- Lời Giới Thiệu
- Chương Một Vì Sao Phải Quan Tâm Đến Thiền?
- Chương Hai Những Gì Không Phải Là Thiền?
- Chương Ba Thiền Là Gì?
- Chương Bốn Thái Độ
- Chương Năm Sự Thực Tập
- Chương Sáu Phương Cách Điều Thân
- Chương Bảy Phương Pháp Điều Tâm
- Chương Tám Ngồi Thiền
- Chương Chín Chuẩn Bị Trước Khi Ngồi Thiền
- Chương Mười Những Khó Khăn Trong Lúc Ngồi Thiền
- Chương Mười Một Đối Trị Với Sự Xao Lãng - Phần I
- Chương Mười Hai Đối Trị Với Sự Xao Lãng - Phần Ii
- Chương Mười Ba Chính Niệm (Sati)
- Chương Mười Bốn Niệm Và Định
- Chương Mười Lăm Thiền Tập Trong Đời Sống Hằng Ngày
- Chương Mười Sáu Được Gì Cho Ta?
- Lời Kết Năng Lực Của Tâm Từ
CHÍNH NIỆM - THỰC TẬP THIỀN QUÁN
Nguyễn Duy Nhiên dịch,
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản: Thanh Hóa 2009
Lời
Kết
Năng lực của tâm từ
Phương pháp thực tập chính niệm được trình bày trong quyển sách này, nếu cố
gắng thực hành, chắc chắn sẽ chuyển hóa được đời bạn. Giờ đây, tôi xin được
giới thiệu và nhấn mạnh thêm về một khía cạnh khác của đạo Phật, con đường này
đi song song với chính niệm, đó là metta, hay tâm từ. Thiếu tâm từ, chỉ riêng
chính niệm khó có thể nào phá vỡ được sự dính mắc và ngã chấp. Và ngược lại,
chính niệm là một nhân tố căn bản cần thiết để phát huy tâm từ. Hai điều này
lúc nào cũng phải song hành với nhau.
Mỗi người trong chúng ta đều có đầy đủ những hạt giống và tiềm năng thương yêu.
Nhưng chỉ với một tâm thức tĩnh lặng, không bị ảnh hưởng bởi tham lam, sân hận
và ganh tỵ, những hạt giống thương yêu này mới có thể trưởng thành. Nhờ mảnh
đất phì nhiêu của chính niệm mà hoa tình thương được nở rộ. Chúng ta cần nuôi
dưỡng những hạt giống thương yêu ấy trong ta và trong người khác, giúp chúng
cắm rễ và trưởng thành.
Tôi có dịp đi rất nhiều nơi trên thế giới để dạy Phật pháp, và vì vậy tôi phải
mất nhiều thời gian ở những sân bay. Một hôm, tôi ngồi ở sân bay Gatwick gần
London để chờ một chuyến bay. Tôi có nhiều thời gian trống, nhưng đối với tôi
điều đó không bao giờ là vấn đề. Thật ra nó là một niềm vui, vì tôi có cơ hội
để thực tập thiền quán. Thế là tôi ngồi đó giữa phòng đợi của sân bay, chân xếp
bằng trên ghế, mắt nhắm lại, trong khi quanh tôi người ta lũ lượt đến và đi,
hối hả đổi chuyến bay. Trong những hoàn cảnh này, khi ngồi thiền tôi thường
thực tập niệm tâm từ, đem tình thương ban rải đến cho mọi người, ở khắp mọi
nơi. Với mỗi hơi thở, mỗi mạch nhảy, mỗi nhịp tim, tôi để cho toàn thể con
người mình được thấm nhuần và tỏa sáng một tình thương, một tâm từ.
Giữa sân bay náo nhiệt ấy, chìm đắm trong một cảm thụ của tâm từ, tôi không còn
để ý đến sự ồn ào và xô bồ của thế giới chung quanh. Nhưng bỗng dưng tôi có cảm
giác như có một người nào đó đang đến ngồi sát bên tôi. Tôi vẫn không mở mắt
ra, tiếp tục hành thiền và phóng rải tâm từ. Rồi tôi cảm thấy có hai bàn tay
nhỏ xíu ôm choàng lấy cổ tôi. Tôi từ từ mở mắt ra, và thấy đó là một em bé gái
nhỏ thật dễ thương, chắc chỉ độ chừng hai tuổi. Mắt cháu màu xanh thật sáng,
với những lọn tóc vàng, đang ôm chầm lấy tôi thật sát. Ngồi trong phi trường,
trước đây tôi có thấy cháu đi với mẹ cháu, bàn tay bé nhỏ nắm chặt lấy ngón tay
của mẹ. Có lẽ cháu đã rời mẹ cháu và chạy sang chỗ tôi.
Tôi nhìn lên thì thấy mẹ cháu cũng vừa đuổi tới nơi. Thấy nó đang ôm cổ tôi, mẹ
cháu bảo: “Xin Thầy ban phước cho cháu và để nó đi.” Tôi không biết đứa bé nói
tiếng gì, nhưng tôi bảo cháu bằng tiếng Anh: “Cháu đi đi. Mẹ cháu có nhiều nụ
hôn cho cháu lắm, nhiều đồ chơi và nhiều kẹo nữa kìa. Còn ta chẳng có gì hết.
Cháu đi đi.” Nhưng đứa bé vẫn cứ bá chặt vào cổ tôi, không chịu buông ra. Và
người mẹ lại nhìn tôi, chắp tay lại và nói với một giọng rất ân cần: “Xin Thầy
làm ơn ban phước cho cháu, và để cho cháu đi.”
Lúc này, những người khác trong phi trường cũng bắt đầu để ý đến chúng tôi. Có
lẽ họ nghĩ tôi quen biết với đứa bé gái, hoặc là tôi với nó có liên hệ với
nhau. Họ tin chắc rằng tôi và đứa bé nhất định phải có một sự ràng buộc nào đó.
Nhưng trước hôm ấy, tôi chưa từng gặp nó bao giờ. Tôi cũng không rõ cháu nói
ngôn ngữ gì nữa. Và tôi lại phải năn nỉ: “Cháu đi đi. Cháu và mẹ cháu còn phải
lên phi cơ cho kịp giờ. Trễ rồi đó. Mẹ có nhiều đồ chơi với kẹo lắm kìa. Ta đâu
có gì đâu. Hãy đi đi.” Nhưng đứa bé gái vẫn không chút nao núng. Nó lại còn ôm
chặt lấy tôi hơn nữa. Người mẹ thấy vậy đến nhẹ nhàng gỡ tay của đứa bé ra và
nhờ tôi ban phước cho nó. “Cháu ngoan lắm.” Tôi nói: “Mẹ cháu thương cháu lắm.
Nhanh lên. Coi chừng trễ chuyến bay rồi đó. Cháu đi đi.” Nhưng đứa bé gái vẫn
không chịu đi. Nó oà khóc lên. Cuối cùng, mẹ nó phải bế nó lên. Đứa bé vùng vẫy
và la khóc. Nó muốn tụt xuống và chạy lại tôi. Nhưng lần này mẹ nó cố giữ nó
lại và mang nó lên phi cơ. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy cháu vẫn còn đang cố
thoát ra khỏi mẹ cháu để chạy lại với tôi.
Có thể vì chiếc y tôi mặc mà đứa bé gái này tưởng tôi là ông già Nô-en hoặc một
nhân vật thần thoại nào đó chăng? Nhưng cũng có thể là một lý do khác. Trong
lúc đó tôi đang ngồi trên ghế và thực hành niệm tâm từ, metta, phóng rải những
tư tưởng thương yêu ra khắp nơi với mỗi hơi thở. Có thể đứa bé gái này cảm nhận
được điều đó. Trẻ con rất nhạy cảm trong lĩnh vực này, tâm thức của chúng dễ
dàng hấp thụ được những cảm thụ chung quanh chúng. Khi bạn giận, chúng cảm nhận
được sự rung động ấy, và khi bạn tràn đầy thương yêu và hạnh phúc, chúng cũng
cảm nhận được. Có thể đứa bé gái ấy muốn đến gần tôi vì nó cảm nhận được một
tâm từ. Giữa tôi và nó có một sự ràng buộc - bởi một sợi dây của tâm từ.
Bốn trạng thái siêu việt
Tâm từ rất nhiệm mầu. Chúng ta ai cũng có khả năng thương yêu cả. Cho dù ta có
nhận biết hay không, năng lượng và hạt giống của thương yêu bao giờ cũng có mặt
trong ta. Tâm từ là một trong bốn trạng thái siêu việt mà đức Phật có nói đến
trong kinh. Ba tâm kia là tâm bi, tâm hỷ và tâm xả. Bốn trạng thái ấy đều liên
kết mật thiết với nhau, ta không thể nào phát triển một cái này mà lại không
cần đến ba cái kia.
Một cách dễ hiểu hơn là lấy ví dụ của tình thương cha mẹ. Khi một người đàn bà
trẻ biết rằng mình đang có thai một đứa bé, cô sẽ cảm thấy có một tình thương
vô bờ bến đối với đứa con trong bụng. Cô ta sẽ sẵn sàng làm tất cả mọi việc để
bảo vệ nó. Cô sẽ cố gắng hết sức mình để cái bào thai được khỏe mạnh và tốt
lành. Người mẹ trẻ ấy có đầy những tư tưởng thương yêu và hy vọng về đứa con
trong bụng mình. Cũng giống như tâm từ, metta, tình cảm của một người mẹ đối
với đứa con là vô bờ bến, bao trùm tất cả và hoàn toàn vô điều kiện!
Khi đứa bé sinh ra và lớn lên, nó bắt đầu khám phá thế giới chung quanh, cha mẹ
sẽ bắt đầu có tâm bi đối với nó. Mỗi khi đứa bé bị té trầy đầu gối, u đầu sứt
trán, cha mẹ luôn cảm nhận được cái đau của con mình. Có nhiều bậc cha mẹ còn
nói rằng, mỗi khi con mình đau là họ cũng cảm thấy như chính mình đang bị đau.
Nhưng đây không phải là một sự thương hại, vì lòng thương hại chỉ tạo nên
khoảng cách giữa ta và người khác. Tâm bi là một tâm muốn cho người khác được
bớt khổ đau. Tâm bi dẫn ta đến những hành động thích hợp. Và một hành động
thích hợp của tâm bi là muốn làm sao để sự đau đớn sớm chấm dứt, để con mình
không còn khổ nữa.
Thời gian trôi qua, đứa con lớn lên và cắp sách đến trường. Cha mẹ nhìn con
mình kết bạn mới, học hành tiến bộ, tham gia các môn thể thao... Có thể đứa con
học xuất sắc về môn toán, hoặc được nhận vào đội đá banh, hoặc được bầu làm lớp
trưởng... Cha mẹ không bao giờ cảm thấy ganh tỵ về những thành công của con
mình, ngược lại còn hân hoan vui mừng theo nó nữa. Đó chính là tâm hỷ. Ta mừng
vui cho kẻ khác như là niềm vui của chính ta. Mặc dù người khác có vượt trội
hơn ta, may mắn hơn ta, chúng ta vẫn hoan hỷ với những thành công của họ, mừng
vui theo với niềm hạnh phúc của họ.
Và rồi khi đứa con trưởng thành. Nó ra trường, có sự nghiệp, lập gia đình và có
con cái. Đây là lúc cha mẹ thực tập tâm xả. Lẽ dĩ nhiên, chắc chắn đây không
phải là một thái độ lạnh lùng và dửng dưng. Nó là một sự bình an, hạnh phúc vì
thấy rằng mình đã làm hết những gì cần phải làm cho con. Ta cũng ý thức được sự
giới hạn của mình. Và lẽ dĩ nhiên, cha mẹ vẫn tiếp tục thương yêu và giúp đỡ
con cái, nhưng họ biết rằng mình không còn kiểm soát được chúng nữa. Đó là sự
thực tập tâm xả.
Mục đích tối thượng của thiền tập là nuôi dưỡng và phát triển bốn trạng thái
này của tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả.
Hạt giống có mặt trong mỗi chúng ta
Mỗi sự vật sẽ phản chiếu ánh sáng mặt trời qua những cách khác nhau. Cũng vậy,
mỗi người biểu lộ tâm từ qua những phương cách khác nhau. Có người bộc lộ sự
nồng nhiệt một cách tự nhiên, có người hơi kín đáo và do dự khi mở con tim mình
ra... Có người thực tập tâm từ một cách khá vất vả, trong khi có người lại
không có khó khăn gì nhiều... Nhưng không một ai lại hoàn toàn không có tâm từ!
Chúng ta đều sinh ra với một bản năng thương yêu, metta. Bạn hãy nhìn những đứa
bé thơ mỉm cười rạng rỡ trước hình ảnh của một gương mặt người, bất cứ là gương
mặt của ai. Tội nghiệp một điều là có nhiều người không ý thức được khả năng
thương yêu của mình. Tiềm năng thương yêu ấy bị chôn vùi bên dưới những sân
hận, giận hờn, ghét bỏ, mà ta đã huân tập trong một đời - mà có lẽ là rất nhiều
đời - qua những tư tưởng và hành động bất thiện. Nhưng ai trong chúng ta cũng
đều có thể nuôi dưỡng lại con tim biết thương yêu ấy, cho dầu trong bất cứ một
hoàn cảnh nào. Chúng ta vẫn có thể tưới tẩm và nuôi dưỡng hạt giống từ bi, cho
đến ngày hoa tình thương nở rộ và bay về trăm hướng.
Vào thời đức Phật, có một người tên là Aṅgulimla (Ương-quật-ma-la). Anh ta là một kẻ sát nhân giết
hại rất nhiều người. Anh ta tàn ác đến nỗi đeo trên cổ mình một xâu chuỗi làm
bằng ngón tay của những người anh đã giết. Và anh có ý định chọn đức Phật để
làm nạn nhân thứ một ngàn của anh! Mặc dù đứng trước những lời đồn và bề ngoài
dữ tợn của Aṅgulimla,
đức Phật vẫn có thể nhận thấy được tiềm năng thương yêu của anh. Và nhờ khơi
dậy được tiềm năng đó trong chính anh ta mà đức Phật đã cảm hoá được anh, và
giảng Pháp cho kẻ giết người không gớm tay này. Sau khi nghe lời giảng của đức
Phật, Aṅgulimla
đã buông gươm xuống và quy y Phật. Anh ta xin xuất gia và đi theo tăng đoàn của
ngài.
Trong kinh kể rằng, nhiều năm về trước, Aṅgulimla bắt đầu đi giết hại nhiều người vì tin theo lời chỉ
bảo của một đạo sĩ mà anh nhận làm thầy. Bản chất của Aṅgulimla không phải là tàn bạo, cũng
không phải là ác độc. Thật ra, khi còn nhỏ anh là một cậu bé rất hiền lành.
Trong tim anh có đầy sự thương yêu, dịu dàng và thân thiện. Sau khi xuất gia,
những tiềm năng ấy trong anh lại được hiển bày, và chỉ trong một thời gian ngắn
anh đã đạt được sự giác ngộ.
Câu chuyện về Aṅgulimla
nhắc nhở ta một điều. Đôi khi con người có thể có những hành động rất nhẫn tâm
và tàn bạo, nhưng ta nên hiểu rằng đó không phải là tự tính của họ. Có thể vì
hoàn cảnh, điều kiện trong cuộc đời đã khiến họ có những cách hành xử bất thiện
ấy. Trong trường hợp của Aṅgulimla, đó là vì anh hoàn toàn tin tưởng theo lời hướng dẫn
của thầy mình. Và đối với tất cả chúng ta, không phải chỉ riêng gì những kẻ tội
phạm, có rất nhiều lý do và điều kiện khác nhau - thiện và bất thiện - đã đưa
đẩy làm cho ta có cách hành xử như ngày hôm nay.
Cùng với những bài thiền tập đã trình bày trong sách này, tôi xin được giới
thiệu thêm một bài thiền tập niệm tâm từ. Trước hết, bạn bắt đầu bằng cách loại
bỏ hết những tư tưởng tự ghét bỏ hoặc tự trách móc mình. Bắt đầu mỗi thời ngồi
thiền, bạn hãy tự niệm thầm những câu sau đây, và phải thật sự cảm nhận được sự
chân thành của mình:
“Mong sao cho tâm tôi có đầy những tư tưởng từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho tôi
được nhiều rộng lượng. Mong sao cho tôi được thoải mái. Mong sao cho tôi được
vui vẻ và hạnh phúc. Mong sao cho tôi được khỏe mạnh. Mong sao cho con tim tôi
được dịu dàng. Mong sao cho tôi luôn nói lời ái ngữ. Mong sao cho tôi luôn hành
động tử tế.
“Mong sao cho những gì tôi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ sẽ giúp
cho tôi nuôi dưỡng thêm tâm từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho chúng giúp tôi được
thêm rộng lượng và tử tế. Mong sao cho chúng giúp tôi được nghỉ ngơi. Mong sao
cho chúng làm khơi dậy những hành động thân ái trong tôi. Mong sao cho những
kinh nghiệm ấy là sẽ nguồn suối của hạnh phúc và an vui. Mong sao cho chúng sẽ
giúp tôi giải thoát ra khỏi mọi sự sợ hãi, căng thẳng, lo lắng và bất an.
“Bất cứ nơi nào tôi đến trên thế gian này, trong bất cứ một phương nào, mong
sao cho tôi luôn tiếp xúc với mọi người bằng một niềm an vui và thân thiện.
Mọng sao cho tôi được bảo vệ trong mười phương khỏi những tham lam, sân hận,
ghen tỵ, nhỏ nhen và sợ hãi.”
Khi chúng ta phát triển tâm từ trong ta, ta sẽ thấy rằng nó cũng có mặt trong
người khác - cho dù có bị vùi lấp đến đâu. Đôi khi ta phải đào thật sâu, và đôi
khi nó hiển nhiên ngay trên bề mặt.
Nhìn xuyên qua những vết dơ bẩn
Đức Phật có kể câu chuyện về một thầy nọ tìm thấy một miếng vải dơ trên đường.
Tấm giẻ rách ấy bẩn thỉu đến nỗi thầy ấy không dám sờ tới. Ông ta lấy chân đá
nó một hồi cho những thứ dơ bẩn ấy rơi ra bớt. Kinh tởm, ông ta lấy hết can đảm
dùng hai ngón tay cẩn thận cầm nó lên đưa ra xa, sợ chạm vào người mình. Dầu
vậy, vị thầy ấy vẫn nhận thấy được tiềm năng và giá trị của miếng vải ấy, ông
ta mang về và giặt rửa thật nhiều lần cho thật sạch. Cuối cùng, nước giặt trở
nên trong, và phía dưới những lớp bẩn thỉu, dơ dáy ấy là một chất liệu có thể
sử dụng ích lợi. Vị thầy ấy thấy rằng, nếu ông có thể tìm được thêm những miếng
vải như vậy, ông có thể may được cho mình một chiếc y thật tốt.
Cũng vậy, vì một người nào đó có những lời lẽ lỗ mãng và ác độc, người ấy có
thể được xem như là hoàn toàn vô dụng. Ta khó có thể nào thấy được những hạt
giống và tiềm năng thương yêu trong họ. Nhưng đây chính là chỗ ta nên thực tập
sử dụng những phương tiện thiện xảo. Bên dưới lớp vỏ thô lỗ và cục cằn của
người ấy, bạn vẫn có thể tìm thấy được một hạt châu sáng chói và tỏa chiếu, nó
chính là chân tính của họ.
Một người có thể dùng những lời lẽ thô lỗ đối với người khác, nhưng đôi khi vẫn
hành xử rất thương yêu và dịu dàng. Họ có thể là những người “khẩu xà tâm
Phật”. Đức Phật so sánh hạng người này với một ao nước bị rong rêu phủ kín.
Muốn dùng nước ấy, bạn phải biết dùng tay gạt những rong rêu sang một bên. Cũng
vậy, đôi khi chúng ta cũng cần phải bỏ qua những sơ xuất bề ngoài của một
người, và nhìn thấy con tim chân thành của họ.
Nhưng nếu một người có lời nói không dễ thương và cử chỉ, hành động cũng không
dễ thương thì sao? Hạng người này cũng vẫn có một con tim chân thật. Thử tưởng
tượng bạn đang đi trên sa mạc. Bạn không mang theo nước, và chung quanh cũng
không có nước. Bạn mệt và khát. Mỗi bước đi làm bạn khát thêm và lại càng khát
thêm. Bạn tuyệt vọng, cầu mong cho có nước uống. Và lúc ấy, bạn tìm thấy một
dấu chân trâu. Trong dấu chân trâu có một chút nước, nhưng không nhiều lắm vì
lỗ rất cạn. Nếu bạn lấy tay vốc nước lên, nó sẽ nổi bùn. Trong cơn khát, bạn
quỳ và cúi xuống. Từ từ, bạn đưa miệng mình kề sát xuống và húp từ ngụm nhỏ,
chầm chậm, không để cho bùn dơ bị khuấy lên. Mặc dù bùn dơ có mặt nhưng nước
vẫn được trong. Bạn có thể làm hết cơn khát của mình. Cũng với cùng một thái độ
cố gắng ấy, bạn có thể tìm thấy được một con tim chân thành trong một người mà
hoàn toàn có vẻ như không có chút gì muốn hối cải.
Thiền viện của tôi nằm ở một miền đồi núi thuộc vùng đồng quê tiểu bang West
Virginia. Khi trung tâm thiền tập này mới mở, có một ông hàng xóm ở cuối đường
tỏ vẻ dường như không có thiện cảm với chúng tôi. Mỗi ngày tôi thường đi bộ rất
lâu, và mỗi khi thấy ông ta, tôi vẫy tay chào, nhưng lần nào ông cũng nhíu mày
và quay đi nơi khác. Dù vậy, lần nào gặp ông tôi cũng đưa tay vẫy chào và phóng
gởi những tư tưởng từ bi, tốt lành đến cho ông. Tôi không hề nản lòng trước
thái độ của ông ta, tôi không bao giờ bỏ cuộc với ông. Mỗi khi gặp ông, tôi vẫy
tay chào. Sau chừng một năm trời, thái độ của ông bắt đầu thay đổi. Ông ta
không còn nhíu mày nữa. Tôi cảm thấy rất vui. Sự thực tập ban rải tâm từ có lẽ
bắt đầu có hoa trái.
Một năm sau nữa, khi tôi đi ngang ông trong lúc đi bộ, có một phép lạ xảy ra.
Ông lái xe đi ngang qua và đưa một ngón tay lên khỏi tay cầm lái. Và tôi nghĩ:
“Ồ, thật là tuyệt vời! Từ bi quán có hiệu quả quá!” Và rồi lại một năm nữa trôi
qua, mỗi lần gặp ông tôi vẫn vẫy tay chào và chúc lành cho ông. Năm thứ ba, ông
giơ hai ngón tay lên về hướng tôi. Và rồi năm kế đó, ông dở lên cả bốn ngón tay
khỏi tay cầm lái. Thời gian vẫn trôi qua. Một ngày nọ tôi đang đi trên đường và
gặp ông đang cho xe vào ngõ nhà mình. Lần này ông dở hẳn tay mình lên khỏi tay
cầm lái, đưa ra bên ngoài cửa xe, và vẫy lại tôi.
Sau đó không lâu, một ngày nọ, tôi gặp ông đậu xe bên một con đường rừng nhỏ.
Ông ta ngồi bên phía tay lái và đang hút thuốc lá. Tôi đến cạnh bên ông và
chúng tôi bắt chuyện. Lúc đầu chúng tôi nói về chuyện thời tiết, và dần dần,
ông bắt đầu kể câu chuyện của ông. Mấy năm trước đây ông bị một tai nạn rất
nặng, một cây to ngã đè lên chiếc xe tải của ông. Ông bị gãy hết phần lớn xương
trong người và bị hôn mê trong một thời gian rất lâu. Lần đầu tiên tôi gặp ông
trên đường, lúc ấy ông cũng mới vừa bắt đầu bình phục. Ông không vẫy tay chào
lại tôi không phải vì ông là một người khó chịu, nhưng vì ông không thể cử động
hết những ngón tay. Nếu tôi bỏ cuộc thì có lẽ tôi sẽ không bao giờ biết được
ông là một người tốt như thế nào! Có một ngày nọ, khi tôi phải đi xa, ông có
ghé sang trung tâm để tìm tôi. Ông lo lắng vì đã nhiều ngày không thấy tôi đi
bộ. Bây giờ chúng tôi là bạn.
Thực hành niệm tâm từ
Đức Phật dạy: “Ta đem tâm ta quán chiếu khắp thế gian này, và ta không thấy một
ai mà lại thương người khác hơn thương chính mình. Vì vậy những ai thương mình
nên thực hành niệm tâm từ.” Chúng ta thực hành ban rải tâm từ đến chính mình
trước, với chủ ý chia sẻ những tư tưởng thương yêu ấy đến cho người khác. Phát
triển cảm thụ ấy. Hãy tử tế với chính mình cho thật trọn vẹn. Chấp nhận mình là
như vậy. Làm hòa với những khuyết điểm của ta. Ôm ấp và chấp nhận những yếu kém
của mình. Hãy từ tốn và tha thứ cho chính mình ngay trong giây phút này. Nếu có
tư tưởng khởi lên, rằng ta phải là như thế này hoặc như thế khác, hãy buông bỏ
chúng đi. Hãy để cho những cảm thụ thương yêu và tha thứ này ăn sâu vào trong
ta. Để cho năng lực của tâm từ dâng tràn khắp thân và tâm mình. An nghỉ trong
sự ấm áp và tỏa sáng của nó. Và rồi nới rộng cảm thụ này đến với người mình
thương, người không quen biết, hoặc cũng không thương không ghét - và ngay cả
đến những người thù ghét mình nữa!
Tất cả chúng ta hãy tưởng tượng rằng tâm mình được giải thoát ra khỏi mọi ham
muốn, sân hận, ganh tỵ và sợ hãi. Để cho những tư tưởng của tâm từ ôm ấp ta và
phủ kín ta. Để cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố của
thân và tâm ta được thấm nhuần trong tâm từ. Hãy buông thư cơ thể. Hãy buông
thư tâm mình. Hãy để cho thân và tâm ta được ngập tràn những ý nghĩ thương yêu.
Hãy để cho sự an vui và tĩnh lặng của tâm từ thâm nhập toàn thân ta!
Mong sao cho mọi người, mọi loài trong khắp mọi phương, trong khắp cõi thế
giới, đều có trái tim thương yêu. Hãy cầu cho họ có hạnh phúc, hãy cầu cho họ
được nhiều may mắn, hãy cầu cho họ được tốt lành, hãy cầu cho họ có được những
người bạn tốt và chân thành. Mong sao cho mọi người và mọi loài đều được sống
trong cảm thụ của tâm từ - tràn đầy, cao thượng và vô biên. Mong sao cho tất cả
không bị ai thù nghịch, không bị lo âu và sầu khổ. Mong sao cho mọi người luôn
sống trong hạnh phúc!
Cũng như việc ta đi bộ, chạy bộ, hoặc bơi lội để giúp cho cơ thể được tráng
kiện, sự thực tập niệm tâm từ một cách đều đặn sẽ làm con tim mình được vững
mạnh. Lúc đầu, nó có thể như là sự thực hành của ta chỉ ở bề ngoài mà thôi.
Nhưng khi ta cứ tiếp tục liên tưởng đến những ý nghĩ từ bi một cách đều đặn, nó
sẽ trở thành một thói quen, một thói quen rất tốt lành. Theo thời gian, con tim
ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, và phản ứng thương yêu của ta sẽ trở nên tự động. Và
khi con tim mình đã được vững chãi rồi, ta có thể dễ dàng ban rải tư tưởng từ
bi, thương yêu đến những người khó tính nhất.
Mong sao cho những người thù ghét tôi luôn được khỏe mạnh, vui vẻ và an lành.
Mong sao cho họ không gặp điều nguy hại nào, không gặp một khó khăn nào. Mong
sao cho họ không bao giờ bị đau đớn. Mong sao lúc nào họ cũng được thành công.
“Thành công?” Có người sẽ hỏi: “Làm sao ta có thể cầu mong cho kẻ thù ghét mình
thành công được? Nếu như họ muốn giết hại mình thì sao?” Khi chúng ta mong cầu
cho người thù ghét mình được thành công, ta không có ý nói về một thứ thành
công của thế gian, hoặc thành công trong những việc làm bất thiện hay thiếu đạo
đức. Chúng ta có ý nói đến sự thành công thuộc về lĩnh vực tâm linh. Rõ ràng là
kẻ thù ghét ta không hề thành công về tâm linh, bằng không họ đã không làm
những điều gì có thể gây hại cho ta!
Khi chúng ta nguyện cho kẻ thù ghét mình “Mong cho họ được thành công,” là ta
muốn nói rằng “Mong sao cho người thù ghét tôi được thoát khỏi những sân hận,
tham lam và ganh ghét. Mong sao cho họ được an vui, dễ chịu và hạnh phúc.” Tại
sao một người lại có những hành động tàn nhẫn hoặc không dễ thương? Có lẽ vì
người ấy đã lớn lên trong những hoàn cảnh khó khăn hoặc thiếu may mắn. Có lẽ do
những nguyên nhân sâu xa nào đó trong cuộc đời người ấy, mà ta không biết đến,
đã khiến họ hành xử khó thương như vậy. Đức Phật khuyên ta nên nghĩ đến họ
giống như là những người đang bị cơn bệnh khốn đốn hành hạ. Chúng ta có bao giờ
bực tức hay giận hờn một người mắc bệnh không? Hay là ta có lòng thương và muốn
giúp đỡ người ấy? Có lẽ kẻ thù ghét ta cần nhiều tình thương của ta hơn là
những người thân, vì khổ đau của họ lớn hơn gấp bội phần. Vì vậy, họ là những
người cần tâm từ của ta nhiều nhất. Chúng ta nên giữ họ trong trái tim mình,
như những người thân thương nhất của ta.
Mong sao cho những ai đã làm hại ta sẽ được giải thoát khỏi những ham muốn, sân
hận, ganh tỵ và sợ hãi. Hãy để cho những tư tưởng của tâm từ ôm ấp họ và phủ
kín họ. Hãy để cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố của
thân và tâm họ được thấm nhuần trong tâm từ. Hãy cầu cho họ buông thư cơ thể
của mình. Hãy cầu cho họ buông thư tâm mình. Hãy để cho thân và tâm họ được
ngập tràn những ý nghĩ thương yêu. Hãy cầu cho sự an vui và tĩnh lặng của tâm
từ thâm nhập toàn thân của họ!
Thực tập niệm tâm từ có thể thay đổi được những đường lối suy nghĩ tiêu cực của
mình, và củng cố lại những tư tưởng tích cực. Khi ta thực tập niệm tâm từ, tâm
ta sẽ được ngập tràn hạnh phúc và an vui. Ta sẽ được an nghỉ. Tâm ta được định.
Và khi tâm ta trở nên tĩnh lặng và an vui, mọi sự ghét bỏ, sân hận, và thù hằn
sẽ phai mờ đi mất. Nhưng tâm từ không phải chỉ giới hạn trong tư tưởng. Chúng
cần phải được biểu lộ ra thành lời nói và hành động của mình. Ta không thể phát
triển tâm từ bằng cách cô lập mình với thế giới chung quanh.
Bạn có thể bắt đầu bằng cách nghĩ những tư tưởng tốt lành về tất cả mọi người
bạn tiếp xúc mỗi ngày. Nếu có chính niệm, bạn có thể thực hành điều này trong
mỗi giây phút bạn tiếp xúc với kẻ khác. Khi bạn gặp một người nào, bạn ý thức
rằng, cũng như bạn, người ấy muốn có hạnh phúc và không thích bị khổ đau. Chúng
ta ai cũng mong ước điều ấy. Mọi chúng sinh đều muốn điều ấy. Cho đến một con
côn trùng nhỏ bé nhất cũng muốn trốn tránh đớn đau. Ý thức được điểm tương đồng
này, ta sẽ thấy rằng tất cả mọi sự sống đều rất gần gũi với nhau. Người đàn bà
đứng sau quầy hàng trả tiền, người đàn ông bạn qua mặt trên xa lộ, cặp tình
nhân trẻ nắm tay nhau băng qua đường, cụ già ngồi trong chiếc ghế công viên cho
bồ câu ăn... Mỗi khi bạn gặp một người nào, loài nào, bất cứ một sinh vật nào,
hãy ghi nhớ một điều ấy. Hãy mong ước cho họ được hạnh phúc, an vui, và được
gặp mọi điều tốt lành. Đó là một sự thực tập có thể thay đổi cuộc đời bạn, và
cả những cuộc đời khác chung quanh bạn.
Lúc đầu, có thể bạn sẽ cảm thấy có một sự chống cự lại sự thực tập này. Sự thực
tập dường như hơi gượng ép và giả tạo. Có lẽ bạn không thể nào cảm nhận được
những loại tư tưởng ấy. Có lẽ bạn cảm thấy mình có thể dễ dàng phóng tâm từ đến
một số người này, và lại cảm thấy rất khó khăn đối với một số người khác. Ví
dụ, những đứa bé thơ bao giờ cũng dễ khơi dậy lòng thương yêu trong ta, trong
khi những người khác lại khó khăn hơn. Hãy quán sát thói quen ấy trong tâm ta.
Hãy học nhận diện những tình cảm tiêu cực của mình và chuyển hóa chúng. Với
chính niệm, từ từ từng chút một ta có thể làm thay đổi được những phản ứng của
mình.
Phóng gửi tư tưởng từ bi đến một người nào, có thật sự thay đổi được người ấy
không? Thực tập niệm tâm từ có thể thay đổi được thế giới này không? Khi bạn
phóng tâm từ đến những người ở xa hoặc những người mình không quen biết, lẽ dĩ
nhiên bạn sẽ không thể nào biết được ảnh hưởng của nó. Nhưng bạn có thể nhận
thấy được ảnh hưởng của việc niệm tâm từ trên sự an vui của mình. Điều quan
trọng là sự chân thành trong lời mong cầu hạnh phúc của ta cho kẻ khác. Sự thật
là ảnh hưởng ấy xảy ra tức thì. Nhưng chỉ có một cách duy nhất để biết được
điều này là tự chính mình hãy thử lấy.
Thực tập niệm tâm từ không có nghĩa là ta sẽ hoàn toàn làm ngơ trước những hành
động bất thiện của kẻ khác. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là ta sẽ đáp ứng lại những
hành động ấy bằng một đường lối thích hợp.
Có một vị hoàng tử tên là Abharaja Kumara, một hôm tìm đến gặp Phật và hỏi là
có bao giờ đức Phật đối xử khắt khe với một người khác hay không. Lúc ấy, vị
hoàng tử đang bế đứa con nhỏ của mình ngồi trong lòng. Đức Phật hỏi: “Này hoàng
tử, giả sử như đứa con này của hoàng tử lấy một miếng gỗ nhỏ bỏ vào miệng và
ngậm lại, hoàng tử sẽ làm gì?”
Vị hoàng tử đáp: “Nếu nó bỏ một miếng gỗ vào miệng nó, tôi sẽ giữ lấy nó thật
chặt và dùng những ngón tay móc vào miệng nó để lấy ra. Dầu nó có khóc la và
vùng vẫy mấy đi nữa, tôi cũng sẽ móc cho bằng được miếng gỗ ấy ra khỏi miệng,
cho dù nó có bị chảy máu.”
“Tại sao hoàng tử lại làm như vậy?”
“Bởi vì tôi rất thương con của tôi. Tôi muốn cứu lấy mạng sống của nó.”
Đức Phật nói: “Cũng vậy đó, hoàng tử! Đôi khi ta cũng phải khắt khe đối với đệ
tử của mình, không phải vì ghét bỏ, mà vì tình thương của ta đối với họ.”
Như vậy là tình thương, chứ không phải lòng sân hận, đã thúc đẩy hành động của
ngài. Đức Phật đã cung cấp cho ta năm phương cách để giúp ta đối xử tốt lành
với kẻ khác. Đó là năm giới quý báu. Có người cho rằng giới luật làm cản ngăn
và giới hạn sự tự do. Nhưng thật ra, chính giới luật đã giải thoát chúng ta.
Giới luật giúp ta tránh được những khổ đau mà ta thường gây ra cho chính mình
và người khác khi hành xử thiếu chính niệm. Giới luật giúp ta bảo vệ người khác
khỏi bị hại, và khi ta bảo vệ người khác là ta cũng đang bảo vệ chính ta! Năm
giới quý báu ngăn ngừa chúng ta không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm,
không nói dối hoặc nói lời cay độc, và không sử dụng những chất gây say khiến
ta hành xử thiếu chính niệm.
Phát triển chính niệm qua thiền tập cũng có thể giúp ta đối xử với người khác
bằng tâm từ. Trên tọa cụ, chúng ta theo dõi tâm mình khi có những sự thương
ghét khởi lên. Chúng ta học cách thư giãn tâm mình khi các tư tưởng ấy khởi
lên. Chúng ta học nhìn những thương ghét chỉ là những trạng thái tạm thời, và
rồi buông bỏ chúng. Thiền tập giúp ta nhìn cuộc đời dưới một ánh sáng mới và
cho ta một lối thoát. Càng thực tập sâu sắc bao nhiêu, ta sẽ càng trở nên khôn
khéo bấy nhiêu!
Đối trị phiền giận
Khi chúng ta giận ai, ta thường trở nên cố chấp và chỉ nhìn thấy được một khía
cạnh nhỏ hẹp nào đó của người ấy. Thường thì chỉ trong chừng một vài giây cũng
đã đủ để cho ta nói vài lời cay độc, một cái nhìn ghê tởm, một hành động thiếu
suy nghĩ... Trong tâm ta, những khía cạnh tốt đẹp khác của người ấy đều bị tiêu
tán hết. Tất cả còn lại chỉ là cái phần của người ấy mà đã khơi dậy cơn giận
của ta. Khi ta làm điều này là ta đã chấp giữ và cô lập một phần rất nhỏ nhoi,
luôn thay đổi, của một con người toàn vẹn, và rồi xem đó là thật, là cố định.
Chúng ta không nhìn thấy hết mọi yếu tố và năng lực đã cấu thành con người ấy.
Chúng ta chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất của người đó - cái phần mà đã
làm chúng ta nổi giận!
Trong nhiều năm qua, tôi có nhận được nhiều lá thư gửi ra từ trong tù, từ những
phạm nhân muốn tìm học Phật pháp. Có nhiều người đã phạm những tội rất nặng,
như là giết người. Dù vậy, bây giờ họ đã có một cái nhìn khác biệt và muốn thay
đổi đời mình. Tôi có nhận được một lá thư chất chứa nhiều tuệ giác và đã làm
tôi xúc cảm rất sâu đậm. Trong lá thư, người ấy kể lại những phạm nhân khác
thường hay la hét và chế giễu như thế nào mỗi khi thấy người lính canh xuất
hiện. Anh ta cố gắng giải thích cho những tù nhân khác rằng người lính ấy cũng
là một con người! Nhưng họ đã bị sự căm thù làm mờ mắt. Tất cả những gì họ thấy
chỉ là bộ đồ lính của anh ta, chứ không thấy được một con người phía dưới lớp
quần áo ấy!
Khi chúng ta nổi giận đối với một người nào, ta có thể tự hỏi mình như sau: “Có
phải tôi đang giận những sợi tóc trên đầu người đó không? Tôi giận da của người
ấy? Hay răng của người ấy? Bộ óc của anh ta? Trái tim của anh? Tính hài hước
của anh? Sự dịu dàng của anh? Tính rộng rãi của anh? Nụ cười của anh?...” Và
khi chúng ta chịu bỏ thì giờ ra để xem xét hết tất cả những yếu tố và tiến
trình cấu thành người ấy, cơn giận của ta tự nhiên sẽ nhẹ xuống.
Bằng sự thực tập chính niệm, chúng ta học cách nhìn lại mình và người khác được
rõ ràng hơn. Sự hiểu biết ấy sẽ giúp chúng ta đối xử với kẻ khác bằng một tình
thương. Trong mỗi chúng ta là một cốt lõi của sự tốt lành. Trong nhiều trường
hợp, như trường hợp của Aṅgulimla,
chúng ta không thể nào nhìn thấy được chân tính của họ. Hiểu được ý niệm về vô
ngã sẽ giúp con tim ta được nhẹ nhàng hơn, và giúp ta dễ tha thứ hơn cho những
hành động khó thương của người khác. Chúng ta sẽ biết đối xử với chính mình và
kẻ khác bằng tâm từ.
Nhưng nếu người khác muốn làm hại ta thì sao? Nếu người khác lăng mạ, sỉ nhục
ta thì sao? Có thể bạn sẽ muốn trả đũa lại - và đó cũng chỉ là một phản ứng
bình thường thôi. Nhưng rồi nó sẽ dẫn đến đâu? Kệ số 5 kinh Pháp Cú dạy rằng:
“Hận thù không thể tiêu diệt được hận thù.” Một phản ứng sân hận chỉ đưa đến
thêm nhiều sân hận. Và nếu bạn đem từ bi đáp lại cho hận thù, sự sân hận của
người kia sẽ không thể nào tăng trưởng. Dần dần nó sẽ phai mờ đi. Cũng bài kệ
trên trong kinh Pháp Cú viết tiếp: “Chỉ có tình thương mới diệt được hận thù.”
Một người luôn để tâm thù nghịch đức Phật là Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) có bày
mưu để giết ngài. Ông ta xúi giục vua Ajtasattu (A-xà-thế) cho một con voi uống
rượu say và thả nó chạy đến nơi mà ông biết đức Phật đang có mặt. Mọi người
trên đường thấy con voi say hung hăng như điên cuồng đều hoảng sợ bỏ chạy. Gặp
đức Phật đang đi trên đường, họ báo cho ngài hay và bảo ngài nên tránh đi.
Nhưng đức Phật vẫn tiếp tục đi tới. Thấy vậy, thầy nanda, thị giả của Phật,
nghĩ rằng mình phải ngăn chặn con voi điên ấy lại. Khi thầy nanda bước ra chặn
phía trước đức Phật để bảo vệ ngài, đức Phật bảo nanda hãy tránh sang một bên.
Sức mạnh của thầy nanda không thể nào ngăn chận được con voi say ấy!
Khi con voi say tiến đến gần đức Phật, nó nhấc cao đầu lên, hai tai mở to như
hai cánh quạt, vòi nó đưa lên cao một cách điên cuồng. Đức Phật chỉ đứng yên
ngay trước mặt nó và phóng rải tâm từ của ngài đến con thú ấy - và con voi say
đứng sựng lại. Đức Phật dịu dàng đưa bàn tay của ngài lên, lòng bàn tay hướng
về phía con thú dữ, ban phóng tình thương của ngài đến cho nó. Con voi từ từ
qùy xuống, khuất phục ngoan ngoãn như một con cừu. Chỉ bằng năng lực của tâm
từ, đức Phật đã có thể khuất phục được một con thú dữ điên cuồng!
Phản ứng sân hận đối lại với sân hận là một phản ứng có điều kiện. Nó là kết
quả của một sự huấn luyện hơn là một bản chất tự nhiên của ta. Nếu khi còn thơ,
chúng ta được huấn luyện thực tập kiên nhẫn, dịu dàng và từ tốn, thì tâm từ sẽ
trở thành một phần của đời mình. Nó trở thành một thói quen. Bằng không, sân
hận trở thành thói quen. Nhưng dù vậy, dầu đã trưởng thành, chúng ta vẫn có thể
thay đổi được cái thói quen phản ứng của mình. Chúng ta vẫn có thể tập cho mình
phản ứng theo một cách khác.
Có một câu chuyện khác về cuộc đời đức Phật có thể dạy cho chúng ta cách đáp
lại những lời nặng nề và sự sỉ nhục của kẻ khác. Có một người thù nghịch với
đức Phật, mua chuộc một cô gái điếm tên là Cinca đến để bêu xấu và làm nhục
Phật. Cinca bó những thanh gỗ nhỏ lại và độn vào trong bụng, phía dưới áo, để
trông giống như một người đang mang bụng chửa. Trong khi đức Phật đang giảng
Pháp cho một thính chúng vài trăm người, cô bước ra trước đức Phật và nói: “Này
ông lừa đảo kia. Ông làm bộ như mình là một người thánh thiện để giảng đạo cho
hàng trăm người này. Nhưng hãy nhìn xem ông đã làm gì với tôi! Tôi mang cái
bụng này là do ông đó.” Đức Phật vẫn điềm tĩnh, không chút tức giận, không thù
ghét. Với một giọng đầy từ bi và thương yêu, đức Phật nói với Cinca: “Này cô
kia, ở đây chỉ có cô và tôi là biết được việc gì đã xảy ra.” Cinca bị bất ngờ
khi nghe câu trả lời của đức Phật. Vì quá lúng túng nên khi bước ra cô bị vấp
té. Sợi dây bó những thanh gỗ bị đứt tung và chúng rơi xuống đất. Bụng cô nhỏ
lại, và mọi người đều thấy được cái mưu chước gian dối của cô. Vài người trong
đám đông muốn đánh phạt cô, nhưng đức Phật ngăn lại: “Đừng làm như vậy! Đó không
phải là cách ta đối xử với cô ta. Ta nên đem giáo lý để chỉ dạy cho cô ta. Và
đó mới là điều thích hợp.” Sau khi nghe đức Phật giảng dạy, tâm tính của cô
Cinca hoàn toàn thay đổi. Cô trở nên hiền lành, dễ thương và lòng đầy tâm từ.
Khi có một người nào muốn làm cho bạn tức giận hoặc làm gì để hại bạn, hãy giữ
những tư tưởng tốt lành của mình đối với người ấy. Đức Phật dạy: Một người
trong tâm tràn ngập những tư tưởng từ bi cũng giống như mặt đất. Người ta có cố
gắng làm tiêu hoại đất bằng cách dùng cuốc để đào xới lên, nhưng đó chỉ là
những việc làm vô ích. Cho dù họ có đào xới trọn đời mình, hoặc nhiều đời đi
chăng nữa, mặt đất này vẫn không suy suyễn. Quả đất này vẫn nguyên vẹn, vẫn
tròn đầy. Cũng giống như đất, đối với một người có tâm từ sự tức giận sẽ không
thể nào chạm tới được.
Trong một câu chuyện khác về cuộc đời của đức Phật, có một người tên là
Akkosina, có nghĩa là “không còn sân hận”. Nhưng thật ra anh ta lại hoàn toàn
ngược lại: anh rất nóng tính. Khi anh ta nghe nói rằng đức Phật không bao giờ
nổi giận với bất cứ ai, anh quyết định tìm gặp. Khi thấy đức Phật, anh ta đến
trước mặt ngài và bắt đầu chửi rủa thậm tệ, anh dùng đủ mọi từ ngữ xấu xa để sỉ
nhục đức Phật. Sau một hồi, anh ta im lặng vì thấm mệt. Khi ấy, đức Phật hỏi
anh có người thân hay bạn bè gì không. Anh trả lời: “Có chứ.”. Ngài lại hỏi:
“Khi anh đến thăm những người ấy, anh có thường mang quà tặng họ không?” Anh
đáp: “Lẽ dĩ nhiên, lúc nào ta cũng mang theo quà.” Đức Phật hỏi: “Nhưng nếu họ
không nhận quà của anh thì anh làm gì?” “À, thì ta mang về nhà cho mình và gia
đình mình hưởng thụ.”
Đức Phật nói: “Cũng giống như vậy, hôm nay anh đến đây và mang cho tôi những
món quà, nhưng tôi không nhận. Anh hãy mang chúng về nhà cho gia đình của anh.”
Với sự kiên nhẫn, khôn khéo và từ bi, đức Phật kêu gọi chúng ta hãy thay đổi
lối suy nghĩ của mình về những “món quà” tức giận của kẻ khác.
Nếu chúng ta đáp lại những lời lẽ sỉ nhục, giận dữ bằng chính niệm và tâm từ,
ta sẽ có thể nhìn được vấn đề một cách trọn vẹn và rõ rệt hơn. Có thể người kia
không hề ý thức được những gì mình nói. Có thể những lời ấy không hề có ác ý gì
đối với ta. Chúng có thể hết sức thật thà và vô tình. Có lẽ vì tâm trạng của ta
lúc nghe những lời ấy không được tốt đẹp lắm. Có lẽ ta không nghe rõ được tất
cả hoặc là hiểu lầm ý của người kia. Cẩn thận xem xét lại những gì họ nói cũng
là một điều rất cần thiết. Nếu chúng ta vội nổi giận, ta sẽ không thể nào thấy
được cái thông điệp phía sau những lời ấy. Có thể người ấy muốn nêu lên một
điều gì đó, mà ta cũng cần lắng nghe.
Chúng ta, ai cũng đều có gặp những hạng người chuyên “chọc tức” mình. Thiếu
chính niệm và tâm từ, chúng ta sẽ tự động phản ứng bằng sân hận hoặc ghét bỏ.
Với chính niệm, chúng ta có thể thấy được rõ những phản ứng của tâm mình đối
với một số lời nói và hành động. Cũng giống như lúc đang ngồi trên tọa cụ, ta
có thể theo dõi sự khởi lên của những ham muốn và ghét bỏ. Chính niệm cũng
giống như một tấm lưới an toàn, bảo vệ ta khỏi những hành động bất thiện. Chính
niệm giúp cho ta có thì giờ, và thì giờ sẽ giúp cho ta có sự chọn lựa. Chúng ta
không cần để cho những cảm thụ của mình lôi cuốn đi. Ta có thể đáp ứng bằng tuệ
giác thay vì là si mê.
Niệm tâm từ
Niệm tâm từ không phải là những gì chúng ta làm khi ngồi yên một chỗ trên tọa
cụ: suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ... Chúng ta cần phải để cho năng lực của tâm
từ biểu lộ ra trong mỗi sự tiếp xúc của mình với kẻ khác. Tâm từ là một nguyên
lý nền tảng của mọi tư tưởng, lời nói và hành động tốt lành. Với tâm từ, ta sẽ
nhận thấy rõ được những nhu cầu của kẻ khác và sẵn sàng để giúp họ. Với tâm từ,
ta cảm nhận được một niềm vui chân thật trước sự thành công của kẻ khác. Chúng
ta cần có tâm từ để sống và làm việc hài hòa với những người chung quanh. Tâm
từ sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những khổ đau do lòng sân hận và ganh tỵ gây nên.
Khi chúng ta nuôi dưỡng được tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, không những ta
sẽ làm cho cuộc sống của những người chung quanh được dễ chịu hơn, mà chính
cuộc đời ta cũng sẽ trở nên an vui và hạnh phúc hơn. Năng lực của tâm từ, cũng
giống như ánh sáng mặt trời tỏa chiếu, tác dụng của nó là vô biên và vô tận.
Mong sao cho tất cả những ai đang bị giam cầm, dầu hợp pháp hay không hợp pháp,
đang ở trong sự kiềm chế của cảnh sát, trên khắp thế giới, sẽ được đối xử hạnh
phúc và an vui. Mong sao cho họ thoát khỏi mọi tham lam, sân hận, thù hằn, ganh
tỵ và sợ hãi. Hãy cho thân và tâm họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi. Hãy
để cho sự bình an và tĩnh lặng được thấm nhuần toàn thể thân và tâm của họ.
Mong sao cho tất cả những ai đang nằm trong các bệnh viện, đang chịu đựng những
khổ đau vì bệnh tật sẽ được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao cho họ
thoát khỏi mọi đau đớn, sầu khổ, thất vọng, lo âu và sợ hãi. Cầu cho những tư
tưởng từ bi này ôm ấp họ, trùm phủ họ. Cầu cho thân và tâm họ được tràn ngập
những tư tưởng từ bi.
Mong sao cho tất cả những bà mẹ đang sanh nở được gặp nhiều an vui và hạnh
phúc. Cầu cho mỗi giọt máu, mỗi tế bào, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố trong toàn
thể thân và tâm của họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi.
Mong sao cho tất cả những đứa trẻ bị lạm dụng và ngược đãi bởi người lớn được
gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao cho các em luôn được tràn đầy những tư
tưởng từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho các em lúc nào cũng được nhẹ nhàng. Mong
sao cho các em được thư thái. Mong sao cho trái tim các em được dịu êm. Mong
sao cho những lời em nói được dễ thương. Mong sao cho các em được thoát khỏi
mọi sự sợ hãi, căng thẳng, lo lắng và bất an.
Mong sao cho tất cả những nhà lãnh đạo đều rộng lượng, tử tế và thương yêu.
Mong sao cho họ cảm thông và hiểu được những kẻ bị trị, những người thấp cổ bé
miệng, nghèo khó, bị áp bức và kỳ thị. Mong sao cho trái tim của họ yếu mềm
trước nỗi khổ của dân chúng. Cầu cho những tư tưởng từ bi này ôm ấp họ, trùm
phủ họ. Cầu cho mỗi giọt máu, mỗi tế bào, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố trong
toàn thể thân và tâm của họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi. Hãy để cho sự
bình an và tĩnh lặng được thấm nhuần toàn thể thân và tâm của họ.
Mong sao cho tất cả những kẻ bị trị, những người thấp cổ bé miệng, nghèo khó,
bị áp bức và kỳ thị, được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao cho họ thoát
khỏi mọi đau đớn, sầu khổ, thất vọng, lo âu và sợ hãi. Mong sao cho mọi người ở
mười phương thế giới được an lành, hạnh phúc và an vui. Mong sao cho họ có được
kiên nhẫn, can đảm, hiểu biết và sự cương quyết để vượt qua mọi khó khăn, thử
thách và những thất bại trong cuộc đời. Cầu cho những tư tưởng từ bi này ôm ấp
họ, trùm phủ họ. Cầu cho thân và tâm họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi.
Mong sao cho mọi chúng sinh ở mọi nơi, trong bất cứ hình dạng nào, với hai
chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc không chân, đang sinh ra hoặc sắp được sinh
ra, trong kiếp này hoặc kiếp sau, đều có được một tâm an vui. Mong sao sẽ không
có loài nào lường gạt hoặc khinh miệt loài nào. Mong sao sẽ không có loài nào
sát hại loài nào. Đối với tất cả mọi chúng sinh, mong sao cho tôi có được một
con tim vô biên, trên, dưới, và khắp chung quanh, không bị ngăn ngại bởi thù
hận hoặc ganh ghét. Mong sao cho mọi chúng sinh đều được thoát khỏi khổ đau và
có được một hạnh phúc hoàn toàn.
Tâm từ vượt ra mọi biên giới của tôn giáo, văn hóa, địa lý, ngôn ngữ và quốc
gia. Nó là một quy luật chung và cổ xưa, buộc chặt tất cả chúng ta lại với nhau
- không phân biệt ta có một hình dạng nào. Tâm từ cần được thực tập một cách vô
điều kiện. Cái đau của kẻ thù ghét tôi cũng là cái đau của tôi. Cái giận của họ
cũng là cái giận của tôi. Tâm từ của họ là tâm từ của tôi. Nếu họ vui, tôi cũng
vui. Nếu họ an ổn, tôi cũng thấy an ổn. Nếu họ khỏe mạnh, tôi cũng khỏe mạnh.
Cũng như chúng ta chia sẻ với nhau những khổ đau không phân biệt, ta cũng nên
chia sẻ tâm từ với tất cả mọi người, ở mọi nơi. Không có một quốc gia nào có
thể tồn tại mà không cần nương tựa vào sự giúp đỡ của những quốc gia khác, và
cũng không có một cá nhân nào là cô lập. Muốn sinh tồn, chúng ta cần phải có
những loài khác, nhất là những loài rất khác biệt với mình. Sự thật đơn giản là
như vậy. Chính vì những sự khác biệt ấy mà sự thực tập tâm từ là một điều hoàn
toàn cần thiết. Nó là sợi dây buộc chặt tất cả chúng ta lại với nhau!