2. Người Bất Chánh và Người Chơn Chánh

06 Tháng Giêng 201915:59(Xem: 2824)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
LỜI PHẬT DẠY
VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI
HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI
The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 
An Anthology of Discourses from the Pāli Canon
by
BHIKKHU BODHI
Wisdom Publications 2016
Việt dịch:
Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


Chương VI. LỢI LẠC CHO MÌNH và 
LỢI LẠC CHO NGƯỜI KHÁC 

  

 

2. NGƯỜI  BẤT CHÁNH và NGƯỜI CHƠN CHÁNH

 

“ Này các Tỳ-kheo, người  bất chánh sở hữu những tính cách bất chánh; người ấy kết giao như một  người bất chánhquyết địnhnhư một người bất chánh,  khuyên bảo  như một người bất chánh, nói năng như một người bất chánh, hành động như một người bất chánh, nắm giữ các quan điểm như một người bất chánh, và bố thí như người bất chánh.

 

“ Và thế nào là một người bất chánh sở hữu những tính cách bất chánh ? Ở đây, người bất chánh không có đức tin, không biết hổ thẹn, không sợ làm điều ác; người ấy không nghe Chánh Pháp, lười biếng, đãng trí, và ngu muội. Như vậy là người bất chánh sở hữu những tính cách bất chánh.

 

“Và thế nào là một người bất chánh kết giao như một người bất chánh? Ở đây, người bất chánh kết giaovới những bạn bè và người đồng hành là các sa môn và Bà-la-môn không có đức tin, không biết hổ thẹn, không sợ làm điều ác; những người không nghe Chánh Pháp, lười biếng, đãng trí, và ngu muội.Như vậy là  một người bất chánh kết giao như một người bất chánh.

 

“ Và thế nào là một người bất chánh quyết định như một người bất chánh? Ở đây, người bất chánhquyết định  những điều đem lại tổn hại cho chính mình, tổn hại cho người khác và tổn hại cho cả hai. Như vậy là một người bất chánh quyết định  như một người bất chánh.

 

“Và thế nào là một người bất chánh khuyên bảo như một người bất chánh? Ở đây, người bất chánhkhuyên bảo những điều đem lại tổn hại cho chính mình, tổn hại cho người khác và tổn hại cho cả hai. Như vậy là  một người bất chánh đưa ra những lời khuyên bảo như một người bất chánh.

 

“Và thế nào là một người bất chánh nói năng như một người bất chánh? Ở đây, người bất chánh nói lời dối trá, nói lời gây chia rẽ, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm.  Như vậy là một người bất chánh nói năng như một người bất chánh.

 

“Và thế nào là một người bất chánh hành động như một người bất chánh? Ở đây, người bất chánh sát sanh, lấy của không cho, phạm tội tà dâm. Như vậy là một người bất chánh hành động như một người bất chánh.

 

“Và thế nào là một người bất chánh nắm giữ  tà kiến như một người bất chánh? Ở đây, người bất chánhnắm giữ các tà kiến như là : ‘Không có bố thí, không có cúng dường, không có tế lễ; không có  quả báohay hậu quả của các hành động thiện ác; không có đời này, không có đời sau; không có mẹ, không có cha; không có các loài hóa sanh; không có các sa môn hay Bà-la-môn đức hạnh trong đời này đã tự mình chứng ngộ với thượng trí và truyền dạy lại cho đời này và đời sau.’ Như vậy là một người bất chánh nắm giữ  tà kiến như một người bất chánh.

 

“Và thế nào là một người bất chánh bố thí như một người bất chánh? Ở đây, người bất chánh bố thí một cách bất cẩn, không phải tự tay mình bố thí, không tỏ ra cung kính khi bố thíbố thí những vật đáng vứt bỏbố thí với quan điểm rằng việc bố thí này chẳng đem lại kết quả gì . Như vậy là một người bất chánhbố thí như một người bất chánh.

 

“ Người bất chánh ấy – người sở hữu những tính cách bất chánh như vậy, người ấy kết giao như một người bất chánhquyết định như một người bất chánh,  khuyên bảo  như một người bất chánh, nói năng như một người bất chánh, hành động như một người bất chánh, nắm giữ các tà kiến như một người bất chánh, và bố thí như  một người bất chánh – vào lúc thân hoại mạng chungsau khi chết sẽ bị tái sanh vào cảnh giới của những người bất chánh. Và thế nào là vào cảnh giới của những người bất chánh ? Đó là cảnh giới  địa ngục hay bàng sanh.

 

“ Này các Tỳ-kheo, người  chơn chánh sở hữu những  đức tính chơn chánh; người ấy kết giao như một  người chơn chánh, quyết định như một người chơn chánh,  khuyên bảo  như một người chơn chánh, nói năng như một người chơn chánh, hành động như một người chơn chánh, giữ vững chánh kiến như một người chơn chánh, và bố thí như một người chơn chánh.

 

“ Và thế nào là người  chơn chánh sở hữu những  đức hạnh chơn chánh ? Ở đây, người chơn chánh có đức tin, biết hổ thẹn, sợ làm điều ác; người ấy nghe nhiều Chánh Pháptinh cần, luôn giữ chánh niệmvà có trí tuệ. Như vậy là người chơn chánh sở hữu những đức hạnh chơn chánh.

 

“Và thế nào là một người chơn chánh kết giao như một người chơn chánh? Ở đây, người chơn chánh kết giao với những bạn bè và người đồng hành là các sa môn và Bà-la-môn có đức tin,  biết hổ thẹn, sợ làm điều ác; những người nghe nhiều Chánh Pháptinh cần, luôn giữ chánh niệm và có trí tuệ. Như vậy là người chơn chánh kết giao như một người chơn chánh.

 

“ Và thế nào là một người chơn chánh quyết định như một người chơn  chánh? Ở đây, người chơn chánh không quyết định những điều đem lại tổn hại cho chính mình, tổn hại cho người khác và tổn hạicho cả hai. Như vậy là một người chơn chánh quyết định  như một người chơn chánh.

 

“Và thế nào là một người chơn chánh khuyên bảo như một người chơn chánh? Ở đây, người chơn chánh không khuyên bảo những điều đem lại tổn hại cho chính mình, tổn hại cho người khác và tổn hạicho cả hai. Như vậy là một người chơn chánh khuyên bảo như một người chơn chánh.

 

“Và thế nào là một người chơn  chánh nói năng như một người chơn chánh? Ở đây, người chơn chánh từ bỏ nói lời dối trá, không nói lời gây chia rẽ, không  nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm.  Như vậy là một người chơn chánh nói năng như một người chơn chánh.

 

“Và thế nào là một người chơn chánh hành động như một người chơn chánh? Ở đây, người chơn chánh từ bỏ sát sanhtừ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm. Như vậy là một người chơn chánh hành động như một người chơn chánh.

 

“Và thế nào là một người chơn chánh giữ vững chánh kiến như một người chơn chánh? Ở đây, người chơn chánh giữ vững các chánh  kiến như là : ‘Có bố thí,  có cúng dường, có tế lễ; có  quả báo hay hậu quả của các hành động thiện ác; có đời này, có đời sau; có mẹ, có cha; có các loài hóa sanh; có các sa môn hay Bà-la-môn đức hạnh trong đời này đã tự mình chứng ngộ với thượng trí và truyền dạy lại cho đời này và đời sau.’ Như vậy là một người chơn chánh giữ vững chánh kiến như một người chơn chánh.

 

“Và thế nào là một người chơn chánh bố thí như một người chơn chánh? Ở đây, người chơn chánh bố thí một cách cẩn trọng, tự tay mình bố thí,  tỏ ra cung kính khi bố thíbố thí phẩm vật có giá trịbố thí với quan điểm rằng việc bố thí này sẽ đem lại kết quả nào đó . Như vậy là một người chơn chánh bố thí như một người chơn chánh.

 

“ Người chơn chánh ấy – người sở hữu những  đức hạnh chơn chánh như vậy, người ấy kết giao như một  người chơn chánh, quyết định như một người chơn chánh,  khuyên bảo  như một người chơn chánh, nói năng như một người chơn chánh, hành động như một người chơn chánh, giữ vững chánh kiến như một người chơn chánh, và bố thí như  một người chơn chánh – vào lúc thân hoại mạng chungsau khi chết sẽ được tái sanh vào cảnh giới của những người chơn chánh. Và thế nào là vào cảnh giớicủa những người chơn chánh ? Đó là đại cảnh giới  của chư Thiên hay loài người.

 

 

                              ( Trung BK III, Kinh số 110 , tr 145 – 152 )

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 11016)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11740)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9790)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 8023)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6128)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26093)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5987)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11734)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 6016)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6418)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.