Nội Dung Của Trung Đạo

13 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 29269)

NỘI DUNG CỦA TRUNG ĐẠO
Đại Sư Ấn Thuận

Phật Pháp, một phương pháp thực tiễn nhằm vào việc phát triển và hoàn thành con đường hướng thượng của nhân sanh.Sự tồn tại sanh tử tử sanh không dứt của chúng sanh từ vô thủy là vấn đề căn bản, rất hiện thực và bức thiết, vấn đề này chỉ có Phật giáo mới giải quyết một cách triệt để được. Phật giáo nhằm vào nhân sanh mà chỉ bày chân tướng của cái tồn tại ấy, khiến cho chúng ta từ chánh kiến thực tướng mà biết được phải làm thế nào để tiến hóa, để trong sạch cho đến siêu việt nhân sanh, đạt đến thành tựu viên mãn. Điều cốt tủy nầy trong các kinh điển gọi là Đạo.

Đức Thế tôn sau khi thành đạo, đầu tiên chuyển pháp luân độ 5 anh em Tỳ- Kheo, ngài đã đề ra việc lấy”Trung” làm đặt của “Đạo”. Như kinh Chuyển Pháp Luân(bản pà li): “Tham đắm dục lạc trong cõi dục này là việc vô nghĩa, chẳng phải bậc thánh: nhưng cho rằng khổ do tự thân tạo ra là khổi đạo chính là lìa hai bên này, nương vào Như Lai mà chứng ngộ. Đó tức là đạo khai nhãn, khai trí, đạt đến tịch tịnh, ngộ chứng, chánh giác, niết- bàn. Này các Tỳ- kheo! thế nào gọi là Trung đạo nương vào Như Lai mà được chứng ngộ? Đó là Bát chánh đạo”. Khi thuyế pháp lần đầu tiên, để khai Tông chỉ làm sáng tỏ ý nghĩa, Đức Phật đã nêu lên Trung Đạo bất khổ bất lạc nảy. Trung đạo tức bát chánh đạo, đây là nghĩa căn bản. Vì sao gọi là Trung?

Có thuyết cho rằng Phật pháp sở dĩ được gọi là trung vì chẳng nghiêng về phóng túng dục lạc, cũng chẳng nghiêng về khổ hạnh mà giữ thái độ chiết trung giữa khổ và lạc. Nhưng đó chỉ là theo từ mà giải nghĩa, chưa thể hiểu chính xác được vì sao bát chánh đạo gọi là trung đạo. Nên biết có người cho rằng nhân sinh quan là đường hướng trên lịch trình nhân sanh, chẳng phãi là thú vui phóng túng mà phải khổ hạnh, khắc kỷ. Khảo sát động cơ của hai mặt này thì biết đó điều là qua niệm được kiết lập trên hình thức, pháp môn của hình thức.

Khi cảm giác của con người nghiêng về lạc hạnh phóng túng đã không thuận lợi thì họ sẽ chuyễn hướng về khổ hạnh khắc kỷ. Như thế thì hành vi của con người điều không ngoài hai cực đoan này. Họ không hiểu rằng dục lạc phóng túng cũng như têm dầu vào lửa, lòng vị kỷ phát triển mạnh thì xã hội tấc nhiên sẽ khó cải thiện. hoặc có người cảm thấy con đường này không thuận lợi liền chuyển hướng về khổ hạnh mà không biết khổ hạnh là biện pháp lấy đá đè cỏ, dùng khổ hạnh để chế ngự tình dục, không thể thành công được. Tư tưởng yếm thế bi quan của Arthur Schopenhauer người Đức, thậm chí dùng tự sát làm biện pháp giải thoát tự ngã, tức là lấy tình thức làm gốc để giải quyết vấn đề. Theo Phật pháp thì dục lạc hay khổ hạnh điều phát sanh từ vọng chấp của tình thức. Đức Thế Tôn phủ định cả hai. Đây là Tân nhân sinh quan dùng trí làm gốc. Tự ngã cho đến thế gian chỉ có thể dùng trí chỉ đạo mới cải tạo và thành tựu lý tưởng của nhân sanh. Do đó Tân nhân sinh quan chẳng khổ chẳng vui- dùng trí làm gốc, là đặc chất duy nhất của Phật pháp.

Phật dạy lìa nhị biên mà hướng về trung đạo. Trung đạo tức Bát chánh đạo. Mấu chốt của Bát chánh đạo là chánh kiến. Tấc cả hành vi của thân tâm điều lấy chánh kiến để soi rọi, như Kinh A- Hàm đã dùng chánh kiến lam tiên phong của các hạnh. Kinh Bát- nhã lấy Bát nhã làm tiền đạo cho vạn hạnh. Ví thế hạnh Trung đạo chẳng khổ chẳng vui, chẳng phải chiết trung, mà là thực tiễn lấy chánh kiến làm gốc. Do đó nguyên tắc của Phật pháp là “dùng trí huệ để cải biên tình thức”, “dùng trí huệ để dẫn dắt hành vi”. Hạnh Trung đạo lấy trí làm gốc bao gồm quá trình từ sơ phát tâm cho đến đạt được cứu cánh viên mãn.

Chánh kiến là tiên phong của Trung đạo, tức là từ Thật tướng chánh kiến nhân sanh mà tiến hóa, trong sạch cho đến giải thoát và thành tựu nhân sanh. Thật tướng chành kiến nhân sanh trong các kinh đều có nói đến, đó tức là trung đạo hoặc pháp trung. Như kinh Tạp A- hàm: “Thế gian điên đảo, chấp vào Nhị biên, hoặc chấp có hoặc chấp không… Này Ca- Chiên- diên! Có người như thật chánh quán. Tập đế của thế gian, thì chẳng chấp sanh, chấp không với thế gian thì không sanh chấp có đối với thế gian. Này Ca- Chiên- diên! Như Lai lìa Nhị biên, thuyết Trung đạo, gọi đây có nên kia có, cái này snah nên cái kia sanh…”. Đó chính là điều mà Đức Thích tôn đã khai thị chánh kiến, chỉ rõ cho chúng ta biết rằng, người thế gian nếu không chấp có thì chấp không, Phật lài cả hai mà nói Trung đạo. Nhưng nếu cho Trung đạo lìa có lìa không là chiết trung của hữu vô, rồi cho là cũng có cũng không hoặc nữa có nữa không là thật sai lầm vậy. Diếu mà Đức Thích Tôn nêu ra chính pháp là duyên khởi, nương vào chánh kiến duyên khởi có hte643 đạt được Trung đạo chẳng rơi vào hai bên.

Trung đạo còn được Thích Tôn chỉ bày còn là Trung đạo chẳng phải một chẳng phải khác. “Tạp A- hàm” (Kinh thứ 297): “Nếu cho rằng mạng tức thân thì người phạm hạnh kia cũng không có. Nhị biên như thế, tâm chẳng chấp trước, mà hướng vào Trung đaọ. Bậc Hiền thánh xuất thế có chánh kiến như thật, không điên đảo, đó gọi là duyên sanh lão tử… duyên vô minh, hành”.

Còn Trung đạo chẳng thường chẳng đoạn, Kinh Tạp- A-hàm(đaị 2,85 hạ): “tự làm tự biết(thọ) thì đọa thường kiến; người khác làm người khác biết là Đoạn kiến, nghĩa thuyết, pháp thuyết. Nên lìa hai bên, ở nơi Trung đọa mà thuyết pháp, đó gọi là cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi…”

Chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn, cũng đồng với chẳng có chẳng không, đều là Trung đạo chẳng rơi vào nhị biên do y cứ vào duyên khởi mà khai thị. Trung đạo chánh kiến duyên khởi là Tông chỉ trong giáo nghĩa Thích Tôn. Chẳng lạc, chẳng khổ là Trung đạo hành, chẳng có chẳng không là trung đạo lý, đây chỉ là tạm thời phân biệt một cách tương đối mà thôi. Thực ra trong Trung đạo hành đã có chánh kiến làm tiên phong, tức bao hàm chánh kiến Trung đạo ngộ lý rồi, như thế mới không rơi vào Tình bản luận khổ. Đồng thời ngộ lý tức là một hạn mục của chánh hạnh; còn chánh kiến duyên khởi thì quán không tấc cả chánh hạnh tự lợi lợi tha. Cả hai đối đãi nhau, nương nhau không thể thiếu được. Nương vào chánh kiến duyên khởi, thì xa lìa được các lý luân nhị biên đoạn trường, có không, hiển pháp được thực tại của nhân sanh, tự nhiên đạt được trung đạo lìa nhị biên.

Ngoài ra, Đức Thế tôn còn khai thị về duyên khởi, duyên khởi sở dĩ được gọi là Trung đạo, thì chẳng thể bỏ quên duyne6 khởi tương ứng với không, Điếu này torng các kinh cũng có đề cập đến- như kinh A- Hàm (kinh 293): “Nói cho các Tỳ- Kheo kia nghe về pháp tùy thuận “Không”, tương ứng với duyên khởi của các bậc hiền Thánh xuất thế”. Duyên khởi là pháp tương ứng với “không”, là đại dụng độc đáo của “không”, tận trừ tấ cả kiến chấp lí luận. Duyên khởi tương ứng với “không”, cho nên duyên khởi ,mà lại là Trung đạo chánh kiến chẳng lọt nhị biên.

(Trích dịch từ Diệu Vân Tập của Ấn Thuận Đại Sư)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
27 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8277)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6749)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa. Ngài Long Thọ đã trao truyền giáo huấn thậm thâm về tri kiến tánh Không của dòng truyền thừa từ Đức Văn Thù Sư Lợi, trong khi ngài Vô Trước thì trao truyền giáo huấn về pháp hành bồ tát sâu xa của dòng truyền thừa từ Đức Di Lặc.
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5399)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
16 Tháng Bảy 2015(Xem: 4879)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thể và xúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề, kể về sự nhiệt thành khát khao cầu ngộ nhập tánh Không của một Bồ-tát. Sùng mộ, tin tưởng và nhiệt thành cầu thể nhập tánh Không đến độ thường hay khóc, do đó có tên Thường Đề.
10 Tháng Bảy 2015(Xem: 5796)
Mushin là một trong những nhà sư rạng rỡ hơn ai hết, trong tu viện. Sự an lạc và tính tình vui vẻ của ông, đã gây nguồn cảm hứng cho những ai tiếp xúc với ông.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 6339)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 5217)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả. Từ đó mà không tin nhân quả, định luật để con người dựa vào đó mà tiến bộ, tiến hóa.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 11787)
“Mặc dù trải qua 100 năm từ khi có sự bắt đầu những nghiên cứu khoa học về đạo Phật ở Châu Âu, tuy vậy, chúng ta vẫn còn đang mơ hồ về nền tảng giáo lý của tôn giáo nầy và tính triết học của nó. Chắc chắn không có một tôn giáo nào khác đã chứng tỏ một cách rất kiên định để làm sáng tỏ những trình bày có tính hệ thống của mình.”
12 Tháng Sáu 2015(Xem: 4759)
Như kinh Duy-ma-cật nói, “Từ gốc vô trụ (tánh Không), lập tất cả pháp”. Trung luận (phẩm Quán Tứ đế) nói, “Bởi vì có nghĩa Không. Tất cả pháp được thành. Nếu không có nghĩa Không. Tất cả đều chẳng thành”. Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụ là hiện thân của Ngài. Pháp thân Tỳ-lô-giá-na chính là pháp thân của Phật Thích Ca.
25 Tháng Tư 2015(Xem: 11232)
Phản chiếu trên việc một đối tượng duyên sinh như thế nào – sinh khởi phụ thuộc trên nhân và duyên, phụ thuộc trên những bộ phận của nó, và phụ thuộc trên tư tưởng – hổ trợ vô cùng để vượt thắng cảm nhận rằng đối tượng tồn tại trong nó và của chính nó.