Khái Niệm Về Tính Không Nghịch Biện Như Thế

13 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 33719)

KHAÍ NIỆM VỀ TÍNH KHÔNG NGHỊCH BIỆN NHƯ THẾ
Nguyên tác: The concept of emptiness is such a paradox
Tác giả: Sonam Tsomo, Times of India, 28 October 2009
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 04-11-2009

Tân Đề Ly, Ấn Độ - Tính không là khái niệm chìa khóa của triết lý Phật Giáo, một cách đặc biệt hơn trong giáo lý Đại Thừa: “Sắc chính thực là không, và không chính thực là sắc.” Đây là một nghịch biện của khái niệm.

Tính không không nên bị lầm lẫn với không có gì cả (hư vô luận). Tính không là không tự tính nhưng không phải là không có gì cả (tính không là không hiện hữu nhưng không phải là không có gì cả - tính không là không tồn tại nhưng không phải là không có gì cả). Cũng thế, nó không phải là không thực tại. Tính không có nghĩa là một đối tượng, có sinh khí hay không có sinh khí, không có sự hiện hữu một cách độc lập. Nó có ý nghĩa và sự hiện hữu chỉ khi tất cả những yếu tố hay thành phần mà nó được tạo nên hình thành sự vận động và chúng ta có thể hiểu cùng quy cho sự hiện hữu của nó một cách rõ ràng.

Bằng sự giải thích, chúng ta được yêu cầu quán sát một cái tách hay bất cứ một vật chứa nào khác. Có phải cái tách là trống không khi nó không chứa đựng bất cứ chất lõng hay chất rắn nào bên trong nó? Chúng ta nói vâng, nó trỗng rỗng. Nhưng nó thật sự là trỗng rỗng chứ? Không, nó không phải thế, nó đấy không khí. Ngay cả khi chiếc ly ở trong trạng thái chân không, nó không trỗng rỗng. Nó vẫn chứa đựng một khoãng không, sự bức xạ, và có thể là ánh sáng.

Thế cho nên, quan điểm của Đạo Phật khác với thế gian. Chiếc ly luôn luôn đầy ấp điều gì đấy hay thứ khác. Để diễn tả một cách triết lý, chiếc ly là trống không sự tồn tại cố hữu (không có tự tính). Nó đã hình thành sự tồn tại do bởi nhiều điều kiện khác hình thành nên sự vận hành.

Đấy là do bởi những sự phức tạp này mà khái niệm về tính không của Đạo Phật thường bị gán cho là như chủ nghĩa hư vô (không có gì cả). Những nhà học giả cho rằng triết học phương Tây chắc chắn đã đóng một vai trò trong việc tạo nên khái niệm sai lầm này. Chủ nghĩa hư vô như một khái niệm có nghĩa rằng thực tại là không biết và không thể biết, và rằng không có gì tồn tại. Trái lại, khái niệm của Đạo Phật về tính không nói rằng căn bản của thực tại là có thể biết được, và rằng không có trường hợp nào mà khái niệm tính không nên được gán cho ý nghĩa là không có gì cả.

Plato đã có quan niệm rằng có một ý tưởng mẫu mực căn bản trong mọi thứ mà chúng ta có chung quanh chúng ta, cho dù nó là có sinh khí hay không có sinh khí. Cuối cùng, “bản chất của chiếc ly tồn tại một cách thiết yếu trong thế giới của tâm thức.” Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, Tính Không là sự vắng bóng của thực tế tuyệt đối hay sự tồn tại độc lập. Nếu một vật tồn tại, đấy là do bởi vài nhân tố khác.

Người ta cũng có thể hỏi: có thể có một hiện tượng nào không có phần tử không? Theo tư tưởng trường pháiTrung Quán, không thể có một hiện tượng nào mà không có phần tử (hay không có hiện tượng nào không có sự cấu tạo) để hình thành sự hiện hữu.

Quyển sách ‘Nghệ Thuật Sống’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma làm cho sự hiểu biết của chúng ta về nhận thức thực tại rõ ràng hơn. Ngài nói rằng, “khi tuệ giác nội quán của chúng ta đi vào bản chất của thực tại sâu sắc và gia tăng, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại là điều mà chúng ta sẽ nhận thức những hiện tượng và những sự kiện như một loại vọng tưởng (hão huyền). Và cung cách nhận thức thực tại ấy sẽ thẩm thấu tất cả những tác động hổ tương của chúng ta với thực tại.

Thậm chí chính tự tính không, điều mà được thấy như tính tự nhiên căn bản của thực tại, thì không tuyệt đối cũng không tồn tại một cách độc lập. Chúng ta không thể nhận thức tính không như là một hiện tượng độc lập về căn bản, bởi vì khi chúng ta thể nghiệm tính tự nhiên của thực tại, chúng ta thấy rằng chính tự tính không là một đối tượng. Hãy tìm bản chất của nó và chúng ta sẽ thấy rằng sự tồn tại cố hữu của nó là trống rỗng. Do thế, Đức Phật dạy về tính không của tính không (không không).”

http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=6,8650,0,0,1,0
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 11021)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11745)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9804)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 8024)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6131)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26096)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5992)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11742)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 6020)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6428)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.