Chương 12: Tứ Diệu Đế Và Bát Chánh Đạo

26 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15875)


VÔ NGÃ VÔ ƯU

Thiền Quán Về Phật Đạo
Tác Giả: Ni sư Ayya Khema - Người Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch từ bản tiếng Anh: Being Nobody, Going Nowhere - Meditations On The Buddhist Path 
Wisdom Publications 1987

Chương 12
Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo

 Khi Đức Phật rời bỏ gia đình để đi tìm sự giải thốt cho chúng sanh khỏi những khổ đau, Ngài đã tìm đến tu học với hai vị Thiền sư nổi tiếng. 

 Ngài Alara Kalama, vị thầy đầu tiên, dạy Đức Phật về Tứ Thiền, các tầng thiền trong sắc giới. Đức Phật là người học trị rất thơng minh, Ngài học rất nhanh. Chẳng lâu sau, vị thầy nhờ Ngài ở lại dạy vì sự hiểu biết của Ngài đã ngang bằng với thầy. Nhưng Đức Phật, lúc đĩ hãy cịn là Thái tử Siddhartha Gotama (Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm), từ chối và nĩi rằng Ngài chưa đạt được mục đích của mình, và từ giã vị thầy nầy để đến với vị thầy thứ hai, ngài Uddaka Ramaputta. Người thầy thứ hai dạy Đức Phật về bốn tầng thiền vơ sắc, là các tầng Thiền vi tế hơn, khĩ đạt được hơn các tầng Thiền trước đĩ. Lần nữa, Đức Phật lại chứng tỏ mình là một người học trị xuất sắc, và vị thầy của Ngài lại yêu cầu Ngài hãy ở lại hướng dẫn các đệ tử khác. Lần nữa, Thái tử lại từ chối vì Ngài nhận thấy rằng dù Ngài đã đạt được tầng Thiền cao nhất, nhưng khi xả định, Ngài vẫn thấy khổ đau, phiền não như trước. Khơng cĩ gì thay đổi nhiều. Vì thầy Uddaka Ramaputta nĩi khơng cịn gì nữa để dạy, Thái tử biết rằng Ngài phải tự mình đi tìm chân lý. Ngài từ giã năm người bạn đồng tu với mình. Họ khơng muốn theo Ngài, mà chọn lựa ở lại, với sự an ổn, bảo đảm của một người thầy danh tiếng. 

 Khi Thái tử đi đến gốc cây Bồ đề ở ở một vùng ngày nay cĩ tên là Bodhgaya (Bồ đề Đạo tràng), bắc Ấn Độ, Ngài cĩ quyết tâm lớn. Ngài thề nguyện sẽ ngồi đĩ khơng nhúc nhích, khơng đứng dậy cho đến khi tìm được sự giải thốt, dầu cho thịt xương của Ngài cĩ vữa ra. Thế là Ngài ngồi và dùng các khả năng Thiền định đã học để đi sâu vào định, từ Sơ Thiền đến Bát Thiền và trở lại từ đầu. Trong lúc ngồi, Ma vương đến cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng nĩ. Khi tâm hồn tồn thanh tịnh, an định, khơng mảy may lay động, Ngài đã đạt được sự Giác Ngộ sâu xa nhất. Khi xả định, Ngài nhận ra rằng Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo là một thực tại nội tâm thơng suốt. Sau những việc đĩ, Ngài nhận ra mình đã chứng đắc, trở thành Đức Phật, bậc Đại Giác Ngộ. 

 Đức Phật sau đĩ trong niềm hân hoan của sự giải thốt, cảm nhận ơn cây Bồ đề đã chở che cho Ngài. Đức Phật ở đĩ một tháng, rồi theo lời khẩn cầu của Phạm Thiên (Brahma Sahampati), Đức Phật quyết định đi truyền bá giáo lý của mình. Lúc đầu nghĩ rằng giáo lý của Ngài quá cao siêu, quá khĩ hiểu, sợ rằng khi truyền đạt lại cho chúng sanh, Ngài sẽ thất vọng vì sự khơng thơng suốt của họ. Nhưng cuối cùng Đức Phật xuơi lịng, và đồng ý dạy vì lợi ích của người và trời. 

 Trước hết Đức Phật nghĩ đến những vị thầy của mình. Nhưng khi dùng nhãn thơng để tìm kiếm họ, Đức Phật khám phá ra họ đã qua đời. Sau đĩ Đức Phật quyết định dạy cho năm người bạn đạo cũ của mình. Đức Phật tìm ra họ đang ở gần Benares. Đức Phật quyết định đi đến đĩ để gặp họ. 

 Đức Phật đi bộ suốt cả chặng đường. Trong bốn mươi lăm năm truyền giáo, Ngài đi như thế đến khắp mọi nơi. Đức Phật chẳng bao giờ dùng xe, vì trong những ngày ấy xe đều do súc vật kéo, và Đức Phật khơng bao giờ muốn phải làm khổ con vật nào. Do đĩ, một trong những giới luật cho tăng ni là khơng được dùng xe do súc vật kéo. Ngày nay chúng ta may mắn hơn, cĩ những loại xe khác. Đức Phật lúc nào cũng đi bộ. 

 Hằng ngày, Đức Phật đều thuyết giảng. Nhờ thế ngày nay ta cĩ thể thừa hưởng được gia tài đồ sộ của Ngài. Trong các kinh điển cĩ hơn 17.500 bài giảng. 

 Khi Đức Phật đi đến gần Benares, năm nhà sư đạo hạnh trơng thấy Đức Phật đang đi đến gần. Họ nĩi với nhau, "Nhìn kìa, ơng Gotama đang đi đến. Ơng ấy đã từ bỏ cuộc sống đạo hạnh. Ơng ấy khơng cịn là một tu sĩ nữa. Trơng ơng ấy khỏe mạnh, sạch sẽ quá. Chúng ta nhất quyết khơng chào hỏi khi ơng ấy đến gần". Nhưng khi Đức Phật đến gần hơn, họ khơng thực hiện được dự định vì dáng vẻ oai nghi và khuơn mặt rạng ngời của Phật. Họ chào hỏi Đức Phật rất lễ phép. 

 Lúc đĩ Đức Phật bảo với họ rằng, "Ta đã thành Phật và ta sẽ truyền dạy cho các người giáo lý của ta". Ngạc nhiên, họ hỏi: "Nhưng làm sao chúng tơi biết đĩ là sự thật? Làm cách nào để chứng minh?" Đức Phật nĩi: "Các người đã biết ta hơn sáu năm. Cĩ bao giờ ta dối gạt các người điều gì khơng?" Họ nĩi: "Khơng". Rồi Đức Phật nĩi "Hãy nghe một thời pháp của ta". Các vị đạo sĩ bằng lịng. Nĩi cách khác là họ đồng ý cho Đức Phật một cơ hội. Họ sửa soạn chỗ ngồi cho Đức Phật trong vườn nai Isipatanna, ngoại ơ Benares và ở đĩ với Đức Phật một tuần. Mỗi ngày họ thay nhau đi khất thực. 

 Lúc đĩ Đức Phật bắt đầu thuyết giảng bài kinh đầu tiên sau khi Giác Ngộ - Kinh Chuyển Pháp Luân. Đức Phật bắt đầu chuyển bánh xe Pháp với bài giảng đầu tiên và may mắn làm sao, cho tới ngày nay bánh xe Pháp vẫn cịn luân chuyển. Cũng cĩ nhiều thời mạt Pháp xảy ra, lúc đĩ thật là khĩ khăn. Thí dụ đã cĩ những lúc ở Sri Lanka người ta khơng thấy bĩng dáng một nhà tu. Phật Pháp thường bị đe dọa, chống đối vì nĩ đi ngược lại với bản năng con người. Ngược với dịng chảy, ngược triều lưu. 

 Khi Đức Phật kết thúc bài Pháp, một trong năm vị đạo sĩ đã chứng đắc. Đức Phật nĩi: "Anna Kondanno thấy, Anna Kondanno biết". Thấy và biết. Biết thơi chưa đủ. Thấy là cái thấy của nội tâm, bản tánh của tâm, làm thay đổi hồn tồn cái nhìn và quan điểm của con người. Anna Kondanno (A-nhã Kiều-trần-như) là vị A-la-hán đầu tiên và cũng là vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên. 

 Đức Phật cũng được gọi là một vị A-la-hán: "Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa". Ngài là A-la-hán mà cũng là Phật. Điều khác biệt là Đức Phật tự tìm ra Tứ Thánh đế và Bát chánh đạo, khơng cĩ thầy dẫn dắt, trong khi một vị A-la-hán giác ngộ nhờ nương theo Đức Phật. Khi Phật Pháp khơng cịn hiện hữu, sau nhiều a tăng kỳ kiếp một Đức Phật khác sẽ xuất hiện, để tìm ra được đúng những giáo lý về Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Đức Phật là người cĩ khả năng thuyết Pháp. Đĩ là một khả năng hiếm cĩ. Cĩ các Đức Phật được gọi là Paccekabuddha (Độc Giác Phật, Bích Chi Phật, Duyên Giác Phật). Họ đạt Giác Ngộ nhưng họ khơng cĩ tài giảng Pháp. 

Khi chúng ta đọc tụng kinh pháp, ta thường ngỡ ngàng trước việc Đức Phật nhiều lần lập lại cùng những từ ngữ. Dầu trong tiếng Pali ta nghe du dương, nhưng được lập đi, lập lại nhiều lần, ta khơng khỏi tự hỏi tại sao. Nhưng khơng cĩ gì đáng ngạc nhiên cả. Khi nĩi, ai cũng thường lập đi, lập lại. Hơn nữa, Đức Phật nhận ra rằng rất khĩ suy nghĩ sâu xa về một sự thật thậm sâu bằng thính giác, vì lẽ đĩ Đức Phật đã nhấn mạnh bằng cách lập đi, lập lại. 

Tứ Diệu Đế

 Tứ Diệu Đế bắt đầu bằng sự thật của khổ đau. Năm người bạn mà Đức Phật giảng bài Pháp đầu tiên là năm đạo sư đã tu khổ hạnh trong sáu năm. Đức Phật cũng đã làm như thế, nhưng sau đĩ Đức Phật nhận thấy rằng sự hành xác khơng đem lại Giác Ngộ. Trái lại, cách sống buơng trơi hưởng lạc như Đức Phật đã từng sống khi cịn là Thái tử trong cung điện, cũng khơng mang lại hạnh phúc. Đức Phật nhận ra rằng chỉ cĩ con đường duy nhất - con đường Trung Đạo. Khơng cĩ sự cực đoan nào là tốt cả. Các vị đạo sư này đã tu ép xác. Họ hiểu về những đau khổ của thân. Đức Phật khơng cần phải nhấn mạnh về điều đĩ. Họ cĩ thể hiểu dễ dàng. 

 Nhưng đối với chúng ta khơng dễ. Dầu khi ngồi Thiền ta cĩ kinh nghiệm về những đau đớn, khĩ chịu ở thân, nhưng sau khi xả Thiền, về nhà, đau đớn cũng khơng cịn nữa. Như thế đĩ chỉ là những đau đớn tạm thời, ta cĩ thể chịu đựng được. Điều chúng ta cĩ thể khơng biết là thân khơng chỉ cĩ những đau đớn, mà chính thân là một cái khổ. Nĩi một cách khác là cĩ thân là cĩ khổ. Phải lo cho thân là khổ. Ở đây khơng chỉ nĩi về cái khổ khi ta phải hứng chịu một tai họa nào đĩ. Tai họa là một chuyện, sự thật khổ đau là một chuyện khác nữa. Đức Phật nĩi: Sanh khổ, Tử khổ, Hoại diệt khổ, Khơng được cái mình muốn thì khổ. 

 Đây là những nỗi khổ lớn của tất cả chúng sanh, cịn bao nhiêu cái khổ nữa bên cạnh sinh, già, bệnh, chết. Rõ ràng là lúc vui vẻ an ổn, ta khơng biết đến cái khổ trong ta. Ta cĩ thể thương hại ai đĩ, vui mừng vì mình khơng ở trong cùng cảnh khổ, quên rằng cái khổ luơn cĩ mặt trong ta. Ngay chính trong lúc vui, ta cũng khổ vì khơng thể kéo dài niềm vui. Dục lạc biến mất khi ta muốn duy trì nĩ mãi. Mỗi khi ta muốn bám viú vào chúng, chúng lại qua đi, và ta lại phải bỏ cơng đi tìm. 

 Ngay chính thân ta cũng khơng thể duy trì được sự sống nếu như nĩ khơng luơn được bồi dưỡng, tắm rửa, vận động và chữa trị. Đủ loại chữa trị: kính, răng, máy trợ thính, thuốc bổ, thuốc ho, dầu gội, v.v... Bao nhiêu tiền đã phải đổ ra để giữ thân thể tiếp tục hoạt động, chứ chưa nĩi đến việc làm cho nĩ tốt hơn. Ta khơng thể làm cho nĩ trẻ ra, dầu cĩ bao nhiêu người đã cố gắng làm việc đĩ. Bao cơng sức, năng lực, tiền tài đã đổ ra chỉ để giữ cho thân thể hoạt động. Nếu khơng thân thể sẽ hoại diệt. Ta sẽ khơng thể sử dụng được nĩ nữa. Việc nĩ khơng nghe lời ta van cầu được trẻ mãi, cĩ sức khỏe, đẹp đẽ, sống lâu, mà chỉ làm trái ngược, cũng cĩ thể coi là một cái khổ. 

 Cái khổ nhất của thân là nĩ luơn địi hỏi nọ kia, mà đơi khi ta phải bỏ hết cả đời chỉ mong thỏa mãn nĩ. Tất cả những tiền của người ta tạo ra, bao nhiêu cơng sức người ta phải tổn hao, là chỉ để giữ cho thân được an tồn sung sướng. Ta phải làm việc cực nhọc để cĩ ăn, cĩ nhà cửa, quần áo, thuốc men. Nếu khơng cĩ thân ta đâu phải vất vả như thế. Vậy mà nhiều người cịn bỏ ra bao nhiêu thì giờ, tiền bạc để làm cho thân thoải mái, sung sướng hơn thế nữa. Đĩ cĩ lẽ là nỗi khổ nhất - phải hoang phí cuộc đời cho những mục tiêu như thế. 

 Nhưng khơng chỉ cĩ thân là khổ. Tâm cũng thế. Tâm đâu cĩ nghe theo ta. Nĩ chỉ làm theo ý nĩ, thay vì ở yên theo ý ta. Nĩ luơn nghĩ về những điều làm ta thêm đau khổ. Nếu đĩ khơng gọi là đau khổ, thì gì mới là đau khổ? Nĩ cịn u mê nữa. Và đĩ cũng là một cái khổ. 

 Tâm nhảy từ việc này qua việc khác. Chính quá trình tư duy cũng là một cái khổ, ngay cả những tư tưởng khơn ngoan, khéo léo cũng cĩ mầm bất tịnh trong đĩ. Khi cịn phải suy tư về bất cứ điều gì thì khơng thể thực sự cĩ an tĩnh. 

 Cả thân và tâm đều là khổ. Đức Phật nĩi chỉ cĩ một lý do, một nguyên nhân chính khiến ta đau khổ đĩ là ái dục, lịng ham muốn. Cĩ ba loại ái dục chính mà những ham muốn khác đều từ đĩ mà ra. Đĩ là ham sống, ham muốn được thỏa mãn dục lạc và ham muốn bỏ thân này. Vì ba điều ham muốn đĩ, ta trầm luân trong khổ đau bởi chúng ở ngồi tầm tay ta. Khĩ thể đạt được, khĩ thể làm ta thoả mãn. Chúng ta ở trong một cuộc chiến khơng cĩ hy vọng thắng, và đĩ là cái khổ. 

 Ta chiến đấu để được trường tồn, nhưng khơng cĩ ai cịn hiện hữu khi cuộc sống của người ấy đã chấm dứt. Muốn được cĩ dục lạc, ta cũng phải tranh đấu vật vã khơng kém, nhưng điều đĩ cũng vơ vọng vì dục lạc thế gian chỉ tạm thời, chĩng qua. Chúng khơng thể kéo dài. Điều ham muốn thứ ba, muốn bỏ thân này, là cái đối nghịch với lịng ham muốn được sống. Lịng ham muốn này phát sinh khi trong mắt ta cuộc đời trở nên quá đen tối. Nhưng điều này cũng khĩ thể thực hiện vì trừ đấng Giác Ngộ, khơng ai cĩ thể hiện hữu mà khơng cĩ thân. 

 Hai sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế cho thấy ta đang sống một cuộc đời thiếu ý nghĩa. Khơng cần biết tư tưởng ta tốt đẹp thế nào, chúng đều sẽ bị hoại diệt. Nếu ta thấy rõ ràng rằng lịng ham muốn của ta khĩ thể được thỏa mãn, thì ta phải tìm phương cách để thốt ra những cảnh khổ mà ai cũng phải chịu. Khơng ngoại trừ một ai. Hiểu như thế, ta sẽ thấy thương cảm mọi người, dầu họ là người xấu xa, đáng ghét hay ngu si. Khơng cĩ kẽ hở nào nhưng cĩ con đường để thốt ra. 

 Con đường thốt ra hướng vào bên trong chúng ta. Nếu suy gẫm, ta sẽ thấy ta khơng thể tìm được gì ở bên ngồi ta. Số đơng đi tìm giải pháp ở bên ngồi, qua những điều kiện tốt hơn, người tốt hơn, ít việc hơn, ít khổ hơn. Nếu ta cĩ thể nhìn thấy được những điều ấy vơ vọng làm sao, ta sẽ khơng cịn đi tìm kiếm ở bên ngồi nữa. Thay vào đĩ, ta sẽ quay nhìn vào bên trong, để dần dần đi đến sự thật thứ ba, sự chấm dứt khổ đau, gọi là giải thốt. 

 Đức Phật khơng thực sự giải thích Giải thốt là gì. Nhưng Đức Phật đã nĩi những gì khơng phải là Giải thốt. Đức Phật biết rằng cĩ giải thích cũng vơ ích vì khi người ta chưa kinh qua Giải thốt, người ta khơng thể hiểu được điều đĩ. Nhưng cĩ thể nĩi được thế nào là khơng phải Giải thốt, như thế ít nhất con người cũng khơng tìm kiếm ở một chỗ khác. 

 Câu chuyện sau đây sẽ minh họa cho ý tưởng trên. Xưa cĩ một con cá và một con rùa kết bạn với nhau. Chúng đã sống trong cùng một ao hồ một thời gian dài. Một ngày kia, rùa quyết định đi thăm quang cảnh quanh hồ. Rùa đã nhìn được bao nhiêu cảnh đẹp, lạ để về kể cho bạn mình là cá nghe. Cá rất thú vị và hỏi rùa về quang cảnh trên mặt đất thế nào. Rùa trả lời rằng rất đẹp. Cá muốn biết là mọi thứ trên mặt đất cĩ trong suốt, mát, bĩng bẩy, mịn màng, trơn láng, dễ tuột, ướt át khơng? Khi rùa trả lời rằng trên mặt đất khơng cĩ những gì giống như thế cả, cá liền nĩi: "Vậy thì mặt đất cĩ gì tốt đẹp đâu?" 

Bát Chánh Đạo

 Con đường dẫn đến sự đọan diệt khổ đau, để được tự do, giải thốt, là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Giống như các lời dạy khác của Đức Phật, Bát chánh đạo cũng dựa vào ba phần: cư xử cĩ đạo đức (Giới), sự chú tâm (Định) và trí tuệ (Tuệ). 

 Bát chánh đạo cần được xem như con đường cĩ tám ngành, tám phần ngang nhau, mà ta cần thực hành tất cả tám phần đồng đều, chứ khơng phải như một cái thang mà ta cần phải tuần tự leo xong cấp bực này mới bước lên bậc thang khác. Bát chánh đạo cũng cĩ thể được xem như là một chuyển động vịng trịn vì nĩ bắt đầu bằng Chánh kiến và cuối cùng kết thúc bằng Chánh kiến. Dầu Chánh kiến chỉ được nhắc ở lúc ban đầu, nhưng kết quả của việc đi qua Bát chánh đạo phải là Chánh kiến. 

1. Chánh Kiến 

 Chánh kiến là bước đầu tiên vì trước hết ta phải thấy rõ ràng chẳng cĩ thể làm gì khác trong cuộc đời này hơn là đi tìm con đường giải thốt khổ đau qua những giới luật tâm linh. Như thế chắc chắn là ta phải tìm cho được những giới luật đúng để giúp ta biết được mình đã làm gì sai. Những chướng ngại của chúng ta là khổ đau, thất vọng, áy náy, cảm giác khơng trọn vẹn. Cĩ một khoảng trống trong trái tim ta cần được phủ lấp bằng một hay nhiều người, bằng tư tưởng, bằng cơng việc, hay một niềm hy vọng. Rút cuộc khơng cĩ gì lấp nĩ đầy. 

 Khi một điều luật cĩ thể giải thích được tại sao ta phiền não và chỉ cho ta phương cách đoạn trừ phiền não, tiến tới sự an vui, thì các điều luật đĩ phải rất đáng tin cậy. Hơn nữa, các lời thuyết giảng cũng phải gần gũi với các kinh nghiệm của chúng sanh. Pháp của Đức Phật cĩ thể làm được những điều đĩ. 

 Chánh kiến bao gồm việc nhận thức được rằng tất cả chúng ta đều cĩ thể thực sự tu sửa để tiến tới giải thốt. Chánh kiến cũng cĩ nghĩa là hiểu biết về nghiệp, biết rằng chỉ cĩ ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì đã xảy ra cho ta, khơng đổ thừa hồn cảnh, đổ lỗi cho người khác hay bất cứ thứ gì ở bên ngồi ta. Cĩ nghĩa là ta làm chủ nghiệp của ta. Rằng chỉ cĩ ta cĩ thể thay đổi được nghiệp của mình.

 Biết rằng ta cĩ thể thay đổi khơng chưa đủ, cần phải cĩ quyết tâm thay đổi. Đĩ là hai cách nhìn đúng: hiểu biết về nghiệp và ước muốn thay đổi để thốt ra khỏi những khổ đau. Khơng phải là thay đổi thế giới ta đang sống, hay người chung quanh ta mà là thay đổi chính bản thân. Ta khơng thể thay đổi được vấn đề, nhưng ta cĩ thể thay đổi phản ứng của mình trước một vấn đề. Ngồi ra ta cịn cĩ thể dần dần đi hết con đường Bát chánh đạo để đạt được một chánh kiến về tự ngã, đĩ là vơ ngã. 

 Ta cần cĩ trí tuệ để thực hành các giới luật tâm linh. Khơng cĩ trí tuệ để biết mình cần phải làm gì, ta sẽ khơng thể tu Thiền. 

 Vì cĩ khổ đau con người mới cĩ cơ hội để thực hành. Thay vì lúc nào cũng trốn tránh mọi phiền não, cố gạt chúng ra khỏi mắt ta hay than khĩc, đau đớn vì chúng, ta nên mang ơn chúng. Đĩ là người thầy tốt của ta. Vị Thầy duy nhất của ta, nhưng tiếc thay khơng phải ai cũng biết học hỏi từ thầy mình. 

 Cĩ nhiều cách để đối phĩ với khổ đau. Cách đầu tiên và cũng là thơng dụng nhất là đổ lỗi cho người khác. Điều đĩ thì dễ rồi. Mọi người khơng ít thì nhiều, đều hành động như thế, nhưng cách đĩ hơi trẻ con. Cách thứ hai để đối phĩ với khổ đau, thất vọng là trở nên chán nản, đắm chìm trong khổ đau. Cách thứ ba là tự thương hại mình, cảm thấy như mình là người đang mang những nỗi khổ đau của cả thế giới. Khơng cĩ ai đau khổ bằng mình, việc đĩ rõ ràng khơng đúng sự thật. Khi ta tự thương thân trách phận, ta cũng muốn cho người khác phải khổ đau như ta. Nhưng hồi cơng. Hành động như thế ta chỉ làm cho người khác khĩ chịu, bực mình. Một cách đối phĩ nữa với đau khổ là nghiến răng, đè nén tình cảm và làm như nĩ khơng cĩ mặt. Cách đĩ cũng khơng giải quyết được gì vì làm ngơ thì chẳng giải quyết được gì cả. 

 Cách thứ năm là nhìn thẳng vào khổ đau, và nĩi rằng: "Ồ, bạn cũ của tơi lại đến rồi. Lần này tơi sẽ học được gì đây?". Đĩ là chánh kiến. Lúc đĩ ta mới thật sự hiểu rằng cõi người là cõi tốt nhất cho sự Giác ngộ. Khổ đau là người thầy tốt nhất của ta vì nĩ sẽ nắm chặt lấy ta, nhấn chìm ta trong đau khổ, cho đến khi ta học được điều gì từ đĩ. Lúc ấy, sự đau khổ mới buơng thả ta. Nếu ta khơng học được gì trong sự đau khổ đĩ, chắc chắn là lần sau nĩ lại đến với ta nữa, vì cuộc đời cĩ gì khác hơn là một lớp học cho người lớn. Nếu ta khơng qua được một mơn gì đĩ, chắc chắn ta phải ngồi lại đĩ mãi. Bài học nào ta vắng mặt, ta sẽ gặp lại nĩ. Đĩ là lý do tại sao ta bắt gặp mình nhiều lần phản ứng cùng một cách trong những hồn cảnh tương tự. Tuy nhiên rồi cũng cĩ lúc ta nhận ra điều đĩ, và chánh kiến phát sinh: "Tơi phải làm cái gì đĩ để tự thay đổi. Tơi cứ gặp phải vấn đề này mãi " 

 Chánh kiến là nền mĩng căn bản ta phải cĩ để bước vào con đường đạo. Chánh kiến lúc mới đầu chưa giúp ta cĩ cái nhìn đúng về tự ngã. Phải đợi đến một lúc sau. Căn bản, chánh kiến liên quan đến hai sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế. Khi ta thấy đúng sự thật là ta đang ở trong một cuộc chiến vơ vọng nếu ta cứ tiếp tục địi hỏi dục lạc, và bảo vệ cho cái tơi của mình, đĩ là ta đang đi trên con đường đạo. Đĩ là lúc ta bước vào đạo, và đĩ là giây phút tuyệt vời. Lúc đĩ ta cảm thấy chắc chắn rằng ta đã tìm ra con đường đạo, và chắc chắn là ta sẽ đạt được kết quả cuối cùng. Chỉ cịn vấn đề thời gian. Cảm giác vui mừng đĩ cần thiết cho việc tu Thiền, và tu Thiền là điều kiện tiên quyết để đi trọn con đường. 

 Mỗi chúng ta là một minh chứng cho lời Phật dạy. Chúng ta cĩ đau khổ, cĩ tham muốn, nhưng chúng ta cũng cĩ chánh kiến và cĩ thể nhận biết nghiệp quả của mình. Chúng ta cĩ thể thay đổi và biết học hỏi từ những kinh nghiệm khổ đau trong quá khứ. Cĩ rất nhiều cách để ta chứng minh lời Đức Phật dạy, nếu chúng ta để ý quan sát đủ. Điều đĩ tạo cho chúng ta niềm tin rằng ta cĩ thể đi đến cuối con đường của Bát chánh đạo. Lịng tự tin này rất cần thiết cho sự tu tập của ta. Tự tin khơng cĩ nghĩa là cao ngạo, mà là độc lập. Mỗi người chúng ta phải tự tìm sự giải thốt cho chính mình. 

 Đức Phật dạy rằng ta khơng nên nghe theo lời Phật dạy một cách mù quáng mà phải tự tìm hiểu và chứng nghiệm được những điều Phật dạy. Trong bài Kinh Kalama nổi tiếng, Đức Phật đã nĩi về mười lý do ngăn trở ta đi theo con đường tâm linh. Những điều này cũng cĩ thể áp dụng cho chúng ta ngày nay cũng như cho dân tộc Kalama trước đây. Chúng mang đầy ý nghĩa đối với ta bây giờ cũng như trước đĩ. 

 Người Kalama đã đến gặp Phật khi Ngài đến viếng thủ đơ của Kesaputta và họ thưa với Đức Phật: "Bạch Thế Tơn, đã cĩ rất nhiều vị giáo chủ đến thành phố của chúng con, mỗi vị đều cĩ những giáo lý làm chúng con tin tưởng được. Tuy nhiên các vị giáo chủ lại bác bỏ, thố mạ lẫn nhau. Giờ thì chúng con hồn tồn khơng biết tin vào ai nữa. Chúng con rất hoang mang". Đức Phật nĩi: "Hỡi người Kalama, các người cĩ nghi ngờ, thắc mắc là đúng". Rồi Đức Phật giảng cho họ về năm giới luật, và hỏi họ rằng cĩ phải họ sẽ được hạnh phúc nếu họ giữ theo năm giới luật này và đau khổ nếu họ phạm giới. Người Kalama đồng ý với Đức Phật như thế. Lúc đĩ Đức Phật thuyết, "Đừng bao giờ tin vào kinh điển, chỉ vì chúng đã được đọc tụng; biên chép hay được các Thầy truyền trao xuống, hay vì mọi người chung quanh chúng ta đều tin; cũng khơng nên tin vì chúng cĩ tính cách huyền bí hay chúng giống như những điều mình vẫn tin tưởng, hay vì chúng hợp lý. Cũng đừng tin vì đĩ là những quan điểm mình cần bênh vực; hay vì người nĩi là một vị thầy nổi tiếng hay chỉ bởi vì vị Thầy mình đã nĩi như thế". 

 Sau khi nghe lời giảng của Phật, người Kalama trở nên đệ tử của Đức Phật. Những lời hướng dẫn đĩ vẫn cịn đúng cho đến ngày nay. Đừng tin tưởng vào điều gì đĩ vì nĩ là truyền thống, hay vì mọi người quanh ta tin, hay vì chúng đã được viết trong sách vở, nhưng Đức Phật nĩi chỉ nên tin sau khi ta đã tìm hiểu và nhận biết rằng điều đĩ cĩ ích và đúng. 

 Rõ ràng là ta đã tìm thấy đau khổ nơi chính bản thân và càng hướng vào bên trong để suy gẫm, ta càng thấy cĩ nhiều bất như ý. Nhưng khi chúng ta khơng cịn muốn biến sự đau khổ của cá nhân mình thành niềm vui cho chỉ riêng mình, thì sự xung đột sẽ biến mất, khổ đau sẽ qua đi. Chấp nhận mọi việc như chúng xảy ra cũng là chánh kiến. 

 Những người Bà la mơn, các thầy cúng ở Ấn Độ thời đĩ, khơng thích Phật vì Ngài đe dọa cách kiếm sống của họ. Ngài dạy rằng con người khơng cần phải cĩ người làm trung gian giữa họ với đấng thần linh, mới cĩ được hạnh phúc, và việc đổ hương lên các thần đá, hay dâng cúng hương hoa đều vơ ích. Vì đĩ là cách kiếm sống của người Bà la mơn, nên dù cũng cĩ nhiều người Bà la mơn sau trở thành đệ tử Phật, số khác khơng khỏi cĩ lịng thù hằn Đức Phật. 

 Một hơm, một trong những người Bà la mơn thù Phật đã đến chỗ đức Phật đang thuyết giảng, đi qua đi lại trước mặt đức Phật. Rồi ơng ta dùng lời lẽ thơ tục để chửi mắng Phật. Ơng ta cho rằng Phật đã truyền dạy những giáo lý sai lầm, Phật đáng bị đuổi ra khỏi nước, rằng Phật đã phá vỡ nền tảng gia đình vì những người trai trẻ đi theo Đức Phật trở thành các vị tu sĩ, rằng dân chúng khơng nên ủng hộ Phật; nghĩa là ơng ta mạ lị Phật bằng đủ mọi lời lẽ. 

 Khi người Bà la mơn đã hết lời chửi bới, Đức Phật, người từ nãy giờ đã ngồi im lặng nĩi: "Nầy, ơng Bà la mơn, ơng thường cĩ khách đến nhà khơng?" người Bà la mơn trả lời: "Dĩ nhiên tơi luơn cĩ khách đến nhà". Đức Phật lại nĩi: "Khi cĩ khách trong nhà ơng cĩ tiếp đãi họ khơng? Cĩ cho họ đồ ăn, uống khơng?" Người Bà la mơn trả lời: "Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên là tơi cho họ đồ ăn, thức uống". Đức Phật lại tiếp: "Vậy nếu họ khơng nhận sự tử tế ấy, họ từ chối những đồ ơng cho, thì những mĩn đồ đĩ thuộc về ai?" Người Bà la mơn nĩi: "Của tơi, của tơi" Đức Phật nĩi: "Đúng vậy ơng Bà la mơn, khi ta khơng nhận những mĩn đồ của ơng. Chúng thuộc về ơng". 

 Đây là một câu chuyện đáng cho chúng ta nhớ. Bất cứ sự cơng kích, sân hận đe dọa nào, đều thuộc về người nĩi ra những lời ấy. Chúng ta khơng phải nhận chúng là của ta. 

2. Chánh Tư duy 

 Phần thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh Tư duy. Chánh tư duy là kết quả của chánh kiến. Nếu cĩ tà kiến, thì khơng thể nào tư duy đúng. Do đĩ ta phải cẩn thận với những suy nghĩ của mình. Tất cả mọi tư duy đều bị ảnh hưởng của ngã chấp. Ta nhìn mọi sự theo quan điểm của "theo tơi thấy", vì vậy dầu quan điểm của ta đúng trong đời thường, trong đời sống tâm linh hành xử như thế cũng là khơng đúng. Tuy nhiên ta phải bắt đầu từ cái mình cĩ. Khơng thể ngồi chờ đến ngày sự hiểu biết của ta tiến bộ hơn. Ngày đĩ sẽ chẳng bao giờ đến, nếu ta khơng bắt đầu tu sửa ngay từ bây giờ. 

 Hạnh phúc, an lạc khơng phải sinh ra là ta đã cĩ được. Phải qua bao kiên trì cố gắng tu tập, ta mới cĩ được. Cố gắng để làm sao ta luơn cĩ chánh kiến, từ đĩ đưa đến sự suy nghĩ đúng. Chánh kiến và chánh tư duy là phần trí tuệ của Bát chánh đạo. 

 Trước khi Đức Phật Giác ngộ, khi Ngài cịn là một vị Bồ Tát, Ngài luơn theo dõi tất cả những hoạt động của tâm, và Ngài nhận ra rằng khi các ác kiến, sân hận, ái dục phát khởi trong tâm, thì chính Ngài là người đau khổ. Nhưng khi Ngài cĩ những tư tưởng xả bỏ từ bi, vơ nhiễm thì chính Ngài là người được lợi ích. Từ đĩ Đức Phật đã rèn luyện tâm đến chỗ Ngài cĩ thể đoạn diệt hết mọi tà kiến. 

 Chánh tư duy cĩ ba đặc tính: xả, từ và vơ nhiễm. Ta khơng thể cĩ tâm xả chỉ bằng ao ứơc hay tự đè nén. Mà phải dùng chánh kiến suy nghĩ rằng ái dục chỉ đem lại khổ đau. Nếu ta cĩ thể thực chứng điều đĩ ngay nơi bản thân thì tự nhiên ta sẽ buơng bỏ mọi tham muốn dấy khởi. Và ta sẽ làm điều đĩ một cách vui vẻ, cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái khi buơng bỏ mọi phiền não, khổ đau. 

 Lịng tham muốn bao giờ cũng mang lại khổ đau, vì nĩ chỉ dấy khởi khi ta khơng cĩ được cái mà ta muốn cĩ. Cĩ thể là vật chất hay tinh thần, khơng quan trọng. Nhưng đĩ là điều ta khơng cĩ, nên ta ao ước, do đĩ ta coi sự thiếu sĩt đĩ là một khổ đau. Đến khi khơng được toại nguyện, thì ta buồn bực, tuyệt vọng, đau đớn, khổ sở. Rõ ràng là ta khổ vì ta khơng được cái ta muốn. 

 Tuy nhiên khi đạt được điều mình mong ước, ta cũng bị phiền não vì theo kinh nghiệm quá khứ, ta biết là sự thỏa mãn, toại nguyện khơng thể kéo dài. Cĩ rồi, ta lo lắng tìm cách để giữ lại bên mình, để duy trì nĩ. Lo lắng là khổ, mà khi cái ta được mất đi thì ta cũng khổ. 

 Khi cố gắng để duy trì một cái gì đĩ đều đem đến cho ta sự căng thẳng, sợ hãi. Thí dụ như ta lo sợ phải đánh mất người thân, của cải, tình cảm hay hồn cảnh thuận lợi. Lo lắng, sợ khơng cĩ được điều ta mong muốn. Khi đã thực chứng cái khổ này trong ta, ta sẽ cĩ thể buơng bỏ chúng. Sự bám viú vào người, vào vật ta khơng muốn xa lià, làm ta đau khổ. Khơng cĩ gì hơn là đau khổ phiền não cho đến ngày chính ta cũng phải ra đi. Nếu khơng nhìn ra được sự thật đĩ, ta sẽ khơng thể thay đổi. 

 Khi ta cĩ thể cho người khác vật mà ta đang quý trọng, lúc đĩ ta mới thật sự thực hành tâm buơng xả. Nếu ta cĩ thể cho một cách vui vẻ, chứ khơng phải nghiến răng, nhắm mắt vì khơng muốn thấy nĩ mất đi, thì quả rằng ta đã biết sự bám viú, chấp chặt vào gì đĩ là đau khổ. 

 Nhưng buơng bỏ vật chất khơng quan trọng bằng buơng bỏ những cái nhìn định kiến của ta về tự ngã, về thế giới và về cách những người ở chung quanh ta phải sống, cư xử như thế nào, nhất là những người thân của ta. Bám viú vào ham muốn sở hữu, làm chủ, tất cả đều là khổ đau. 

 Ngồi ra cịn cĩ lịng ham muốn về tinh thần, thí dụ được yêu. Được làm vợ, làm mẹ, được nổi tiếng, được biết ơn. Bất cứ ham muốn nào cũng là đau khổ, cản trở ta được sống hạnh phúc, an nhiên tự tại. Khơng chấp nhận chính mình cũng là khổ đau. Điều này khác với việc ta tu tập, cố gắng tự sửa đổi mình dần dần. Vì sự ao ước trong tâm tưởng là kết quả của một cảm giác thiếu hụt, khơng vẹn tồn, gây ra khổ. Chỉ cĩ buơng xả mới cĩ thể dứt khỏi khổ đau. Khi cịn ham muốn, ta cịn đau khổ. Trong chánh tư duy đã tiềm ẩn sự buơng xả. từ bi, vơ nhiễm đối với đồng loại, cộng với sự hiểu biết về sự thật khổ đau hướng ta đến những tư duy đúng. Tất cả bốn sự thật (Tứ Diệu Đế) đan kết vào nhau vì chúng đi vào tận trong tư duy sâu thẳm của ta. Nếu ta hiểu đúng, thì ta sẽ hành động đúng. Những khổ đau của chúng ta cũng là khổ đau của chúng sanh được lập đi lập lại qua khơng biết bao nhiêu lâu. 

 Thí dụ nếu ta ngắm một con chim. Thay vì để ý bộ lơng nĩ đẹp biết bao nhiêu, giọng hĩt nĩ líu lo làm sao, nĩ cĩ thể bay dễ dàng trên khơng trung, đi đến bất cứ nơi nào nĩ muốn, hãy nhìn kỹ hơn nữa. Chú chim luơn ngĩ qua ngĩ lại, quay đầu qua phải, qua trái, lo sợ con thú khác cĩ thể tấn cơng nĩ, phá hoại ổ của nĩ. Lúc khác thì vì vấn đề sinh tồn, nĩ luơn phải đi kiếm thức ăn. Và đĩ chỉ là một động vật trong bao nhiêu động vật khác. 

 Hãy quan sát người chung quanh ta, nhìn nét mặt họ. Đức Phật khuyên chúng ta cần phải biết thế giới bên trong và bên ngồi ta. Đĩ là chánh niệm, tỉnh thức và biết. Nếu chúng ta cĩ thể thấy rằng tất cả những người ta tiếp xúc đều cĩ khổ đau, ta cĩ thể suy ra, khơng nghi ngờ gì, đĩ cũng là sự thật đối với tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi. Nhưng nếu tâm ta khơng hồn tồn tin phục vào điều đĩ, ta sẽ khĩ khởi tâm đại bi. Lúc nào cũng cĩ những lời bài bác nổi lên trong đầu: "Tơi cũng thương cơ ấy chứ, nếu cơ ấy khơng nĩi năng như thế hay hành động như thế". Hay "Tơi thương hại cơ ấy chứ, nhưng cũng là do cơ ấy tự mang hoạ đến cho mình thơi". Những cách suy nghĩ như thế khơng cần thiết. Tất cả chúng ta đều khổ đau, nhưng nếu ta khơng nhận ra điều ấy, thì lịng từ bi bác ái của ta sẽ trở thành một thứ lúc cĩ lúc khơng. Khi mọi chuyện ổn thỏa, ta cĩ thể chịu đựng được. Nhưng khi cĩ khĩ khăn, ta chịu thua. Chánh tư duy cĩ nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải cẩn trọng trong hành động và ứng xử khéo léo. Khơng thể tuỳ thuộc vào trạng thái tâm hồn của ta hay hành động của người khác. 

 Chánh tư duy là quá trình tạo nghiệp của chúng ta, khi tâm thức ta đang tạo ra tư duy. Chánh kiến cĩ thể cĩ được nhờ vào trí tuệ và tánh giác. Đĩ là nền tảng tư duy của chúng ta. Tư duy luơn phát khởi với mỗi hành động hay phản ứng của chúng ta. "Nghiệp, này các Tỳ kheo, ta nĩi là, sự chủ tâm", đĩ là những lời Phật dạy. Đĩ là cách chúng ta tạo nghiệp, và nếu ta thật sự tin tưởng rằng nghiệp thiện cần thiết cho một đời sống lành mạnh, thì ta cần phải cẩn thận với tư duy của mình. 

 Một đặc điểm thú vị của tư duy là nĩ giống như một tảng băng: một phần ba nổi trên mặt nước, nhưng hai phần cịn lại ở dưới nước. Ta chỉ cĩ thể thấy được phần nổi ở trên. Như chúng ta bố thí vật gì đĩ, ta nghĩ đĩ là lịng rộng lượng, nhưng ta cĩ thực sự quán sát cái chủ tâm ở đằng sau lịng rộng lượng đĩ khơng? Để tự hiểu mình, ta phải tìm hiểu nội tâm mình thấu đáo. Cĩ rất nhiều ngõ ngách trong tâm hồn con người ta. Chúng ta khơng muốn nhìn sự thật vì cĩ những điều khơng tốt đẹp ở nơi đĩ. Nhưng đĩ là vì chúng ta chỉ là con người, nếu khơng ta đã ở cõi trời rồi. Tốt hơn hết là ta nên nhìn nhận khuyết điểm của mình. Chỉ cĩ những gì được mang ra ánh sáng, mới cĩ thể được lau chùi, làm cho tốt đẹp. Bụi bặm ở dưới chiếu sẽ khơng được quét sạch, nếu khơng ta dở tấm chiếu lên. Đức Phật đã so sánh những nhiễm ơ của ta giống như rơm ướt. Nếu ta cất chúng trong những chỗ kín, chúng sẽ rũ mục. Nhưng nếu ta đem ra phơi nắng, thì chúng sẽ khơ và cĩ thể sử dụng được. Hãy nhìn vào gĩc tối của tâm hồn ta và quán sát kỹ chủ tâm của ta. 

 Ba phần kế trên con đường Bát chánh đạo nĩi về hành động đạo đức: chánh ngữ, chánh mạng và chánh nghiệp. 

3. Chánh Ngữ 

 Lời nĩi rất quan trọng, ta cần phải giữ ý tứ hơn trong lời nĩi. Khơng phải vì ta cĩ khả năng sử dụng ngơn ngữ, là ta biết nghệ thuật nĩi chuyện. 

 Đức Phật đã cĩ lời khuyên rất sâu sắc về ngơn ngữ, rất đáng để ta ghi nhớ: "Nếu bạn biết chuyện cĩ hại và khơng đúng, đừng nĩi ra. Nếu bạn biết chuyện cĩ ích, nhưng khơng đúng, đừng nĩi ra. Nếu bạn biết chuyện cĩ ích, và đúng sự thật, hãy đợi đúng thời điểm để nĩi ra". 

 Chúng ta phải tập bỏ nĩi những lời giả dối. Trước hết ta cần phải suy nghĩ những lời mình nĩi, để biết chắc rằng chúng hữu ích, chân thật và đúng thời, đúng lúc để nĩi. Khi người khác chịu lắng nghe trong một trạng thái bình tâm, tỉnh trí, thì đĩ là đúng lúc. Nhưng quan trọng hơn cả, những lời nĩi đĩ phải phát xuất từ lịng thương yêu của ta. Chỉ những lúc ấy ta mới nên nĩi điều gì. Nếu trong ta cĩ lịng giận ghét, kình chống người nghe dù chỉ là chút ít, điều đĩ cũng sẽ hiện ra trong lời nĩi của ta, như thế lời nĩi của ta cũng vơ ích. Ai cũng cĩ lúc cảm thấy cần bảo người khác khơng nên làm điều này, điều nọ. Khi phát ngơn, hãy nhớ những lời khuyên trên để lời nĩi của ta cĩ hiệu quả hơn. 

 Chánh ngữ thường được hiểu là khơng nĩi lời điêu ngoa, khơng nĩi chuyện người, nĩi hai lưỡi, nĩi đâm thọc, nĩi lời dữ ác hay chửi rủa người khác. Đức Phật dạy rằng lời nĩi cĩ thể gây thù hay kết bạn, đem lại hạnh phúc gia đình hay đổ vỡ. Nĩ là cội rễ của tình bạn đậm đà hay gây nên ốn thù. Đức Phật cũng nĩi rằng chánh ngữ cũng cĩ nghĩa là khơng đi đến cực đoan, nghĩa là lúc quá nhiều lời, lúc cạy miệng khơng ra, làm thế cũng bằng nĩi dối. Nĩ bắt nguồn từ ý muốn làm mình thêm quan trọng. 

 Khi La Hầu La, con của Đức Phật, được 7 tuổi, Đức Phật đã dạy con về việc khơng nĩi dối, là điều quan trọng cho trẻ con cũng như người lớn. Nếu điều đĩ khơng quan trọng đến việc dạy dỗ cho La Hầu La, Đức Phật đã khơng nĩi đến. Đức Phật cho con coi một cái bình cĩ ít nước trong đĩ và nĩi với La Hầu La: "La Hầu La thấy gì trong đây?" Đứa trẻ trả lời: "Con thấy một ít nước". Đức Phật nĩi: "Lịng tin cậy của người khác đối với kẻ nĩi dối cũng ít như thế". Rồi Ngài đổ nước ra khỏi bình nĩi: "Giờ thì con thấy gì?" La Hầu La trả lời: "Cái bình giờ trống rỗng". Đức Phật nĩi: "Đúng vậy, người nĩi dối cũng trống rỗng giống như thế". Rồi Ngài lật ngược cái bình lại, nĩi: "La Hầu La giờ con thấy gì?" La Hầu La đáp: "Cái bình bị úp xuống ". Đức Phật nĩi: "Đúng vậy, người mà nĩi dối thì cuộc đời của họ sẽ bị đảo lộn như thế". 

 Nĩi dối là bước khởi đầu để phạm mọi giới luật khác. Người ta nĩi dối để tự bảo vệ mình, vì tham lam, để được nhiều hơn phần mình đáng được, đơi khi vì lịng sân hận, người ta nĩi dối để hãm hại người khác. 

 Lời nĩi dựa vào tư tưởng, vì thế nếu ta cĩ thể chế ngự tư tưởng của mình, ta mới cĩ thể chế ngự được lời nĩi. Chúng ta sẽ chánh niệm những gì chúng ta suy nghĩ, để đổi nĩ từ xấu xa đến thanh tịnh. Nếu ta khơng thể học kềm chế lời nĩi của mình, ta sẽ khơng cĩ nhiều bạn. 

 Mặt khác ta phải nĩi lời cĩ ý nghĩa. Tán gẫu cũng là tà ngữ. Thí dụ chỉ nĩi để mà nĩi, như là nĩi chuyện gia đình, đồ ăn uống, thời tiết, thăm hỏi xã giao. Nĩi để giải khuây, giết thời giờ. Trừ khi ta cĩ chánh niệm, biết rõ điều mình nĩi, bằng khơng ta nên giữ im lặng, quán xét tâm của mình. 

 Chánh ngữ là một trong ba mươi tám căn lành trong bài Kinh Đại Hạnh Phúc (Great Blessings Discourse). Thật là may mắn, nếu ta biết nĩi lời tử tế, lịch sự đầy ý nghĩa, đầy chân thật. Hai người cĩ thể nĩi cùng một điều, với hai chủ đích khác nhau, vì thế nghiệp quả của họ cũng khác đi. Nếu ta thực tập bằng cách quán tâm của mình thì dần dần ta cĩ thể biết được sự chủ tâm của mình, nhưng ta khơng thể làm thế trong khi nĩi. 

 Giới luật thứ tư trong năm giới, kiềm giữ, khơng nĩi dối, nĩi lời khơng thật, cần phải được xét lại xem nĩ cĩ ý nghĩa gì trong cuộc đời ta. Nếu ta thực sự chọn hành động theo lời Phật dạy, thì giới luật đĩ phải được đưa lên hàng đầu, vì ai cũng nĩi suốt cả ngày. Khi ta nĩi những lời thật cĩ ý nghĩa, mọi người sẽ lắng nghe. Khi ta nĩi lời tử tế, người khác sẽ vui mừng. Khi ta nĩi lời lịch sự ta sẽ cĩ thêm bạn. Lời chân thật, ta sẽ được uy tín. Khơng cĩ lời xiên xỏ, đâm thọc ta sẽ được tin cậy. Ta cĩ thể tâm sự, chia sẻ với người khác về những khĩ khăn hay bí mật của mình. Nếu ta cĩ thể trở nên một người như thế, ta sẽ cĩ nhiều bạn bè và một cuộc sống bình an, vì trong tâm ta khơng cĩ gì cần phải được che dấu. Ta khơng cần phải lo lắng về những điều mình nĩi, nĩi như thế nào, hay khơng biết điều mình nĩi cĩ đúng khơng. Lời nĩi của ta sẽ thành dễ dàng vì đằng sau chúng là những chủ đích tốt đẹp. 

 Đức Phật cũng nĩi về việc giảng Pháp. Cần phải chính xác, nghĩa là ta phải biết mình đang nghĩ gì, cảm giác ra làm sao. Điều này rất quan trọng. Mọi người khi nĩi Pháp, ngay cả khi nĩi về việc Thiền định của chính mình, cũng phải chính xác. Cĩ nghĩa là tâm ta phải rõ ràng, lúc đĩ ngơn ngữ chính xác mới cĩ thể phát ra. Đây là những khả năng ta cĩ thể huân tập được qua sự chánh niệm. Khơng phải qua những bài học về thuật hùng biện. 

4. Chánh Nghiệp 

 Chánh nghiệp cũng dựa vào sự chủ tâm đúng. Nếu cĩ chủ tâm đúng, dựa trên chánh kiến, thì chánh nghiệp sẽ theo sau. Tất cả đều tạo ra nghiệp cho ta, vì tất cả đều là kết quả của sự chủ tâm. Lời nĩi dựa vào chủ tâm. Hành động cũng dựa vào chủ tâm. Tất cả tạo ra nghiệp - tốt, xấu hay khơng tốt khơng xấu - khơng phải là cho ngay kiếp sau, mà chính là cho ngay hiện tại. Nghiệp và nghiệp quả xảy ra từng giây phút. Trừ khi ta để ý đến kết quả, ta sẽ khơng biết rằng chúng cĩ liên hệ với những gì ta vừa nĩi, vừa nghĩ hay vừa làm. 

 Nhờ cĩ chánh nghiệp ta khơng làm hại đến sinh vật khác dưới bất cứ hình thức nào, từ bỏ lịng tham lam ác độc. Khơng thể đè nén lịng tham và sự ác độc. Chúng sẽ hiện lên bằng cách này hay cách khác. Ta cần phải cĩ tâm buơng bỏ chúng, qua sự tu tập Thiền định. Khi tọa Thiền, ta phải dứt bỏ mọi tham ái, nếu khơng sẽ khơng cĩ Thiền định. Chỉ cĩ vọng tưởng, hy vọng, ước mong, sợ hãi, nhớ tưởng. Nếu khơng buơng bỏ được những trạng thái này của tâm, thì ta khĩ thể tham Thiền. Thiền định là xả, buơng bỏ mọi lăng xăng của tâm, ngã tưởng và ái dục. Vì ta chưa thực tập buơng bỏ được nhiều, ta rất khĩ ngồi Thiền, nhưng lần hồi, với sự huân tập, ta sẽ dễ tọa Thiền hơn. Cố gắng đè nén chúng khơng cĩ kết quả gì, nhưng sự buơng bỏ cái ý muốn suy tư, nhớ tưởng, hoạch định, sẽ đem lại kết quả khả quan nhất. Buơng bỏ lịng ham muốn là con đường duy nhất dẫn tới sự bình an, và khi đã kinh nghiệm được như thế, ta sẽ hiểu được rằng buơng bỏ lịng ham muốn trong đời sống hàng ngày sẽ mang lại cho ta hạnh phúc. 

 Chánh nghiệp cĩ thể thực hiện được trong mọi hồn cảnh, bởi bất cứ ai, bất cứ lúc nào, dầu ở nhà, hay nơi cơng sở, hay chốn tu hành. Bất cứ nơi nào, bất cứ chúng ta là ai, tất cả chúng ta đều phải hành động. Chúng ta cĩ thể xét xem những hành động cĩ ích lợi cho người khác hay cho chúng ta. Ngay cả việc nấu ăn hay dọn dẹp nhà cửa cũng phải được làm với chủ đích tốt, khơng phải vì bổn phận, vì được yêu cầu hay vì sợ người khác. Lý do chánh để ta làm điều đĩ là vì ở đúng một thời điểm nào đĩ, việc đĩ cần đuợc thực hiện với một mục đích. Quán sát kỹ, đầy chánh niệm, dần hồi ta biết được chủ đích thực sự và quan điểm của mình trong các hành động. Ta cĩ thể thấy được sự liên kết giữa thân và tâm, mà khơng cần phải để ý đến những thứ bên ngồi ta. Sẽ khơng cĩ sự miễn cưỡng, chống đối, mà đối với mọi việc ta đều làm với cả tấm lịng. Chỉ cĩ như thế thì hành động của ta mới mang lại kết quả gì. 

 Thường người ta nghĩ rằng cơng việc làm ta khơng cịn thì giờ vui chơi, tiêu khiển. Đĩ rõ ràng là một cái nhìn sai lầm. Chính sự vui chơi mới làm gián đoạn cơng việc. Dầu làm bất cứ nghề gì, cơng việc cũng là phương tiện để ta cảm thấy hữu ích, sống cĩ mục đích. Cơng việc là phương tiện giúp ta hồn tồn chú tâm đến thân, biết các duyên hành, duyên khởi của thân. Cơng việc là cơ hội để ta giúp ích, phục vụ người, phát triển các kỹ năng và biểu lộ tình thương đến với người khác bằng cách phục vụ họ. Khơng cĩ phương tiện nào tốt hơn để thanh tịnh hố thân tâm bằng cơng việc. Khơng chỉ làm để kiếm sống hay vì người khác địi hỏi mà làm mọi việc với tất cả tấm lịng như một phương tiện để thấu hiểu mọi việc hơn. 

5. Chánh Mạng 

 Chánh mạng là một trong ba đặc tính của đức hạnh. Chánh mạng cĩ nghĩa là phương tiện ta kiếm sống khơng làm hại đến ai. Mỗi người phải tự mình biết điều đĩ. Cĩ nhiều cách kiếm sống được coi là "đúng", hơn là "sai", nhưng cũng cĩ những cách kiếm sống thật tai hại. Để đánh giá, ta cĩ thể dựa vào năm giới luật. Nếu cách kiếm sống của ta phạm vào một trong năm điều cấm, thì rõ ràng đĩ là sai. 

 Chánh mạng là một yếu tố quan trọng trong sự thanh tịnh hĩa, vì nếu ta theo đuổi một cách kiếm sống sai lầm, ta sẽ trở nên chai lì, và thĩi quen tội lỗi sẽ thành hình. Một người đồ tể, trong các lị sát sinh, chẳng hạn, phải giết chết hết mọi cảm xúc của mình mới cĩ thể tiếp tục làm cơng việc này. Nếu khơng, anh ta khĩ mà làm cơng việc này. Một con người như thế sẽ trở nên chai cứng, khơng cịn lịng thương xĩt đối với các chúng sanh. 

 Phải giết hại là một cách kiếm sống rất tại hại. Nĩi dối, uống rượu, lấy của người, tất cả là những phương tiện kiếm sống khơng lương thiện. Cũng cĩ người sinh sống bằng những quan hệ tình dục sai tráí. Rõ ràng là những cách kiếm sống dựa trên ái dục, khơng chỉ tai hại cho bản thân người hành nghề này mà cịn gây khổ lụy cho người khác. Và họ tiếp tục làm những việc này bằng cách tự biện hộ lý giải cho hành động của họ. Nhưng đĩ là tà kiến của họ. Trong khi muốn đi trên con đường đạo, mỗi bước đi ta cần phải dựa vào chánh kiến. 

6. Chánh Tinh Tấn 

 Sự tinh tấn và năng lựơng cĩ ảnh hưởng cộng sinh. Nhờ cĩ năng lượng, ta mới cĩ tinh tấn. Ngược lại, nếu ta cứ tiếp tục tinh tấn, thì năng lượng càng tăng thêm. Năng lượng là nhiên liệu của sự tinh tấn, cũng như ngược lại. Tinh tấn cĩ vẻ như đối nghịch với sự thoải mái, dễ chịu, nhưng nếu cứ tiếp tục tham Thiền, đến một lúc nào đĩ, ta sẽ nhận ra rằng chính nhờ cĩ tinh tấn ta mới cĩ được sự thoải mái, dễ chịu. 

 Đức Phật đã chỉ cho ta bốn tinh tấn ba la mật là những phương tiện hữu ích. Chúng được gọi là "ba la mật" (tối thượng) vì chúng rất hữu ích và cũng rất khĩ thực hiện. "Đừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nĩ chưa dấy khởi. Đừng để nĩ tiếp tục, nếu nĩ đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nĩ chưa phát sinh. Hãy nuơi dưỡng ý niệm lành, nếu nĩ đã dấy khởi ". 

 Để làm được như thế ta phải theo dõi tâm mình, và phải biết phân biệt giữa cái tốt và cái xấu. Đĩ là một trong những lý do tại sao tơi đã khuyên các bạn nên đặt tên cho tư tưởng của mình, khi chúng phát sinh trong lúc tọa Thiền. Chỉ khi nào ta biết mình nghĩ gì, ta mới cĩ thể cĩ những biện pháp thích ứng. Ta cần biết tâm mình đang cĩ những ác niệm hay niệm lành, cần biết phân biệt rõ ràng như thế, ta mới cĩ thể thực hành được lời dạy trên của Đức Phật. 

 Cần phải cĩ rất nhiều chánh niệm để giữ cho các ác niệm khơng dấy khởi, vì ta phải biết rõ về chủ đích ở phía đằng sau. Với những tư tưởng đang dấy khởi, điều đĩ dễ dàng hơn. Vì thế, ta nên bắt đầu với chúng, cho đến khi ta cĩ đủ khả năng để biết một điều gì đĩ khơng được tốt đang chực chờ bộc phát, để ngăn chận khơng cho nĩ xuất hiện. 

 Khi hành thiền, mọi tư tưởng đều vơ ích vì ta khơng muốn suy nghĩ, mà muốn thiền. Trong cuộc sống hàng ngày thì lại khác. Ta cần phải dẹp bỏ mọi ác niệm. Cố gắng đè nén chúng khơng ích lợi gì. Mà nên buơng bỏ chúng, hoặc thay chúng bằng những thiện niệm. Khi tọa Thiền, ta thay thế tư tưởng bằng sự chủ tâm vào thiền quán. Ta cĩ làm được điều đĩ hiệu quả hay khơng trong thiền, sẽ phản ánh trong việc ta thực hành bốn tinh tấn ba la mật trong đời sống hàng ngày. Ngược lại, trong đời sống hàng ngày, ta cĩ thực hành tốt hay khơng bốn tinh tấn ba la mật, thì điều này lại phản ánh trong lúc ta tu tập Thiền. Những ác niệm trong đời sống hàng ngày hiện lên trong sự lăng xăng, khơng yên tĩnh lúc ta tọa thiền. Trong khi những ý niệm lành luơn được nuơi dưỡng, và khơng bao giờ sai lệch, sẽ đem lại an bình và yên tĩnh cho tâm ta. 

 Nếu ta khơng thể nhớ gì về những điều Phật dạy trừ bốn tinh tấn ba la mật này, thì cũng là đủ. Những điều khác, nếu chúng ta cĩ nhớ, cĩ thể giúp ta thêm phấn khởi, thêm thanh cao, nhưng bốn ba la mật vừa nêu trên giúp người thực tập chúng dễ dàng đạt được sự thanh tịnh. 

 Cần phải cĩ chánh kiến để nhận ra rằng đĩ là những điều chúng ta cần làm, và muốn thực hành, ta cần phải huân tập cơng phu. Trên cõi đời này rất ít cĩ người hồn tồn khơng cĩ ác niệm. Vì ta tràn đầy các ác niệm nên ta phải sống trong một thế giới cũng nhiễu nhương, hỗn loạn. Khơng phải là các ngơi nhà cao tầng, xe cộ hay các cơ chế chính quyền làm nên thế giới này. Nhưng chính là quá trình tư duy của chúng ta đã làm nên sự khác biệt giữa chiến tranh hay hồ bình, giữa nội tâm ta và thế giới bên ngồi ta. 

 Đặt tên cho các ý nghĩ của mình, cĩ nghĩa là ta biết ta đang nghĩ gì. Tốt nhất là ta thực hành các điều này khi hành Thiền, là khi ta cĩ thể thấy rõ ràng tâm ta luơn luơn lăng xăng. Các tư tưởng của ta cĩ thể xấu hoặc tốt hoặc trung tính, khơng tốt khơng xấu, cĩ thể là tư tưởng hoang mang, lăng xăng, lo âu hay sợ sệt, ghen ghét, ganh tị hay hồn tồn mù mịt. Trừ khi ta biết rõ những điều này, ta khơng thể nhìn trở vào để tự quán sát, ta sẽ khơng bao giờ hiểu tại sao mình lại cĩ những cảm giác như thế hay hành động như thế. 

 Bốn tinh tấn ba-la-mật là những điểm cơ bản trên con đường đạo. Trong khi hoa hương, đèn nến, tiếng chuơng, chùa chiền chỉ là những thứ trang sức bên ngồi. "Đừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nĩ chưa dấy khởi. Đừng để nĩ tiếp tục, nếu nĩ đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nĩ chưa dấy khởi. Hãy nuơi dưỡng ý niệm lành, nếu nĩ đã phát sinh". Đĩ là quá trình thanh tịnh hố tư tưởng, và cũng đưa đến sự thanh tịnh hố lời nĩi và việc làm. Khi những điều đĩ xảy ra, ta cĩ thể thấy rõ ràng hơn. Một tấm gương trong suốt với mặt gương sạch bĩng khơng dính buị dơ, là tấm gương cĩ thể phản chiếu được những hình ảnh trong sạch. 

 Ta cần phải tinh tấn trong bất cứ việc gì mình làm, nhất là trong lúc tọa thiền. Vì dầu hành thiền một cách tinh tấn, ta cũng khơng thể thấy những kết quả tức thời. Điều đĩ cĩ thể khiến tâm thối hố, khơng cĩ được sự tinh tấn ban đầu. Khi tâm địi phải cĩ kết quả tức thời, đĩ là sự trĩi buộc, bám víu, địi hỏi. Đĩ là lịng ham muốn, do đĩ đưa đến đau khổ. 

 Làm điều gì cũng thế. Ta thường trơng mong kết quả, rồi khi kết quả khơng như ý, thì sinh ra chán nản, buồn rầu. Tinh tấn vì tinh tấn, khơng vì mong muốn kết quả. Cĩ được chánh tinh tấn là một thiện nghiệp, khơng cần biết đến kết quả như thế nào. Như khi tham thiền, dầu ta chưa thấy kết quả rõ ràng, tức thời, nghiệp thiện cũng đã được hình thành do cĩ chủ đích tốt. 

 Chỉ cần cĩ chánh tinh tấn, ta cũng đã cĩ được lợi ích, nhưng ít khi ta để ý đến điều đĩ. Ta cịn mãi trơng đợi những phần thưởng vật chất. "Tơi đã quá cố gắng mà vẫn khơng thể chú tâm"hay "Tơi đã thương yêu con cái biết bao nhiêu, nhưng chúng chẳng hề biết ơn", "Tơi đã chăm sĩc cho cơ tơi bao nhiêu lâu, vậy mà cơ ấy chưa bao giờ nĩi lời tử tế với tơi". Đĩ là một thái độ sai lầm. Sự cố gắng của ta đã là một nghiệp thiện, đĩ chính là kết quả. Khơng cần biết ai khác nĩi gì hay kết quả ra làm sao, đĩ là vấn đề thứ yếu. Đơi khi ta đạt được định. Đơi khi kẻ khác hàm ơn việc ta làm cho họ. Nhưng điều đĩ khơng liên hệ đến hiệu quả của những cố gắng của ta. Nếu ta khơng thay đổi cách nhìn, thì ta luơn phải phụ thuộc vào kết quả. Như thế sự tinh tấn của ta sẽ lúc cĩ, lúc khơng vì kết quả cũng lúc cĩ lúc khơng. Nếu tinh tấn khơng luơn cĩ mặt, rõ ràng nĩ khơng cĩ hiệu lực. Chánh tinh tấn cần phải luơn vững chắc. 

7. Chánh Niệm 

 Kế tiếp là chánh niệm. Nếu bạn đã thực hành chánh niệm, bạn sẽ biết chánh niệm là gì. Khi ta đặt chân xuống đất và khơng biết đến gì khác hơn là việc đặt chân xuống đất, đĩ là chánh niệm. Khi đưa đũa lên miệng, ta khơng biết gì khác hơn là như thế, đĩ là chánh niệm. Điều đĩ rất khác với việc ta làm hàng ngày, nhưng nếu ta khơng biết sự khác biệt đĩ, thì ta chưa biết thực hành chánh niệm. Lúc ta hồn tồn chánh niệm ta khơng thấy gì khác hơn. Đĩ là sự chú tâm vào một điểm. Điều đĩ giúp ta quên đi những phiền não của mình, vì ta khơng thể nghĩ về hai điều cùng một lúc. Một trọng tâm điểm khi đem ứng dụng vào thiền, dần dần ta sẽ cĩ thể đạt định. Trong cuộc sống hàng ngày, sự thực hành chánh niệm giúp ta quên đi bao phiền não, vì chúng khơng cịn ngự trị tâm ta, và trong thiền, nĩ giúp ta đạt định. 

 Chánh niệm cịn cĩ thể giúp ta tự thanh tịnh hố. Khi người ta biết rõ mình đang làm gì, nĩi gì hay nghĩ gì, người ta sẽ trở nên cẩn thận để thân, khẩu và ý đều khơng sai phạm, khơng để nĩ bị những hành động bản năng, cấu uế làm chủ. Bằng cách đĩ, ta được thanh tịnh hố. 

 Đơi khi cĩ sự hiểu lầm về từ "chánh niệm". Chánh niệm cĩ nghĩa là luơn luơn lúc nào ta cũng cĩ sự chú tâm. Làm sao ta cĩ thể sửa đổi ác nghiệp, nếu ta khơng chú tâm, khơng biết đến sự hiện diện của chúng? 

 Cĩ bốn chánh niệm căn bản: chánh niệm về thân - như hành động, sự chuyển động, ba mươi hai bộ phận, dáng đi đứng, sắc thân; chánh niệm về các cảm thọ - như các cảm giác tâm sinh lý; chánh niệm về tâm - như quá trình tư duy, biết rằng ta đang suy nghĩ, tâm đang hoạt động, biết rằng cĩ suy tưởng và biết tư tưởng; và cuối cùng là chánh niệm về đối tượng của tâm - như biết rằng tư tưởng nào đĩ là cấu uế hay trong sạch. 

 Theo truyền thống, chánh niệm về đối tượng của tâm trước đĩ được coi như là sự chú tâm để xem coi phần nào là của năm uẩn hay bảy giác chi, bát chánh đạo hay sáu trần dấy khởi. Nhưng trong thực tế, trong ứng dụng hàng ngày, điều đĩ quá phiền tối. Phần đơng chúng ta khơng nhớ hết mọi chi tiết để tra xét. Chỉ cần biết tư tưởng đĩ cĩ trong sạch hay ơ uế là đủ rồi. Cũng thế, rõ ràng ta khĩ thực hành bốn thứ chánh niệm cùng một lúc. Ta cĩ thể lựa chọn khi hành thiền. Hoặc là chú tâm vào hơi thở vào ra, hay đi thiền hành, cả hai việc này đều khiến ta phải quán thân. Hay ta cĩ thể quán về các cảm thọ do tâm sinh lý gây ra. Nếu ta nhận thấy mình bị phiền não vì vọng tưởng, thì đĩ là kết quả của sự quán tâm. Khi ta đặt tên cho các vọng niệm, và biết đĩ là thương, ghét, từ bi, sân hận thì là ta đang thực hành quán về đối tượng của tâm. Tĩm lại, khi tham thiền, chính ta là người lựa chọn đặt sự chú tâm của mình vào đâu. 

 Nhưng trong cuộc sống hàng ngày thì khác. Ta phải đặt chú tâm vào việc gì đúng ở thời điểm nĩ đang xảy ra. Thí dụ như khi đang băng qua một con đường cĩ nhiều xe cộ, mà ta lại phải chú tâm vào từng bước chân của mình, thì e rằng đĩ khơng phải là một cách giữ mạng sống. Ta phải chú ý xe cộ chạy ra làm sao. Trong trường hợp này, cĩ nghĩa là ta phải chú tâm vào những gì đang xảy ra quanh ta. Hay khi đang trị chuyện qua điện thoại, chắc ta khĩ chú tâm vào cái ống nghe, vì làm thế thì ta sẽ chẳng biết mình nĩi gì. Ta phải chú tâm vào quá trình tư duy và kết quả của nĩ là những lời ta nĩi ra. Bất cứ gì hợp lý, đĩ là nơi ta phải đặt chú tâm vào. 

 Chánh niệm là một yếu tố tâm linh mà ta cĩ thể và phải thực tập mỗi giây phút tỉnh thức. Cĩ hai mươi bốn giờ trong một ngày, và nếu mọi việc suơn sẻ, ta cĩ thể tham thiền một tiếng vào buổi sáng, một tiếng buổi tối. Ta cĩ thể ngủ sáu hay bảy tiếng, như vậy ta cịn lại khoảng mười lăm tiếng mỗi ngày. Nếu suốt thời gian đĩ ta khơng nhớ để chánh niệm, thì chi bằng ta quên luơn việc hành thiền và thực tập lời Phật dạy. Nếu ta làm thế thì ta chỉ cĩ giỏi nĩi mà quên thực hành. 

 Khi ta luơn thực hành chánh niệm, dần dần nĩ sẽ trở thành một thĩi quen, giúp cho cuộc sống của ta ít phiền não, vì nhờ chánh niệm ta cĩ thể tránh được những sai lầm, vấp ngã. Chánh niệm giống như bàn thắng của xe. Lái xe mà khơng cĩ thắng thì xiết bao nguy hiểm. Nếu ta sống cuộc đời khơng cĩ chánh niệm, thì cũng nguy hiểm như thế. Lúc nào ta cũng cĩ thể va vấp, đụng chạm người khác, tự làm hại mình, hại người. 

 Khi thực hành chánh niệm, khơng cĩ nghĩa là ta trở nên thụ động, và phản ứng theo ý muốn của người khác. Đĩ khơng phải là chánh niệm, đĩ là nhượng bộ. Chánh niệm là biết rõ mình đang nghĩ gì, cảm thấy gì, hành động ra sao. Khi biết như thế, ta sẽ trở nên chú tâm đến phản ứng của ta hơn. Ta sẽ khơng nghĩ đến việc hành động theo như ý người khác. Mà ta sẽ quan tâm đến việc tự thanh tịnh hĩa mình. 

 Chánh tinh tấn - bốn tinh tấn ba la mật - chỉ cĩ thể thành cơng nếu đi đơi với chánh niệm. Hơn thế nữa, tất cả mọi chi của Bát chánh đạo đều cần cĩ sự hỗ trợ của chánh niệm. 

 Chánh niệm đi đơi với cái biết rõ ràng. Chánh niệm là yếu tố biết - chỉ cĩ cái biết - đã được diễn tả đầy đủ trong một bài thơ Haiku của Nhật như sau: 
 Ao cũ
 Cĩc nhảy vào
 Phộp

 Khi con cĩc nhảy vào một ao hồ, cĩ rất nhiều việc xảy ra, mặt nước gợn sĩng, con cĩc biến mất, cĩ thể cĩ ánh sáng mặt trời lấp lánh trên mặt ao. Tất cả những thứ này đều là yếu tố thêm thắt. Trong khi chánh niệm đi vào trọng tâm, điểm chánh yếu, và đĩ là tiếng "Phộp". Đĩ là tất cả. Đĩ là trọng điểm. 

 Chỉ cĩ cái biết, cùng với bạn đồng hành của nĩ là sự thấu suốt. Tính thấu suốt giúp ta biết ngay việc gì đang xảy ra, để sử dụng cái biết đĩ. Tính thấu suốt gồm bốn phần: biết mục đích, biết phương tiện cĩ khéo léo khơng, biết mục đích và phương tiện cĩ nằm trong Pháp khơng; và biết rằng ta cĩ đạt được mục đích khơng. 

 Khi ta nĩi khơng cĩ một mục đích gì, tức là ta đã bỏ quên chánh niệm và tánh thấu suốt. Khi ta nĩi cĩ mục đích, nhưng khơng biết diễn tả như thế nào, tức là ta khơng cĩ phương tiện khéo léo. Sự chú tâm phân biệt giúp ta biết thân, khẩu và ý của mình cĩ nằm trong Pháp chân thật khơng. Nếu ta khơng đạt được kết quả mong muốn, thì rõ ràng là ta đã khơng dùng đúng phương tiện. Chánh niệm trong lời nĩi và hành động cần cĩ tính thấu suốt đi kèm: biết mục đích, phương tiện khéo léo, tuân theo Pháp giới và kết quả. 
 
 Khi ta sống cĩ chánh niệm, sự chú tâm của ta khác hẳn bình thường. Chúng ta biết việc gì đang xảy ra nhưng khơng quan tâm đến nĩ. Khi sân nổi lên, ta biết nĩ đang dấy khởi, nhưng ta khơng cần phải trở nên giận dữ. Đĩ là một kỹ năng tuyệt vời. Khi chán nản, ta biết chán nản đang dấy khởi, nhưng ta khơng phải trở nên chán nản, hay tuyệt vọng. Ta chỉ biết sự dấy khởi và sự đoạn diệt của mọi trạng thái tâm. 

 Chánh niệm là cho mọi người, ai cũng cĩ thể sử dụng nĩ để sinh tồn, nhưng vì vấn đề tranh đấu để sinh tồn chỉ là hồi cơng, nên tốt hơn, ta nên sử dụng nĩ vào việc giải thốt, Giác Ngộ. Chánh niệm là một phương tiện khéo léo, và thấu suốt, là trí tuệ giúp ta phân biệt. Chánh niệm khơng cĩ sự phán đốn, nhưng thấu suốt cĩ yếu tố phân biệt, vì thế ta cĩ thể thay đổi hướng đi nếu cần thiết. 

8. Chánh Định 

 Khi vào sâu trong thiền, ta cĩ thể tìm được chánh định, là điều Đức Phật đã nĩi đến trong nhiều bài giảng như con đường, như phương tiện, chứ khơng phải là mục đích. 

 Chánh định căn bản vẫn cần các chi nhánh khác của Bát chánh đạo. Nếu khơng cĩ giới hạnh, khơng cĩ chánh tư duy, chánh kiến, chánh tinh tấn, thì khơng thể cĩ được chánh định. Vì thế chánh định được nhắc đến sau cùng. Và cũng vì nĩ là điểm khởi hành của ta từ một người bình thường trở thành người cĩ Giác Ngộ. Chánh kiến đứng ở vị trí đầu tiên trong Bát chánh đạo, vì khơng cĩ chánh kiến, khơng cĩ gì cĩ thể xảy ra. Chánh định đứng ở vị trí cuối vì nĩ cần tất cả những yếu tố khác để cĩ thể thành hình và tạo ra phương tiện để đạt được sự tự tại. 

 Khi đã cĩ chánh định, và đã cố gắng soi rọi lại nội tâm mình, lúc đĩ chánh kiến lại rõ ràng hơn. Đĩ là chánh kiến về sự giải thốt. Như thế cuối cùng ta đã đi hết vịng trịn để trở lại với chánh kiến về "cái ngã", tức là vơ ngã. Chúng ta khơng thể tìm thấy cái "vơ ngã". Chúng ta khơng thể tìm thấy cái gì khơng cĩ mặt. Vì thế ta phải luơn chất vấn, tìm hiểu về cái gì mà ta tin là "tự ngã". Chúng ta tin vào thân, vào thọ, tư duy, tâm hành là cái ta. Thì ta cần phải xem xét lại tất cả những gì được coi là "cái ta" ấy. Nếu ta khơng biết rõ ràng về "cái ngã" đang cĩ trong tay, khơng làm chủ nĩ, thì ta khơng thể buơng bỏ nĩ. Nếu tơi khơng biết cái đồng hồ của mình ở đâu, nếu tơi khơng cĩ nĩ ở trong tay, thì tơi khơng thể bỏ nĩ đi. Tơi chỉ cĩ thể làm được điều đĩ khi tơi biết đích xác nĩ là gì, đang ở đâu. Nếu tơi đi tìm đồng hồ mà khơng thấy, thì tơi khơng thể làm gì được với nĩ cả. Đối với "cái ngã" của ta cũng thế. 

 Cuộc truy tìm là về "cái ta". Cái thân này là gì? Đĩ cĩ thật là "tơi", là "của tơi" khơng? Nếu nĩ là cái xác, nĩ cĩ cịn là "tơi" khơng? Những cảm thọ này cĩ thật là của tơi khơng? Tại sao chúng lại đến, khi tơi chẳng mong chờ? Tại sao tơi cĩ những ý tưởng chỉ làm tơi đau khổ? Ai đang đau khổ? Ai là "tơi"? Cĩ phải là "cái tơi" của ngày hơm qua, hơm nay hay ngày mai? Cứ như thế, những câu hỏi để tìm ra ở đâu là "cái tơi", cái gì là "tơi". Và cuối cùng khi tơi tìm ra được nĩ, lúc đĩ tơi mới cĩ thể buơng bỏ được ảo tưởng về nĩ. 

 Tĩm lại, để tìm hiểu về "vơ ngã", ta phải bắt đầu với "cái ngã", và khi nĩ trở nên ngày một rõ ràng đĩ chỉ là tư duy sai lầm về "cái ngã", nĩ cũng trở nên rõ ràng là quá trình tư duy của ta cĩ thể chuyển hệ. 

 Tất cả những yếu tố ta đã bàn ở đây chỉ là con đường, là phương tiện để làm giảm bớt lịng chấp ngã, làm cho nĩ trở thành nhỏ hơn. Định là một yếu tố quan trọng, vì lúc mà tâm hồn tồn định, thì khơng cịn tư tưởng như "tơi là, tơi cĩ thể, tơi sẽ, tơi muốn, tơi khơng muốn". Khi ta hành thiền thường xuyên, "cái tơi" thường nhỏ lại, và người ta cĩ thể nhìn sự việc một cách rõ ràng hơn. Ngược lại, nếu ta khơng tu tập định hay chú tâm, ngã chấp của ta vẫn khơng thay đổi. 

 Bát chánh đạo đi từ cái nhìn đúng một cách tương đối tới cái chánh kiến tuyệt đối, và cuối cùng, chính con người trở nên Bát chánh đạo. Lúc đĩ khơng cần phải thực tập Bát chánh đạo nữa hay cố gắng để nhớ tới chúng. Khơng cần phải cố gắng với từng bước, vì Bát chánh đạo đã trở thành bản năng tự nhiên của ta. Các vị A-la-hán lúc nào cũng cĩ chánh kiến, chánh tư duy. Các Ngài khơng cĩ tà ngữ, hành động sai trái hay nghịch mạng. Nhưng lúc nào cũng chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Với chúng ta mỗi ngày một ít. Chỉ cĩ thực hành mới giúp ta hồn thiện Bát chánh đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Bảy 2022(Xem: 2166)
20 Tháng Năm 2022(Xem: 8177)
Phật Giáo Hướng Dẫn Thế Kỷ 21 là một tài liệu gồm 12 tham luận được trình bày tại Hội Nghị Nghiên Cứu Học Thuật Phật Giáo Quốc Tế lần thứ Tám vào các ngày 27 và 28 tháng 10 năm 1995 tại Đài Loan bởi các diễn giả thuộc nhiều thành phần của nhiều quốc gia khác nhau. Nhằm cung cấp thêm tài liệu cho những ai đã và đang thao thức cho một nền Phật Giáo Việt Nam huy hoàng rực rỡ, chúng tôi cố gắng chuyển dịch tập sách này với mỗi một ước vọng duy nhất: Đóng góp phần nhỏ vào công cuộc phục hưng Đạo Pháp, lợi lạc quần sanh.
04 Tháng Hai 2022(Xem: 3008)