Trung Luận Và Hồi Tranh Luận - Bồ Tát Long Thọ

02 Tháng Tám 201200:00(Xem: 15506)

TRUNG LUẬN
(MADHYAMAKAKÀRIKÀ)

HỒI TRANH LUẬN
(VIGRAHAVYÀVARTANÌ)

2012 Phật Lịch 2555
BỒ TÁT LONG THỌ tạo luận
Luật sư THANH MỤC bình
Tam Tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP dịch sang Hán văn
BRIAN BOCKING dịch sang tiếng Anh
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch sang tiếng Việt
TRUNG LUAN IMG_0004
botatlongtho2
NAM-MÔ LONG THỌ TỔ SƯ BỒ-TÁT

Một Số Tác Phẩm của Bồ-tát Long Thọ
(hay được cho là của Bồ-tát Long Thọ)

1. Trung Luận hay Trung Quán Luận (Mùla-madhyamaka-karikà).Bảo
2. Hồi Tranh Luận (Vigrahavyàvartani).
3. Đại Trí Độ Luận còn gọi là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kinh Thích Luận (Mahaprajnaparamata-upadesa-sastra).
4. Đại Thừa Phá Hữu Luận (Bhavasamkranti).
5. Thập Nhị Môn Luận (Dvàdasanikàva).
6. Hạnh Vương Chánh Luận (Ràjaparikatha-ratnamàla).
7. Bất Khả Tư Nghì Tụng (Acyntyastava).
8. Bồ-đề Tư Lương Luận (Bodhisambhrahaka).
9. Đại Thừa Nhị Thập Tụng Luận (Mahayananavimsakà).
10. Lục Thập Như Ý Luận (Yukisastikà-karikà).
11. Nhân Duyên Tâm Luận Tụng (Pratìtyamutpàdahrdaya-kàrikà)
12. Thất Thập Tánh Không Luận (Sunyatàsaptati).
13. Tồi Phá Luận hay Quảng Phá Luận (Vaidalyaprakarana)
14. Xuất Thế Gian Tụng (Lokàtitastava).


Mục Lục

Một Số Tác Phẩm của Long Thọ, 4
Lời người dịch, 6
TRUNG LUẬN
Lời Tựa của Tăng Duệ, 9
Chương 1. Quán Nhân Duyên, 11
Chương 2. Đi và Đến, 22
Chương 3. Quán Sáu Tình, 31
Chương 4. Quán Năm Uẩn, 34
Chương 5. Quán Sáu Đại, 39
Chương 6. Quán Nhiễm và Người Nhiễm, 43
Chương 7. Quán Ba Tướng, 47
Chương 8. Quán Nghiệp và Tác Nhân, 64
Chương 9. Quán Bản Trụ, 69
Chương 10. Quán Lửa và Nhiên Liệu, 75
Chương 11. Quán Bản Tế, 83
Chương 12. Quán Khổ, 86
Chương 13. Quán Hành, 90
Chương 14. Quán Hòa Hợp, 99
Chương 15. Quán Có và Không, 104
Chương 16. Quán Ràng Buộc và Giải Thoát, 109
Chương 17. Quán Nghiệp, 114
Chương 18. Quán Pháp, 126
Chương 19. Quán Thời, 136
Chương 20. Quán Nhân và Quả, 139
Chương 21. Quán Thành và Hoại, 147
Chương 22. Quán Như Lai, 157
Chương 23. Quán Thấy Điên Đảo, 165
Chương 24. Quán Bốn Thánh Đế, 172
Chương 25. Quán Niết-bàn, 184
Chương 26. Quán Mười Hai Nhân Duyên, 193
Chương 27. Quán Tà Kiến, 196
HỒI TRANH LUẬN
Tụng 1-20, trg. 211-220
Tụng 21-70, trg. 221-243
Thư Mục 244

Lời Người Dịch

Mùlamadhyamaka-kàrikà (Trung luận hay Trung Quán Luận) của Nagarjuna (Long Thọ) là một trong số những tác phẩm nổi tiếng là khó đọc, khó thấu triệt, khó giải thích, khó dịch trong thế giới triết học, đạo lý của con người trên thế giới vì tánh cách uyên thâm siêu việt của tư tưởng và ngôn ngữ diễn đạt quá hàm súc, trừ những ai đã liễu ngộ tánh không của vạn vật trong vũ trụ và trong đời sống con người trên thế gian. Vì thế, rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, dịch thuật, giải thích hay bình luận, xưa cũng như nay, cả Đông lẫn Tây, đã nỗ lực rất nhiều, trước tiên là để tự giúp mình và sau là giúp người đọc hiểu nó đến mức độ nào đó, do đó rất nhiều tác phẩm đã ra đời trong ngót hai nghìn năm qua. Bản dịch tiếng Việt này cũng không ngoại lệ.

Trên bước đường tìm học, người dịch đã có cơ duyên được đọc Trung Luận tức Mulamadhyamaka-karika, luận thư quan trọng nhất của Đại Bồ-tát Long Thọ (Nagarjuna), qua một số bản dịch tiếng Anh trước khi có cơ hội đọc bản dịch tiếng Việt và bản Hán dịch các Tụng ngôn của Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva, 344-413 TL), và lời bình giải được qui cho là của Luật sư Thanh Mục (Vinaya Master Vimalaksa), là vị thầy Bà-la-môn (Brahman) trước kia của Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Trong khi đọc và tham cứu, người dịch thấy rằng mình đã được soi sáng nhiều điểm trước đó chưa được rõ ràng. Thật là một niềm hân hoan và lợi ích lớn. Vì thế, người dịch mạo muội làm việc chuyển dịch sang tiếng Việt cả Tụng ngôn và Lời Bình để giới thiệu với độc giả trọn vẹn những gì vốn đã được chính Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập làm cho Trung Luận và được Tăng Duệ, một trong những đệ tử chính của Pháp sư, chịu trách nhiệm xuất bản đầu tiên như trong Lời Tựa của ông cho biết. Đối với người chưa từng đọc hay học giáo lý Trung Luận của Bồ-tát Long Thọ mà muốn đọc, hoặc những người đang đọc hay đã đọc nhưng thấy có những chỗ khó hiểu và chưa hiểu rõ ràng, thì lời bình giải đi kèm từng Tụng ngôn của Luật sư Thanh Mục là một trợ giúp lớn vì tính cách ngắn gọn, cụ thể, bình dị, và bắn đúng trọng điểm của các Tụng ngôn.

Tác giả của Mulamadhyamaka-karika (Trung Luận), Nagarjuna (Long Thọ), là một Đại Bồ-tát ở Ấn độ, sống vào khoảng sau của thế kỷ thứ 2 và phần đầu của thế kỷ thứ 3 Tây lịch. Đời của ngài như đã được ghi chép và truyền tụng vừa có tính cách lịch sử vừa mang tính cách huyền thoại phi phàm, khó mà nhận diện cho thật chính xác. Địa vị của ngài trong Phật giáo nói chung, trong Phật giáo Đại thừa nói riêng, thật rất quan trọng. Như các học giả Phật học đi trước nhận định rằng ngài chỉ đứng sau đức Phật Thích-ca Mâu-ni, và ngài là Tổ sư của tám đại tông phái Phật giáo, trong đó có Tam Luận tông, Tịnh Độ Tông, Thiền tông, Chơn Ngôn tông, Mật tông Tây tạng, v.v…Thiền tông công nhận ngài là Tổ thứ 14. Trong thực tế, các chùa và tự viện ở các nước châu Á như Trung hoa và Việt nam, cửa chùa được gọi là “cửa Không,” phải chăng đây là do ảnh hưởng của giáo lý Tánh Không của ngài trong đời sống tu hành?

Đối với nhiều học giả Phật học của các nước phương Tây thì Nagarjuna cũng được xem là thứ nhì sau đức Phật, và là một triết gia Phật giáo vĩ đại nhất mà họ từng biết, tìm hiểu, và nghiên cứu tư tưởng trác việt của ngài. Họ thừa nhận giáo lý Tánh Không hay Triết lý Trung quán của ngài nói chung và của Trung luận nói riêng, trong ngót hai ngàn năm qua đã đứng vững chải như là một đỉnh cao thách thức cho toàn thể thế giới triết học cả Đông lẫn Tây và vẫn sẽ như vậy cho các thế hệ mai sau, và Trung Luận (Mulamadhyamakakarika) là một kiệt tác của Phật giáo Đại thừa.

Về bản dịch chữ Hán của Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Các học giả Phật học phương Tây khi nghiên cứu triết học Phật giáo họ thường dịch trực tiếp từ nguyên tác Phạn ngữ (Sanskrit) hoặc từ bản dịch tiếng Tây tạng mà họ cho là trung thành với nguyên tác Phạn ngữ hơn là bản văn Hán dịch của Pháp sư Cưu-ma-la-thập, sang ngôn ngữ của họ. Nhưng theo Giáo sư triết học David J. Kalupahana thuộc viện Đại học Hawaii (The University of Hawaii) thì không hẳn như vậy. Trong Lời Tựa của ông cho cuốn Mulamadhyamaka-karika of Nagarjuna, The Philosophy of the Middle Way, ông cho biết: Ông đã dịch Chung-lun (Trung luận) của Pháp sư Cưu-ma-la-thập sang tiếng Anh để đối chiếu với nguyên tác Phạn ngữ. Sau khi so sánh và nghiên cứu kỹ lưỡng bản dịch Hán văn của Cưu-ma-la-thập với nguyên tác Phạn ngữ, ông thấy ý nghĩa trong hai bản văn không có gì khác biệt. Ông cũng khám phá ra rằng Kumarajiva là đệ tử còn trung thành và gần gũi hơn của Nagarjuna.

Về dịch thuật. Phần các Tụng ngôn của Bồ-tát Long Thọ được dịch từ bản dịch Hán văn của Pháp sư Cưu-ma-la-thập do Thượng tọa Thích Viên Lý cho in lại trong bản dịch Việt ngữ Trung Luận của Thượng tọa, do Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới xuất bản năm 1998 ở California, Hoa kỳ. Phần bình giải của Luật sư Thanh Mục được dịch theo bản dịch tiếng Anh của Tiến sĩ Brian Bocking trong quyển Nagarjuna in China, A Translation of the Middle Treatise do nhà The Edwin Mellon Press, Ltd. ở Anh quốc cho ấn hành ở Hoa kỳ vào năm 1995. Tiến sĩ Brian Bocking đã dịch theo bản Hán văn của Pháp sư Cưu-ma-la-thập rút từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh của Nhật bản.

Khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch tiếng Việt của Thượng tọa Thích Viên Lý từ bản dịch Hán văn của Pháp sư Cưu-ma-la-thập, và các bản dịch tiếng Anh như của Brian Bocking từ bản dịch Hán văn, của Kenneth K. Inada, của David J. Kalupahana, và của Richard H. Jones từ nguyên tác Phạn ngữ, và của Jay L. Garfield từ bản dịch tiếng Tây tạng.

Hồi Tranh Luận (Vigrahavyàvartani) là một tác phẩm ngắn gọn, chỉ gồm bảy mươi tụng ngôn. Trong số đó, hai mươi tụng ngôn đầu Bồ-tát Long Thọ tóm lược tất cả những phản luận của các đối thủ đã tranh luận với ngài về giáo lý Tánh Không và năm mươi tụng ngôn sau là những giải đáp của ngài. Lời giải thích cho các tụng ngôn cũng chính do ngài viết. Trong Hồi Tranh Luận, Bồ-tát Long Thọ đã trình bày vắn tắt, rõ ràng lập trường của ngài: không lập trường và cùng lúc bác bỏ luôn cả tri thức luận và luận lý học là không có căn bản tự hữu. Vì vậy, Hồi Tranh Luận được xem như là một bổ sung cho Trung Luận, nên chúng tôi dịch và cho vào tập sách để độc giả tiện bề tham khảo. Phần các tụng ngôn trong Hồi Tranh Luận được dịch theo bản dịch tiếng Anh do Giáo sư Thomas E. Woods dịch từ nguyên tác tiếng Phạn trong quyển Nagarjunian Disputations do University of Hawaii ấn hành năm 1994 ở Honolulu, Hoa kỳ. Phần Lời Bình các tụng ngôn được dịch theo bản dịch tiếng Anh do Tiến sĩ Kamaleswar Bhattacharya dịch, cũng từ nguyên tác tiếng Phạn, trong quyển The Dialectical Method of Nagarjuna và nhà Motial Banarsidass Publishers xuất bản năm 1998 ở Delhi, Ấn độ.

Chân thành cảm tạ tất cả các dịch giả của các ngôn ngữ khác nhau của các bản dịch mà người dịch đã sử dụng khi thực hiện bản dịch tiếng Việt này.

Dù đã cố gắng nhiều nhưng do sự hiểu biết có hạn, nên chắc có những sai sót trong bản dịch, xin các bậc cao minh rộng lượng chỉ bảo cho để có thể sửa đổi cho bản dịch tốt hơn khi có dịp.

Xin đa tạ.

Frederick, 21 tháng 02 năm 2012

Đỗ Đình Đồng

Lời Tựa *của Tăng Duệ

Trong Trung Luận có năm trăm tụng ngôn, do Bồ-tát Long Thọ sáng tác. Lấy tên là “Trung” để tuyên bố cái thực của nó. Nó được gọi là “Luận” để làm cho trọn vẹn lời nói. Nếu không có danh người ta không hiểu được cái thực; do đó người ta định danh nó là “Trung” để công bố nó. Lời sẽ không trọn vẹn nếu không có giải thích; do đó họ chấp nhận chữ “Luận” để làm nó rõ ràng. Khi cái thực đã được tuyên bố và lời đã rõ ràng, thì theo dòng bồ-tát, trực giác của bồ-đề-đạo-tràng (bodhimanda) chiếu sáng rực rỡ, và các “các sợi dây huyền được hợp nhất.”

Tham và si dấy lên từ tà niệm, và do đó mà ba cõi đắm chìm. Cái hiểu phiến diện phát sinh tri kiến [đặc thù] do ghét, và do đó có những sai lạc quyết định so với mục tiêu. Như vậy chúng ta biết rằng đại bồ-đề ở trong trực quan quảng đại, và tri kiến nhỏ bé thì bị tâm bóp méo trói buộc. Nếu trực quan không quảng đại, thì không đủ để phá bỏ đi hữu và vô, để hợp nhất thánh và phàm. Nếu kiến thức không hoàn bị thì người ta không thể băng qua Trung Đạo mà xóa bỏ hai giới hạn. Mà thánh và phàm không hợp nhất, hai giới hạn không được xóa bỏ thì đó là điều làm bồ-tát phiền não. Do đó, đại sĩ Nagarjuna (Long Thọ) đã bình đẳng hóa chúng với Trung Đạo, làm cho người học có thể bị lạc mục tiêu (ý nghĩa) nhìn vào chỉ hướng siêu hình và hoàn toàn thay đổi. Đại sĩ đã tổng hợp chúng với [nguyên lý] đồng nhất với những biến thể, và khiến cho các thân chủ của tri thức siêu hình mất đi những hoạch định kỹ lưỡng của họ dưới ánh sáng ban mai trong suốt.

Quảng đại thay! Người ta có thể nói một cách đúng thực để đưa vào trật tự và làm phẳng con đường đi đến (dọc theo) “những bậc thang rỗng” để mở cánh cổng siêu hình bên trong vũ trụ, để quạt ngọn gió bát-nhã giữa những cành cây khô, tưới nước cam lồ (amrita) lên những cây héo rũ. Khi một lâu đài với trăm cây đà (gỗ bách hương) dựng lên, làm sụp đổ túp lều tranh dường như là không tốt. Khi các vị thấy luận này vĩ đại làm sao, thì các vị biết cái hiểu phiến diện thấp kém thế nào. May sao đất Trung thổ này bỗng được núi Linh Thứu (Gridhrakuta) di chuyển đến đây làm núi chính cho nó, và những tâm trí thiên lệch ở những vùng xa xôi nhận được dòng ánh sáng của nó thặng dư từ ái. Từ nay trở đi, lần đầu tiên chư đại đức bàn thảo về Đạo có thể đàm luận về thực tại (cái thực).

Người ta nói rằng tất cả các bang của Thiên trúc (India) không có người nào dấn thân vào nghiên cứu mà không tham cứu luận này và coi nó như là kinh điển của họ. Rất nhiều người trong số đó đã thấm ướt bút lông và viết thành thích luận. Thích luận mà bây giờ chúng tôi xuất bản là thích luận của một vị Bà-la-môn Ấn độ tên là Pin-cha-lo, tiếng Tần (Ch’in) là “Thanh Mục.”* Mặc dù sư tin và hiểu Pháp thâm sâu, ngôn ngữ của sư không thanh lịch và thích hợp. Pháp sư (Cưu-ma-la-thập) đã hiệu đính và sửa tất cả các lỗi, những khiếm khuyết và chỗ thừa trong đó, chuyển dịch nó phù hợp theo các Tụng ngôn, như thế các nguyên tắc trở nên xác định, mặc dù ở vài chỗ ngôn ngữ vẫn còn chưa hoàn hảo.

Bách Luận đào luyện người ngoại đạo (Tirthikas) và ngăn chận những sai lầm. Bản văn này giải thoát người trong đạo (Phật giáo) và giải trừ các chướng ngại của họ. Đại Trí Độ Luận thì sâu xa và quảng đại. Thập Nhị Môn Luận thì gọn rõ và đúng tâm điểm. Khi quí vị khảo sát bốn luận này, thì thật là như mặt trời và mặt trăng đi vào lòng của quí vị. Không có gì không được soi chiếu rõ ràng.

Tôi đã chịu trách nhiệm và tham cứu (sách này) và không thể để nó rời khỏi tay tôi. Vậy, hãy bỏ qua sự thấp kém và không thích hợp của tôi, tôi đã biểu lộ nội kiến và tình cảm của mình trong lời tựa, và đã lập một bản mục lục ở đầu [sách]. Nhưng tôi hy vọng gì mà giải thích được! Chỉ là để biểu lộ sự hân hoan vì cảm xúc thỏa thuận của riêng tôi.


* Dịch theo bản dịch tiếng Anh của Richard Robinson trong quyển Early Madhyamika in India and China do Brian Bocking cho in lại trong quyển Nagarjuna in China, A Translation of the Middle Treatise.
* Sự nhận diện “Thanh Mục,” tác giả của luận thích về Trung Luận, đã được thảo luận và đi đến kết luận rằng “Thanh Mục” có lẽ không phải là “Pingala” (Pin-cha-lo) mà là Vimalaksa (Pin-lo-chia), vị thầy Ba-la-môn trước kia ở Kasmir của Pháp sư Cư-ma-la-thập.

pdf_download_2
XEM NỘI DUNG: Phiên bản PDF:
Trung Luận va Hoi Tranh Luan
Phiên bản Epub dành chi Ipad: TRUNG LUẬN VÀ HỒI TRANH LUẬN - BỒ TÁT LONG THỌ tạo luận - ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch sang tiếng Việt .Epub ((sau khi download về máy nhà, unzip thành dạng ePub xong chuyển qua Ipad)





Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 10776)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11659)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9737)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 7996)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6112)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26052)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5960)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11662)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 5959)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6359)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.