11 Cái Thấy về Sự Hợp Nhất Bất Sinh

23 Tháng Bảy 201409:07(Xem: 5034)
Khenchen Thrangu Rinpoche
Đỗ Đình Đồng dịch
TÁNH KHÔNG
TRONG TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
hay
SHENTONG & RANGTONG
Hai Cái Thấy về Tánh Không

 11 
Cái Thấy về Sự Hợp Nhất Bất Sinh

VII. Cái Thấy Về Sự Hợp Nhất Bất Sinh

 

 Phân đoạn phụ thứ bảy và là cuối cùng của bản văn này nói về cái thấy về sự hợp nhất bất sinh, sự hợp nhất của hiện tướng và tánh không, sự hợp nhất của tính trong sáng và tánh không, và sự hợp nhất của cực lạc và tánh không. Nếu có được cái thấy này, thì chúng ta sẽ đạt được chứng ngộ qua tu tập bởi vì đây là bản tánh của các pháp (hiện tượng). Nếu tánh không không phải là chân tánh của các pháp, chúng ta không thể chứng ngộ được nó. Nhưng bởi vì chân tánh của các pháp là sự hợp nhất của hiện tướng và tánh không, chúng ta có thể sẽ chứng ngộ sự hợp nhất này qua tu tập. Thí dụ, than thì đen và đó là bản tánh của than. Quí vị không thể làm gì khác hơn cho nó. Dù cố gắng thế nào, quí vị cũng không thể rửa than thành trắng. Quí vị có thể rửa than 100 lần và nó vẫn giữ nguyên màu đen. Tương tự, nếu bản tánh của các pháp không phải là tánh không, dù chúng ta có tu tập nhiều bao nhiêu, cũng không thể chứng ngộ tánh không.

 

Ba Trí 

 

 Đức Phật và các bậc đại sư đã dạy về bản tánh của các pháp trên căn bản chứng ngộ trực tiếp, không phân tích luận lý và suy đoán. Nếu tánh không không phải là chân tánh của các pháp, thì những lời nói của đức Phật sẽ không đúng và người ta không thể đạt sự chứng ngộ theo con đường Phật giáo. Nếu tánh không không phải là chân tánh của các pháp, thì lý luận hợp lý sẽ không đúng và chúng ta không bao giờ có thể chứng minh bản tánh không của các pháp qua luận lý. Nhưng, có thể chứng minh và chứng ngộ sự kiện này bởi vì tánh không là bản tánh của các pháp, chúng ta có thể tiến bộ và chứng ngộ tánh không qua tu tập. Nếu tánh không không phải là bản tánh chân thật của các pháp, thì nó là một ảo ảnh và sự tu tập tâm linh sẽ không mang lại kết qủa nào cả. Vì tánh không là bản tánh của các pháp, chúng ta có thể đạt được kết qủa qua nghiên cứu và tu tập, nhưng chúng ta có thể hỏi, “Chúng ta làm việc này bằng cách nào?” 

 Chúng ta tạo sự tiến bộ trên đường đạo qua sự phát triển của ba loại trí tuệ (Phạn: prajñā). Thứ nhất, chúng ta cần học những gì đã được dạy bằng cách đọc các kinh do đức Phật đã dạy và đọc các luận do các bậc đại sư ở Ấn độ và Tây tạng đã dạy. Bằng cách nghiên cứu các giáo lý, chúng ta sẽ trở nên quen với các giáo lý về tánh không. Trí tuệ về các giáo lý phát sinh từ sự nghiên cứu này.

 Nghiên cứu các giáo lý về tánh không như thế có đủ không? Không. Chúng ta cũng cần khảo sát các giáo lý ấy để thấy chúng thực sự muốn nói gì. Qua trí thông minh và sự hiểu biết của chúng ta, chúng ta khảo sát và chiêm nghiệm các giáo lý ấy cho đến khi có được sự hiểu biết cho chính mình về ý nghĩa của các giáo lý ấy. Một khi có được sự hiểu biết về các giáo lý ấy, chúng ta sẽ có trí tuệ đến qua chiêm nghiệm. Rồi chúng ta sẽ biết, “Đây là những gì tánh không muốn nói. Nó giống như bản tánh của các pháp.”

 Chiêm nghiệm những chân lý này như thế có đủ không? Không, bởi vì chúng ta cần trí tuệ chỉ đến qua thiền định. Thí dụ, nếu chúng ta bị đau ở bàn tay và đọc các bản văn dạy về mọi sự vật là không, bàn tay của chúng ta sẽ tiếp tục đau. Chỉ lặp lại với chính mình rằng mọi vật đều là không trong khi chúng ta chích mũi kim vào bàn tay mình thì vẫn gây ra đau đớn bởi vì chúng ta đã trở thành quen qua suốt tất cả các kiếp sống của mình tin vào thực tại của sự vật. Qua tu tập thiền định đặt căn bản trên tri thức về những gì chúng ta đã học qua phân tích rằng chúng ta có thể có được kinh nghiệm và chứng ngộ trực tiếp, tức là tánh không là chân tánh của các pháp. 

 Khi chúng ta phát triển sự chứng ngộ trực tiếp chân tánh của các pháp qua thiền định, chúng ta cũng sẽ hiểu các pháp ở bình diện qui ước. Bản văn viết: “Một khi chúng ta chứng ngộ chân tánh của các pháp, thì tự động sẽ có trí tuệ thoát khỏi vô minh quan hệ với nhân quả.” Khi chúng ta chứng ngộ rằng bản tánh của tất cả các hiện tướng là tánh không, đó không có nghĩa là các hiện tướng phát sinh không có nguyên nhân hay lý do (nhân duyên). Nhưng một khi chúng ta chứng ngộ trực tiếp chân tánh của các pháp là tánh không, những ám chướng của niềm tin vào cái ngã kiên cố và vào thực tại của các pháp bị loại bỏ. Một khi các ám chướng này bị phá tan, thì trí tuệ của chúng ta có thể thấy các pháp tự nhiên và tự động phát sinh như thế nào. Khi biết điều này, chúng ta thực sự hiểu rằng một hành động tiêu cực sẽ khởi lên một ảnh hưởng tiêu cực và một hành động tích cực sẽ có một ảnh hưởng tích cực. Ở điểm này, chúng ta thoát khỏi sự vô minh về những hành tác của nhân và quả và có trí tuệ thoát khỏi vô minh ở bình diện qui ước của thực tại.

 Chứng ngộ chân lý tối hậu không ngăn chận chúng ta thấy chân lý qui ước. Đúng hơn, nhờ hiểu các hiện tướng phát sinh không ngừng như thế nào ở bình diện qui ước, chúng ta chứng ngộ bản tánh không của các hiện tướng và chúng ta hiểu chân lý tối hậu mà nó là bản tánh bất sinh của chúng. Khi chứng ngộ chân lý này, chúng ta không bị các hiện tướng làm phân tán và như thế chúng ta thấy sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ. Sự hợp nhất này là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sự toàn hảo của trí tuệ, thường được miêu tả bằng người mẹ. Dù một người là một hoàng tử, một bộ trưởng hay một người ăn mày, y cũng do một người mẹ sinh ra. Cũng vậy, thanh văn, bích-chi-phật, bồ-tát và chư Phật đều do trí tuệ này sinh ra. Chúng ta có thể gọi sự chứng ngộ trí toàn hảo này là “Bát-nhã Ba-la-mật-đa” (Trí tuệ đến bờ bên kia) hay chúng ta có thể gọi nó là “Mahāmudrā” (Đại Ấn hay Đại Thủ Ấn). Dù chúng ta gọi nó là gì, nó cũng là sự chứng ngộ tối hậu của tất cả các giáo lý của kinh và mật điển.

 Điều này kết thúc luận giải về phần phụ phân thứ ba trong chương bảy của Tập Yếu Tri Kiến (The Compendium of Knowledge) của Jamgon Kongtrul Lodro Thaye Vĩ đại. 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
27 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8401)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6814)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa. Ngài Long Thọ đã trao truyền giáo huấn thậm thâm về tri kiến tánh Không của dòng truyền thừa từ Đức Văn Thù Sư Lợi, trong khi ngài Vô Trước thì trao truyền giáo huấn về pháp hành bồ tát sâu xa của dòng truyền thừa từ Đức Di Lặc.
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5468)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
16 Tháng Bảy 2015(Xem: 4952)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thể và xúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề, kể về sự nhiệt thành khát khao cầu ngộ nhập tánh Không của một Bồ-tát. Sùng mộ, tin tưởng và nhiệt thành cầu thể nhập tánh Không đến độ thường hay khóc, do đó có tên Thường Đề.
10 Tháng Bảy 2015(Xem: 5843)
Mushin là một trong những nhà sư rạng rỡ hơn ai hết, trong tu viện. Sự an lạc và tính tình vui vẻ của ông, đã gây nguồn cảm hứng cho những ai tiếp xúc với ông.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 6418)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 5260)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả. Từ đó mà không tin nhân quả, định luật để con người dựa vào đó mà tiến bộ, tiến hóa.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 12079)
“Mặc dù trải qua 100 năm từ khi có sự bắt đầu những nghiên cứu khoa học về đạo Phật ở Châu Âu, tuy vậy, chúng ta vẫn còn đang mơ hồ về nền tảng giáo lý của tôn giáo nầy và tính triết học của nó. Chắc chắn không có một tôn giáo nào khác đã chứng tỏ một cách rất kiên định để làm sáng tỏ những trình bày có tính hệ thống của mình.”
12 Tháng Sáu 2015(Xem: 4802)
Như kinh Duy-ma-cật nói, “Từ gốc vô trụ (tánh Không), lập tất cả pháp”. Trung luận (phẩm Quán Tứ đế) nói, “Bởi vì có nghĩa Không. Tất cả pháp được thành. Nếu không có nghĩa Không. Tất cả đều chẳng thành”. Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụ là hiện thân của Ngài. Pháp thân Tỳ-lô-giá-na chính là pháp thân của Phật Thích Ca.
25 Tháng Tư 2015(Xem: 11308)
Phản chiếu trên việc một đối tượng duyên sinh như thế nào – sinh khởi phụ thuộc trên nhân và duyên, phụ thuộc trên những bộ phận của nó, và phụ thuộc trên tư tưởng – hổ trợ vô cùng để vượt thắng cảm nhận rằng đối tượng tồn tại trong nó và của chính nó.