Lời Tựa (Của Tác Giả)

29 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 5993)

NGHIÊN CỨU VỀ
TRIẾT HỌC TÁNH KHÔNG
Nguyên tác: Pháp sư Ấn Thuận
Chuyển ngữ: Tỳ-kheo Thích Nhuận Thịnh

LỜI TỰA
(CỦA TÁC GIẢ)

anthuanphapsuỞ trong Trung quán kim luận, tôi nói: “Trong những người có quan hệ thầy trò, bằng hữu, tôi được xem là người nghiên cứu về Tam luận hoặc Không tông.” Tôi “đối với ý nghĩa tổng quát căn bản của Không tông, quả thật là có đồng tình rất lớn,” nhưng “tôi không đủ tư cách thuộc về bất cứ học phái nào của Không tông.” Vấn đề là: Tôi đọc sách chỉ mong hiểu được ý chính mà không để tâm nhiều đến sự trau chuốt của văn tự, chung chung mà không chuyên, nên không thích hợp với việc chuyên hoằng truyền một tông nào, hoặc thâm nhập để làm rạng rỡ một tông nào. Lại nữa, đối diện với tình hình thực tế của Phật giáo, tôi luôn cảm thấy nó có một khoảng cách rất xa đối với Phật pháp. Sự phát tâm tu học của tôi chỉ là tấm lòng chân thành đối với Phật pháp, hi vọng từ trong Tam tạng được Ấn độ truyền đến, hiểu ra nguồn gốc và sự thay đổi, phát triển của việc tu trì và giải thích nghĩa lý, đem nó làm cho thuần khiết, chân chánh trở lại, không có nhằm vì làm cho thích ứng mà thiên (thần) hóa hay thế tục hóa đi Phật pháp. Điều này là xuyên suốt toàn tác phẩm, tôi không dám quên đi phương châm ấy.

Vài năm trước đây, nhằm để viết tác phẩm Sự khởi nguyên và phát triển của Phật giáo Đại thừa sơ kỳ, khi đọc kinh Bát nhã, tội chợt nhớ lại đã 30 năm trước, kiến giải của tôi trong Trung quán kim luận rằng: “Trung luận là bản tổng luận của kinh A-hàm;” “Trung luận quả thật đã dùng lập trường của học giả Đại thừa,… khai quật và phát triển nghĩa lý sâu xa của duyên khởi trong kinh A-hàm, đem chánh kiến của Phật pháp (Đại thừa) thiết lập vững chắc trên nguyên tắc cơ bản của duyên khởi và trung đạo.” Sự suy đoán này, xuất phát từ suy đoán của các nhân tôi, không nhất định có thể được sự công nhận của giới Phật học. Tôi nghĩ, đối với không nghĩa của kinh Bát-nhã, dẫu có lý giải rõ ràng, chính xác, không bằng từ A-hàm, Bộ phái, Bát-nhã, Long thọ, làm một phen ‘nghiên cứu về triết học tánh không’, dùng để phát huy tính thật tiễn của không và khai triển lý luận. Sự hình dung ấy chính là động cơ của việc viết ra tác phẩm này.

Chủ đề của sách này chính là ‘không’. Nói đơn giản: cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp. Cái không của Bát-nhã là ‘nghĩa sâu sắc’ của sự thể ngộ. Cái không của Long thọ là là giả danh, tánh không của kinh Bát-nhã, và sự thống nhất trung đạo và duyên khởi của kinh A-hàm. Tất cả pháp đều là không của Phật pháp Đại thừa là không lìa khỏi Phật pháp – lập trường căn bản của duyên khởi và trung đạo; là Trung luận (thuộc lý luận), cũng là Trung quán (thuộc thực tiễn). Tuy nhiên, gọi là ‘nghiên cứu’, mà kỳ thật chỉ là trích dẫn, thuật lại kinh điển để trình bày, không có sự phát huy của tự mình. Mới gần đây tôi thấy được mục lục của Thế giới Phật học danh trước dịch tùng, biết rằng có Bát-nhã tư tưởngTrung quán tư tưởng do tập thể gồm Kajiyama Yuuichi [梶山雄一], v.v, trước tác, tôi không thể đọc được và tham khảo, thật vô cùng nuối tiếc! Hi vọng có thể có một vài quan điểm và ý kiến chung với nhau!

Dân quốc năm 73, ngày 29, tháng 11, viết lợi tựa này tại Tinh xá Hoa Vũ, Đài Bắc.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 12717)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 12641)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 10579)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 8498)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6639)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 27913)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 6524)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 12483)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 6556)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 7173)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.