Nội Dung Của Trung Đạo

13 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 29271)

NỘI DUNG CỦA TRUNG ĐẠO
Đại Sư Ấn Thuận

Phật Pháp, một phương pháp thực tiễn nhằm vào việc phát triển và hoàn thành con đường hướng thượng của nhân sanh.Sự tồn tại sanh tử tử sanh không dứt của chúng sanh từ vô thủy là vấn đề căn bản, rất hiện thực và bức thiết, vấn đề này chỉ có Phật giáo mới giải quyết một cách triệt để được. Phật giáo nhằm vào nhân sanh mà chỉ bày chân tướng của cái tồn tại ấy, khiến cho chúng ta từ chánh kiến thực tướng mà biết được phải làm thế nào để tiến hóa, để trong sạch cho đến siêu việt nhân sanh, đạt đến thành tựu viên mãn. Điều cốt tủy nầy trong các kinh điển gọi là Đạo.

Đức Thế tôn sau khi thành đạo, đầu tiên chuyển pháp luân độ 5 anh em Tỳ- Kheo, ngài đã đề ra việc lấy”Trung” làm đặt của “Đạo”. Như kinh Chuyển Pháp Luân(bản pà li): “Tham đắm dục lạc trong cõi dục này là việc vô nghĩa, chẳng phải bậc thánh: nhưng cho rằng khổ do tự thân tạo ra là khổi đạo chính là lìa hai bên này, nương vào Như Lai mà chứng ngộ. Đó tức là đạo khai nhãn, khai trí, đạt đến tịch tịnh, ngộ chứng, chánh giác, niết- bàn. Này các Tỳ- kheo! thế nào gọi là Trung đạo nương vào Như Lai mà được chứng ngộ? Đó là Bát chánh đạo”. Khi thuyế pháp lần đầu tiên, để khai Tông chỉ làm sáng tỏ ý nghĩa, Đức Phật đã nêu lên Trung Đạo bất khổ bất lạc nảy. Trung đạo tức bát chánh đạo, đây là nghĩa căn bản. Vì sao gọi là Trung?

Có thuyết cho rằng Phật pháp sở dĩ được gọi là trung vì chẳng nghiêng về phóng túng dục lạc, cũng chẳng nghiêng về khổ hạnh mà giữ thái độ chiết trung giữa khổ và lạc. Nhưng đó chỉ là theo từ mà giải nghĩa, chưa thể hiểu chính xác được vì sao bát chánh đạo gọi là trung đạo. Nên biết có người cho rằng nhân sinh quan là đường hướng trên lịch trình nhân sanh, chẳng phãi là thú vui phóng túng mà phải khổ hạnh, khắc kỷ. Khảo sát động cơ của hai mặt này thì biết đó điều là qua niệm được kiết lập trên hình thức, pháp môn của hình thức.

Khi cảm giác của con người nghiêng về lạc hạnh phóng túng đã không thuận lợi thì họ sẽ chuyễn hướng về khổ hạnh khắc kỷ. Như thế thì hành vi của con người điều không ngoài hai cực đoan này. Họ không hiểu rằng dục lạc phóng túng cũng như têm dầu vào lửa, lòng vị kỷ phát triển mạnh thì xã hội tấc nhiên sẽ khó cải thiện. hoặc có người cảm thấy con đường này không thuận lợi liền chuyển hướng về khổ hạnh mà không biết khổ hạnh là biện pháp lấy đá đè cỏ, dùng khổ hạnh để chế ngự tình dục, không thể thành công được. Tư tưởng yếm thế bi quan của Arthur Schopenhauer người Đức, thậm chí dùng tự sát làm biện pháp giải thoát tự ngã, tức là lấy tình thức làm gốc để giải quyết vấn đề. Theo Phật pháp thì dục lạc hay khổ hạnh điều phát sanh từ vọng chấp của tình thức. Đức Thế Tôn phủ định cả hai. Đây là Tân nhân sinh quan dùng trí làm gốc. Tự ngã cho đến thế gian chỉ có thể dùng trí chỉ đạo mới cải tạo và thành tựu lý tưởng của nhân sanh. Do đó Tân nhân sinh quan chẳng khổ chẳng vui- dùng trí làm gốc, là đặc chất duy nhất của Phật pháp.

Phật dạy lìa nhị biên mà hướng về trung đạo. Trung đạo tức Bát chánh đạo. Mấu chốt của Bát chánh đạo là chánh kiến. Tấc cả hành vi của thân tâm điều lấy chánh kiến để soi rọi, như Kinh A- Hàm đã dùng chánh kiến lam tiên phong của các hạnh. Kinh Bát- nhã lấy Bát nhã làm tiền đạo cho vạn hạnh. Ví thế hạnh Trung đạo chẳng khổ chẳng vui, chẳng phải chiết trung, mà là thực tiễn lấy chánh kiến làm gốc. Do đó nguyên tắc của Phật pháp là “dùng trí huệ để cải biên tình thức”, “dùng trí huệ để dẫn dắt hành vi”. Hạnh Trung đạo lấy trí làm gốc bao gồm quá trình từ sơ phát tâm cho đến đạt được cứu cánh viên mãn.

Chánh kiến là tiên phong của Trung đạo, tức là từ Thật tướng chánh kiến nhân sanh mà tiến hóa, trong sạch cho đến giải thoát và thành tựu nhân sanh. Thật tướng chành kiến nhân sanh trong các kinh đều có nói đến, đó tức là trung đạo hoặc pháp trung. Như kinh Tạp A- hàm: “Thế gian điên đảo, chấp vào Nhị biên, hoặc chấp có hoặc chấp không… Này Ca- Chiên- diên! Có người như thật chánh quán. Tập đế của thế gian, thì chẳng chấp sanh, chấp không với thế gian thì không sanh chấp có đối với thế gian. Này Ca- Chiên- diên! Như Lai lìa Nhị biên, thuyết Trung đạo, gọi đây có nên kia có, cái này snah nên cái kia sanh…”. Đó chính là điều mà Đức Thích tôn đã khai thị chánh kiến, chỉ rõ cho chúng ta biết rằng, người thế gian nếu không chấp có thì chấp không, Phật lài cả hai mà nói Trung đạo. Nhưng nếu cho Trung đạo lìa có lìa không là chiết trung của hữu vô, rồi cho là cũng có cũng không hoặc nữa có nữa không là thật sai lầm vậy. Diếu mà Đức Thích Tôn nêu ra chính pháp là duyên khởi, nương vào chánh kiến duyên khởi có hte643 đạt được Trung đạo chẳng rơi vào hai bên.

Trung đạo còn được Thích Tôn chỉ bày còn là Trung đạo chẳng phải một chẳng phải khác. “Tạp A- hàm” (Kinh thứ 297): “Nếu cho rằng mạng tức thân thì người phạm hạnh kia cũng không có. Nhị biên như thế, tâm chẳng chấp trước, mà hướng vào Trung đaọ. Bậc Hiền thánh xuất thế có chánh kiến như thật, không điên đảo, đó gọi là duyên sanh lão tử… duyên vô minh, hành”.

Còn Trung đạo chẳng thường chẳng đoạn, Kinh Tạp- A-hàm(đaị 2,85 hạ): “tự làm tự biết(thọ) thì đọa thường kiến; người khác làm người khác biết là Đoạn kiến, nghĩa thuyết, pháp thuyết. Nên lìa hai bên, ở nơi Trung đọa mà thuyết pháp, đó gọi là cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi…”

Chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn, cũng đồng với chẳng có chẳng không, đều là Trung đạo chẳng rơi vào nhị biên do y cứ vào duyên khởi mà khai thị. Trung đạo chánh kiến duyên khởi là Tông chỉ trong giáo nghĩa Thích Tôn. Chẳng lạc, chẳng khổ là Trung đạo hành, chẳng có chẳng không là trung đạo lý, đây chỉ là tạm thời phân biệt một cách tương đối mà thôi. Thực ra trong Trung đạo hành đã có chánh kiến làm tiên phong, tức bao hàm chánh kiến Trung đạo ngộ lý rồi, như thế mới không rơi vào Tình bản luận khổ. Đồng thời ngộ lý tức là một hạn mục của chánh hạnh; còn chánh kiến duyên khởi thì quán không tấc cả chánh hạnh tự lợi lợi tha. Cả hai đối đãi nhau, nương nhau không thể thiếu được. Nương vào chánh kiến duyên khởi, thì xa lìa được các lý luân nhị biên đoạn trường, có không, hiển pháp được thực tại của nhân sanh, tự nhiên đạt được trung đạo lìa nhị biên.

Ngoài ra, Đức Thế tôn còn khai thị về duyên khởi, duyên khởi sở dĩ được gọi là Trung đạo, thì chẳng thể bỏ quên duyne6 khởi tương ứng với không, Điếu này torng các kinh cũng có đề cập đến- như kinh A- Hàm (kinh 293): “Nói cho các Tỳ- Kheo kia nghe về pháp tùy thuận “Không”, tương ứng với duyên khởi của các bậc hiền Thánh xuất thế”. Duyên khởi là pháp tương ứng với “không”, là đại dụng độc đáo của “không”, tận trừ tấ cả kiến chấp lí luận. Duyên khởi tương ứng với “không”, cho nên duyên khởi ,mà lại là Trung đạo chánh kiến chẳng lọt nhị biên.

(Trích dịch từ Diệu Vân Tập của Ấn Thuận Đại Sư)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 10776)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11659)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9739)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 7997)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6114)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26052)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5960)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11664)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 5961)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6363)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.