Vô Ngã và Tứ Diệu Đế

02 Tháng Tám 201616:59(Xem: 5873)

ĐẠI CƯƠNG
TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO
Thích Nữ Tịnh Quang biên soạn & tuyển dịch
Buddhist Nun Association in California Publishes 2016

2.  KHÁI NIỆM CĂN BẢN CỦA PHẬT GIÁO

 

Vô Ngã và Tứ Diệu Đế
Gil Fronsdal - Thích Nữ Tịnh Quang chuyển ngữ

 

Nhiều người thường lúng túng bởi những lời dạy của Đức Phật về anatta, hoặc Vô ngã. Một lý do là vì trong các tôn giáo và trường phái tâm lý học và triết học khác nhau, cũng như trong ngôn ngữ hàng ngày, từ ‘ngã’ được sử dụng trong nhiều cách khác nhau. Khi người ta nói về ‘cái tôi’  mà không xác định thuật ngữ của chúng, họ có thể nói về những điều khác nhau một cách không hiểu biết.

 

Vì vậy, để hiểu được giáo huấn Vô ngã của Đức Phật, chúng ta phải hiểu Đức Phật định nghĩa ‘ngã’ như thế nào, hoặc, trong ngôn ngữ của Ngài, atta (ngã).  Đầu tiên chúng ta phải phân biệt giữa hai công dụng của từ atta. Trong một số tôn giáo vào thời của Đức Phật, atta có nghĩa là một hình thái tự ngã siêu hình. Một định nghĩa siêu hình của tự ngã là bất kỳ lý thuyết nào về bản chất thực sự của bản thân; Ví dụ, một bản chất thường hằng sống - chết, hay một tự ngã thực sự lớn hơn hoặc yếu hơn so với các cá nhân. Trong ý nghĩa này atta có thể được dịch sang tiếng Anh là ‘self’ hay ‘Soul’. Khá khác biệt với việc sử dụng siêu hình, atta thường được sử dụng như một đại từ phản xạ, giống như từ tiếng Anh ‘self’ trong thuật ngữ như ‘bản thân’ và ‘của tôi’. Trong ý nghĩa sau đó được sử dụng như là một quy ước đơn giản của sự phát biểu, chứ không đề cập đến bất kỳ ý tưởng siêu hình hay thiết yếu của ‘cái tôi’.

 

Chúng ta phải giữ hai điều công dụng của atta trong tâm trong việc tìm hiểu những lời dạy của Đức Phật. Một mặt, rõ ràng Ngài đã không chấp nhận bất kỳ định nghĩa siêu hình nào của ‘tự ngã’. Mặt khác, Ngài nhấn mạnh sự đau khổ có thể đến bởi chấp thủ bất cứ điều gì thuộc về hoặc xác định ‘cái của tôi’. Con đường thực hành của Đức Phật dẫn đến kết thúc sự chấp thủ này.

 

 ‘Tự ngã’ siêu hình thông thường nhất chống lại những gì mà đức Phật đã đề cập mặc nhiên được định nghĩa trong Anatta Lakkhana Sutta của Ngài, kinh Vô ngã tướng. Đối với một cái gì đó là Atta, theo quan điểm này, nó cần ba thành phần. Nó phải hoàn toàn kiểm soát cơ thể, cảm xúc, suy nghĩ, tâm hành, ý định, ý thức, hoặc khái niệm, nó phải là vĩnh viễn, và nó có được hạnh phúc. Trong kinh này, Đức Phật làm cho nó rõ ràng rằng không có gì trong kinh nghiệm tâm-vật lý của chúng ta ngoài ba đặc tính và vì thế phù hợp để được coi là một atta hoặc tự ngã.

 

Ở phương Tây hiện đại này, định nghĩa này của Ấn Độ cổ đại về tự ngã không có ý nghĩa nhiều lắm. Tuy nhiên, chúng ta có quan niệm riêng của chúng ta về những gì bản thân hoặc những gì nó thiết yếu. Trong phần này là những di sản của tư tưởng phương Tây về ‘soul-linh hồn’, và ở phần phân tích từ nỗ lực của con người mạnh mẽ để xác định với những điều nào đó như là xác định tự ngã này là. Chúng ta xác định mình với những suy nghĩ, cảm thọ, tâm thức, ý chí, đặc điểm cá nhân, hoặc với một cảm giác liên tục. Phân tích một cách thoáng và tạm thời, các yếu tố này có thể được công nhận. Phân tích một cách chặt chẽ, chúng ta là cái tôi giới hạn. Nếu chúng ta tiêu hao năng lượng để bám víu vào bất cứ điều gì như đồng nhất về tự ngã, chúng ta sẽ đau khổ sớm hay muộn. Để tìm một nền hòa bình vĩnh cửu sâu sắc, chúng ta cần phải học cách buông xả bất kỳ sự bám víu nào hoặc thói quen chấp chặt đdối với ‘cái tôi-đồng nhất’.

 

Trái ngược với quan niệm phổ biến, chúng ta không nhớ lời Đức Phật từng nói, "Không có bản ngã." Trong toàn bộ giáo điển của Đức Phật được bảo tồn, chỉ có một chỗ mà ai đó thực sự hỏi Đức Phật: "Có cái ngã hay không?" Đức Phật từ chối trả lời câu hỏi. Cũng người ấy hỏi lại: "Có ngã hay không?" Đức Phật cũng từ chối trả lời. Những gì đức Phật đã nói nhiều lần là không có khía cạnh cụ thể của bản chất con người tâm-vật lý chúng ta như atta hoặc bản ngã. Không phải thân của chúng ta, không phải cảm thọ của chúng ta, không phải suy nghĩ của chúng ta, không phải tâm hành của chúng ta, và không phải ý thức của chúng ta.

 

Lời dạy của Đức Phật về ngã và vô ngã có nhiều tinh tế và hấp dẫn hơn nữa. Ngoài các định nghĩa cụ thể của ‘ngã’, Ngài bác bỏ nó trong Anatta Lakkhana Sutta, Ngài lập luận rằng nó không hữu ích đối với phạm trù thực hành Phật giáo xuyên qua bất kỳ quan niệm nào về ‘bản ngã’. Quan điểm về sự tồn tại hay không tồn tại của một tự ngã, hay đồng nhất tự ngã với bất kỳ đặc tính hoặc kinh nghiệm, thậm chí nhận thức bản thân, dẫn đến những phiền não. Và quan trọng hơn, Ngài tuyên bố rằng bản ngã sẽ không dẫn đến giải thoát.

 

Như một thay thế đối với phạm vi đời sống tinh thần xung quanh tự ngã, Phật đã khuyên nhắc chúng ta nhìn vào kinh nghiệm của chúng ta thông qua các khuôn khổ của Tứ Diệu Đế, tập trung một cách trung thực và trực tiếp trên sự đau khổ của chúng ta, sự chấp thủ gây ra nó, hòa bình và hạnh phúc là kết quả từ việc giải thoát chấp thủ, và phương cách sống đưa đến một cảm giác an lạc.

 

Lời dạy của Đức Phật chỉ cho chúng ta cách tìm kiếm bản thân, hoặc cố gắng để hiểu biết hoặc cải thiện bản thân. Thay vào đó nó giúp chúng ta chú ý đến sự sợ hãi, ham muốn, tham vọng, và bám víu đó đã thúc đẩy việc xây dựng của việc đồng hóa bản ngã. Có lẽ chúng ta cảm thấy rằng chúng ta khiếm khuyết trong một cách nào đó, và  ằng sự thực hành thiền định của chúng ta sẽ giúp chúng ta thực hiện hoặc tìm thấy một tự ngã tốt hơn thay vì chúng ta có thể tìm thấy những đau khổ cụ thể được kết nối với mong muốn để cải thiện bản thân. Giải thoát đòi hỏi phải giải phóng đau khổ của chúng ta, không phải tránh nó, tìm kiếm sự buông xả từ nó hoặc củng cố cho nó. Điều này không nhất thiết có nghĩa rằng chúng ta hoặc sống trên sự đau khổ của chúng ta, hoặc đau khổ không bao giờ chấm dứt. Thật vậy, sự thật chân lý thứ ba (Diệt đế) nhắc nhở chúng ta rằng có một sự chấm dứt khổ đau.

 

Nếu bạn đã đi đến châu Phi để chụp ảnh động vật hoang dã, bạn có thể đi bộ trên tất cả các vùng đồng bằng tìm kiếm các loài động vật khác nhau. Hoặc bạn có thể ngồi bên vũng nước, nơi mà tất cả những con vật cuối cùng đi. Tương tự như vậy, sự thực hành trở nên rất đơn giản nếu chúng ta chú ý, cẩn thận và không thụ động, sự đau khổ của chúng ta, đó là, các cơn co thắt, những hạn chế và căng thẳng trong thân, tâm và trái tim của chúng ta. Vì lợi ích của sự giải thoát, những gì bạn làm và không cần biết sẽ đến với bạn nếu bạn chỉ đơn giản là thấy đau khổ và sự chấm dứt nó. Bạn sẽ thấy sự chấp thủ và bạn sẽ thấy khả năng của hạnh phúc chân thật xuất phát từ việc buông bỏ tham chấp. bạn có thể thấy được sự yên bình về việc không  chấp thủ đối với ‘ngã’ và ‘vô ngã’
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Bảy 2022(Xem: 2169)
20 Tháng Năm 2022(Xem: 8182)
Phật Giáo Hướng Dẫn Thế Kỷ 21 là một tài liệu gồm 12 tham luận được trình bày tại Hội Nghị Nghiên Cứu Học Thuật Phật Giáo Quốc Tế lần thứ Tám vào các ngày 27 và 28 tháng 10 năm 1995 tại Đài Loan bởi các diễn giả thuộc nhiều thành phần của nhiều quốc gia khác nhau. Nhằm cung cấp thêm tài liệu cho những ai đã và đang thao thức cho một nền Phật Giáo Việt Nam huy hoàng rực rỡ, chúng tôi cố gắng chuyển dịch tập sách này với mỗi một ước vọng duy nhất: Đóng góp phần nhỏ vào công cuộc phục hưng Đạo Pháp, lợi lạc quần sanh.
04 Tháng Hai 2022(Xem: 3010)