- Lời Giới Thiệu của Đức Đạt-Lai Lạt- Ma thứ 14
- Lời Mở Đầu của Bhikkhu Bodhi
- Lời Giới Thiệu của Người Dịch
- Giới Thiệu Tổng Quát
- I. THÂN PHẬN CON NGƯỜI
- II. NGƯỜI MANG LẠI ÁNH SÁNG
- III. TIẾP CẬN GIÁO PHÁP
- IV. HẠNH PHÚC THẤY RÕ NGAY TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI
- V. CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN TÁI SINH TỐT ĐẸP
- VI. TẦM NHÌN THÂM SÂU VỀ THẾ GIỚI
- VII. CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
- VIII. TU TẬP TÂM
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
HỢP TUYỂN LỜI PHẬT DẠY
TỪ KINH TẠNG PALI
In The Buddha’s Words
An Anthology of Discourses from the Pali Canon
By
BHIKKHU BODHI
Wisdom Publications – 2005
Việt dịch : Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC 2015
VII
CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
1. TẠI SAO HÀNH GIẢ ĐI VÀO THÁNH ĐẠO ?
(1) Mũi Tên của Sinh, Già, và Chết
1. Tôi nghe như vầy. Một thời Thế Tôn ngụ tại thành Xá Vệ ( Sāvatthi ) trong Rừng Kỳ Đà (Jeta’s Grove) , thuộc Vườn Cấp Cô Độc ( Anāthpindika ).
2. Rồi tôn giả Mālunkyāputta trong lúc đang độc cư hành thiền, đã khởi lên ý nghĩ sau đây :“ Có một số quan điểm mang tính suy đoán đã bị Thế Tôn dẹp qua một bên và bác bỏ, đó là : ‘thế giới là vĩnh cửu’ và ‘ thế giới không vĩnh cửu’; ‘ thế giới là hữu biên’ và ‘ thế giới là vô biên’; ‘ thân và tâm là một’ và ‘ thân và tâm là hai thứ khác nhau’; ‘ Như Lai vẫn tồn tại sau khi chết ’ và ‘ Như Lai không tồn tại sau khi chết’ và ‘ Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết’ và ‘ Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ’(1). Thế Tôn đã không trả lời những vấn đề này cho ta, và ta không đồng ý và chấp nhận việc này, vì thế ta sẽ đến gặp Thế Tôn để xin Ngài giải thích ý nghĩa của những vấn đề này. Nếu Ngài trả lời cho ta rằng , hoặc ‘’ thế giới là vĩnh cữu ’… hay ‘ Như Lai không tồn tại cũng không không tồn tại sau khi chết ’, thì ta sẽ sống đời phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ngài. Nếu Ngài không trả lời những vấn đề này cho ta, thì ta sẽ từ bỏ tu tập và trở về cuộc sống thế tục.”
3. Rồi vào buổi chiều tối, Tôn giả Mālunkyāputta chấm dứt thời thiền tập và đi đến Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ Ngài, tôn giả ngồi xuống một bên và bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, ở đây, trong khi con độc cư hành thiền, ý nghĩ này đã khởi lên trong con: “Những quan điểm mang tính suy đoán này đã bị Thế Tôn dẹp qua một bên và bác bỏ… Nếu Ngài không trả lời những vấn đề này cho ta, thì ta sẽ từ bỏ tu tập và trở về cuộc sống thế tục.” Nếu Thế Tôn biết ‘ thế giới là vĩnh cữu’ thì Thế Tôn hãy nói cho con ‘ thế giới là vĩnh cữu’; nếu Thế Tôn biết ‘ thế giới là không vĩnh cữu’ thì Thế Tôn hãy nói cho con ‘ thế giới là không vĩnh cữu’; nếu Thế Tôn không biết ‘ thế giới là vĩnh cữu’ hay ‘’thế giới là không vĩnh cữu’’, thì người không biết và không thấy hãy thẳng thắn trả lời:’ Tôi không biết và không thấy’.
Nếu Thế Tôn biết ‘ thế giới là hữu biên ’… ‘ thế giới là vô biên,’ … ‘thân và tâm là một’,… ‘thân và tâm là hai thứ khác nhau’,… ‘Như Lai tồn tại sau khi chết,’ … ‘ Như Lai không tồn tại sau khi chết ’…Nếu Thế Tôn biết ‘’ Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết,’ thì Như Lai hãy tuyên bố như thế với con; nếu Thế Tôn biết ‘’ Như Lai không tồn tại cũng không không tồn tại sau khi chết,’ thì Như Lai hãy tuyên bố như thế với con. Nếu Thế Tôn không biết ‘ Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết,’ thì người không biết và không thấy hãy thẳng thắn trả lời:’ Tôi không biết và không thấy’.
4. - Này Mālunkyāputta, vậy thì, có bao giờ ta từng nói với ông: “ Này Mālunkyāputta, hãy đến và sống đời phạm hạnh theo ta và ta sẽ cho ông biết ‘ thế giới là vĩnh cửu”… hay “ Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ? ”
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Có bao giờ ông từng nói với ta: “Tôi sẽ sống đời phạm hạnh theo Thế Tôn, và Thế Tôn sẽ nói cho tôi biết ‘thế giới là vĩnh cửu’… hay ‘ Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ? ’ ”
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Quả đúng như vậy, này kẻ ngu si kia, ông là ai và ông đang từ bỏ cái gì ?
5. - Nếu có ai nói như sau : “Tôi sẽ không sống đời phạm hạnh theo Thế Tôn cho đến khi nào Thế Tôn nói cho tôi biết “ thế giới là vĩnh cửu”…hay “ Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ”, thì cho đến khi người ấy chết , Như Lai vẫn không trả lời những câu hỏi này. Này Mālunkyāputta, giả sử có một người bị thương nặng do trúng phải mũi tên độc, bạn bè và người đồng hành, người trong bộ tộc và bà con của anh ta đem đến một y sĩ để chữa trị cho anh ta. Người này nói :’ Tôi sẽ không để cho người y sĩ nhổ mũi tên độc cho đến khi nào tôi biết người bắn tôi là thuộc giai cấp hoàng tộc, Bà-la-môn , thương gia hay công nhân,’ Và người ấy có thể nói :’ Tôi sẽ không để cho người y sĩ nhổ mũi tên độc cho đến khi nào tôi biết tên và bộ tộc người bắn tôi ;… cho đến khi nào tôi biết người bắn tôi cao hay thấp hay trung bình…; cho đến khi tôi biết người bắn tôi da đen, nâu hay vàng…; cho đến khi tôi biết người bắn tôi sống ở làng nào, thị trấn nào, thành phố nào;…. cho đến khi tôi biết chiếc cung bắn tôi thuộc loại cung dài hay cung chéo;… cho đến khi tôi biết dây cung bắn tôi làm bằng cây leo, cây lau hay gân, dây gai hay vỏ cây;… cho đến khi tôi biết mũi tên dùng bắn tôi thuộc loại cây lau dại hay cây lau trồng;… cho đến khi tôi biết mũi tên dùng bắn tôi được kết bằng loại lông gì – hoặc lông con kên kên, lông con cò, lông con ó, lông con công, hoặc lông một loài két;… cho đến khi tôi biết mũi tên dùng bắn tôi được cuốn bằng loại gân nào – gân bò, gân trâu, gân nai, hay gân khỉ;… cho đến khi tôi biết mũi tên dùng bắn tôi thuộc loại tên nhọn, hay tên như đầu dao cạo , hay tên móc, hoặc như kẽm gai, hoặc như răng bò hay như dao nhọn hai đầu.”
Tất cả những điều này người ấy sẽ không biết được, và trong lúc đó người ấy sẽ chết. Cũng vậy, này Mālunkyāputta, nếu có người nói rằng: “ Tôi sẽ không sống đời phạm hạnh theo Thế Tôn cho đến khi nào Thế Tôn nói cho tôi biết “ thế giới là vĩnh cửu”…hay “ Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ”, thì cho đến khi người ấy chết , Như Lai vẫn không trả lời những câu hỏi này.
6. - Này Mālunkyāputta, nếu có quan điểm ‘ thế giới là vĩnh cửu ’ thì không thể sống đời phạm hạnh; nếu có quan điểm ‘ thế giới là không vĩnh cửu ’ thì không thể sống đời phạm hạnh. Dù có quan điểm ‘ thế giới là vĩnh cửu ’ hay quan điểm‘ thế giới là không vĩnh cửu ’, thì vẫn có sinh, già, chết, có ưu sầu, than thở, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng, mà ta đã giảng dạy phương pháp đoạn trừ ngay bây giờ và ở đây.
Nếu có quan điểm ‘ thế giới là hữu biên ’ …hay ‘ thế giới là vô biên ’…, ‘ thân và tâm là một’… ‘ thân và tâm là hai thứ khác nhau’… ‘ Như Lai vẫn tồn tại sau khi chết ’… ‘ Như Lai không tồn tại sau khi chết ’, thì không thể sống đời phạm hạnh… Nếu có quan điểm ‘ Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết’ thì không thể sống đời phạm hạnh . Nếu có quan điểm ‘Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ’, thì không thể sống đời phạm hạnh…Cho dù có quan điểm ‘ Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết’ hay quan điểm ‘Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ’ , thì vẫn có sinh, già, chết, có ưu sầu, than thở, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng, mà ta đã giảng dạy phương pháp đoạn trừ ngay bây giờ và ở đây.
7.- Vì vậy, này Mālunkyāputta, hãy ghi nhớ những gì ta đã không trả lời như là (Như Lai ) không trả lời, và những gì ta đã trả lời như là ( Như Lai ) đã trả lời. Và những gì ta đã không trả lời ? Đó là ‘Thế giới là vĩnh cửu’- Ta đã không trả lời. ‘Thế giới không vĩnh cửu’- Ta đã không trả lời . ‘ Thế giới là hữu biên’- Ta đã không trả lời. ‘ Thế giới là vô biên’ – Ta đã không trả lời. ‘ Thân và tâm là một’- Ta đã không trả lời. ‘Thân và tâm là hai thứ khác nhau’- Ta đã không trả lời. ‘Như Lai tồn tại sau khi chết’- Ta đã không trả lời. ‘ Như Lai không tồn tại sau khi chết ’ - Ta đã không trả lời. ‘ Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết’- Ta đã không trả lời. ‘Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết ’ - Ta đã không trả lời.
8. Vì sao ta đã không trả lời những câu hỏi ấy ? Bởi vì điều ấy không lợi ích, nó không thuộc về những điều cơ bản của đời sống phạm hạnh, nó không đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, không đưa đến tri kiến rốt ráo, giải thoát, Niết-bàn. Đó là lý do tại sao ta không trả lời.
9. Và những gì ta đã trả lời? Đó là ‘ Đây là khổ’ - Ta đã trả lời. ‘ Đây là nguồn gốc của khổ ’ - Ta đã trả lời. ‘ Đây là sự chấm dứt khổ ’ - Ta đã trả lời. ‘ Đây là con đường chấm dứt khổ’ - Ta đã trả lời.
10. Tại sao ta đã trả lời những điều đó? Bởi vì điều ấy lợi ích, nó thuộc về những điều cơ bản của đời sống phạm hạnh, đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, đưa đến tri kiến rốt ráo, giải thoát, Niết-bàn. Đó là lý do tại sao ta trả lời.
Vì vậy, này Mālunkyāputta, hãy ghi nhớ những gì ta đã không trả lời như là (Như Lai ) không trả lời, và những gì ta đã trả lời như là ( Như Lai ) đã trả lời.
Đó là những gì Thế Tôn giảng dạy. Tôn giả Mālunkyāputta hài lòng và hoan hỷ với lời dạy của Thế Tôn.
( Trung BK II, Kinh số 63 : Tiểu Kinh Mālunkyāputta, tr. 193-204 )
(2) Cốt Lõi của Đời Sống Phạm Hạnh.
1. Tôi nghe như vầy. Một thời Thế Tôn đang cư ngụ tại Vương Xá (Rājagaha ) trên núi Linh Thứu (Mount Vulture Peak ); sau khi Đề Bà Đạt Đa (Devadatta ) đã bỏ đi không lâu. Tại đó, đề cập đến Đề Bà Đạt Đa, Thế Tôn nói với chúng tăng như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, ở đây có người bộ tộc do có lòng tin, đã xuất gia từ bỏ gia dình sống không gia đình, người ấy suy nghĩ :‘ Ta là một nạn nhân của sanh, già, chết, ưu sầu, than thở, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng. Ta một nạn nhân của khổ đau, là mồi ngon của khổ đau. Chắc chắn là toàn bộ khổ đau này có thể chấm dứt được ’. Khi vị ấy xuất gia như vậy, vị ấy nhận được lợi dưỡng, tôn kính, và danh tiếng. Vị ấy hài lòng với lợi dưỡng, tôn kính và danh tiếng, và ý nguyện của vị ấy được hoàn mãn. Do được như vậy, vị ấy sinh ra khen mình chê người như sau: ‘ Ta được lợi dưỡng và danh tiếng, còn các tỷ- kheo khác thì không được biết đến, không ai trọng vọng’. Vị ấy trở nên say đắm với lợi dưỡng, tôn kính, danh tiếng ấy và khởi sinh phóng dật, rơi vào phóng dật, và vì sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
Giả sử có một người cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, đi lang thang tìm kiếm lõi cây, đi đến trước một cây lớn thẳng đứng có lõi cây. Người ấy bỏ qua lõi cây, lớp vỏ non, lớp vỏ trong, lớp vỏ ngoài, người ấy chặt cành lá đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Rồi có một người có mắt nhìn tốt, thấy như vậy bèn nói: ‘ Người này không biết lõi cây, vỏ non, vỏ trong, vỏ ngoài hay cành lá. Vì thế trong lúc cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, lang thang tìm kiếm lõi cây, đi đến trước một cây lớn thẳng đứng có lõi cây. Người ấy bỏ qua lõi cây, lớp vỏ non, lớp vỏ trong, lớp vỏ ngoài, người ấy chặt cành lá đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Cho dù người này dùng lõi cây vào mục đích gì, thì mục đích của ông ta đã không thành tựu ’. Cũng vậy, đối với vị tỷ-kheo đã bị say đắm với lợi dưỡng, tôn kính và danh tiếng. Vị tỳ-kheo này được gọi là người đã lấy cành lá của đời sống phạm hạnh, và dừng lại ngang đây.
3. Này các tỷ-kheo, ở đây có người bộ tộc do có lòng tin, đã xuất gia từ bỏ gia dình sống không gia đình, người ấy suy nghĩ :‘ Ta là một nạn nhân của sanh, già, chết, ưu sầu, than thở, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng. Ta một nạn nhân của khổ đau, là mồi ngon của khổ đau. Chắc chắn là toàn bộ khổ đau này có thể chấm dứt được ’. Khi vị ấy xuất gia như vậy, vị ấy nhận được lợi dưỡng, tôn kính, và danh tiếng. Vị ấy không thỏa mãn với lợi dưỡng, tôn kính và danh tiếng, và ý nguyện của vị ấy chưa được hoàn mãn. Không vì như vậy mà vị ấy sinh ra khen mình chê người. Vị ấy không say đắm với lợi dưỡng, tôn kính, danh tiếng ấy và không khởi sinh phóng dật, không rơi vào phóng dật. Do tinh cần vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy hài lòng với việc thành tựu giới đức và ý nguyện của vị ấy đã hoàn mãn. Do được như vậy, vị ấy khen mình chê người như sau : ‘ Ta đã thành tựu giới đức, ta có thiện hạnh; nhưng các tỷ-kheo khác thì không có giới đức, theo ác hạnh. ’ Vị ấy trở nên tham đắm với thành tựu giới đức ấy, khởi sinh phóng dật, rơi vào phóng dật, và do phóng dật, vị ấy sống trong đau khổ.
Giả sử có một người cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, đi lang thang tìm kiếm lõi cây, đi đến trước một cây lớn thẳng đứng có lõi cây. Người ấy bỏ qua lõi cây, lớp vỏ non, lớp vỏ trong, người ấy chặt lớp vỏ ngoài đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Rồi có một người có mắt nhìn tốt, thấy như vậy bèn nói: ‘ Người này không biết lõi cây… hay cành lá. Vì thế trong lúc cần lõi cây … người ấy chặt lớp vỏ ngoài đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Cho dù người này dùng lõi cây vào mục đích gì, thì mục đích của ông ta đã không thành tựu ’. Cũng vậy, đối với vị tỷ-kheo đã bị say đắm với thành tựu giới đức . Vị tỳ-kheo này được gọi là người đã lấy lớp vỏ ngoài của đời sống phạm hạnh, và dừng lại ngang đây.
4. -Này các tỷ-kheo, ở đây có người bộ tộc do có lòng tin, đã xuất gia từ bỏ gia dình sống không gia đình, người ấy suy nghĩ :‘ Ta là một nạn nhân của sanh, già, chết, ưu sầu, than thở, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng. Ta một nạn nhân của khổ đau, là mồi ngon của khổ đau. Chắc chắn là toàn bộ khổ đau này có thể chấm dứt được ’. Khi vị ấy xuất gia như vậy, vị ấy nhận được lợi dưỡng, tôn kính, và danh tiếng. Vị ấy không thỏa mãn với lợi dưỡng, tôn kính và danh tiếng, và ý nguyện của vị ấy chưa được hoàn mãn... Do tinh cần vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy hài lòng với việc thành tựu giới đức nhưng ý nguyện của vị ấy chưa hoàn mãn. Dù được như vậy, vị ấy không khen mình chê người. Vị ấy không tham đắm với thành tựu giới đức ấy, và không khởi sinh phóng dật, không rơi vào phóng dật. Do tinh cần tu tập, vị ấy thành tựu thiền định. Vị ấy hài lòng với việc thành tựu thiền định và ý nguyện của vị ấy đã hoàn mãn. Do được như vậy, vị ấy khen mình chê người như sau : ‘ Ta đã thành tựu thiền định, ta đạt được nhất tâm; nhưng các tỷ-kheo khác thì tâm tán loạn, tâm phân tán. ’ Vị ấy trở nên tham đắm với thành tựu thiền định ấy, khởi sinh phóng dật, rơi vào phóng dật, và do phóng dật, vị ấy sống trong đau khổ.
Giả sử có một người cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, đi lang thang tìm kiếm lõi cây, đi đến trước một cây lớn thẳng đứng có lõi cây. Người ấy bỏ qua lõi cây, lớp vỏ non, cắt lớp vỏ trong đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Rồi có một người có mắt nhìn tốt, thấy như vậy bèn nói: ‘ Người này không biết lõi cây… hay cành lá. Vì thế trong lúc cần lõi cây … người ấy chặt lớp vỏ trong đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Cho dù người này dùng lõi cây vào mục đích gì, thì mục đích của ông ta đã không thành tựu ’. Cũng vậy, đối với vị tỷ-kheo đã bị say đắm với thành tựu thiền định . Vị tỳ-kheo này được gọi là người đã lấy lớp vỏ trong của đời sống phạm hạnh, và dừng lại ngang đây.
5.-- Này các tỷ-kheo, ở đây có người bộ tộc do có lòng tin, đã xuất gia từ bỏ gia dình sống không gia đình, người ấy suy nghĩ :‘ Ta là một nạn nhân của sanh, già, chết, ưu sầu, than thở, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng. Ta một nạn nhân của khổ đau, là mồi ngon của khổ đau. Chắc chắn là toàn bộ khổ đau này có thể chấm dứt được ’. Khi vị ấy xuất gia như vậy, vị ấy nhận được lợi dưỡng, tôn kính, và danh tiếng. Vị ấy không thỏa mãn với lợi dưỡng, tôn kính và danh tiếng, và ý nguyện của vị ấy chưa được hoàn mãn... Do tinh cần vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy hài lòng với việc thành tựu giới đức nhưng ý nguyện của vị ấy chưa hoàn mãn. Dù được như vậy, vị ấy không khen mình chê người. Vị ấy không tham đắm với thành tựu giới đức ấy, và không khởi sinh phóng dật, không rơi vào phóng dật. Do tinh cần tu tập, vị ấy thành tựu thiền định. Vị ấy hài lòng với việc thành tựu thiền định nhưng ý nguyện của vị ấy chưa được hoàn mãn. Không vì được như vậy mà vị ấy khen mình chê người . Vị ấy không tham đắm với thành tựu thiền định ấy, không khởi sinh phóng dật, không rơi vào phóng dật. Do tinh cần tu tập, vị ấy thành tựu tri kiến và thiên nhãn thông (4). Vị ấy hài lòng với việc thành tựu tri kiến và thiên nhãn thông và ý nguyện của vị ấy đã hoàn mãn. Do được như vậy, vị ấy khen mình chê người như sau : ‘ Ta sống đã biết và thấy; nhưng các tỷ-kheo khác thì không biết và không thấy. ’ Vị ấy trở nên tham đắm với tri kiến và thiên nhãn thông , khởi sinh phóng dật, rơi vào phóng dật, và do phóng dật, vị ấy sống trong đau khổ.
Giả sử có một người cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, đi lang thang tìm kiếm lõi cây, đi đến trước một cây lớn thẳng đứng có lõi cây. Người ấy bỏ qua lõi cây, cắt lớp vỏ non đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Rồi có một người có mắt nhìn tốt, thấy như vậy bèn nói: ‘ Người này không biết lõi cây… hay cành lá. Vì thế trong lúc cần lõi cây … người ấy chặt lớp vỏ non đem về nghĩ rằng chúng là lõi cây. Cho dù người này dùng lõi cây vào mục đích gì, thì mục đích của ông ta đã không thành tựu ’. Cũng vậy, đối với vị tỷ-kheo đã bị say đắm với thành tựu thiên nhãn thông. Vị tỳ-kheo này được gọi là người đã lấy lớp vỏ non của đời sống phạm hạnh, và dừng lại ngang đây.
6. - Này các tỷ-kheo, ở đây có người bộ tộc do có lòng tin, đã xuất gia từ bỏ gia dình sống không gia đình, người ấy suy nghĩ :‘ Ta là một nạn nhân của sanh, già, chết, ưu sầu, than thở, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng. Ta một nạn nhân của khổ đau, là mồi ngon của khổ đau. Chắc chắn là toàn bộ khổ đau này có thể chấm dứt được ’. Khi vị ấy xuất gia như vậy, vị ấy nhận được lợi dưỡng, tôn kính, và danh tiếng. Vị ấy không thỏa mãn với lợi dưỡng, tôn kính và danh tiếng, và ý nguyện của vị ấy chưa được hoàn mãn... Do tinh cần vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy hài lòng với việc thành tựu giới đức nhưng ý nguyện của vị ấy chưa hoàn mãn. Do tinh cần tu tập, vị ấy thành tựu thiền định. Vị ấy hài lòng với việc thành tựu thiền định nhưng ý nguyện của vị ấy chưa được hoàn mãn…Do tinh cần tu tập, vị ấy thành tựu tri kiến và thiên nhãn thông . Vị ấy hài lòng với việc thành tựu tri kiến và thiên nhãn thông nhưng ý nguyện của vị ấy chưa hoàn mãn. Không vì được như vậy mà vị ấy khen mình chê người . Vị ấy không tham đắm với thành tựu tri kiến và thiên nhãn thông, không khởi sinh phóng dật, không rơi vào phóng dật. Do tinh cần tu tập, vị ấy thành tựu giải thoát vĩnh viễn. Và vị tỳ kheo này không thể đánh mất giải thoát vĩnh viễn, việc này không thể xảy ra.(5)
Giả sử có một người cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, đi lang thang tìm kiếm lõi cây, đi đến trước một cây lớn thẳng đứng có lõi cây. Người ấy chỉ cắt lõi cây đem về biết rằng đó chính là lõi cây. Rồi có một người có mắt nhìn tốt, thấy như vậy bèn nói: ‘ Người này biết lõi cây, lớp vỏ non, lớp vỏ trong, lớp vỏ ngoài và cành lá. Vì thế trong lúc cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, lang thang tìm kiếm lõi cây, đi đến trước một cây lớn thẳng đứng có lõi cây, người ây chỉ cắt lõi cây đem về biết rằng đó chính là lõi cây. Cho dù người này dùng lõi cây vào mục đích gì, thì mục đích của người ấy đã thành tựu ’. Cũng vậy, đối với vị tỷ-kheo đã thành tựu giải thoát vĩnh viễn.
7. - Như vậy, này các tỷ-kheo, đời sống phạm hạnh này không phải vì lợi dưỡng, tôn kính, danh tiếng , hay vì thành tựu giới đức, hay vì thành tựu thiền định, hay vì thành tựu tri kiến và thiên nhãn thông. Nhưng chính là tâm giải thoát bất động là mục tiêu của đời sống phạm hạnh này, đó là lõi cây, và là cứu cánh của đời sống phạm hạnh.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lòi dạy của Thế Tôn.
( Trung BK I, Kinh số 29: Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây, tr 423-434 )
(3) Lụi Tàn Tham Dục
- Này các Tỷ-kheo, nếu những du sĩ ngoại đạo hỏi các thầy: ‘ Này hiền hữu, mục đích sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Sa-môn Gotama là gì ?’ – Khi được hỏi như vậy, các ông phải trả lời như sau: ‘ Này các hiền hữu, làm lụi tàn tham dục (7) chính là mục đích sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn .’
- Này các Tỷ-kheo, nếu những du sĩ ngoại đạo hỏi thêm: ‘Này hiền hữu, nhưng có con đường, có đạo lộ nào để làm lụi tàn tham dục không ?’ – Khi được hỏi như vậy, các ông phải trả lời như sau : ‘Này các hiền hữu, có con đường, có đạo lộ làm lụi tàn tham dục.’
- Này các Tỷ-kheo, và thế nào là con đường, đạo lộ làm lụi tàn tham dục ? Đó chính là Bát Thánh Đạo; nghĩa là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Đây là con đường, là đạo lộ làm lụi tàm dục vọng.
Này các Tỷ-kheo, khi được hỏi như thế, các ông phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như vậy.
[ Hoặc các ông có thể trả lời:] ‘ Này các hiền hữu, đó là đoạn trừ các kiết sử…nhổ tận gốc rễ những tùy miên ( những khuynh hướng tàng ẩn bên dưới)…hiểu thấu đáo sự vận hành của luân hồi…đoạn trừ mọi lậu hoặc…chứng ngộ quả giải thoát và tri kiến chơn chánh … vì mục đích đạt được tri kiến và pháp nhãn… vì mục đích đạt được Niết Bàn tối hậu không còn chấp thủ, đó là sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn.’
- Này các Tỷ-kheo, rồi sau đó nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi tiếp: ‘Này hiền hữu, nhưng có con đường, có đạo lộ nào để đạt được Niết Bàn tối hậu không còn chấp thủ?’ – Khi được hỏi như vậy, các ông phải trả lời như sau : ‘Này các hiền hữu , có con đường, có đạo lộ để đạt được Niết Bàn tối hậu không còn chấp thủ.’
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là con đường, là đạo lộ để đạt được Niết Bàn tối hậu không còn chấp thủ ? Đó chính là Bát Thánh Đạo; nghĩa là Chánh tri kiến …Chánh định. Đây là con đường, là đạo lộ để đạt được Niết Bàn tối hậu không còn chấp thủ.’
Này các Tỷ-kheo, khi được hỏi như thế, các ông phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như vậy.”
( Tương Ưng BK V- Phẩm về Hạnh : 41-48, kết hợp; tr 41-50)