiếm sống, còn nhiều người hành nhiều nghề khác, từ dạy học, buôn bán, bác sĩ, thợ may, ngồi đường sửa bút bi v.v... phải tập vừa làm việc vừa tham, do chú tâm công phu việc làm lại có năng suất cao hơn.

Chư Tổ Thiền Việt-Nam, chánh yếu là dòng Trúc-Lâm Yên-Tử (thế kỷ 13), cho đến Tổ Liễu-Quán (tịch năm 1748) cũng đều do tham thoại đầu mà triệt ngộ (trong cuốn Thiền-Sư Việt-Nam do Hòa-Thượng Thanh-Từ sưu tập, có nhắc lại lời dạy của Nhị Tổ Pháp Loa rằng "Phải tham câu thoại đầu"). Chư Thiền-Sư Trung-quốc, dù thuộc dòng Lâm-Tế, Tào-Động, Vân-Môn hay Pháp-Nhãn, cũng đều thực hành tham thoại đầu (xin coi Tham Thiền Cảnh Ngữ của Tổ Bác-Sơn dòng Tào-Động, thế kỷ 16).

Vì Thiền-Tông là pháp thượng thừa, trực chỉ, thù thắng mà kỳ đặc, kết quả đã tạo nên rất nhiều Thánh nhân còn ghi trong sử sách (Bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và các sách Thiền tại Trung-Quốc, Việt-Nam, Nhật-Bản và Triều-Tiên), nên từ đầu thế kỷ này, danh tiếng đã lan truyền qua Âu Mỹ, đã có nhiều học giả, triết gia, nhà báo qua Trung-quốc và Nhật-Bản nghiên cứu. Có những vị đã học thông hán tự như các ông Allan Watt, Philip Kapleau để trực tiếp đọc chánh văn các pháp ngữ của chư Tổ, về viết ra nhiều sách. Cũng nên nhắc đến ba chục tác phẩm của Thiền-Sư D.T. Suzuki đã đóng góp phần lớn vào việc truyền bá Thiền Tông tại tây phương. Phong trào học và tu thiền của người Âu Mỹ nay vẫn còn tiếp tục.

Ngày nay quí vị muốn tìm hiểu Thiền-Tông, xin hãy tìm đọc căn bản là các bộ Luận và Ngữ-Lục của Chư Tổ Thiền Tông Trung-Hoa và Việt-Nam, Bộ Truyền Đăng Lục , những bản Hán văn dịch ra Việt ngữ đáng tin cạy. Có khá nhiều sách của các học giả tây phương giá trị tương đối vì chỉ là kết quả nghiên cứu. Bộ Thiền Luận 3 cuốn (riêng cuốn 2 nói về phép thực hành công án là hình thức tiên khởi của thoại đầu), cuốn Zen Doctrine of No Mind cùng với nhiều sách khác của Thiền-Sư D.T. Suzuki có nội dung súc tích, tuy nhiên nhiều Thiền-Gia Trung-Quốc và Việt-Nam lại không chấp nhận lời ông giải thích Phật Tánh và các công án của chư Tổ và cách thực hành tham của tu sĩ Nhật cũng không đúng hẳn đường lối xưa áp dụng tại Trung-Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. Có cuốn Zen and Western Thoughts của giáo sư Masao Abe phân tách và đối chiếu tư tưởng Phật-Giáo Thiền-Tông với các tư tưỏng triết học và tôn giáo tây phương.
 
 

-----===-----


Học thuyết của Đạo Phật như một bản đồ, chỉ cho ta con đường đi đến và phong cảnh chỗ đến. Được cái kiến thức đó cũng đã khá ích lợi vì có thể tự nhủ về thực chất của thân tâm ta và sự vật, do đó cố tránh những trói buộc, dịu bớt được đôi phần những dính mắc, ưu phiền. Nhưng Đạo Phật không chỉ là một học thuyết, Đạo Phật cốt yếu là một kinh nghiệm về Thực-Tại, là chính Thực-Tại, cho nên người học Phật cần thực hành để thực sự nếm trải cái mùi vị của Thực-Tại, hưởng thụ cụ thể những ích lợi khôn lường, chớ không nên chỉ ngắm nhìn hình ảnh và tưởng tượng, suy luận trong trí óc, vì Thực-Tại, tức Chân-Lý, không phải là sản phẩm suông của tri thức, do đó bản thân Chân-Lý cũng không có mặt trong tất cả những giáo ngôn và thánh thư, kể cả Kinh Phật, ở đấy chỉ có những lời dạy, hoặc nhiều lắm là một số ngôn ngữ diễn tả Chân-Lý.
 
Thường có người học Đạo, do đọc kinh sách biết được một số giáo lý Tiểu Thừa, Đại Thừa, tự cho là ngộ. Điều này không đúng vì lấy "tri" làm "giác". Cái biết từ văn tự để nhận định, từ thông minh suy luận, hoàn toàn không ăn nhằm gì với Giác-Ngộ. Mà còn phải toàn giác mới là Giác Ngộ, không có chuyện giác ngộ chút chút. Đến như ông Hubert Benoit, một nhà học Phật tây phương cũng còn biết rằng người ta không thể là Phật hơn, Phật kém được (Nguyên văn: "On ne peut pas être plus ou moins Bouddha").

Khéo ra thì được tăng trưởng tín tâm và nhẹ đi một số kiến chấp. Nhưng nếu chấp chặt vào những kiến thức khô chết tích tụ trong trí óc thì chỉ càng nặng sở tri, càng ngăn bít cửa ngộ. Còn như người tu lại ham dùng cái vốn hiểu biết ấy để khoe khoang, tranh cãi, dạy đời thì càng lầm lỗi. Tôi xin kể đại cương câu chuyện sau đây, đọc thấy trong Truyền Đăng Lục:

"Tăng Hương-Nghiêm Trí-Nhàn với Ngài Qui-Sơn Linh-Hựu xưa cùng theo học Tổ Bách-Trượng. Qui-Sơn triệt ngộ, được Tổ truyền Tổ Vị kế thừa. Còn Hương-Nghiêm tuy đọc rất nhiều, sở học rất rộng mà không được gì. Sau khi Bách-Trượng viên tịch, Hương Nghiêm đến Qui-Sơn xin chỉ cho biết về chỗ lãnh hội. Qui-Sơn nói:

- Hồi còn Tiên-Sư, ngươi hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp một trăm, có biết đâu cái thông minh lanh lợi đó, ý hiểu thức tưởng chính là cội gốc của sanh tử luân hồi. Nay, khi cha mẹ chưa sanh, thử nói một câu.
Hương Nghiêm không đáp được, bực tức ra về, đem tất cả kinh sách đã học xưa nay ra khảo lại một lượt mà không tìm ra câu trả lời, than rằng: Bánh vẽ chẳng thể no bụng.

Một thời gian sau, lại đến Qui-Sơn khẩn khoản xin nói cho biết. Qui-Sơn đáp:

- Cái ta biết là của ta, đâu có quan hệ đến ngươi, nếu hôm nay ta nói ra thì sau này ắt ngươi sẽ chửi ta.

Hương-Nghiêm buồn rầu về chùa cũ của quốc sư Huệ-Trung (đệ tử Lục Tổ), trong tâm cứ nghi câu hỏi của Qui-Sơn. Một hôm quét sân làm văng hòn sỏi bắn vào gốc tre kêu "cách!" hoát nhiên đại ngộ. Ông vào đắp y rồi ra hướng về núi Qui đảnh lễ tạ ơn:

- Hòa-thượng thương con như cha mẹ, nếu ngày đó Hòa-thượng nói ra thì con đâu được có ngày nay. "

Người tu đã vậy, huống là người đứng ngoài chỉ tìm hiểu trên văn tự để nhận biết, suy lường, phê phán, đánh giá, tranh luận, so sánh Đạo Phật thì làm sao có được kết quả xác đáng, đúng đắn được. Đạo Phật là một kinh nghiệm tâm linh sống động, không thể nắm bắt bằng ý thức, không thực hành đến nơi thì không thể biết, các Kinh, Luận có khi còn có lời trái nhau, nhưng nghĩa lại đồng (trường hợp tăng Hành-Xương hỏi đạo trong Pháp Bảo Đàn Kinh), còn như nếu chỉ biết Đạo Phật trên những lời dạy luân lý trong Nhân Thừa và Thiên Thừa thì quá hạn hẹp, ngay một chữ Từ Bi đâu có cùng nghĩa với các chữ Nhân, chữ Bác ái.

Luận Đại-Thừa Khởi Tín nói "Ly danh tự tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng" là vậy. Hòa-Thượng Duy-Lực cũng luôn cảnh giác môn đồ rằng: "Lời của Phật, Tổ chỉ tạm dùng để phá chấp, chớ có chấp chặt những văn tự đó, coi như là một chân lý cố định, muốn biết Chân-Lý thì phải ngộ". Cũng để khuyên người đời chớ dùng ý-thức để hiểu đạo này, Phật thuyết trong Kinh Viên-Giác: "Thiện nam tử, theo cảnh giới sở chứng của hàng Thanh-Văn, thân tâm ngôn ngữ đều đã đoạn diệt, còn chẳng thể đến chỗ Niết-Bàn của tự mình chứng, huống là dùng tâm suy tư để đo lường cảnh giới viên giác của Như-Lai, ví như lấy lửa đom đóm để đốt núi Tu-Di, làm sao cháy được?"

Một số vị khác tập thiền, bằng cách này cách khác đã tịnh được tâm ý rồi trong tâm ấy thấy có chút chiếu soi, cho rằng mình ngộ. Cũng có những vị đột nhiên được cái không vô kí rất thanh tịnh thích thú bèn ham thích miệt mài, có biết đâu rằng mình vẫn còn trong vòng ý thức. Những trường hợp này đều là sai lầm. Thời xưa, thiền giả Trí Hoàng ngồi trong am tu định đã hơn 20 năm, tự cho đã nhập chánh định, sau nhờ gặp Sư Huyền-Sách (đệ tử Lục Tổ) chỉ cho mới biết là chưa được gì. Ngài Bác-Sơn có nhắc lời Tổ Huyền-Sa Sư-Bị: "Nhân giả, dẫu cho ông luyện được thân tâm đồng hư không đi nữa, dẫu cho ông đến chỗ tinh minh lóng lặng chẳng lay động, cũng chẳng ra ngoài thức ấm. Cổ nhân gọi nó như dòng nước chảy nhanh, người không biết lầm cho nó là yên lặng".

Lời này trùng hợp với câu Phật nói trong Kinh Lăng-Nghiêm: "Dẫu cho diệt hết tất cả kiến, văn, giác, tri, trong giữ u nhàn (= mênh mông tịch lặng) cũng còn là bóng phân biệt của pháp trần". Các vị Thanh-Văn nhập Diệt-tận-định cũng ở trong trường hợp Phật nói này. Còn như ngồi thiền thấy hiện cảnh giới lạ như bay bổng, ánh sáng, mây tỏa quanh người ... rồi chấp lấy, khởi tâm mừng rỡ, là đã lọt lưới ma. Ngũ ấm ma trong Kinh Lăng-Nghiêm kể ra đến 50 trường hợp ma còn kỳ lạ hơn rất nhiều, có cả cảnh thấy mình ngồi toà sen thuyết pháp như Phật vậy.

Những trường hợp ngộ kể trên là giả vì đều là những kết quả thâu được trên cái nền tảng tâm thức phàm phu hư hỏng chưa được chuyển đổi tận gốc này, trên đây ông có tạo tác được gì cũng đều là hư dối, còn trong sanh diệt. Như ta thường nói "xây lâu đài trên cát", mong gì tồn tại. Với Tổ-Sư Thiền, là phải xúc hết lớp cát này đổ đi, rồi trên nền đất chắc nịch mới cất nhà để ở. Vẫn Kinh Lăng-Nghiêm, Phật dạy A-Nan: "Những người tu hành chẳng được quả Vô-Thượng Bồ-đề, trở thành Thanh-Văn, Duyên-Giác, hoặc thành cõi trời ngoại đạo, thành ma vương và quyến thuộc ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dẫu cho trải qua nhiều kiếp cũng chẳng đắc đạo."

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là cuốn kinh đại-thừa được nhiều người tụng đọc nhất, được nhiều cao tăng, học giả diễn giải nhất, và có nhiều người cho là riêng việc đọc tụng cũng đã được nhiều phước đức, nhưng chính tông chỉ của kinh thì lại không mấy người am tường. Pháp Bảo Đàn Kinh kể chuyện một ông tăng xuất gia từ năm 7 tuổi, cho đến lớn chuyên tụng Kinh Pháp-Hoa, ông khoe với Lục Tổ đã tụng hết 3000 bộ kinh đó, khi Tổ hỏi tông chỉ của kinh lại không nói được. Tổ bảo đọc lên (vì Tổ không biết chữ), được ít trang, Tổ chỉ cho thấy tông chỉ nói ở đầu kinh là: "Chư Phật Thế Tôn vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trên đời, đó là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật-Tri-Kiến." - Khai là mở ra, thị là nhìn thấy, ngộ là biết rõ ràng, nhập là vào, hội nhập vào.

Cả câu có nghĩa là Phật ra đời chỉ để làm một việc duy nhất là dạy cho chúng sanh thực hiện được cái thấy biết (tri kiến) của Phật, nói rõ là chỉ cho họ con đường làm Phật, con đường tuyệt đối tự do tự tại. con đường giải thoát cứu cánh. Tại sao? Tại vì con người từ vô lượng kiếp đến nay vẫn chỉ u mê sống trong cái tri kiến chúng sanh, nó là cái thấy biết sai lầm, bệnh tật, tự trói buộc mình, đưa đến đủ thứ khỗ não, trong khi cái thấy biết của Phật thì sáng suốt lành mạnh, "như thị", nên xa lìa được tất cả đau khổ, triệt để và vĩnh viễn, nơi đó đại an lạc, đại giải thoát.

Nhưng, Phật-Tri-Kiến là gì ?

Xin thẳng thắn thưa rằng: Tôi không biết, vì tôi chưa đi tới chỗ này, chỉ những người tu đã kiến tánh thành Phật (= đã đắc đạo, đã chứng ngộ) mới có tri kiến Phật. Ngày xưa, có ai hỏi tri kiến Phật là bị Tổ cho ăn đòn, bị hét vào tai, v.v... (=những thủ đoạn), vị nào ôn hòa thì nói: "Chớ để người lừa gạt", hoặc rõ ràng hơn: "Không có tất cả tri kiến là tri kiến Phật."

Tôi chỉ xin trình bày sơ lược về tri kiến phàm phu là cái chúng ta đang có đây, may ra từ đó suy ra được ít phần về tri kiến Phật, nhưng có suy ra thì cũng không đúng thật đâu, xin đừng chấp.
Tri kiến là tướng dụng của Tâm. Người Phật tử thường nói đến chữ Tâm, Tu Tâm, cho cái hay biết này là tâm, và hiểu tu tâm là sửa đổi tâm ý cho an tịnh, hiền hoà, bớt bị tam độc (tham, sân, si) lôi cuốn, là biết thiện ác để làm lành lánh dữ. Vâng, cái đó là tâm, nhưng là tâm phàm phu, là vọng tâm, chẳng phải cái

Tâm Bổn Lai, vốn là Tâm Phật.

Tuy nhiên phàm tâm này cũng có mặt ích lợi, nhờ nó mà ta phân biệt được chánh tà, biết tu đạo, biết làm Phật, tức là biết chuyển đổi nó trở lại cái tướng dụng nguyên thủy của Bổn Tâm, nhưng cái phần hại của nó cũng vô cùng. Kinh Hoa-Nghiêm còn nói "Nhất thiết duy tâm tạo", tất cả mọi sự mọi vật đều do tâm mà có. Cụ Nguyễn Du có câu "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?" cũng là ý này. Tổ Vĩnh-Minh, nguyên là Thiền-Sư triệt ngộ sau qua hoằng Tịnh-Độ, nói: "Tâm hay làm Phật, hay làm chúng sanh, hay làm thiên đàng, hay làm địa ngục, hễ tâm có sai biệt thì muôn vàn cảnh giới sanh khởi, hễ tâm bình đẳng thì pháp giới trống rỗng, yên tịnh. "Bồ-tát Mã-Minh, trong Đại-Thừa Khởi Tín Luận cũng nói "Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy thức". Sơ lược như vậy, chứ một chữ Tâm không thể nói hết vì Tâm là cả Pháp-giới, mà tôi cũng không biết hết.

Kế đến là Thức, thức là công cụ để tri kiến, cũng là dụng của tâm, có khi người ta cũng gọi rộng nó là tâm (phàm tâm). Nơi phàm là thức, nơi thánh, thức đã được chuyển thành Trí-Huệ Bát-Nhã. Phật giáo có riêng một môn tâm lý học rất sâu rộng, gọi là Duy-Thức Học. Duy-Thức Học là đối tượng của Pháp-Tướng Tông nói ở trên, phân tích tâm lý con người ra đến 100 sự kiện, riêng cái thức này (sense) gồm tới 8 thành phần chứ không đơn giản như ta thấy. Đề mục này rất vi tế và phức tạp, bao gồm cả phàm lẫn thánh, cả sống lẫn chết, nơi đây tôi chỉ trình bày đại cương. Nôm na, thức là sự biết ngoại vật (ngũ tiền trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc) và đối tượng của tư tưởng (pháp trần) qua các giác quan và ý-thức. Trong Phật Pháp, chúng ta thường gặp chữ "Kiến, văn, giác, tri", đó chính là sự nhận biết thông thường bằng 5 giác quan hợp với tác dụng của ý-thức. Nhưng thay vì 5 thức liên quan với 5 giác quan, Phật Pháp nói tới 6 thức của 6 giác quan, đó là:
- Tiền ngũ thức: 5 thức đầu là nhãn thức gốc ở nhãn căn (mắt), nhĩ thức gốc ở nhĩ căn (tai), tỷ thức gốc ở tỷ căn ( mũi), thiệt thức gốc ở thiệt căn (lưỡi) và thân thức gốc ở thân căn (da).

- Ý-thức là thức thứ sáu, gốc ở ý căn là mạt-na.

- Mạt-na là thức thứ bảy, cũng là căn của ý-thức.

- A-lại-da là thức thứ tám.

Tám phần thức này, mỗi phần có tánh chất, đời sống và hoạt động riêng biệt, nhưng những hoạt động ấy liên kết chặt chẽ với nhau để tạo ra một tác dụng chung mà con người chỉ nhận ra được cái tác dụng chung ấy mà thôi. Để diễn tả một cách cụ thể tánh chất, hoạt động và sự liên kết của 8 phần thức, xin thí dụ như sau: - Khi ta nhìn một chiếc xe hơi, hình ảnh chiếc xe (là nhãn thức) được thần kinh thị giác đưa lên óc, nơi đây tức khắc ý-thức sáp vào, nó kiểm điểm các hình ảnh đã có trước còn tích trữ trong ký ức (thuộc a-lại-da), đối chiếu với tín hiệu vừa nhận, và nhận diện ra đó là "cái xe hơi". Sự kiện tâm lý này được cả Phật-Pháp và tâm-lý học tây phương gọi là tri-giác (reconnaissance, recognition).

Khi tri giác một sự vật thì sự vật đó đuợc mạt-na nhìn nhận ngay rằng nó có thực chất, nó có thật, nó hiện hữu và chuyển cái hình ảnh được xác nhận của sự vật ấy vào tồn trữ trong kho a-lại-da thức. A-lại-da cũng được gọi là tàng-thức, cái túi chứa, mặc cho mạt-na tự do xếp các chủng tử vào (chủng tử là các hình ảnh của sự vật, các cảm quan, các ý tưởng và các tánh chất thiện-ác của chúng) hoặc kéo chúng ra, vô tội vạ. Chỗ này ta thấy a-lại-da có phần tương tự như tiềm thức (subconscient) trong phân-tâm học của Freud, nhưng Carl Jung thì lại quan niệm tiềm thức sâu hơn (xin chớ lộn với Inconscient là danh từ mà triết gia tây phương dùng để gọi Vô-tâm hay Vô-niệm của Phật-Pháp).

Cũng vì a-lại-da chỉ là cái kho chứa vô tri nên nó vô trách nhiệm, kinh gọi là vô-kí tức là không có tánh thiện-ác. Sau này, nếu có cơ hội kích thích, ví dụ: một nhu cầu cần nhớ lại, thì hình ảnh cũ lại được mạt-na lấy từ a-lại-da chuyển lên bình diện của ý-thức, mặc nó mổ xẻ, uốn nắn. Do đó, mạt-na có hai nhiệm vụ: chấp ngã (nhân ngã và pháp ngã), tức là xác nhận cái thực chất, cái thực hữu của sự vật, và truyền tống, tức là chuyển vào, lấy ra. Duy-Thức Học vẫn gọi nó, mạt-na, là truyền-tống thức và tác dụng của nó là thầm thầm chấp ngã, vì nó hoạt động âm thầm chẳng ai biết ra được, không giống như hoạt động sôi nổi hiện lên bề mặt của 6 thức đầu.

Chưa hết, sau khi nhận ra cái xe hơi, ý-thức bắt đầu phân biệt chiếc xe là mới hay cũ, đẹp hay xấu v.v... nếu mới và đẹp thì khởi ưa thích, nếu cũ và xấu thì chê bỏ, từ chỗ này bắt đầu đắm nhiễm tình cảm, tâm thủ xả, óc lý luận. Nếu ưa mà lấy được hoặc ghét mà bỏ được thì vui, trái lại thì buồn. Ý-thức có hai cách khởi, ở đây gọi là ngũ-câu ý-thức tức là ý-thức khởi cùng với một trong năm ngũ-tiền-thức, cùng hoạt động. Còn khi ta ngồi nhớ lại việc gì, suy nghĩ, sáng tác một đề tài nào v.v... lúc đó ý-thức khởi và hoạt động một mình, gọi là độc-đầu ý-thức. Trong mỗi trường hợp, ý-thức đều tri-giác, phân-biệt và suy-luận, nó lanh lợi vô cùng, nếu không có hình ảnh (những tín hiệu do 5 giác quan chuyển lên óc) trước mặt, thì nó khơi lại, qua mạt-na, những hình ảnh cũ trong kho tàng a-lại-da làm đối tượng để phân biệt, phân tích, suy luận, chớ nó chẳng chịu ngồi yên.

Vì biết phân biệt và suy luận nên nó cũng là chủ của ý-muốn, tức ái-dục, là tham vọng muốn lấy vào, muốn bỏ đi, và chính nó tạo nghiệp. Đại-Sư Rahula nói trong What the Buddha Taught (bản dịch của Ni-Sư Trí-Hải): "Nghiệp chỉ có nghĩa là những hành động do ý muốn, không phải tất cả hành động". Đối với Đại Thừa, khởi lên một ý-tưởng cũng là hành động, là tạo nghiệp rồi, tuy thân thể chưa cử động. Kinh nói: "Tơ hào hệ niệm, Tam đồ nghiệp nhân." Người càng lớn, càng già, ý-thức càng bén nhạy, càng sắc sảo. Năm tiền-ngũ-thức có lúc làm việc, lúc nghỉ, chúng cũng vô-kí tức là không thiện-ác vì chúng chỉ khách quan thâu nhận hình ảnh và tự động chuyển các tín hiệu lên óc mà thôi.

Riêng ý-thức làm việc gần như không ngừng, nhiều khi cả trong giấc ngủ, tất cả thiện ác đều do nó tạo tác, nó làm việc nhiều nên càng có sức mạnh, khi thân xác đã ngưng nghỉ, 5 thức đầu cũng chết ngay cùng thân xác vì chúng không có trớn hoặc trớn rất yếu, riêng ý-thức còn trớn rất mạnh nên nó tồn tại thêm một thời gian, có thể từ nhiều ngày cho đến nhiều năm mới ngưng nghỉ hẳn.

Như ta biết ý-thức là chủ của sự hay biết, nên chúng ta, kể cả ông A-Nan trong Kinh Lăng-Nghiêm, lầm cho nó là Tâm. Cái thức này, cái chấp tâm phàm tâm này, như ta thấy, có ích lợi vì nhờ nó mà biết ra cái thân phận khổ não của con người rồi quyết chí đi ra, biết cách tu hành thực hiện Phật Quả, nhưng cái hại cũng vô cùng lớn lao vì bao nhiêu tội ác thế gian đều do nó mà có, cổ nhân đánh giá nó là "công vi thủ, tội vi khôi".

Trong cuộc sống hàng ngày, ta vẫn phải nhờ ý-thức để nhận biết sự vật. Vạn pháp sở dĩ có với ta là qua các thức, lục căn tiếp xúc lục trần sanh lục thức, do đó nói "vạn pháp duy thức". Căn và thức giữa con người thì giống nhau, chúng ta nhận thức sự vật thấy biết giống nhau vì cùng báo chướng, nhưng căn và thức giữa các giống vật, kể cả con người, đâu có giống nhau. Con voi, con người, con kiến cùng nhìn một cái xe đâu có thấy như nhau, vậy thì biết hình ảnh nào đúng với sự vật khách quan? - Đã không chắc đúng với sự vật khách quan mà trên hình ảnh đó còn khởi biết bao nhiêu tâm niệm phân biệt khác nhau, anh thấy cái xe đẹp, tôi cho là cái xe xấu, anh muốn giữ lại, tôi muốn bỏ đi, rồi còn từ đó suy diễn thêm. Rõ ràng là cái thấy biết của con người méo mó, quanh co biết chừng nào. Rồi từ cái thấy biết không đúng, sẽ suy luận, tác ý không đúng, sanh vui mừng buồn giận để đi đến nói năng hành động không đúng, từ đó ta đã gây ra biết bao nhiêu sai lầm, mâu thuẫn, xung đột, tội lỗi !

Theo hoạt động của ý-thức trình bày trên, ta thấy nó suốt ngày lăng xăng như con vượn chuyền từ cành nọ qua cây kia, chẳng chịu ở yên. Nó cũng như con ong bay lượn trên đồng vườn, đậu ở bông hoa này, bay qua bông hoa khác. Khởi đầu, con ong nhận ra một bông hoa, nó đậu vào, bám lấy, say sưa hút nhụy. Hệt như thế, ý-thức bắt đầu dừng lại trên một sự vật (một vật hay một ý-tưởng), đó là trụ . Rồi nó nhận biết, hay tri-giác sự vật đó, đồng thời mạt-na xác nhận thực chất hay thực hữu của nó, đây là "chấp thủ", tức là cầm nắm lấy.

Chấp này là căn bản sai lầm, không những chỉ chấp cái thực hữu (chấp ngã) của sự vật được tri giác mà chấp cả cái kết quả của phân biệt và suy luận sẽ nói dưới đây. Nhận ra cái gì, điều gì bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý-thức là chấp ngay cái đó, cho là thật có, thật đúng ... hoặc là thật không, thật sai ... Phật và chúng sanh khác nhau căn bản ở chỗ không chấp hay có chấp. Chính vì cái tật tai hại này của người học đạo mà Phật, Tổ vẫn e ngại mỗi khi phải nói ra lời dạy, vì ngại rằng nói có thì họ nắm lấy cho là thật có, nói không thì họ cho là thật không để rồi bị kẹt ngay vào cái có, cái không ấy, chứ không biết rằng các Ngài nói có là để phá chấp không, nói không là để phá chấp có, cả hai đều không được chấp. Do đó mà Phật Pháp bất nhị, không hai nhưng cũng không phải là một, chính ở cái thế ấy mà các Ngài tự do.

Cũng do đó mà trong các kinh đại-thừa liễu nghĩa Phật nói rồi lại xoá, trong Kinh Kim-Cang Phật nói thị, rồi dùng phi để phá thị, lại dùng giả danh để phá phi, mà giả danh cũng xóa luôn, đến không còn gì để xóa. Tại đây Phật cũng nói nhiều lời khác như: "Pháp còn phải bỏ huống là phi pháp", "Nếu người nào nói Như-Lai có thuyết pháp tức là phỉ báng Phật, chẳng hiểu lời nói của ta", "Suốt 49 năm Như-Lai không nói một câu". Ngài Tu-Bồ-Đề cũng nói: "Chẳng có pháp nhất định gọi là pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng chẳng có pháp nhất định cho Như-Lai thuyết. Tại sao? Vì pháp của Như-Lai thuyết đều chẳng thể chấp thật, chẳng thể nói là pháp, là phi pháp hay phi phi pháp ". Cũng vì vậy mà chư Tổ Thiền-Tông luôn luôn dùng các thủ đoạn ( đánh, hét, bóp cổ ... ) để tiếp dẫn hậu học, ít dùng lời, nhiều khi dùng lời vô lý, vô nghĩa.

Khi nhận ra một sự vật, chúng ta liền chấp lấy cái thực hữu của nó và khởi phân biệt về nó, thấy nó xấu-tốt, sạch-dơ ... Đã phân biệt là chấp ngay cái kết quả của phân biệt vừa nói, để rồi ở trên đó mà suy luận, nhận ra phải-trái, hơn-thua ... Rồi lại tức khắc chấp cái kết quả này của suy luận để khởi tâm yêu-ghét, lấy-bỏ ... , rồi thành công hoặc thất bại, vui mừng hoặc buồn rầu, biết ơn hoặc oán giận, trả công hoặc trả thù ...! Phân tích dài dòng thì như vậy, thật tế là ngay khi "trụ", tức thì "tri-giác", tức thì "chấp", rồi là "trước" (dính), là "phược" (trói buộc) liền, tất cả tiến trình diễn biến rất rất mau, ta không thể ở nửa đường mà ngưng lại được. Chúng sinh là như vậy! Người ác đã như vậy, mà người thiện cũng như vậy, kẹt hết ! - Chỉ thành Phật mới được hoàn toàn tự do.

Thói quen này đã có từ vô lượng kiếp (do đâu mà có? - xin coi Kinh Lăng-Nghiêm và Kinh Lăng-Già), nay đã thành tập khí sâu nặng trong tiềm thức, nó còn tồn tại vĩnh viễn đến vô lượng kiếp sau, mỗi ngày một nặng thêm, khả năng con người không thể tự sửa dần được.Tướng dụng của ý thức và mạt na trình bày trên, cộng với tất cả những tập khí sẵn có, chúng làm méo mó, hư hỏng cả nền tảng tâm thức con người, làm sai lệch cái thấy biết bổn lai của chúng ta, cho nên từ chỗ Không (sunyata), con người tạo ra tất cả có, tất cả phiền não, vậy phải làm thế nào? chẳng lẽ chịu? Câu hỏi hóc búa này xin tạm gác lại, hãy xét tiếp về tiến trình tâm lý.

Vậy có thể nói là tai nạn khởi đầu từ trụ. Đây là điểm khởi đầu của sự sa lầy, của mọi phiền não, chỉ có Đại-Thừa Phật-Giáo mới biết đến chỗ rất vi tế này, ngoài ra, con người chỉ kết tội tham vọng và tìm phương giảm trừ tham vọng, thực tế cho thấy phép điều trị đó chẳng có bao kết quả, nếu không nói là vô hiệu. Người mình có câu tục ngữ "Đánh rắn phải đánh dập đầu", ở đây cũng vậy, phải diệt trừ đau khổ từ gốc là trụ, lỡ trụ rồi thì lãnh đủ. Bình thường đã thế, cho đến việc bố-thí của Bồ-Tát cũng vậy, nên Kinh Kim-Cang Phật dạy: "Bồ-Tát ở nơi các pháp, ưng vô sở trụ mà hành bố thí, chẳng trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, bố thí".

Lại nói: "Chư Bồ-Tát Ma-Ha Tát nên sanh tâm trong sạch như thế, là chẳng nên khởi tâm trụ sắc, chẳng nên khởi tâm trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ", nên không có chỗ trụ mà sanh tâm, Tâm đây là cái trạng thái tâm linh tự nhiên tự có ở nơi vô trụ. Ông Huệ-Năng ốm đói nhờ sẵn căn cơ thượng thượng, nghe Ngũ Tổ Hoàng-Nhẫn nửa đêm giảng đến câu này hoát nhiên đại ngộ, nghĩa là nhập ngay vào, chứng ngay cái vô-trụ . Chỗ vô trụ này không những ở ngoài tất cả sai lầm, đau khổ, mà còn là nơi xuất sanh vô lượng công đức, hằng sa diệu dụng, là căn nguồn của tất cả mọi pháp, nên Kinh Duy-Ma-Cật nói: "Ở nơi vô trụ lập tất cả pháp". Ở đó có tuyệt đối tự do tự tại, siêu việt tất cả đối đãi nên cũng gọi bất nhị, chính là đất Phật, nơi sản sanh chư Phật, là Phật, là Thiền, là Đạo.

Ngài Duy-Lực giảng : "Vô trụ là thể, cũng là dụng của Tâm. Ví dụ như một bàn tay, bàn tay đó nếu không nắm lại, nếu không cầm một vật gì, thì được hoạt bát vạn năng (nghĩa là được cái tự do, linh động, có khả năng làm đủ thứ việc). Bàn tay đó mà nắm lại hoặc cầm một vật gì tức thì bị mất cái hoạt bát vạn năng vì đã bị trói buộc". Vi tế nói trụ, thật tế thì nói tri-giác, tri giác một sự vật là nhận ra một sự vật, biết nó là cái gì, cho nó một cái tên, do đó mà kẹt luôn với nó, bị nó trói buộc, sự trói buộc có khi rõ ràng, có khi nhỏ nhiệm mà ta không nhận ra. Tiếp theo trụ, tâm thức đưa dẫn ta một cách chắc chắn đi suốt con đường của nghiệp, trôi lăn trong sanh tử luân hồi.

Ngày mới học đạo, có vị cao tăng dạy tôi: "Nhận biết (tri giác) chưa kẹt, phân biệt mới kẹt", trong lòng, tôi không đồng ý. Quả nhiên, sau này nhờ Ngài Duy-Lực chỉ cho trong Kinh Lăng-Nghiêm có câu của Bồ-Tát Văn-Thù: "Tri giác nãi chúng sanh" (nãi=bèn là). Tôi hiểu là khi nhận ra một vật gì, một điều gì, bèn có lỗi, chữ chúng sanh có ý nói là người bệnh, người sai lầm. Cũng trong kinh này, Phật còn nói rõ đến nơi: "Tri kiến lập tri thị vô minh bổn, Tri kiến vô kiến tự tức niết bàn". Câu này nghĩa là trên cái thấy biết mà ta xác nhận sự vật được biết, đó là gốc của vô minh. Thấy biết mà không có cái biết, tức là không xác nhận sự vật, thì là niết bàn.

Chỗ này xin mở một dấu ngoặc: Lời Phật là để dạy chúng sanh còn mê lầm. Với chúng sanh thì trụ, tri-giác, phân biệt là những bước đầu của sai lầm, nhưng Bồ-tát sau khi được căn-bản-trí (thấy núi chẳng phải núi, thấy sông chẳng phải sông) rồi cũng được hậu-đắc-trí, cũng gọi sai-biệt-trí (thấy núi chỉ là núi, thấy sông chỉ là sông), nơi đây cũng có phân biệt, nhưng là phân-biệt-vô-phân-biệt (discrimination non-discriminante) nghĩa là không bị kẹt trong sự thấy biết, không dính mắc. Chỉ chư Phật, chư Tổ, chư Đại-Bồ-Tát mới có trí này, còn chúng sanh nếu biết liền là dính mắc. Thiền-Tông gọi là thế lưu bố tưởng và trước tưởng, xin coi đoạn sau.

Tất cả chúng ta đều có thể nếm qua được chút ít và trong khoảnh khắc cái mùi vị "không dính mắc (vô trụ)" khi ta đang ở bất cứ chỗ nào mà bặt tâm đi được trong ít giây, ít phút, thật thích thú vô cùng. Còn nhớ cách nay khoảng hai mươi năm, hồi tôi chưa tham thiền, một hôm tôi vừa đọc xong câu của Ngài Mã-Tổ nhắc lại lời Kinh Duy-Ma-Cật: "Thân này do các pháp hoà hợp mà thành, khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Dù nói các pháp hoà hợp mà mỗi mỗi pháp đều chẳng biết nhau. Lúc khởi chẳng nói ta khởi, lúc diệt chẳng nói ta diệt", tôi nhìn ra cảnh vật trước mắt, bổng nhiên thấy mình như tách lìa ra khỏi tất cả, tâm thể rỗng rang, thanh tịnh, nhẹ nhàng, thật là tuyệt diệu.

Về sau, tôi cũng thường tái lập được tâm trạng đó trong chốc lát, khi ở nhà, ngoài đường, mỗi lần lại thấy cái mênh mông tịch lặng chiếm trọn tâm hồn, như đang ở một thế giới nào tuy rằng nhà cửa, xe cộ, cây cối, người vật vẫn có, vẫn chuyển động tước mắt. Tôi biết cảnh này còn là vọng, chẳng giá trị bao nhiêu, chỉ an được loạn tâm chốc lát như người đi đường nắng xa được uống một ly nước lạnh mát lòng rồi lại phải đi, nhưng nhờ đó mà tôi tin rằng cảnh giới giải thoát trọn vẹn và vĩnh cửu của Phật an lạc vô cùng!

Tôi cũng còn nhớ một ngày ở Saigon, đang đạp xe trên đường phố đông người, vừa đi vừa giữ công phu trong đầu. Tuy rằng tâm trí tôi vẫn đang bị công phu thu hút nhưng tất cả cảnh tượng trên đường phố, xe cộ qua lại, tôi vẫn thấy và vẫn tránh né ngon lành như thường mà không để ý đến một người nào, một vật gì. Về sau có một chú em trách tôi: Lúc đó tôi chạy xe ngược chiều gần sát anh, tôi có cười chào anh sao anh không trả lời? - Tất nhiên có thể tôi đã thấy nhưng tôi không nhận ra mà thôi. Lúc ấy trong đầu tôi chỉ có nghi tình, hình như áp lực của nghi tình đã tạm thời lấn át phần lớn ý thức. Những trường hợp vừa kể có cho tôi biết chút ít về cái tri kiến vô kiến chăng? Chưa đâu.

Nhận ra một sự vật bằng sáu giác quan là tri giác, tức là tri kiến lập tri. Cái tri giác có vẻ là vô tội đấy, nhưng tai hại là nó tức thì đưa ta đến những bước sau: chấp thật, phân biệt, cân nhắc suy lường, đắm nhiễm, buông bắt ... rồi trói buộc, phiền não. Phân tích thấy có nhiều giai đoạn, đó chỉ là lý thuyết tách ra cho dễ hiểu, thật tế chỉ có một sự kiện. Phật cũng giảng rõ hơn cho ông A-Nan: "Như ngươi hôm nay dùng con mắt thấy núi sông, đất đai và chúng sanh, đều là cái kiến bệnh (=cái hư hỏng của sự thấy) đã thành từ vô thủy. Tại sao? Vì có năng thấy và sở thấy nên tựa như cảnh tượng (thật) hiện ra trước mắt, vốn cái giác minh của ngươi duyên cái sở thấy (cái đối tượng được nhìn thấy) thành bệnh."

Ta đọc câu này thấy như vô lý, chẳng lẽ tôi thấy cái xe, tôi nhận biết là cái xe, thế là bệnh ư? Vâng, vậy mà đúng là bệnh. Chúng ta không khỏi ngạc nhiên, chưng hửng, ngỡ ngàng, vì điều này nghe thật ngược thế gian, chẳng hợp lẽ thường. Xin biết rằng cái thấy biết cho đến tâm từ bi của Phật đều không có năng sở (năng: chủ thể, người thấy biết, người thương sót, đối với sở: đối tượng, người hay vật được thấy biết, được thương sót) như người thế gian chúng ta vẫn thấy biết hoặc vẫn thương yêu; tình cảm thương yêu của chúng ta dầu cho chân chánh, trong sạch, rất tốt bao nhiêu như mẹ thương con, thương người nghèo khó tật nguyền, thương con vật bị nạn, cũng chỉ là ái kiến, chưa phải là từ bi, vì còn có năng sở, không bình đẳng. Để hiểu thêm ý này, tôi xin giải thích bằng lời Phật trong những đoạn trích văn sau đây:

- Trong Kinh Lăng-Già. Phật nói với Bồ-Tát Đại-Huệ: "Cảnh thế gian như bóng tượng trong gương và cảnh giới chiêm bao, nhưng chẳng phải trước mắt của bậc Thánh không có cảnh thế gian. Phàm phu vì tư tưởng mê lầm nên đuổi theo cảnh, chấp thật, gọi là vô minh điên đảo, chẳng phải minh trí. Bậc Thánh thấy cảnh đồng như phàm phu mà chẳng có tâm niệm chấp trước, nên chẳng gọi là điên đảo."

- Kinh Đại Niết-Bàn, Bồ-Tát Ca-Diếp bạch Phật: "Thế-Tôn, nếu phiền não từ điên đảo tưởng sanh ra, thì tất cả bậc Thánh đều có điên đảo tưởng mà sao chẳng có phiền não, vậy nghĩa này thế nào?"- Phật hỏi: "Tại sao nói bậc Thánh có điên đảo tưởng?"- Ngài Ca-Diếp thưa: "Thế-Tôn, tất cả bậc Thánh thấy trâu cũng gọi là trâu, thấy ngựa cũng gọi là ngựa, thấy nam nữ, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ và khứ lai đều cũng vậy, thế là điên đảo tưởng rồi!" - Phật nói: "Phàm phu có hai thứ tưởng, một là thế lưu bố tưởng (thế gian đã phổ biến lưu hành), hai là trước tưởng (tư tưởng chấp thật). Bậc Thánh chỉ có thế lưu bố tưởng, chẳng có trước tưởng. Phàm phu vì cảm giác sai lầm, nơi thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng nên gọi là điên đảo tưởng. Bậc thánh vì hay chiếu soi Thật-Tướng, nơi thế lưu bố tưởng chẳng sanh trước tưởng nên dù biết mà chẳng gọi là điên đảo tưởng."

- Kinh Duy-Ma-Cật, phẩm bảy, theo lời đối đáp giữa Bồ-Tát Văn-Thù hỏi Ngài Duy-Ma-Cật về đề mục "Quán chúng sanh", tiến trình sa đọa của người thế gian cũng từ nơi vô trụ mà trụ, rồi từ trụ sanh điên đảo tưởng là tư tưởng chấp thật, sanh hư vọng phân biệt, sanh tham dục cho đến phiền não. (đoạn này khá dài, không tiện chép lại)

Xin kể thêm bài kệ của Thiền-Sư Duy-Tác:

Phong động, tâm dao thọ

Vân sanh, tánh khởi trần

Nhược minh kim nhật sự

Muội khuất bổn lai nhân

Hòa-Thượng Duy-Lực giảng nghĩa: "Thấy gió động, tự tâm thổi cây. Biết mây sanh tự tánh nổi trần. Nếu thấy biết rõ việc hôm nay, Tức che khuất mặt mũi bổn lai (Tự-Tánh). Gió thổi, mây bay, cho đến tam tạng giáo điển, tất cả Phật Pháp, đều là việc hôm nay."
(Trong cuốn Chân Tâm Trực Thuyết có đăng lời dịch của bài kệ này nhưng tiếc rằng ý nghĩa đã bị đảo ngược là 'Nếu sáng, rõ việc hôm nay. Nếu mê, mất người xưa nay." Tai hại lắm thay!)

Tựu chung, bài kệ này cũng nêu lên sự sai lầm khi dùng ý thức để nhận biết sự vật, tức là tri giác vậy. Trong Phật Pháp, cái tội của "ý-thức phân biệt và suy luận" (conscience discriminante et discursive) được kể ra rất nhiều, tiếc thay là điều vi tế nên ít được nhận biết và nói đến, nhất là lại rất nghịch với thói quen nhận thức, suy nghĩ của thế gian.

Thiền-Sư Trường-Sa Cảnh-Sầm nói kệ:

Sao người học đạo chẳng biết chân?

Chỉ vì xưa nay nhận thức thần

Nguồn gốc sanh tử từ vô thủy

Si mê cho là bổn lai nhân.

"Nhận giặc làm con" là vậy.

Qua sự trình bày trên, ta thấy từ trụ, tri giác, chấp thủ, phân biệt, suy luận, ái nhiễm, thủ xả đều do ý-thức chủ động. Nó rất khôn lanh, rất sắc bén, rất lợi hại. sức nó rất mạnh, rất bền. Những phương pháp nhẹ nhàng, như tịnh tâm, đặt ra để vỗ về, kiểm soát nó chỉ có hiệu quả rất tương đối và tạm thời. Những phương pháp huấn luyện, chuyển đổi nó dần dần bằng thiền quán muốn đạt kết quả viên mãn cũng đòi hỏi thời gian công phu rất rất lâu dài, ba a-tăng-kỳ kiếp.

Duy có Thiền-Tông, bằng một tín tâm và ý-chí kiên cố, một sự thực hành đúng cách, một công phu miên mật, là có khả năng tạo được một tâm lực mạnh mẽ đủ sức chuyển đổi toàn bộ tâm-ý-thức từ nền tảng trong một thời gian ngắn, có Tổ vài ngày, vài thất được ngộ, có vị hai, ba năm, hay hai, ba chục năm được ngộ. Dù cho là hai, ba kiếp hay hai, ba mươi kiếp mới ngộ, người tu vẫn cho là ngắn và vẫn hành đến đích mới thôi. Vì sao? So với cái vòng sanh tử khổ hải triền miên kéo dài đến vô lượng kiếp không dứt này, thì dầu phải đầu tư đến mấy chục kiếp tu rồi được vĩnh viễn giải thoát triệt để, đến chỗ tuyệt đối tự do tự tại, thì tôi thấy còn là tốt quá.


Tổ-sư cũng nói: "Điếu can trác tận, trùng tài trúc. Bất kế công trình, đắc tiện hưu" - Thiền-Sư Trung-Phong Minh-Bổn - (Cần câu chặt hết, trồng trúc khác. Chẳng tính công trình, được mới thôi. - Nguyên-Chánh dịch).

---==o==---
 
Một điều quan trọng khác Đức Phật dạy ta là thực chất của vạn pháp, mọi sự mọi vật tinh thần và vật chất trong thế gian, vũ trụ. Tại sao chúng ta thiết tha bám víu với cơ thể, thân mạng này, với gia-đình, tài sản, danh giá, sự nghiệp này, với một lý tưởng quốc gia, dân tộc, nhân loại này? Tại sao vậy? - Tại vì qua cái vọng kiến hiện nay chúng ta nhận rằng chúng thật có, chúng có cái thực thể nó hiện hữu, tồn tại, nhất là trường hợp chúng là bản thân ta hoặc có liên quan với ta, ta và chúng đều có cái "ngã" tự thể: nhân ngã và pháp ngã. Ta cho rằng những cái ngã này khi vật còn thì thật có, khi vật mất thì thật không.

Chính vì vậy mà ta bị chúng trói buộc, ta có thể hy sinh đủ thứ, nhẫn chịu đủ khổ đau để chiếm hữu, giữ gìn hay buông bỏ. Nếu biết tất cả chúng, gồm cả thân tâm ta đây, chỉ là những bóng huyễn hóa không thật, thì ta chẳng phải khổ cực như vậy. Vậy mà Phật xác nhận như thế. Phật và chư Tổ triệt ngộ đã thực chứng thật tánh của vạn pháp, nó là KHÔNG, chớ không phải chỉ biết suông do suy luận, nhưng các Ngài không thể truyền cái thấy biết ấy cho chúng ta, mà chỉ có thể dạy lại theo ngôn ngữ rất giới hạn của thế gian và chỉ cho chúng ta cách thực hiện cái thấy biết đó mà thôi. Được cái thấy biết đó là phục hoàn cái "mặt mũi bổn lai", là giải thoát, tan rã hết mọi chấp trước, trói buộc, hết mọi đau khổ.

Theo Phật-Pháp, vạn vật không thật có, giải thích cách dễ hiểu: chúng chỉ là sự tụ hợp tạm thời và mong manh của một số thành phần, đến khi một hay nhiều thành phần rời ra hay mất đi, thì tập hợp ấy sẽ tan rã hoặc cũng không còn là cái tự thể trước nữa. Và mỗi thành phần cũng lại là một tổ hợp của nhiều thành phần nhỏ hơn, cứ thế mà lui xuống, không có một cái tận cùng cơ bản nào là một cái gì nhất định cả. Ngày nay khoa học cũng đã biết rằng những phần tử cấu tạo thành một nguyên tử (âm điện tử, dương điện tử, trung hòa tử) cũng là những tổ hợp không bền vững, và cũng biết rằng như thế vẫn chưa phải là cùng. Bác học vật lý Fritjof Capra trong tác phẩm danh tiếng The Tao Of Physics ( Do cụ Nguyễn Tường Bách dịch ra Việt văn lấy tên Đạo Của Vật Lý) đã giải thích chi tiết điều này.

Ví dụ như tất cả những bộ phận của một chiếc xe đạp được ráp lại theo một thứ tự nhất định ta sẽ có một tập hợp mà ta đặt tên là xe đạp. Xe đạp chỉ là một giả danh đặt ra để gọi cho tiện, thực chất chỉ là tập hợp của những cái căm, niềng, đùm, vỏ ruột, sườn, yên, bàn đạp, tay lái v.v...do nhân công ghép lại, tất cả đều là những cái có sẵn, không có cái gì thực sự mới được tân tạo cả, nếu ta tháo rời chúng ra như cũ thì không còn xe đạp, giả danh cũng mất, mặc dù chúng vẫn còn đó đầy đủ. Lại, tất cả mọi kết hợp, cho đến kiên cố và vĩ đại như những tảng đá xếp thành kim-tự tháp Ai-Cập, cũng chỉ tồn tại được trong một thời gian, thời gian từ một giây cho đến triệu năm cũng là thời gian tương đối, rồi chúng tự tiêu hủy hay bị hủy diệt lần lần.

Có khi còn có biến cố bất ngờ xảy ra tiêu diệt chúng trong chớp mắt, lịch sử đã chứng minh như số phận của thành phố Pompei đang trong nếp sống huy hoàng ngày xưa bị phún thạch của ngọn núi lửa Vesuve bất thần chôn sống trong khoảnh khắc. Cho nên gọi là tạm thời và mong manh là vậy.
Phật-Pháp gọi cái tánh không thật có ấy là vô sanh, vô sanh vì sự vật không có thực thể, nó không thực hữu và không có cái bắt đầu, chúng khởi từ những cái đã có sẵn, và những thành tố có sẵn này cũng lại là những tổ hợp hư huyễn nữa, nếu thật có thì chúng đã vĩnh viễn cố định, không biến đổi khi sanh khi diệt như ta đang thấy.

Mà thật ra có cái gì tự hay bị biến đổi sanh diệt đâu, có hiện tượng biến đổi sanh diệt, nhưng không có một tự thể nhất định nào đứng trước, bên trong, đằng sau sự biến đổi sanh diệt cả. Cái hiện hữu của sự vật đây chỉ là hư dối, do cảm nhận sai lầm mà người đời vì không biết như thật nên cho là thực hữu bèn chấp ngay vào rồi cố gắng lấy bỏ, tạo nghiệp không thôi. Kinh Viên-Giác, Phật thuyết: "Tất cả chúng sanh ở nơi pháp vô sanh vọng thấy có sanh diệt, cho nên gọi là sanh tử luân hồi." Vậy thì cái "vọng thấy" này là thủ phạm gây đau khổ cho con người, nó cũng là cái "kiến bệnh từ vô thủy" nói trong Kinh Lăng-Nghiêm.

Thật có hay không, Thực hữu hay Phi hữu, Thị hay Phi ?- Ngày nay cả thế giới văn minh vẫn cứ còn thắc mắc về có hay không cái thực tại này, về lý do hiện hữu, chỗ về của nó, cái thân phận của con người và thế gian này, rồi ngẩng lên hỏi ông Trời: "To be or not to be?", hỏi mãi vẫn không có trả lời. Họ có biết đâu rằng gần 2500 năm trước, khi kịch tác gia Shakespeare chưa chào đời, Ông già Thích-Ca đã giải đáp câu đó đầy đủ, riêng Kinh Kim-Cang cũng nói đến mấy lần.

Ngài Ca-Diếp-Ba nghe kệ sau đây được chứng sơ quả

Các pháp tùy duyên sanh

Các pháp theo duyên diệt

thấy thực tánh vô sanh của vạn pháp.

Bồ-Tát Long-Thọ lại có kệ:

Chẳng vật tùy duyên sanh

Chẳng vật theo duyên diệt

Sanh chỉ các duyên sanh

Diệt chỉ các duyên diệt

Ý-nghĩa càng rốt ráo biết bao.

Như vậy, chỉ có những sự tụ tán của các duyên chứ không có một tự thể nhất định nào sinh ra hay diệt đi cả, chỉ do cái hiện tượng tụ của các duyên mà con người lầm cho rằng có một sự vật mới sanh, chấp là thật có (sanh) và đặt cho một cái tên, và do hiện tượng tán của các duyên đó mà hắn tưởng mất đi một sự vật đã có, chấp thật là không (diệt) để xóa đi một tên, giả danh cũng không thật.

Thân mạng ta cũng vậy, cả phần cơ thể và tâm thức cũng chỉ là những tụ hợp mong manh tạm thời của một số thành phần, mang một tên giả, và trong khi hư dối gọi là có ấy, tất cả các tế bào của các bộ phận cũng hư dối sinh ra và chết đi từng giây từng phút. Trong What The Buddha Taught, Đại-Sư Rahula nhắc lại lời Phật: "Mỗi lúc các uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức là 5 uẩn tức 5 chứa nhóm vật chất và tinh thần cấu tạo nên con người) phát sinh, suy giảm và chết, hỡi các Tỳ-kheo, là mỗi lúc các ông sinh ra, suy giảm và chết". (Ni-Sư Trí-Hải dịch)
Trong Trung Quán Luận, Bồ-Tát Long-Thọ cũng có kệ:

Các pháp chẳng tự sanh

Cũng chẳng phải tha sanh

Chẳng cộng chẳng vô nhân

Cho nên nói vô sanh

Hòa-Thượng Duy-Lực giải rằng: "Các pháp chẳng tự sanh vì phải đợi nhân duyên hòa hợp mới được sanh. Các pháp chẳng tha sanh vì các duyên đều chẳng có tự tánh. Vì tự và tha còn chẳng có, lấy gì để cộng (mà sanh). Sao nói chẳng vô nhân sanh? Vì bản thể sáng tỏ của Diệu-Tâm phải do tu hành đến giác ngộ mới được hiển bày, chẳng phải tự nhiên mà thành. Vậy, biết tất cả sự vật trên thế gian vốn vô sanh, vì chẳng có lý do nào để sanh vậy."

Sau cùng, để nhận rõ thêm tánh vô sanh của vạn pháp, xin kể một câu rất danh tiếng trong nhà Thiền, trích từ bài kệ của Lục Tổ:

Bổn lai vô nhất vật

Theo cái thấy của Bậc Thánh thì không có một vật nào (cụ thể hay trừu tượng) thật sự có một tự thể nhất định, vững chắc, không thay đổi, tồn tại, thì còn có cái gì là ta, những cái của ta và những cái khác ngoài ta, còn có gì là thiện-ác, tốt-xấu, hay-dở, phải-quấy ... để lựa chọn, yêu-ghét , bám víu-buông bỏ, làm gì có niết bàn để tìm, địa ngục để xa lánh, chúng sanh để hết, Phật để thành ... biết vậy thì được cũng không vui, mất cũng không buồn, ai khen cũng chẳng thương, ai chê cũng không ghét, tâm thể an tịnh.(Đây là cảnh giới của bậc Thánh đã được vô sanh pháp nhẫn, chúng sanh phàm phu còn trong sanh tử, nhận biết bằng ý thức, không thể có tri kiến giải thoát này)

Biết được những lời pháp trên đây đã là một ích lợi lớn, con người sẽ tỉnh ngộ ra (bằng tri giải), nhẹ được tâm chấp trước và chấn chỉnh lại nhận thức của mình, thế gian sẽ bớt đi những tham vọng mù quáng, những bạo hành độc ác, mọi người biết thương yêu giúp đỡ nhau, giảm đi những buồn phiền vì tuyệt vọng, vì thất thế; người già suy yếu, người bị tai nạn hay bị bệnh nan y sẽ bình tĩnh với những gì sẽ xảy đến, bớt lo sợ. Và trên hết, chúng ta nhận biết được mục đích tối hậu và duy nhất của cuộc đời, đó là thực hiện cái Ta Trọn Vẹn của mình, cũng là phục hoàn cái Bổn Lai đã bị biến dịch từ thuở nào.

Lại còn một bất hạnh nữa là con người không những chỉ bị tác hại bởi cái hoạt động sai lầm của ý-thức như trình bày trên mà còn phải chịu đựng sự sai khiến khó biết ra và nhiều khi còn không thể cưỡng lại của cả một khối khổng lồ và nặng chĩu những vô vàn tập khí (thói quen) mà hắn đã cố ý hoặc vô tình tạo ra từ vô lượng kiếp trước cho đến ngày nay. Nó (tập khí) chưa hề bị suy giảm mà còn mỗi ngày một lớn mạnh và ăn sâu hơn, tạo thành một bản năng mà ta cho là tự nhiên vậy. Những tập khí này sức chúng rất rất mạnh, nhiều khi chúng bắt con người phải làm những điều mà chính lương tâm và lý trí hắn cản lại không được, gây ra những tội lỗi đáng thương sót vô cùng, thương sót cả nạn nhân và thủ phạm.

Phân tích tâm lý ta sẽ thấy: liền sau khi ta tri giác và phân biệt một sự vật nào bằng ý thức, tức thì tập khí ùn ùn kéo đến sáp vào, chúng (tập khí và ý thức) cùng có mặt và cùng hoạt động nhưng chúng tác dụng trên ta theo những chiều hướng có khi giống nhau mà cũng có lúc khác nhau. Như một ma lực bên ngoài, tập khí đưa đẩy, xúi dục, có khi còn cưỡng bách ta phải yêu-ghét, lấy-bỏ bằng được mới thôi, và ta cũng thường nhận tập khí là chính ta.

Vậy mới hay con người không bao giờ thật sự được tự do, không bao giờ được sống với cái bổn tâm chân thật vẫn ở liền nơi mình, mà luôn luôn bị chi phối, điều khiển, lừa gạt trái với bản chất tự nhiên của mình (tự tánh mình) mà hung thủ chính là cái vọng tri vọng chấp mà ta cho là tâm ta, và những tập khí sâu kín nhưng mạnh mẽ trong tâm thức mà ta nhận là bản năng, bản tánh tự nhiên của ta.

Ta không biết rằng cái Ta Thật (tạm gọi vậy) lại là cái khác, nó đã bị cái ta giả, tức là cái tổ hợp ý thức-tập khí, che dấu, lấp khuất, phong tỏa, làm ta không biết rằng mình vốn có cái Ta Thật và Nó mới chính thật là Ta, cái Ta hoàn toàn tự do tự tại, ở ngoài tất cả trói buộc và đau khổ. Thân phận ta chẳng khác gì con trâu to lớn bị thằng bé lấy dây sỏ mũi dắt đi mọi nơi tùy thích. Cho nên Kinh Lăng-Nghiêm nói ra cái mê muội ấy của con người là:

Lạc mất chân tánh, Hành theo điên đảo.

Đã không được tự do mà còn lầm nhận cái bó buộc cho là tự do, con người đi ca tụng tên giặc cai trị mình và lấy làm hãnh diện vì nó, gọi nó là "tự do ý chí" (free will), là vật quí giá nhất mà Thượng-Đế ban cho mình. Thật đáng tiếc quá, con người vì mê muội nên để bị chôn vùi dưới hầm bùn sâu, chư Phật, Tổ và Bồ-Tát đều rất thương sót, phát nguyện cứu vớt tất cả chúng sinh ra khỏi hầm sâu vô minh ấy.

Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng-Xán mở đầu bằng câu:

"Chí đạo vô nan, Duy hiềm giản trạch"

Cái tự do phân biệt, chọn lựa chính là chướng ngại lấp bít cửa Đạo.

Bệnh mê của con người sâu nặng như thế, nên những phép tu cốt lắng đọng tâm ý chỉ có hiệu quả như một ly nước đục được lóng trong. Phần trên thì tương đối trong sáng đấy, nhưng nếu ly nước bị lay động (dụ cho gặp nhân duyên rồi tập khí mạnh nổi lên) thì tức khắc những cặn dơ lại vẩn đục trở lại, cứ thế không bao giờ dứt. Ta đã thấy có khi một tu sĩ tôn giáo lớn đã hành đạo cả chục, nhiều chục năm, mà còn đột nhiên phạm trọng cấm, lý do là bị tập khí lắng đọng hay dồn nén gặp tác nhân kích thích làm bùng dậy.

Vậy phải làm sao? Phương pháp của Phật-Giáo Thiền-Tông thật rõ ràng và đơn giản, là phải chưng cất chỗ nước đục đó lên, cho vào lò lửa đốt nó bốc hơi, dùng khí lạnh cho đông lại, ta sẽ được một thứ nước trong sạch hoàn toàn, dù cho lắc mấy cũng không bao giờ đục trở lại, đó là một biện pháp cải tạo triệt để, từ nền tảng, và nhất là: tự lực, không chờ đợi từ một ân sủng bên ngoài nào, mà cũng không một ân sủng nào có thể giúp được. Do vậy mà Tổ-Sư đạt đạo rồi, thõng tay vào chợ, ăn nằm với những phường trộm cắp, giết heo để độ chúng mà không hề ô nhiễm.

Người tham Tổ-Sư Thiền cũng tôi luyện tâm mình trong lò lửa như vậy, dùng sức nghi mạnh mẽ và liên tục của tham thiền (công án hoặc thoại đầu) dũng mãnh đập tan cái tướng dụng hư hỏng của tâm thức này, biến nó thành một tự thể khác hẳn, nói đúng là trở lại cái tướng dụng bổn lai của nó, với những tánh chất khác hẳn và những khả năng tột bực mà nay ta không thể suy lường được, ngộ rồi thì các tập khí thế gian và tập khí xuất thế gian cũng tự trừ đến hết. Thuật ngữ "Tuyệt hậu tái tô" (chết đi sống lại) là chỉ trường hợp này. Kiến tánh thành Phật là được chỗ Vô-Niệm, từ đây khởi Trí Huệ Bát Nhã (Prajna) và Tâm Đại Bi (Karuna, Vô Duyên Từ) độ tận chúng sanh.
 
Tiếc rằng cách tu của Phật-giáo Thiền-tông trình bày như trên, cũng như quan niệm về một chuyển đổi tâm linh tận gốc, chẳng thể được chấp nhận dễ dàng, vì nó quá ư khác lạ, bình thường thấy khó chấp nhận, khó tin, khó hành, con người còn lo sợ sẽ mất đi những cái hiện có rồi không còn chỗ bám víu. Sự cống hiến của Phật Giáo rất lớn, lớn nhất cho con người, nhưng cửa vào lại hẹp vì không thuận với lối suy nghĩ thông thường.

Tuy nhiên có nhiều người vốn sẵn nhân duyên từ trước, những người nay nhận ra được tánh chất bất toàn của cái công cụ suy nghĩ đang có đây cùng là mối nguy của các tập khí, và nhất là những người đã từng bị những đau khổ của đời dày vò tan nát, đã hết mọi ham muốn, chỉ thiết tha nguyện được giải thoát, đã thử tất cả các phương thuốc mà chưa gặp thuốc hay hết bệnh, chỉ những người này mới mạnh mẽ tin tưởng, chịu liều thí nốt mạng cùi này, nhảy vào lò lửa, phó cả thân tâm cho công phu, làm một cuộc cải tạo tâm linh triệt để, quyết thực hành đến cứu cánh, chừng nào đến nơi mới thôi. Riêng hiện nay tại nam Việt-Nam vẫn có nhiều người có được cái thấy biết, tín tâm, ý chí kể trên, hàng ngày sống thiếu thốn mà vẫn kiên trì dụng công hành đạo.

Riêng tại các Thiền-Đường Liễu-Quán, Pháp Thành ở vùng núi Dinh Bà Rịa là nơi xa xôi hẻo lánh, chư tăng ni và cư-sĩ hàng ngày vừa làm rẫy rất cực nhọc để tự nuôi thân, sống thiếu thốn mà không cầu vào sự cúng dường của thiện tín, vừa miệt mài tu tập. Cũng còn có những Tăng, Ni, Cư sĩ sống riêng hoặc cùng bạn đạo đồng tham vẫn kiên trì âm thầm tham cứu một mình từ cả chục năm nay trong những hoàn cảnh rất khó khăn. Với họ, Tổ nói: "Tuy mới cất bước, tôi dám bảo đảm người này chẳng khác gì như đã đến nhà". Họ là những người biết hướng tới thọ dụng đầy đủ sự cống hiến của Đạo Phật.
 
 
Kết luận
 
Năm 1982, khi chúng tôi còn tham tại chùa Từ-Ân Saigon, một buổi chiều, Vị Hoà-Thượng Trụ Trì chùa này đến thăm đạo tràng, trong bài khai thị của Ngài, tôi còn nhớ câu:

"Chúng sanh có năm cái khó:

- Được làm người là cái khó thứ nhất,

- Gặp được Chánh Pháp là cái khó thứ hai.

- Tin, hiểu được là cái khó thứ ba,

- Hành được là cái khó thứ tư,

- Ngộ được là cái khó thứ năm. "
 
Thời điểm đó đến nay (1994) đã 12 năm, lời nói với tôi càng ngày càng thấm thía. Tôi thấy kê khai ra năm cái khó này, chẳng phải để chúng ta e ngại, thối chí mà còn có tác dụng tích cực. Nhìn xuống đám súc vật mới hay ta may mắn được làm người, trong sáu đạo chỉ có người mới có đủ cơ duyên thuận lợi và khả năng tu thành Phật, và chỉ có thể thành Phật trong khi còn đang sống làm người. Có quán xét sự bế tắc về tâm tư, sự đau khổ của con người khắp thế giới, ta mới thấy rằng được sự cống hiến của Đạo Phật là một may mắn lớn. Đến đây là đã qua được hai trong năm cái khó rồi, như trên đường dài nay ta đã đứng ở mức khởi hành.

Trong các tôn giáo, Đạo Phật lại dễ tin hiểu nhất, về lý thuyết thì rõ ràng minh bạch, không tưởng tượng hoang đường, về thực hành thì lịch sử Phật-giáo tại nhiều quốc gia Á-Châu đã ghi chép cả chục ngàn người ngộ đạo, thực hiện Thánh-Quả ngay nơi tự tâm, nay người học nếu có thiện chí thì tự nhiên tin hiểu. Tin hiểu được là đã thấy ánh sáng le lói ở cuối đường hầm, cũng như đã nhận ra trái chín đầu cành, con đường làm Phật đã đi được một quãng xa. Nay chính là chỉ còn "ra sức một phen" để thoát ra khỏi chỗ tăm tối; việc thực hành như lời Lai-Quả Thiền-Sư còn đơn giản hơn cả duỗi chân, dơ tay. Thành ra, đối với Tổ-Sư, năm điều khó lại là năm điều dễ ợt. Ích lợi này lớn nhất, cao nhất, chúng ta nên tận dụng, chẳng nên như kinh nói :"Như người bụng đói ngồi trước bàn tiệc vua ban mà chẳng chịu ăn" - Còn nếu chỉ cam nhận mấy giọt nước tương thì cũng uổng quá.
 
Tôi cũng vẫn tự nhắc nhở một trong những lời dạy thống thiết cuối cùng của Phật trong Kinh Di-Giáo: "Thế gian phược trước một ư chúng khổ, thí như lão tượng nịch nê, bất tự năng xuất" (Người thế gian tự trói buộc để chết đi trong muôn ngàn đau khổ, dụ như con voi già sụt xuống bùn sâu, không tự ra được). Hình ảnh một con voi già vừa lớn, vừa nặng, vừa yếu, từ từ chìm dần xuống hầm bùn làm tôi lo lắng cho mình, khó mà quên được.
 
Để chấm dứt tập tài liệu này, tôi xin chép lại mấy lời thống thiết của Ngài Trung-Phong Minh-Bổn, vị Tổ Thiền-tông danh tiếng thế kỷ thứ 12, cảnh sách đám hậu học. Bài này tuy nói với tăng chúng tại một thiền-viện, nhưng với cư-sĩ cũng đồng có ích lợi vì cùng là nạn nhân của sanh tử, việc thực hành chẳng riêng là bổn phận của người xuất gia.
 
" Nhà mộng ba cõi lăn lóc chẳng dừng, nếu chẳng phấn chí ra sức đại tinh tấn, gan dạ nhảy một cái ra khỏi cái nhà đại mộng này, ở giữa thanh thiên bạch nhật mặc áo cả cười một tiếng khoái chí bình sanh. Còn nếu quyết lấy mộng đi vào mộng, phan duyên lẫn nhau, chạy theo vọng trần, thì có ngày đọa vào địa ngục vô gián, há chẳng cô phụ nhiều kiếp đến nay chư Phật, Bồ-Tát đã vì ông gieo hạt giống Bát-Nhã Bồ-Đề ư ?

Ông nếu chẳng đủ hạt giống sâu dày này, đâu được ngày hôm nay ở chỗ giàu sang, trong nhà thập thiện, cho đến phát tâm vào đạo, ca sa che thân, làm người nối dòng giống Phật. Ngày nay đã đến chỗ này, đã xuất gia rồi, đã làm tăng rồi, đã gặp Thiện-Tri-Thức rồi, đã nghe đạo rồi, cái điều ông còn thiếu đó là chỉ cần ra sức một phen để đích thân đến chỗ cứu cánh mà thôi. Huống là tuổi chưa già, sức còn sung, nếu chẳng lợi dụng lúc thân còn mạnh khỏe đi một hơi thẳng đến nhà, thì chớp mắt bèn là vô thường, già bệnh đuổi gấp, đến lúc ấy chân tay rối loạn, lỗi sẽ về ai? Lúc đó nếu đem hết tất cả những cái tham, cái yêu, cái giận, cái si của cả một đời, kiểm điểm qua một lượt đều dùng chẳng được.

Trái lại còn bị nó làm chướng ngại, trói cột, che lấp, xoay chuyển, cuốn trôi, cô phụ cái nhân duyên tốt đẹp làm người không biết hổ thẹn, bị Phật quở trách.
Phải biết, luân hồi nơi ba cõi, ra vào trong bốn loài (noãn, thai, thấp, hóa), cô lộ lênh đênh, chịu khổ liên tục. Như thế có gì đáng lưu luyến đâu, mà chẳng chịu siêu nhiên độc thoát . Người có chí lẽ nào lại làm như thế ? "
( Định-Huệ dịch)
 
 
Ghi-chú: 

- Những trích văn từ các kinh, luận mà tôi không ghi danh dịch giả, đều là lời dịch từ Hán sang Việt của Hòa-thượng Duy-Lực.


-Tu chỉnh năm 1997, năm 2002. - Truyền Đan.

 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn