Chương III. ĐỐI TRỊ SÂN HẬN - Giới thiệu

06 Tháng Giêng 201915:01(Xem: 2549)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
LỜI PHẬT DẠY
VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI
HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI
The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 
An Anthology of Discourses from the Pāli Canon
by
BHIKKHU BODHI
Wisdom Publications 2016
Việt dịch:
Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


Chương III. ĐỐI TRỊ SÂN HẬN

 

GIỚI  THIỆU

 

Trong số những phiền não cấu uế về tinh thần gây nhiều xáo trộncho hòa hợp xã hội, có lẽ tai hại nhất là sân hận. Vì hầu như trong tất cả cộng đồng, kể cả các tu viện của Đức Phật, đều có những người có khuynh hướng tham dục vị kỷ, họ luôn luôn có nguy cơ gây chia rẽ do sân hậnoán hận, và trả thù những thành viên trong cộng đồng của họ. Vì ký do đó, việc chế ngự sân hậnlà rất quan trọng đối với sự hòa hợp trong cộng đồngĐức Phậtcông nhận rằng trong lúc bộc lộ giận dữ mang lại một mức độ thỏa mãn nào đó, Ngài chỉ rõ là những cơn giận bùng nỗ cuối cùng sẽ dội ngược trở lại chính mình, đưa đến tổn hại cho chính mình và làm cho con người dấn thân vào việc xung đột với người khác. Do đó, trong Kinh văn III, 1 , Ngài mô tả sân hận giống như một  rễ cây độc hại với đầu ngọn dính chút mật ngọt.

 

Sân hận xảy ra với nhiều mức độ khác nhau, phân biệt nhiều hạng người khác nhau. Kinh Văn III, 2 sắp xếp con người thành ba hạng dựa trên mối tương quan  của họ với sân hận: những người thường tức giận và vẫn nuôi dưỡng cơn giận của mình là giống như một đường kẻ vạch lên đá; những người tức giận nhưng nhanh chóng giải toả cơn giận của mình thì giống như một đường kẻ vạch lên mặt đất; những người vẫn nhẫn nhụcngay cả khi bị kẻ khác tấn công là giống như một đường kẻ vạchtrên nước. Kinh Văn III, 3 còn phân biệt thêm các hạng người trong tương quan giữa họ với sân hận bằng cách so sánh họ với bốn loại rắn.

 

Vì Đức Phật tìm giải pháp cho những vấn đề của con người qua sự hỗ trợ của luật nhân quả, để giúp chúng ta hiểu rõ hơn tại sao tức giận phát sinh, Ngài đưa ra “mười lý do để oán hận”, mà Ngài đã liệt kê trong Kinh Văn III, 4 với sự thông suốt và chính xác thường lệ của Ngài.

 

Mười lý do có được bằng cách ghi nhận trước tiên là phản ứng của con người đối với những kẻ có hành động làm tổn hại mình; kế tiếp là phản ứng của con người trước những hành động làm tổn hại bạn mình; tiếp theo là phản ứng của con người trước những hành động có lợi cho kẻ thù của mình. Mỗi lý do trong số đó được chia theo ba thời kỳ - quá khứhiện tại và tương lai – tổng cọng là chin lý doCuối cùngĐức Phật thêm một loại gọi là ‘’oán hận vô lý’’, để chỉ trường hợp ‘con người oán hận không vì lý do nào cả.’

 

Việc thiết lập hòa hợp trong cộng đồng đòi hỏi các thành viên của cộng đồng cố gắng vượt qua sân hậnBước đầu tiên để loại bỏ sân hận là suy xét về những nguy hiểm của sân hận. Tôi đã tập hợp một số bài kinh về những điểm bất lợi của sân hận trong Kinh Văn III, 5 (1) - (4). Bởi vì sân hận đem đến mối đe dọa đáng sợ cho sự an vui của con ngườiĐức Phật đề nghị nhiều phương pháp khác nhau để loại bỏsân hận. Trong Kinh Văn III, 6 (1) Ngài dạy vế mười trường hợp oán hận cần phải được loại bỏđối trịlại mười lý do để oán hận. Trong Kinh Văn III, 6 (2), Ngài đề nghị năm phương pháp để loại bỏ sân hận. Trong Kinh Văn III, 6 (3), Tôn giả Xá-Lợi-Phất (Sariputta), vị trưởng lão đệ tử của Đức Phật giải thíchthêm năm phương pháp để vượt qua sân hận.

 

Bên dưới nhiều kỹ thuật được vận dụng để chống lại sân hận, lộ ra một đức hạnh quan trọng, đó là hạnh nhẫn nhục ( khanti), mà Đức Phật gọi là khổ hạnh tối cao.(1). Nhẫn nhục vừa là phương tiện chữa lành tâm sân hận vừa là đức hạnh tối thắng khi cuối cùng sân hận đã tan biến. Trong Kinh Văn III, 7 (1),Đức Phật hướng dẫn các đệ tử của Ngài nên nhẫn nhục mỗi khi các vị ấy bị kẻ khác tấn công bằngnhững lời lẽ độc ác như dao đâm; thậm chí Ngài còn dạy rằng, “nếu bọn cướp hung bạo dùng cái cưa hai lưỡi xẻo từng miếng thịt trên tay chân các ông, các ông phải kềm chế nỗi đau đớn và trải tâm từ đến chúng.” Trong Kinh Văn III, 7 (2),Tôn giả Xá-Lợi-Phất dạy rằng, khi một sa-môn bị kẻ khác tấn công bằng những lời  xúc phạm hay bằng vũ khí, vị sa-môn ấy có thể duy trì hạnh nhẫn nhục bằng cách áp dụng pháp quán vô thường và quán các giới thuộc vật chất ( liên hệ đến thân thể). Một bài kinh giảng cho Sakka Thiên chủ, vị vua cai trị cõi Thiên, được đưa vào đây như là Kinh văn III, 7 (3) – so sánhtương phản hai phương cách đối trị với sự xúc phạm đạo đứcphương cách của một nhà chính trị thực tiển và phương cách của một nhà đạo đức lý tưởng. Trong kịch bản này, người đánh xe ngựa Mātali tượng trưng cho nhà chính trị thực tiển, là người hô hào trừng phạt kẻ thù, trong lúc Sakka Thiên chủ,  tượng trưng cho nhà cai trị chân chínhca ngợi hạnh nhẫn nhục và tự chế.

 

Những khó khăn thách thức của việc duy trì hạnh nhẫn nhục có thể vượt qua bằng cách noi gương những vị đáng kính ngưỡng về hạnh nhẫn nhục. Trong đoạn cuối của phần này, tôi cung cấp những bài tường thuật về các nhân vật gương mẫu đã giữ gìn cam kết của họ về hạnh nhẫn nhục trong những hoàn cảnh khó khăn. Kinh Văn III, 8 (1)-(4) cho thấy bằng cách nào Đức Phật, Punna (Tôn giả Phú-lâu-na) là vị sa-môn có nhiện vụ đi truyền giáo, Trường lão Xá-Lợi-Phất, và Sakka Thiên chủ , tất cả đã áp dụng hạnh nhẫn nhục như thế nào để vượt thắng kẻ thù của các vị ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 10776)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11659)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9738)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 7997)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6112)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26052)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5960)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11663)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 5960)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6361)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.