Lời Tựa của Karma Lodro Choepel

22 Tháng Bảy 201415:08(Xem: 5180)
Khenchen Thrangu Rinpoche
Đỗ Đình Đồng dịch
TÁNH KHÔNG
TRONG TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
hay
SHENTONG & RANGTONG
Hai Cái Thấy về Tánh Không

Lời Tựa của Karma Lodro Choepel

Khi đến với triết học Phật giáo, đặc biệt là Rangtong và Shentong, nhiều người học có những phản ứng khá thích thú. Một vài người cảm thấy sợ rằng họ sẽ không thể hiểu được và như thế có thể ngay cả không muốn bắt đầu nghiên cứu và chiêm nghiệm. Một vài người có thể muốn biết làm sao điều đó có thể giúp họ tu tập và tốt hơn là chỉ ngồi và thiền định. Đối với những người khác, quan điểm này hay quan điểm kia khiến họ thích thú hay kích động, và họ bị phiền não. Vì bị dính mắc vào cái thấy do sở thích của mình, họ nghĩ rằng Rangtong phải là cái tối hậu và Shentong chỉ là giáo lý tạm thời và nhuốm màu chấp trước, hay Shentong dạy trung đạo chân chính và vĩ đại còn Rangtong chỉ là chân lý thiên lệch. Thường khi bạn không thể trách ai vì có phản ứng như vậy: nếu bạn đọc nhiều sách Phật giáo, bạn sẽ sớm bất chợt gặp phải những lời nói mà bề ngoài hỗ trợ hay ngay cả khuyến khích bất cứ phản ứng nào trong những phản ứng này.

Nhưng tất cả những cái đó đều bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều có những khuynh hướng và khả năng khác nhau, và nên tu tập pháp môn nào thích hợp nhất với bản tánh của chúng ta, nhưng chúng ta không nên bác bỏ bất cứ giáo lý nào trong những lời dạy khác của đức Phật vì sợ hãi, vô minh, hay chấp trước. Đức Phật đã dạy những cái thấy mà về sau được gọi là rangtongshentong vì lý do đơn giản mà chiêm nghiệm và hiểu được chúng có thể giúp chúng ta trong tu tập thiền định. Nếu chúng ta có những quan niệm sai lầm về bản tánh của thực tại, chúng ta sẽ không thể tiến bộ trong thiền định, vì thế điều quan trọng là chiêm nghiệm cả cái thấy của Rangtong lẫn cái thấy của Shentong. Và bất chấp danh tiếng đáng gờm của chúng, Rangtong và Shentong là điều mà chúng ta có thể chiêm nghiệm và hiểu được.

Trong những trang sau đây, Khenchen Thrangu Rinpoche miêu tả ý nghĩa và tầm quan trọng của cả hai cái thấy này bằng ngôn ngữ đơn giản và rõ ràng. Bất cứ khi nào Rinpoche thảo luận về Rangtong và Shentong, sư đều nhấn mạnh cả hai đều quan trọng như thế nào: cả hai đều dạy về bản tánh tối hậu của thực tại. Cái thấy của Rangtong nhấn mạnh tánh không của tất cả các hiện tượng, như thế chúng ta không bị dính mắc vào sự vật là kiên cố và có thật. Cái thấy của Shentong nhấn mạnh tánh giác trong sáng, vốn đầy đủ các phẩm tính và tiềm năng, như thế chúng ta không nghĩ rằng chân tánh chỉ là cái hư không. Dù trong lời nói hai cái thấy này nghe như những cái khác nhau, trong thực tại chúng không thể tách rời nhau. Bản tánh trong sáng của tâm không phải là một cái gì kiên cố mà chúng ta có thể tìm thấy hay minh xác được, nhưng nó không phải chỉ là một cái không tĩnh vật, không có cái gì cả. Đây là những gì chúng ta gọi là sự hợp nhất của tánh giác và tánh không, sự hợp nhất của tính trong sáng và tánh không. Bằng nghiên cứu tánh không và các cái thấy của Rangtong và Shentong, chúng ta có thể đến chỗ hiểu được lý do tại sao bản tánh của tâm là cách nó tồn tại và phát triển sự chắc chắn nơi nó.

Mặc dù đây chỉ là cái hiểu và sự chắc chắn có tính cách khái niệm, nó sẽ giúp chúng ta trong tu tập thiền định. Dù cho chúng ta đang thiền định về thần thủ hộ (yidam: bổn tôn) hay tu tập Đại Thủ ấn (Mahāmudrā) hay Đại Hoàn thiện (Dzogchen), chúng ta cần biết tại sao chúng ta thiền định và tại sao thiền định có thể làm được. Rồi khi có kinh nghiệm trong tu tập, chúng ta có thể nhớ lại, “Ồ, đây là những gì họ muốn nói khi họ nói tâm là tánh không. Đó là những gì họ muốn nói qua tính trong sáng hay tính quang minh.” Chúng ta sẽ có thể nhận ra các dấu hiệu tiến bộ tốt hơn đối với chúng là gì và có khả năng tốt hơn thấy thấu suốt bất cứ kinh nghiệm lừa gạt tạm thời nào có thể xảy ra. Đây là lý do tại sao đối với chúng ta, đọc và chiêm nghiệm những tập sách như tập sách này là quan trọng.

Trên hết, chúng ta phải luôn luôn nhớ vận may tốt đẹp của mình được sống làm người bây giờ vào thời mà Khenchen Thrangu Rinpoche và nhiều bậc thầy khác đang cống hiến chúng ta những giáo lý quí báu này và chúng được làm cho khả dụng trong những ngôn ngữ chúng ta có thể hiểu được. Rinpoche đã dùng nhiều thập niên du hành trên địa cầu này và giải thích cái thấy và cách thiền định vì ước mong đơn giản giúp tất cả chúng ta đạt được hạnh phúc bền vững và lâu dài. Chúng ta nợ Rinphoche ân huệ lớn vì lòng từ ái này. Nhưng để mang những giáo lý này đến cho chúng ta, nó cần nhiều hơn là những nỗ lực đơn độc của Rinpoche; nó cũng nhận lấy sự làm việc khó nhọc và cần mẫn của những học viên sùng mộ. Hơn ba chục năm qua, Clark Johnson đã dùng tất cả thời gian không phải làm việc của mình để làm việc trợ giúp các dự án của Rinpoche và các giáo lý của sư. Phần lớn đó là vì những nỗ lực không mệt mỏi của ông nên nhiều giáo lý của Rinpoche bây giờ khả dụng bằng tiếng Anh. Tập sách này chỉ có thể được xuất bản là nhờ sự khởi đầu và cần mẫn của ông, vì vậy tôi cảm ơn ông vì tất cả sự phục vụ của ông. Tôi cũng cảm ơn cô Carole Lamarche vì lòng sùng mộ và thiện chí đọc bản in thử và hiệu đính bản thảo. Đây là một sự trợ giúp rất cần thiết vậy.

Rinpoche nói rằng khi chúng tôi gọi một giáo lý là thâm sâu, những gì chúng tôi muốn nói là hữu ích. Tôi thành thật hy vọng rằng bạn tìm thấy những lời dạy trong tập sách này hữu ích không chỉ trong tu tập pháp của bạn mà còn cả trong cách thấy sự vật xảy ra như thế nào trong đời sống hằng ngày của bạn. Tôi nguyện rằng bất cứ một nỗ lực nào dù nhỏ bé khi đi vào trong tập sách này cũng giúp cho những lời dạy của Rinpoche đem lại hạnh phúc cho bạn bây giờ và trong tương lai. Mong niềm vui và điều tốt đầy khắp thế gian này.

Śramanera Karma Lodrö Choephel

Boudhanath, Nepal

Tháng 02, 2008

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 11012)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11736)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9781)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 8021)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6126)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26087)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5983)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11714)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 6007)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6412)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.