Chương 3 - 11

25 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 30855)

Bhante Henepola Gunaratana & Jeanne Malmgren
HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Tự Truyện Của Bhante Henepola Gunaratana
Journey to Mindfulness: The Autobiography of Bhante G.
NXB Wisdom Publications 2003
Chuyển Ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh 2006 - NXB Phương Đông 2007

Chương 3
Một Cuộc Chạy Trốn

 Khi cởi bỏ y áo rời chùa, trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ: về nhà.
 Tuy nhiên, trước hết, tôi ghé qua nhà chị gái. Anh rể tôi hình như chỉ hơi ngạc nhiên khi thấy tôi. Anh đã nghe kể về những khó khăn của tôi, nên anh mỉm cười nói: “Em rời chỗ đó là đúng rồi. Cứ ở đây một lúc, anh sẽ tìm cho em một ngôi chùa khác.” Nhưng tôi lo sợ rằng nếu tôi ở đó, đại đức Sonuttara sẽ đến tìm tôi. Vì thế tôi chạy về nhà cha mẹ tôi.

 Mẹ tôi bị sốc khi nhìn thấy tôi. Bà hỏi tại sao tôi bỏ chùa, vì thế tôi kể cho mẹ nghe những gì đã xảy ra. Bà không nói gì nhiều, chỉ bắt đầu khóc.

 Buổi tối cha tôi từ ngoài ruộng lúa trở về nhà. Tôi kể với ông về những sự ngược đãi mà tôi đã phải chịu đựng ở chùa. Nhìn nét mặt cha, tôi biết rằng ông không tin tôi, nhưng ông vẫn giữ bình tĩnh. Các anh chị em tôi, tất cả đều rất vui được gặp lại tôi, nhưng không ai nói gì nhiều. Họ chỉ chấp nhận sự có mặt của tôi ở đó.

 Tuy nhiên, tất cả chúng tôi dường như đều biết rằng việc này không thể kéo dài lâu hơn. Việc nhà sư cởi bỏ y áo là điều cấm kỵ. Nó sẽ mang lại những điều bất hạnh, hay ngay cả sự tủi nhục, cho cả gia đình.

 Ngay chiều hôm sau, thầy tôi đã có mặt ở nhà tôi. Cha mẹ tôi, vì lòng kính trọng đối với tăng sĩ, đã không đòi ông giải thích tại sao tôi phải chạy trốn khỏi chùa. Họ giả vờ như không biết bất cứ điều gì đã xảy ra.

 Sau vài phút chuyện trò xã giao, sư Sonuttara yêu cầu tôi trở về chùa với ông. Tôi nhìn cha mẹ, cầu khẩn trong im lặng sự giúp đỡ của họ, hy vọng rằng họ sẽ đứng lên để bảo vệ tôi, và nói rằng họ muốn tôi ở nhà với họ.

 Nhưng không ai nói gì trong những giây phút đó. Hoàn toàn im lặng. Cha mẹ hình như không dám nhìn tôi. Sau đó thầy tôi lặp lại yêu cầu của ông. 

 Cha tôi gật đầu, nói nhỏ, “Con phải đi theo Thầy.”
 Tim tôi chùn xuống. Tôi biết rằng nếu tôi cố ở lại, thì cha tôi cũng sẽ dùng sức mạnh để bắt tôi về chùa ngày hôm sau, hay ngày hôm sau nữa. Và tôi không muốn mang lại sự tủi nhục cho gia đình.

 Vì thế tôi ra đi theo sư Sonuttara. Ngay khi chúng tôi trở lại chùa, Sư lại làm lễ xuất gia cho tôi lần nữa, trong một buổi lễ kém quan trọng hơn lần đầu rất nhiều. Lần thứ hai trong cuộc đời, tôi lại mặc lên mình bộ y vàng. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng lần này nó sẽ tốt hơn.

 Sư Sonuttara, thầy tôi, là một thành viên của hội đồng Tăng già, bộ phận quản lý tông phái của chúng tôi, phải trải qua một tháng giữa rằm tháng sáu và rằm tháng bảy ở Kandy. Trong tháng đó, hội đồng Tăng già tổ chức các buổi lễ thọ đại giới cho các sadi, đôi khi truyền giới tỳ kheo cho đến ba mươi vị trong một ngày. Trong lúc thầy tôi vắng mặt, tôi đảm nhiệm việc quản lý chùa, dầu rằng tôi chỉ mới mười ba tuổi và hãy còn là một Sadi.

 Một ngày kia, khi thầy tôi vắng mặt, và tôi coi sóc chùa, có một người đàn ông đã đến chùa xin cam. Chúng tôi có hai cây cam trong khuôn viên chùa, vì thế khi nào dân làng cần cam, họ đến xin chúng tôi. Anh ta trả cho tôi khoảng gần một rupee, tương đương với khoảng hai mươi lăm xu tiền Mỹ.

 Một trong những đứa trẻ ở chùa đã đi Kandy với sư Sonuttara, vì thế chỉ còn một đứa ở lại với tôi, tên là Hinnimahattaya. Thường thì chúng tôi chia sẻ với nhau mọi thứ, giống như cặp bài trùng. Vì thế ngay khi người đó đã ra đi với một bao cam, Hinnimahattaya đòi tôi phải chia phần cho hắn.

 "Ông ta chỉ đưa cho tôi hai mươi lăm xu," tôi nói với Hinnimahattaya, "mà trong đó chúng ta phải mua đường, trà, và một ít dầu cho đèn tối nay."

 Hinnimahattaya rất bực mình. Hắn xổ ra một tràng chửi rủa tục tĩu, nên tôi đánh hắn một trận. 

 Một lần khác, chúng tôi không còn diêm để đốt đèn dầu. Tôi bảo Hinnimahattaya chạy qua nhà hàng xóm mượn đốm lửa. Đó là việc rất thường vào thời ấy, ‘đi mượn’ lửa từ nhà hàng xóm.

 Nhưng Hinnimahattaya từ chối không đi. Nên tôi đe dọa hắn: nếu hắn không đi lấy lửa, tôi sẽ không chia cho hắn nửa điếu thuốc của tôi. (Thường thì chúng tôi chia nhau thuốc hút; tôi sẽ hút một nửa rồi đưa cho hắn một nửa.) Nhưng Hinnimahattaya không nghe. Nó thà là không có nửa điếu thuốc hơn là phải chạy đi công việc.

 Vì thế tôi phải tự đi, và khi tôi trở lại với cây lửa, tôi đốt một điếu thuốc. Hinnimahattaya nhìn tôi nôn nóng. Khi điếu thuốc vừa hết một nửa, nó đòi tôi chia phân nửa còn laị.

 "Hãy quên đi," tôi nói. "Luật là luật. Tao đã phải chạy đi lấy lửa, thì mầy đừng hòng được hút chút thuốc nào.’

 Hinnimahattaya bắt đầu chửi rủa tôi. Quá tức giận, tôi đẩy nó vào tường, rồi dí thuốc vào hai khóe miệng của nó.

 Cũng có chuyện xảy ra nữa là, trong lúc Thầy tôi đi Kandy, có vài thiếu niên trong làng lên chùa ở với chúng tôi. Chúng tôi bày ra nhiều trò chơi. Dĩ nhiên là một sadi, đáng lý ra tôi không được tham dự những trò chơi này, nhưng ai mà biết được khi thầy không có ở nhà? 

 Một trong những trò chơi mà chúng tôi rất thích, được gọi là panca ganahava, có nghĩa là ‘trò chơi năm số’. Chúng tôi thấy các vỏ sò trên sàn nhà và tính điểm tuỳ thuộc vào số vỏ sò lật úp hay ngửa.

 Một ngày kia người hàng xóm kế bên đến, bảo rằng anh ta muốn dạy chúng tôi chơi đánh bài. Anh ta chỉ cách chơi, và tất cả chúng tôi đều thích. Anh ta cho chúng tôi thắng liên tiếp mấy ván, rồi nói, "Nếu mấy em có tiền, thì đặt cược trong ván bài này. Hôm nay là ngày may mắn của mấy em. Mấy em chắc sẽ thắng."

 Tôi nói rằng tôi chỉ có một rupee. Anh ta nói, "Tốt. Hãy chơi bằng tiền."

 Tôi cá đồng rupee của mình và lập tức ăn được thêm hai cái nữa! Tôi khoái quá. Anh ta khuyến khích tôi chơi nữa. Dĩ nhiên, sau đó tôi thua. Người hàng xóm bỏ túi ba đồng rupee rồi ra về, mỉm cười.

 Vậy là kết thúc sự nghiệp cờ bạc ngắn ngủi của tôi, và tôi đã được một bài học chỉ trong lần thử duy nhất đó.

 Chiều hôm đó thầy tôi từ Kandy trở về, việc đầu tiên sư làm là xem xét cái tô chúng tôi dùng đựng thức ăn cúng Phật trong chánh điện. Chúng tôi đã được dặn là phải rửa sạch nó mỗi ngày trước ngọ.

 Ngày hôm đó, sư Sonuttara thấy là nó vẫn còn đầy thức ăn lúc một giờ trưa. Lúc đó tôi đang ở trong bếp, chuẩn bị trà cho sư. Sư gọi tôi và tôi bước ra khỏi nhà bếp, bắt đầu bước xuống những bậc thềm để vào gian nhà chính. 

 Bỗng nhiên tôi thấy một vật đang bay về phía mình -cái tô đựng thực phẩm trong chánh điện! Thầy tôi quá giận đến nỗi ông đã liệng cái tô về phía tôi ngay trước khi hỏi tại sao nó vẫn còn đầy. Cái tô trúng ngay trán tôi, rất mạnh, và tôi ngã xuống đất, chảy máu đầu.

 Cho đến ngày nay tôi vẫn còn vết thẹo trên trán. 
 Thầy chúng tôi cũng thấy vết bỏng quanh miệng của Hinnimahattaya.
 "Đã xảy ra chuyện gì?" Sư hỏi tôi.
 Tôi đã dặn Hinnimahattaya không được nói với thầy về vụ hút thuốc. Nếu nó nói, cả hai chúng tôi sẽ bị phạt vì đã hút thuốc. May mắn thay, Hinnimahattaya đã không nói gì.

 Tôi thưa với sư Sonuttara rằng thằng bé đã chửi tôi, vì thế tôi châm lửa vào miệng hắn để phạt. Ngạc nhiên thay, hình như Sư đã tin như thế, nên không nói gì thêm nữa.

 Tuy nhiên, đó chỉ là một trong những trường hợp hiếm hoi mà tôi có thể trốn tránh tội mình. Tánh thầy tôi nóng nảy, ít khi kiềm chế được, và việc đánh đập vẫn tiếp diễn, đôi khi chỉ vì những sự vi phạm luật lệ nhỏ nhặt nhất. Sư là một nhà độc tài, và chúng tôi phải thi hành tất cả mệnh lệnh của sư mà không được thắc mắc hay bàn cãi.

 Ngoài tính độc đoán và nóng nảy, sư Sonuttara thật sự cũng có những điều tử tế. Đặc biệt, sư rất thương thú vật; đó là lý do tại sao sư cho tất cả đám mèo chó hoang trong vùng được ăn. Và nếu có những người bệnh tìm đến chùa để nhờ giúp đỡ, sư cũng cho họ thuốc, miễn phí. Thỉnh thoảng có những đứa trẻ trong chùa chạy trốn, đem theo một vật gì đó có giá trị, như là một cây đèn dầu bằng đồng hay ngay cả một trong những bức tượng Phật.

 "Hãy tha cho nó," thầy tôi sẽ nói. "Nó cũng nghèo. Nó có thể bán những thứ đó để kiếm chút tiền. Chúng ta có thể mua cái khác để thay cho cái đã bị lấy đi."

 Giờ xét lại những hành động của sư Sonuttara, tôi nghĩ rằng sư thực sự chỉ muốn tôi trở thành một người tu sĩ tốt, không bị lôi cuốn theo các bản năng của tuổi trẻ, chỉ muốn được tự do, độc lập. Và sư ‘khuyến khích’ thiện tánh bằng cách dùng những hình thức trừng phạt phổ biến thời đó: sự đánh đập.

 Dĩ nhiên, tôi không thể hiểu được như thế cho đến mãi sau này, khi tôi đã trưởng thành. Còn lúc tôi là sadi, sống ở chùa của sư, thì tôi rất khổ đau. Tôi luôn bị hành hạ dưới sự cai quản của sư.

 Đến một lúc, tôi bắt đầu bàn với một trong những đứa trẻ ở chùa về việc bỏ trốn. Nó cũng rất bất mãn. Cả hai chúng tôi đều để dành tiền, và tích trữ đèn cầy, chúng tôi dự định đêm nào đó sẽ bỏ trốn. Một ngày kia cả hai chúng tôi đồng ý sẽ trốn đi đêm đó. Ngày hôm đó cả hai chúng tôi đều làm việc chăm chỉ hơn ngày thường, cố gắng làm vừa lòng sư để ông không nghi ngờ gì.

 Đêm đó, sau khi mọi người trong chùa đã đi ngủ, tôi cởi y ra, mặc trở lại áo sơmi và xà rong. Tôi và người bạn đồng lõa lén lút ra đi bằng cửa sau. 

 Trước hết chúng tôi phải đi qua một nghĩa trang, là việc cả hai đều rất sợ. Rồi chúng tôi đi trên một chiếc cầu gỗ bắc qua một con suối nhỏ. Chúng tôi đã nghe nhiều câu chuyện từ dân địa phương, rằng đây là nơi mà những con quỷ dữ và chằng tinh thường ăn thịt người. Truyền thuyết cũng nói rằng dấu hiệu đầu tiên về sự có mặt của chúng, sẽ là một con chó đen to lớn. 

 Thông thường, nếu người ta phải đi qua chiếc cầu đó, họ sẽ đi thành từng nhóm, mọi người sẽ nói lớn tiếng, và cầm những bó đuốc cháy bùng để xua đuổi lũ quỷ. Nhưng vì đang chạy trốn, chúng tôi phải im lặng và không thể đốt đèn cầy mà chúng tôi đã mang theo mình, vì sợ rằng ai đó sẽ phát hiện ra chúng tôi.

 Chúng tôi đi qua cầu đúng lúc giữa đêm. Chúng tôi run rẩy, miệng khô đắng. Tóc dựng đứng. Chúng tôi không thể nói lời nào với nhau, chỉ chầm chậm bước đi trong bóng tối dày đặc.

 Thình lình, một con chó đen to lớn hiện trước mặt chúng tôi, và tim tôi bắt đầu đập mạnh hơn. Rồi cả hai chúng tôi đều bị tát vào mặt, mạnh đến nỗi suýt té khỏi cầu, và rơi xuống nước.

 Thì ra con chó đen to lớn đó là con chó ở chùa và những cái tát tay là của thầy chúng tôi, người đã nghe được chúng tôi lén lút trốn đi ở cửa sau, nên đã đi theo chúng tôi đến tận cây cầu. Theo lệnh của ông, chúng tôi đành theo ông trở lại chùa, nơi tôi lập tức được thọ giới lần thứ ba, giữa đêm khuya.

 Không có một đứa trẻ nào khác ở chùa biết về chuyện này, cả dân làng cũng thế. Ngày hôm sau, mặc trở lại chiếc áo người tu, tôi ôm bình bát vào làng để khất thực như lệ thường.

 Khi tôi được mười lăm tuổi hay khoảng đó, tôi bắt đầu để ý đến một cô gái trong làng khoảng tuổi tôi. Mỗi ngày cô đứng trước cửa nhà khi tôi ôm bình bát đi ngang qua. Cô cao gần bằng tôi, với mái tóc đen dài. Cô cũng có khuôn mặt tròn như tôi, với màu da trắng hơn da của người Sinhala bình thường, và một hàm răng hoàn hảo được phô bày mỗi khi cô cười. Theo tôi cô rất đẹp. Một ngày kia, khi cô bỏ gạo vào bình bát của tôi, chúng tôi thầm thì trao đổi vài lời ngắn ngủi -một điều rất trái với giới luật người tu.

 Tối hôm đó, khi ra giếng tắm, tôi cố ý va mạnh chiếc thùng vào thành giếng để gây tiếng động đủ lớn cho cô có thể nghe thấy từ nhà. Đó là tín hiệu mà chúng tôi đã đồng ý với nhau.

 Chỉ một lúc sau cô đã chạy ra giếng, mang theo một chiếc bình như thể cô cần lấy thêm nước. Tôi rất sung sướng thấy cô đến.

 Chuyện như thế kéo dài khoảng mười ngày. Tôi sẽ va thùng vào giếng; cô ta sẽ chụp lấy bất cứ bình nước nào trong nhà và nếu nó còn đầy nước thì cô sẽ đổ nước đi để có lý do ra giếng. Dầu còn e dè chưa dám bày tỏ tình cảm thân thiết dành cho nhau, nhưng chúng tôi cũng có những buổi chuyện trò rất lâu, rất dễ thương, và càng ngày chúng càng dài hơn. Tôi kể với cô rằng cuộc sống ở chùa giống như ở tù. Chúng tôi cũng nói chuyện người khác trong làng. Cô kể cho tôi nghe về cuộc sống ở nhà cô. 

 Dần dần thầy tôi cũng bắt đầu thắc mắc tại sao tôi tắm quá lâu, và một ngày ông ra đó xem, bắt gặp chúng tôi đang nói chuyện và cười đùa.

 Dĩ nhiên là ông rất giận. Tăng sĩ ở bất cứ độ tuổi nào cũng không được tiếp xúc thân mật với nữ giới. Ông cấm cô gái không được ra giếng khi tôi ở đó. Trở về chùa, ông nặng lời rầy la tôi, và ra lệnh cho tôi phải đi tắm trễ hơn, vào lúc mà ông nghĩ rằng sẽ quá trễ cho cô gái ra giếng.

 Thực ra, điều đó còn tốt hơn vì tôi biết rằng chúng tôi sẽ được trò chuyện kín đáo lúc đêm khuya, khi không ai có thể thấy chúng tôi bên nhau. Vì thế chúng tôi tiếp tục những cuộc gặp gỡ thầm lén này.

 Dĩ nhiên, thầy tôi lại bắt gặp chúng tôi lần nữa, và lần này sự phản kháng của ông còn mạnh mẽ hơn. Ông cấm cô gái không bao giờ được ra giếng nữa. Ông dọa rằng ông sẽ báo cho cha mẹ cô biết về những hành động của cô.

 Cô gái khóc, van xin ông đừng nói cho cha mẹ cô biết. Cô hứa không ra giếng nữa và cô đã giữ lời. Tôi chẳng bao giờ gặp lại cô nữa.

 Giờ khi nhìn lại sự việc đó, sau nhiều năm học và thực hành pháp, tôi thấy rõ ràng là người ta không nên xuất gia quá sớm, như thường xảy ra vào thời của tôi. Trước hết họ cần được học thế học, được phép chơi thể thao, trò chơi, bạn bè và hội hè - tất cả những thứ mà người trẻ thường ham thích. Rồi khi đã trưởng thành, họ có thể chọn lựa một cách chín chắn về việc có nên xuất gia hay không. Gia nhập Tăng đoàn là một việc rất nghiêm trọng, và tôi không nghĩ rằng một người còn nhỏ tuổi có thể sẵn sàng chọn lựa một cách đúng đắn. Và cũng ít có đứa trẻ nào có thể chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng chấp nhận những gian khổ và trói buộc của đời sống xuất gia.

 Cách suy nghĩ cũ xưa ở xứ tôi là các chú bé, với tâm nhạy bén trẻ trung, có thể học thuộc các thánh điển dễ dàng hơn là người lớn. Cá tính của chúng cũng có thể được uốn nắn và rèn luyện để có được phong thái tự tại của một tăng sĩ thiền định. Nhưng giờ tôi cũng không dám chắc rằng điều đó là đúng. Tôi cũng đã thấy rất nhiều người trưởng thành xuất gia ở tuổi trung niên hay lớn hơn thế nữa, sau khi đã lập gia đình, có con cái, và họ cũng là những tỳ kheo xuất sắc. Ngược lại, tôi cũng đã thấy rất nhiều vị tu sĩ xuất gia trước tuổi trưởng thành, vẫn tiếp tục cư xử như trẻ con.

 Sau khi sư Sonuttara cắt đứt sự lãng mạn thân thiết của tôi với cô gái bên giếng, thì sự bất mãn với đời sống ở chùa trong tôi càng sâu nặng hơn. Tôi là một thiếu niên, với tâm tính bướng bỉnh và ước muốn được giáo dục một cách chính thống hơn là những gì mà thầy tôi có thể mang đến cho tôi. Tôi vẫn muốn làm người tu sĩ nhưng không phải dưới sự cai quản của vị thầy này. Tôi không thể tìm ra giải pháp nào ngoại trừ lại chạy trốn lần nữa, nhưng đi đâu chứ? Tôi biết rằng tôi không còn thể nào trở lại nhà được nữa. Cha mẹ tôi sẽ rất đau lòng nếu tôi lại hoàn tục. Tôi không thể mang lại sự tủi nhục cho họ nữa. 

 Vào khoảng thời gian đó, có hai cha con người kia đến sống ở chùa. Đứa con trai tên là Gunawardhena, và tôi với nó trở thành bạn tốt của nhau. Nó luôn nói với tôi rằng nó biết một nơi tốt hơn là chùa này, vì thế chúng tôi lại rấp tâm chuẩn bị chạy trốn với nhau. Lần này, tôi quyết định phải làm cho chắc ăn. Tôi phải chạy trốn làm sao mà không ai có thể tìm được tôi.

 Vào ngày đã định, tôi nhờ người thợ hớt tóc trong làng cạo tóc cho tôi như thường lệ. Cả ngày hôm đó tôi luôn ở trong tình trạng phấn chấn với những dự tính của mình; và Gunawardhena cũng thế. Mười một giờ đêm hôm đó, tôi đi nhà vệ sinh, và khi trở lại tôi để cửa trước hơi hé mở.

 Khoảng mười hai giờ rưỡi khuya, chúng tôi nghe tiếng sư phụ đã ngáy ngủ. Chúng tôi lấy một ít đèn cầy rồi xuống nhà bếp, nơi tôi lại cởi bỏ y áo và một lần nữa lại mặc vào chiếc áo sơ-mi và cái xà rong.

 Rời khỏi khuôn viên chùa, chúng tôi đi về hướng ngược lại với hướng mà tôi đã đi trong lần chạy trốn trước. Với tất cả sức lực, chúng tôi chạy băng qua những ruộng lúa ra con đường chánh, cách đó khoảng ba cây số. Chung quanh chúng tôi chỉ có âm thanh của các con chim đi ăn đêm, cóc nhái, dế, và tiếng chó sủa ở đằng xa.

 Khi ra đến đường lộ, chúng tôi bước chậm lại. Chẳng lâu sau chúng tôi thấy hai người cầm đèn tiến về phía chúng tôi. Đó là năm 1942, thời thế chiến thứ hai, và luật giới nghiêm đã được áp dụng ở khắp nơi trên Ceylon. 

 Gunawardhena run rẩy nói với tôi, không dùng pháp danh nhưng gọi tên thế tục của tôi. "Ukkubanda, đó là cảnh sát. Họ sắp tra vấn chúng ta với đủ các câu hỏi đây. Chúng ta phải nói với họ làm sao?"

 Trong chớp mắt, tôi đã nghĩ ra một câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng: "Hãy nói rằng mẹ tôi chết hôm qua, và đã sai người đến chùa nhắn tin với chúng ta. Chúng ta trễ chuyến xe buýt đi dự đám tang của bà, nên giờ chúng ta phải đi dọc theo đường, hy vọng sáng nay sẽ có thể bắt được chuyến xe buýt khác."

 Mấy người cảnh sát đến gần, nhìn tôi một cách nghi ngờ. Tôi đã dùng một khăn tay cột quanh cái đầu không tóc của mình, và một cái nữa cột chung quanh cổ. Vì không có dây nịt, nên tôi lại dùng một cái khăn nữa cột ngang thắt lưng để giữ chiếc xà rong. Số đèn cầy trong tay tôi cũng được gói trong một chiếc khăn tay. 

 "Hãy nhìn thằng quỷ này," một người cảnh sát nói. "Cả người nó đầy khăn mùi xoa."

 Họ tách tôi ra khỏi Gunawardhena và dẫn chúng tôi ra xa nhau khoảng mười thước, rồi hỏi mỗi đứa chúng tôi cùng một câu hỏi: Chúng tôi đi đâu giữa đêm hôm khuya khắt thế này?

 Cả hai chúng tôi đều nói giống nhau, nên hai người cảnh sát để chúng tôi đi, không đá động gì đến chuyện giới nghiêm. Họ chỉ nói là khi đi chúng tôi cần phải đốt đèn cầy lên.

 Hai tiếng sau chúng tôi đến Kurunegala, cách chùa khoảng hơn mười lăm cây số. Giờ thì chúng tôi cảm thấy an toàn hơn, vì chắc chắn rằng sư Sonuttara không thể nào đi theo chúng tôi xa đến vậy.

 Khi trời bắt đầu sáng, chúng tôi tìm được một nơi trú ẩn bên đường, một trong những hình thức thường được biết đến như là những nhà nghỉ dành cho người hành hương. Căn lều có tường thấp, mái tranh, nền đất mà người ta trải chiếu nằm lên đó. Phần lớn, những căn lều thô sơ, trống trải này được người lữ hành sử dụng để tránh nắng mưa và mấy gã ăn mày dùng làm nơi nấu nướng bất cứ thứ gì mà họ đã cuỗm được.

 Gunawardhena và tôi thật may mắn. Buổi sáng đó không có ai ở trong căn lều nọ. Mừng rỡ, chúng tôi nhào xuống đất và đánh một giấc ngay tức thì.

 Vài giờ sau, chúng tôi thức dậy rửa mặt với nước giếng lạnh. Chúng tôi lại bắt đầu đi tiếp, không rõ mình sẽ đi về đâu. Chúng tôi chỉ đi tới.

 Cảnh vật chuyển đổi không ngừng. Chúng tôi đi qua những hàng dừa, những đồn điền cao su và trà, những thửa ruộng lúa, vườn chuối và các khu vườn trồng rau nhỏ bên ngoài những túp lều một gian. Hình như ở đâu cũng có chó hoang, nhiều con đã hoàn toàn rụng hết lông, và cũng lắm con mình đầy thương tích, vì bị chó khác cắn hay bị người ta đánh. Chúng tôi cũng thường thấy khỉ rừng đong đưa trên cây hay chạy rong dưới đất. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe từ xa xa tiếng voi rống.

 Đôi khi cũng có xe hơi, xe hàng, xe buýt, xe máy và xe kéo, tất cả đều nhấn kèn để cảnh báo cho người đi bộ và người bên đường. 

 Nhưng phần lớn lưu thông trên đường là người đi bộ. Chúng tôi đã đi qua bao người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em đi trên đường hay chăn bò, đuổi gà. Có người đánh những chiếc xe bò bằng gỗ thô sơ.

 Dọc theo đường có những căn nhà nhỏ làm bằng bùn là những tiệm buôn bán. Người ta ngồi trước các cửa tiệm này, nhai trầu, uống trà và tán gẫu. Khách qua đường có thể dừng chân mua trà, bánh mì, cau ăn trầu, khô, dây thừng làm từ các sợi dây dừa và lương thực như đường, muối, gạo, đậu, và dầu lửa.

 Gunawardhena và tôi đã lấy cắp được ít tiền trong phòng của sư Sonuttara trước khi rời chùa, nên chúng tôi có tiền mua ít ổ bánh mì. Chúng tôi thấy một trong đống dừa trong vườn nhà ai đó cạnh bên đường. Chúng tôi ăn cắp một trái, đập xuống đất cho đến khi bể ra. Thịt dừa, cùng với bánh mì, là bữa ăn đầu tiên của chúng tôi trong cuộc hành trình này.

 Ngày hôm đó chúng tôi đã đi ba mươi lăm cây số. Chiều tối chúng tôi đến một thành phố gọi là Dambulla. Chúng tôi lại tìm được một nhà nghỉ cho người hành hương còn trống nữa. Chúng tôi trải vài tàu lá dừa trên sàn nhà, và nằm xuống. Chúng tôi hoàn toàn kiệt sức.

 Sáng hôm sau thức dậy chúng tôi thấy cả người đầy rận và ruồi đất. Chúng tôi ra một giếng gần bên, bẻ vài cọng cây trong bụi rậm và bắt đầu đánh răng bằng cọng cây đầy sơ. 

 Một tăng sĩ tiến lại phía chúng tôi, nhìn tôi lom lom. Tôi cố gắng phớt lờ ông.

 "Con là tu sĩ?" ông hỏi, nhìn cái đầu không tóc của tôi. 

 "Không," tôi nói dối một cách dễ dàng. "Tôi bị bệnh. Tôi vừa ra viện hôm qua." 

 "Con trông không giống người bệnh," vị tăng nói. "Sư nghĩ con là tu sĩ. Hãy theo sư. Sư sẽ truyền giới lại cho con, ở chùa của sư."

 Tôi suy nghĩ về điều đó. Tự đáy lòng, tôi vẫn còn muốn làm người tu. Tôi chỉ cởi bỏ y áo vì thầy tôi quá ác độc. Vị sư này có vẻ tử tế hơn. Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể đi mà không bàn với bạn tôi.

 Tôi quay qua Gunawardhena.

 "Bạn nghĩ sao?" tôi hỏi nó. "Tôi thật sự không muốn hoàn tục. Đây là cơ hội để tôi được trở về làm người tu sĩ."

 "Bạn điên à?" Gunawardhena nói. "Bạn không nhớ thầy mình đã làm gì chúng ta à? Tất cả các thầy đều giống nhau. Họ không có trái tim. Họ chỉ nghĩ về luật lệ và giới cấm. Đừng có điên, hãy đi thôi."

 Vị tăng sĩ càng dỗ ngọt. Ông bảo rằng ông quen biết vài viên chức người Anh ở một phi trường quân sự cạnh bên. Ông hứa sẽ tìm cho Gunawardhena một việc làm ở đó. Cả hai chúng tôi đều có thể sống ở chùa, tôi có thể là tu sĩ trong khi Gunawardhena làm việc ở phi trường. 

 Gunawardhena không muốn nghe bất cứ điều gì, và tôi không muốn bỏ rơi bạn mình. Vì thế chúng tôi từ giã vị sư và bắt đầu đi tiếp. 

 Ngày hôm sau chúng tôi gặp một người đàn ông, làm việc cho một nhà thầu xây dựng nhân sự. "Nếu muốn kiếm việc làm thì hãy đi theo tôi," hắn nói với chúng tôi. "Chúng tôi có rất nhiều việc cần người làm."

 Chúng tôi đồng ý.
 Công việc của chúng tôi thật ra là công việc lao động tay chân nặng nề. Họ trao hai cái xẻng và hai cái cần xé cho chúng tôi, rồi bảo chúng tôi đi xúc cát dưới suối, đổ thành đống lớn. 

 Nhiều tháng qua, chúng tôi đã làm việc ở đó trong một nhóm khoảng hai mươi thanh niên, từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Lương là một chấm hai rubi một ngày, tương đương với khoảng năm mươi xu. Từ số lương đó, chủ còn trừ hai mươi lăm xu ăn uống. Mặc dù, điểm tâm là một ly trà với đường, và buổi tối là cơm với súp. Chúng tôi ngủ trong những chiếc võng được làm bằng cách cột một bao tải giữa hai thân cây.

 Rừng đầy muỗi. Chúng tôi bị chúng cắn ngày đêm và không lâu sau đó thì Gunawardhena bị sốt rét. Nó bị sốt cao và không thể làm việc.

 Tôi xin ông chủ hai ngày phép, để tôi có thể chăm sóc bạn mình. Ông ta từ chối.

 "Tôi đã làm cho ông hàng tháng, bảy ngày một tuần, mười hai giờ một ngày," tôi nói. "Mà tôi chỉ xin một vài ngày nghỉ."

 Ông ta nhất định từ chối. Một là tôi phải tiếp tục làm việc, hai là cả tôi và Gunawardhena phải rời trại lao động.

 "Được rồi," tôi nói. "Hãy trả hết lương cho chúng tôi đi."

 Ông chủ trả tiền và chúng tôi ra đi.

 Thế là chúng tôi bắt đầu cuộc đời của những kẻ ăn mày. Ban ngày chúng tôi lang thang dọc theo những con đường bụi bặm. Ban đêm chúng tôi chia phần thức ăn ít ỏi của những người ăn xin khác trong các căn lều bên đường, rồi đùa giỡn, ca hát, nhảy múa và kể chuyện phím để giết thì giờ.

 Mấy tuần chúng tôi không tắm. Quần áo chúng tôi dơ bẩn và chúng tôi hôi thối. Mỗi sáng những người ăn xin khác sẽ rời nhà đi "làm việc" và hỏi chúng tôi định ngày đó xin ăn ở địa điểm nào.

 "Không biết," luôn là câu trả lời của chúng tôi. Sự thật là, chúng tôi không đi xin chỗ nào hết. Chúng tôi chỉ ăn bất cứ thứ gì mà người khác muốn chia sẻ với chúng tôi. Chúng tôi là những người ăn xin lười biếng.

 Dần dần Gunawardhena khỏi bệnh sốt rét và hồi phục sức khoẻ trở lại. Nhưng rồi, một buổi sáng kia, khi thức dậy tôi cảm thấy đau buốt ở chân phải và gây gây sốt. Quan sát kỹ, tôi thấy một vết đỏ ở trên đùi cách đầu gối khoảng mười centimet. Một người ăn xin ở chung chỗ, săm soi vết thương và bảo rằng đó là vết rắn cắn. Sự đau nhức tăng dần lên, và tôi gần như không thể nhấc nổi chân. 

 Gunawardhena và tôi phải ở lại phía sau khi những người ăn xin khác ra đi. Khoảng hai giờ sau đó, tôi cố gắng đứng lên và đi cà nhắc ra khỏi lều.

 Chúng tôi chỉ mới đi được khoảng mười thước thì gặp một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi. Chúng tôi chưa từng gặp anh ta trước đó. Nhưng vì một lý do gì đó tôi không biết, anh ta và Gunawardhena trở nên thân thiết ngay. Họ bắt đầu cười đùa giống như những người bạn thân lâu ngày. Có lẽ Gunawardhena cảm thấy tôi và cái chân cà nhắc của tôi là một trở ngại cho anh; anh ta như trút được gánh nặng khi gặp một người vui vẻ hơn. 

 Ba người chúng tôi đi với nhau, nhưng tôi đi chậm ở đằng sau. Khoảng chừng năm phút sau Gunawardhena quay lại nói với tôi.

 "Ukkubanda, vì bạn không thể đi nhanh, tôi sẽ đi trước với anh bạn này? Còn bạn, cứ thong thả, cần đi chậm cứ đi. Chúng tôi sẽ đợi bạn ở Lovamahapaya."

 Ngay lập tức tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi. Muốn đến Lovamahapaya phải đi bộ sáu đến bảy tiếng.

 "Không, đừng bỏ tôi lại một mình," tôi van nài. "Tôi không thể đi một mình. Tôi cần bạn giúp đỡ. Xin hãy ở lại với tôi." 

 Rồi thì chuyện không thể hiểu được đã xảy ra: Gunawardhena phớt lờ tôi và bước thẳng tới với người bạn mới của mình.

 Tôi ngồi xuống và bắt đầu khóc. Chân tôi buốt đau. Tôi không thể tin điều gì đã xảy ra. 

 Gunawardhena thật là vô ơn. Chúng tôi đã sắp đặt cuộc hành trình này với nhau, nhiều tuần trước đó, và tôi đã từ bỏ cuộc sống tu hành để chạy trốn theo nó. Khi nó bị bệnh trong rừng, tôi đã bỏ luôn việc làm của mình. Bao nhiêu ngày tháng, chúng tôi đã đi với nhau như bạn bè. Chúng tôi đã dựa vào nhau để sống. Vậy mà bây giờ, khi tôi cần nó, nó lại bỏ rơi tôi.

 Tôi không có bạn bè, không nhà cửa, không tiền bạc, không lương thực. Tôi ở tận cùng vực thẳm và tôi hoàn toàn cô đơn.

 Bây giờ tôi phải làm sao đây?


Chương 4
Xuất Gia Lần Nữa

 Sau khi Gunawardhena bỏ đi đột ngột, tôi chỉ ngồi đó, cô đơn và bối rối. Những gì đã bắt đầu như một cuộc phiêu lưu kỳ thú, từ việc bỏ trốn khỏi chùa đã biến thành một thử thách đáng sợ. Chiếc chân bị rắn cắn đã sưng lên dữ dội, tôi lại đói khát và người bạn đồng hành đã mất hút. Hoàn cảnh lúc đó của tôi là như thế! Chưa bao giờ trong cuộc đời, tôi cảm thấy chán nản như thế.

 Tuy nhiên, dần dần một điều gì đó bên trong thôi thúc khiến tôi đứng dậy: "Hãy đi tới," hình như đó là tiếng nói bên trong tôi.

 Vì thế tôi đứng dậy và bắt đầu lết dọc theo con đường vắng vẻ. Tôi đi như thế hàng giờ, cho đến khi cuối cùng tôi gặp một cô gái ngồi dưới bóng cây. Cô đang bán trái cây, đậu, bánh mì, trà và rau quả.

 Tôi ngồi xuống trên một chiếc ghế đẩu.

 "Tại sao anh lê lết như thế?" cô hỏi tôi.
 Tôi giải thích rằng một con rắn đã cắn chân tôi đêm hôm trước đó.

 Cô gái lại hỏi tôi thêm nhiều điều nữa: tên tôi là gì, tôi từ đâu đến, và tại sao tôi đi chỉ một mình. Tôi đã kể cho cô nghe tất cả câu chuyện.

 Cô cho tôi một miếng bánh mì với cà ri rau cải, và một ly trà nóng hổi thật ngon. Tôi tiếp nhận bữa ăn với lòng vô cùng biết ơn.

 Cô đi vào căn lều nhỏ bé của mình và mang ra một miếng chanh. Cô chà chanh lên vết thương ở đùi tôi, rồi xát ít dầu lên đó. Cô bảo tôi ở lại đó cho đến khi cha cô trở về nhà, nhưng tôi bảo rằng tôi phải đến Lovamahapaya để gặp bạn tôi. Tôi vẫn hy vọng Gunawardhena thật sự đang chờ đợi tôi ở đó.

 Tôi lại tiếp tục lên đường, với cái chân lết. Chẳng bao lâu tôi đến một thành phố tên là Anuradhapura. Một trong những nơi đầu tiên tôi đến là một quán ăn gọi là khách sạn Siyasiri (thời đó người ta gọi quán ăn là khách sạn). Vị quản lý chào đón tôi, rồi hỏi tại sao tôi đi cà nhắc. Tôi kể với ông về chuyện rắn cắn. Ông hỏi tại sao tôi chỉ có một mình. Tôi bảo với ông là tôi không theo kịp người bạn đồng hành, vì thế anh ta đã đi trước đến Lovamahapaya.

 "Ai đi qua đây cũng ghé vào quán này," người chủ quán nói. "Hãy ở lại đây. Nếu họ đi ngang qua thành phố này, em sẽ gặp họ."

 Tôi đồng ý, và ngồi xuống đợi. Tới khoảng mười một giờ đêm, tôi bắt đầu ngủ gục. Người quản lý có thể thấy là tôi rất mệt mỏi.

 Ông nói: "Em hãy ở lại đêm nay." Rồi ông đưa cho tôi một chiếc chiếu để ngủ.

 Và đó là điều cuối cùng tôi nhớ cho đến tám giờ sáng hôm sau.
 Ngay khi vừa thức dậy, tôi đã hỏi người quản lý rằng Gunawardhena đã đến chưa?
 "Không," ông lắc đầu nói. "Không có ai đến tìm em cả. Nhưng thôi em hãy ở lại đây, tôi sẽ cho em một công việc làm."

 Tôi không biết phải làm gì khác hay đi đâu nữa, nên tôi chấp nhận lời đề nghị của ông.
 
Và thế là tôi trở thành một người bồi bàn ở khách sạn Siyasiri ở Anuradhapura. Công việc cũng khá nhàn hạ. Có một số thanh niên khác làm ở quán, và chúng tôi hòa hợp vui vẻ với nhau. Tôi phục vụ khách hàng, lau dọn bàn ghế, và rửa chén.

 Một ngày kia, khoảng vài tuần sau đó, tôi lại bị sốt rét và cảm thấy quá mệt mỏi không thể làm việc. Trong khi nghỉ ngơi, tôi viết cho mẹ một lá thư để báo cho bà biết tôi đang ở đâu. Tôi cảm thấy hối hận, biết rằng bà có lẽ đã nghe được tin tôi trốn khỏi chùa, và mẹ tôi chắc hẳn đang rất lo rầu về tôi.

 Vài ngày sau đó, khi tôi trở lại làm việc, tôi ra giếng gần đó để lấy nước cho quán ăn. Có một cậu bé cũng đang ở đó. Tôi mượn cái gàu của nó để dùng kéo nước đổ vào thùng của tôi. Khi tôi đưa trở lại cho cậu bé cái thùng, nó làm rớt tất cả xuống giếng kể cả dây thừng. Nó bắt đầu khóc, vì đã đánh mất cái thùng thì nó sẽ gặp rắc rối.

 Nhưng khách hàng ở quán ăn đang đợi nước nấu trà. Tôi phải trở về đó ngay. Tôi bảo với cậu bé rằng tôi xách nước về quán rồi tôi sẽ trở lại ngay để giúp nó kéo chiếc thùng lên khỏi giếng.

 Nhưng khi tôi bước vào quán với chiếc thùng đầy nước thì anh cả của tôi, Tikiribanda, đang đứng ở cửa quán. Ngay khi vừa thấy tôi, anh bắt tôi phải về nhà với anh. Mẹ đã khóc suốt, anh nói, kể từ khi bà nghe tin tôi chạy trốn khỏi chùa.

 Anh tôi cũng đáng sợ gần như cha tôi. Tôi không dám cãi lệnh của anh.

 Tôi hoàn toàn quên mất cậu bé đáng thương đang chờ đợi tôi ngoài giếng, để giúp nó vớt cái thùng ra khỏi giếng. Tôi cũng quên người quản lý quán tử tế đã giúp tôi có cơ hội bắt đầu một cuộc đời mới.

 "Anh đã mở được một tiệm buôn nhỏ," anh tôi nói. "Em có thể về giúp anh buôn bán."

 Sau này tôi được biết rằng sau ngày Gunawardhena và tôi rời chùa, sư Sonuttara đã báo với cảnh sát về sự ra đi của chúng tôi. Cha tôi đã đến chùa và yêu cầu thầy tôi phải tìm tôi trở về nhà. Tới lúc đó, cha tôi mới nhận thức được rằng sư Sonuttara là người nóng tánh, tàn nhẫn, và những vấn đề ở chùa không phải chỉ là do tôi hành động sai trái. Cha tôi biết những câu chuyện về việc đối xử thô bạo của thầy tôi là sự thật, nhưng dĩ nhiên, lúc đó đã quá trễ. Tôi đã bỏ trốn khỏi chùa, và lần đó, tôi đã không chạy về nhà.

 Trong lúc đó, các nhân viên cảnh sát lùng sục khắp nơi để tìm tôi.

 Rồi khi lá thư của tôi đến từ Anuradhapura, mẹ và cha tôi lập tức sai anh cả đi tìm tôi.
 Cha mẹ tôi, nhất là mẹ tôi quá vui mừng thấy tôi còn sống và khoẻ mạnh, nhưng tôi thật không thoải mái khi trở về nhà. Tất cả mọi người láng giềng đều gọi tôi là "tu sĩ hoàn tục," là một sỉ nhục lớn. Cha tôi không muốn có đứa con ‘bất hạnh' này ở gần ông; ông bắt tôi phải xuất gia trở lại.

 Để lảng tránh cha, để không phải nói chuyện nhiều với ông, tôi kiếm đủ chuyện lặt vặt để làm. Một trong những công việc đó là đào kênh chống lũ, trên đồn điền cao su gần nhà chúng tôi.

 Đồn điền này do một công ty lớn cai quản. Họ trả lương rất tệ mà công việc rất nặng nhọc. Tôi phải xúc từng thúng đất đầy, rồi các chị phụ nữ khiêng chúng đến chỗ đổ đất. Một lần, một chị thấy các vết phồng dộp trên tay tôi vì phải cầm xuổng xúc đất, nên chị đề nghị đổi công việc với tôi. Vì thế chị xúc cát, còn tôi thì khiêng mấy thúng cát đầy.

 Sau công việc đó, tôi quay qua hái trà. Đó cũng là một công việc cực nhọc, nhàm chán. Dĩ nhiên là tôi thích làm việc ở tiệm của anh tôi hơn, nhưng anh đã phải đóng cửa tiệm chỉ vài tháng sau khi mở. Người dân trong làng nghèo quá không thể mua gì ở tiệm của anh. Phần lớn không có khả năng mua ngay cả những thứ tầm thường nhất.

 Thời gian rảnh rỗi tôi thường đến nhà chị gái của tôi, người đã chăm sóc tôi thuở nhỏ, người mà tôi coi như người mẹ thứ hai. Kể từ khi chồng chị mất, không có người đàn ông trong nhà, chỉ có chị tôi, đứa con trai nhỏ của chị và một đứa con gái, cháu tôi, chỉ lớn hơn tôi năm tháng.

 Họ rất tử tế với tôi và tôi cảm thấy thoải mái ở bên họ hơn là ở nhà cha mẹ ruột của mình. Vì thế một vài tuần sau khi trở về nhà, tôi dọn từ nhà cha mẹ đến nhà chị gái của tôi. Đó là một sự thay đổi dễ chịu hơn, nhưng tôi vẫn thực sự không cảm thấy thoải mái với đời sống tại gia. Niềm ước muốn ban đầu của tôi là được trở thành một tăng sĩ vẫn còn nung nấu trong tôi, không kể bao nhiêu chuyện đã xảy ra.

 Tôi bắt đầu nghĩ nhiều hơn về thầy tôi và ngôi chùa tôi đã rời bỏ năm tháng trước đây. Tôi cảm thấy hối hận vì đã bỏ trốn. Lòng tôi dịu lại đối với sư Sonuttara, và tôi nhớ đến những tính tốt của ông. Tôi đã nghĩ rằng ít nhất tôi cũng phải đến xin lỗi ông. Một ngày kia, khi chị tôi đã đi viếng bà con bên chồng, tôi quyết định bí mật đi gặp thầy tôi. Cuộc viếng thăm đó phải qua đêm vì đường xá xa xôi, nhưng tôi dự tính là tôi có thể trở về nhà trước chị tôi. Tôi biết rằng chị sẽ không đồng ý cho sự thăm viếng này. Chị muốn tôi sống ở nhà chị mãi và từ bỏ giấc mơ trở thành tăng sĩ.

 Khi tôi chuẩn bị ra đi, cháu tôi khóc, van nài tôi đừng đi. Tôi khuyên cháu đừng lo lắng và rằng tôi sẽ trở về ngày hôm sau. Cháu tiếp tục khóc khi tôi rời khỏi nhà đi về hướng chùa.

 Khi sư Sonuttara thấy tôi, ông như trút được gánh nặng. Mặc dầu không phải lúc nào ông cũng là người thầy tử tế nhất, nhưng ông không muốn tôi bỏ tu, mà tôi cũng không muốn thế. Tôi xin lỗi sư vì đã chạy trốn, và ông hỏi tôi có sẵn sàng để xuất gia lần nữa không.

 "Dạ có," tôi trả lời, rất chắc chắn về quyết định của mình. "Nhưng con không muốn chỉ làm chú tiểu sống ở chùa. Con muốn được đi học trường Phật học."

 Thầy lập tức nhận lời.

 Hai ngày sau đó, sau một buổi lễ đơn giản, tôi lại mặc lên mình chiếc y màu vàng lần nữa. Lần này, tôi sẽ không bao giờ cởi nó ra nữa.

 Sư Sonuttara liên hệ với một vị sư khác, đại đức Siyambalangamuwe Dhammakkhandha, người quản lý một ngôi trường tiểu học nhỏ dành cho tăng sĩ ở huyện Gampaha, cách chùa khoảng tám mươi bốn cây số. Vì đại đức Siyambalangamuwe và thầy tôi là bạn, nên ông sẵn sàng chấp nhận đơn xin nhập học của tôi, và vào tháng tư năm 1944, một tháng sau lần xuất gia gần đây nhất của tôi, tôi bắt đầu chương trình tu học một cách chính thức. Tôi học ở trường Vidyasekhara Pirivena (vidyasekhara có nghĩa là 'vương miện của sự học,' và pirivena có nghĩa 'trường dành cho tăng sĩ'). Có khoảng hai mươi vị tỳ kheo trẻ và ba thầy giáo thọ sống ở đó. Chúng tôi học lịch sử Ceylon và các kinh điển quan trọng như là Tương Ưng Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) và Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya). Chúng tôi cũng được học nhiều sinh ngữ: Sinhale, Tamil, Ấn Độ, Anh, Pali và Sanskrit. 

 Tôi rất sung sướng ở ngôi trường mới này, sống giữa những vị tăng trẻ và suốt ngày được học hành. Nhưng tôi ở đó chưa được bao lâu thì Đại Đức Siyambalangamuwe đã tìm gặp tôi với một yêu cầu. Ông bảo rằng có một ngôi chùa ở làng Napagoda, nơi vị sư trưởng đã hoàn tục, để lại ngôi chùa không ai trông coi.

 Sư hỏi tôi có vui lòng đến đó, quản lý ngôi chùa không. Tôi nghĩ rằng đó chỉ là một sự xếp đặt tạm thời, rằng tôi sẽ ở đó chỉ vài tuần rồi trở lại trường Phật học, nên tôi đã nhận lời.

 Nhưng mà hoá ra tôi phải sống ở chùa đó đến tám tháng.

 Không có việc học Phật pháp hay tiếng Pali ở đó, chỉ là những công việc thường nhật ở chùa, những công việc nhàm chán không dừng dứt. Một ngày kia không còn gì để ăn. Tôi yêu cầu một cậu bé ở chùa, khoảng tuổi tôi, đi mua bánh mì ở một tiệm trong làng. Nó từ chối. Tôi lại yêu cầu lần nữa. Lần nữa nó lại từ chối. “Tôi sẽ nhờ người khác đi mua, nhưng sau đó tôi sẽ không chia cho bạn đâu,” tôi bảo với nó.

 Nó phản ứng lại bằng cách chửi rủa tôi. Tôi đá cho nó mấy cái. 

 Chiều hôm đó, một tăng sĩ khác, người đã sống với chúng tôi ở đó một thời gian trở về chùa. Ông lại là anh của cậu bé kia. Ông hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra, tại sao cậu bé không còn ở chùa nữa. Sau khi nghe tôi kể chuyện, ông rất bực tức. 

 “Vì chú đã đuổi cậu bé duy nhất ở đây để giúp đỡ chúng ta, vậy thì bây giờ công việc của chú là trèo lên cây hái mấy trái dừa xuống.”

 Tôi từ chối. “Người tu không trèo cây,” tôi giải thích. "Làm vậy là trái luật. Ngoài ra, thầy tôi không gửi tôi đến đây để trèo cây, hái trái.”

 Sau bảy tháng sống trong căng thẳng và những sự cãi vả nhỏ mọn như thế, lòng ham muốn được học hỏi khiến tôi không thể ngồi yên, đến nỗi tôi phải viết thư cho thầy tôi. “Xin thầy vui lòng cho con trở lại trường học,” tôi van nài.

 Không lâu sau đó, tôi mừng rỡ khi nhận được một bưu thiếp từ đại đức Siyambalangamuwe nói rằng, “Được, con có thể trở về trường.”

 Tôi lập tức mướn một chiếc xe bò chở tôi ra trạm xe lửa ở Veyangoda, cách đó hơn năm cây số. Tôi nôn nóng được trở lại Gampaha để ghi danh nhập học trở lại.

 Khi đến nhà ga, được biết chuyến xe lửa đi Gampaha phải chờ đến năm tiếng nữa, vì thế tôi đi viếng một ngôi chùa gần đó.

 Ở ngôi chùa đó có một chú điệu trẻ, khoảng tám hay chín tuổi, tỏ vẻ rất thích tôi. Chú rủ tôi đi tắm với chú ở một con sông cạnh bên ga xe lửa và tôi miễn cưỡng nghe theo.

 Dầu đã gần mười bảy tuổi, tôi chưa bao giờ học bơi, nhưng tôi quá tự ái để thú nhận với chú điệu trẻ như thế. Tôi không biết rằng hành động tự ái đó suýt nữa là hại đời tôi.

 Kiêu mạn, theo Phật giáo, là một trong năm chướng ngại cuối cùng sẽ bị đoạn diệt khi hành giả đạt được giác ngộ. Đó là một trong hai mươi bảy uế nhiễm của tâm, mà Đức Phật đã cảnh báo rằng chúng có thể trở ngại ta. Để chế ngự kiêu mạn nơi bản thân, Đức Phật chỉ bày một số quán tưởng mà ta cần thực hiện:

 Tôi phải bị hoại diệt; tôi không thể chế ngự hoại diệt. 
 Tôi phải bệnh hoạn; tôi không thể chế ngự bệnh hoạn.
 Tôi phải chết; tôi không thể chế ngự cái chết. 
 Tất cả những gì là của tôi, thân thiết và quý báu, sẽ biến đổi và hoại diệt.
 Tôi làm chủ nghiệp của tôi, thừa hưởng nghiệp của tôi, sinh ra từ nghiệp, liên hệ với nghiệp, tôi gánh chịu nghiệp của mình. Bất cứ nghiệp gì tôi đã tạo ra, dầu tốt hay xấu, tôi cũng sẽ là người lãnh hậu quả.

 Ở bờ sông, chú điệu cởi áo ngoài ra và nhảy xuống nước. Chú lội như một con cá. Tôi đứng trên bờ, ngưỡng mộ những sãi tay nhuần nhuyễn, điệu nghệ của chú. Coi thì không thấy khó, nhưng thật sự tôi không muốn nhảy vào dòng nước đục ngầu, đầy bùn đó.

 Chú điệu thấy tôi đứng trên bờ sông ngại ngần, thúc giục tôi xuống nước với chú. Miễn cưỡng tôi phải cởi áo ngoài ra và cột thắt nút chiếc áo bên trong để nó không tụt ra. Rồi tôi nín thở nhảy xuống.

 Ngay lập tức tôi bị nguy khốn. 

 Chân tôi chạm tìm đáy sông, nhưng chỉ cảm thấy bùn nhão. Không có gì cứng rắn để đứng lên đó. Tôi cảm thấy mình đang chìm xuống, và tôi bắt đầu vùng vẫy. Sự hoảng hốt trào dâng trong tôi giống như một dòng điện. Tay chân tôi chới với, và khi há miệng thở, tôi uống vào dòng nước sông dơ bẩn đó. 

 Chú điệu nhỏ biết chuyện gì đã xảy ra, cố gắng giúp tôi. Chú bơi lại bên tôi, nắm được lỗ tai tôi và kéo đầu tôi lên khỏi mặt nước – ui da! Nhưng chú yếu quá không đủ sức để kéo người tôi lên khỏi mặt nước. Tôi hoảng sợ túm lấy áo chú, khiến nó tuột ra. 

 Ba lần tôi bị chìm xuống, tay nắm chặt chiếc áo kia như thể nó sẽ cứu tôi. Ba lần tôi vùng trở lên, tìm kiếm sự giúp đỡ. 

 Lần cuối cùng, tất cả chỉ là một màu đỏ phủ đầy trước mắt tôi.
 Tôi hoàn toàn bất tĩnh.


Chương 5
Trường Phật Học

 Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang nằm trên mặt đất bên bờ sông, một người đàn ông đang quỳ cạnh tôi. Tôi bắt đầu ói nước sông ra khi đám đông bu quanh đứng nhìn. Sau đó tôi được kể rằng chú điệu nhỏ, người đã cùng lội với tôi không thể bước lên khỏi sông, vì trong lúc hoảng loạn, tôi đã níu rách áo quần của chú. Trần truồng, chú phải đứng nép ở bờ sông, giấu mình dưới nước và la cầu cứu.

 May là có một người đàn ông vừa bước ra khỏi quán trà cạnh bên ga xe lửa, hỏi cớ sự. Chú điệu nhỏ đã chỉ nơi tôi bị chìm xuống. 

 "Giờ nầy chắc anh ta đã chết rồi," chú la lên.

 Người đàn ông mặc nguyên cả đồ, nhảy xuống sông, mò mẫm dưới nước. Đến khi ông tìm được, tôi đã bất tỉnh ở dưới đáy sông. Ông kéo tôi lên bờ sông và bắt đầu cứu tôi bằng phương pháp hô hấp nhân tạo trong khi đám đông tụ lại xem.

 Dần dần tôi ngồi dậy, ho và ói nước. Tôi hơi run sợ, nhưng cảm thấy an toàn. Chú điệu nhỏ đi tìm sư phụ của mình, và hai người đã đưa tôi trở lại chùa của họ, cách đó khoảng năm mươi thước. Họ cho tôi một tách cà phê nóng với rất nhiều đường và một bộ y khô. Không lâu sau đó thì tôi trở lại bình thường.

 Vị sư trưởng rất tử tế. Ông hỏi tên tôi và nơi tôi đi đến. Sau khi tôi trả lời, ông sai người ra ga xe lửa mua vé cho tôi đi Gampaha.

 Sau một vài giờ nghỉ ngơi, tôi lại lên đường. Trớ trêu thay, khi tôi đến trường Phật học ở Gampaha, người đầu tiên bắt chuyện với tôi, hỏi tại sao giọng tôi nói giống như người bị chết đuối.

 “Tôi chỉ bị cảm,” tôi trả lời. Tôi quá xấu hổ không thể nói sự thật. 

 Nhưng ngày hôm sau, trên trang đầu của một tờ báo có tiếng ở Ceylon đã có in hình của tôi với câu chuyện về một tăng sĩ trẻ suýt chết đuối dưới sông ở ga xe lửa Veyangoda. Bạn bè ở trường Phật học đã trêu ghẹo tôi về chuyện đó hàng năm trời.

 Mặc dầu trường Phật học miễn học phí, nhưng tăng sinh nội trú phải trả khoảng năm rupee một tháng. Tiếc thay, tôi không có đồng nào để trả, vì thế tôi được cho một căn lều bỏ hoang để ở. Căn lều chỉ có nền đất, tường lửng chỉ cao khoảng hơn một thước, không có cửa. Tôi gom mấy bao tải gạo, vài cây tre và dây nhợ để làm một cánh cửa tạm bợ và che chắn cửa sổ. Để có ánh sáng, tôi dùng một cây đèn đất đốt bằng dầu dừa. Đó là cái kuti đầu tiên của tôi, loại thất một gian mà các tăng sĩ hay trú ngụ trong đó, và tôi cũng rất vui được ở đó.

 Phần lớn tôi học hành ở trong thất. Chẳng lâu sau, tôi nổi tiếng là một tăng sinh thông minh nhất ở trường. Tôi khám phá ra rằng tôi có một trí nhớ như in, rõ ràng là một quà tặng của thiện nghiệp. Tôi có thể đọc một quyển sách dài trong mười phút và nhớ tất cả mọi thứ trong đó. Tôi không biết bằng cách nào; chỉ biết rằng mỗi trang sách trụ lại trong tâm tôi như một bức ảnh.

 Tôi rất hãnh diện về khả năng thiên phú này của mình, và thường yêu cầu bạn bè thử thách tôi, bằng cách đặt những câu hỏi từ trong sách. Tôi có thể trả lời câu họ hỏi ở trang số mấy, và ngay cả dấu chấm phẩy trong câu hỏi.

 Có lẽ vì vậy, thầy hiệu trưởng của trường rất thích tôi, cho tôi làm phụ tá cho ông. Tôi cũng được bầu chọn làm thủ quỹ, có nghĩa là tôi quản lý, cất giữ tất cả tiền đóng góp được gửi tới trường, và cả các vật dụng khác như là y áo, thuốc men. Rồi sau đó tôi sẽ phân phát lại cho các tăng sinh nếu cần.

 Vì quyền hạn và bổn phận này của tôi mà một số bạn học trở nên ganh tỵ với tôi, đã thế, tôi lại còn sanh tánh hay thóc mách khuyết điểm của các bạn khác với thầy hiệu trưởng; tóm lại, tôi là một kẻ tồi tệ. Tôi gửi báo cáo này đến báo cáo khác, kẻ vạch từng chi tiết những sai trái của bạn bè. Tôi biết rằng, lý ra tôi phải quan tâm về các hành động của mình hơn là tìm kiếm lỗi của người, nhưng vì muốn duy trì lòng tin yêu của thầy hiệu trưởng nên tôi đã làm thế.

 Tôi đã không thực hành lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: 

 Thấy lỗi người thì dễ, nhưng lỗi mình khó thay. Ta sàng lọc lỗi người như rơm trấu, mà lại giấu lỗi mình, hay như gã thợ săn giảo quyệt núp sau những cành cây ngụy tạo. Người luôn tìm lỗi người, luôn xét nét, (vì thế) uế nhiễm của họ càng tăng. Họ rất khó đoạn trừ uế nhiễm.

 Vào những ngày rằm, tôi được giảng pháp khoảng nửa giờ tại trường. Thường thường những bài Pháp này dựa trên các sách tôi đã đọc. Nhưng một lần kia tôi nghĩ rằng làm thế sẽ khiến cho thính giả của tôi nhàm chán, vì thế tôi quyết định “sáng tạo”. Tôi chỉ học thuộc một bài kinh dài ba trang, một trong những bài giảng của Đức Phật gọi là kinh Visakhuposatha. Rồi tôi lặp lại với thính giả của mình.

 Bài thuyết pháp thể nghiệm thất bại. Tôi đọc xong bài kinh chỉ trong mười phút, sau đó tôi chỉ lảm nhảm thêm năm phút nữa về điều gì, tôi cũng không nhớ nữa. Thật xấu hổ. Đó là một bài học quý giá cho tôi về giá trị của sự chuẩn bị chu đáo. Từ đó, tôi luôn chuẩn bị cẩn thận từng bài thuyết pháp của mình. Tôi thường chọn một câu trong kinh Pháp Cú rồi giảng rộng ra dùng những câu chuyện trong phần chú giải. Kinh Pháp Cú bao gồm 423 câu, phần lớn dạy về giới luật và đạo đức. Ngoài ra cũng có hàng trăm câu chuyện rải rác khắp nơi trong tàng kinh Phật giáo để minh họa cho các đề tài được nói đến trong kinh Pháp Cú. Tôi rất thích kể những câu chuyện này, để tạo cho người nghe một căn bản về đạo đức Phật giáo.

 Mãi lâu sau này, qua bao năm tu tập, tôi mới cảm thấy đủ tự tin để thuyết pháp mà không cần chuẩn bị trước.

 Ở trường Phật học, vào tuổi mười bảy, cuối cùng tôi cũng bỏ được tật hút thuốc lá. Đó là một thói quen tôi đã huân tập nhiều năm, nhưng tiếc thay tôi chỉ thay đổi cái ghiền này bằng cái ghiền khác. Thói quen mới của tôi là ăn trầu, một hỗn hợp gồm lá trầu, cau, vôi và sợi thuốc lá. 

 Chẳng bao lâu sau tôi trở thành cây hài của trường. Mỗi tối, tôi đều tụ tập bạn bè lại, kể chuyện tiếu lâm cho họ nghe hằng giờ đồng hồ. Tôi rất thích làm cho họ cười.

 Một trong những câu chuyện tiếu của tôi là về một vị bảo trợ của chùa, người rất bực tức vì quý tu sĩ ở đó không bao giờ mang đồ cúng dường của ông dâng trước tượng Phật. Vì thế ông cột một sợi dây quanh cổ tượng Phật rồi treo tượng lên xà nhà. Khi các tăng sĩ khám phá ra điều đó, hỏi ông tại sao, ông bảo đó là một sự tự tử. “Tượng Phật bảo rằng không thể sống ở một nơi như thế,” ông giải thích. 

 Cũng lạ là thầy hiệu trưởng không phản đối những câu chuyện tiếu lâm bất kính đó. Thường thường, sau màn trình diễn của tôi, chúng tôi vào phòng ông, cùng thưởng thức việc ăn trầu với ông. Ông là một người rất tinh tế trong việc đối xử với các tăng sinh trẻ. Ông nghiêm khắc, nhưng cũng rất hoà nhã. Ông biết cách khuyến khích chúng tôi mà không ép buộc, nếu không, chúng tôi cũng chẳng màng đến chuyện học hành. Ông khuyến khích chúng tôi trở nên những tăng sĩ gương mẫu. “Các cư sĩ luôn ngưỡng mộ quý thầy,” ông nói. “Họ biết rằng quý thầy đã hy sinh các dục lạc để dâng hiến cuộc đời cho việc hành pháp, vì thế quý thầy phải xứng đáng với lòng kính trọng đó.” 

 Gần như không bao giờ tôi có đồng nào, nhưng không hề gì. Chỗ ở khiêm nhường của tôi được miễn phí, đồ ăn thì do đi khất thực, và thay vì phải mua sách giáo khoa, tôi mượn các bạn và chép lại bằng cách viết tay. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là tôi đã có tất cả mọi thứ cấn thiết để hoàn tất chương trình học của mình. Tôi rất tự tin ở bản thân cũng như ở Tam Bảo -Phật, Pháp và Tăng.

 Tôi cảm thấy như là Đức Phật vẫn còn sống và đi bên tôi xuyên suốt cuộc đời, hỗ trợ tôi bất cứ những gì tôi cần. Tôi tin chắc rằng Phật pháp sẽ bảo vệ tôi vì tôi đã phấn đấu không ngừng để học hỏi những điều Phật dạy. Và tôi nghĩ rằng vì tôi là thành viên của Tăng đoàn, tôi sẽ không gặp khó khăn, trở ngại để có những thứ tôi cần. Ngay cả bây giờ, nhiều thế kỷ sau, tôi vẫn cảm thấy Tam Bảo luôn hộ trì cho tôi. Tất cả những nhu cầu vật chất của tôi dần dần đều được thoả mãn, mà không cần vất vả kiếm tìm. 

 Một ngày kia, một sư huynh nhờ tôi cạo tóc giùm. Đó là việc thường xảy ra trong tu viện, nhưng tôi chưa bao giờ cạo tóc cho ai, ngay chính cho bản thân. Tôi bảo với ông điều đó, nhưng ông khư khư nói, “Cũng đến lúc thầy phải học.”

 Việc cạo râu tóc là một phần quan trọng của giới luật trong các tu viện Phật giáo. Cả tăng và ni đều phải làm thế. Một chiếc đầu cạo nói lên sự sạch sẽ, khiêm cung và nó cũng giúp ta tránh được vấn đề phải giết chí trên đầu! Đó cũng là biểu tượng của sự xả bỏ, nhằm giúp tăng ni bớt bám víu vào vẻ đẹp hình thức bên ngoài. Nếu quý tăng ni không phải mất nhiều thì giờ gội, chải, sửa soạn tóc tai, thì họ có nhiều thời gian hơn dành cho việc theo đuổi những vấn đề tâm linh. 

 Vinaya hay là giới luật ở tu viện, dạy rằng tăng ni có thể để tóc dài chừng năm centimét. Có người thì cạo tóc mỗi tháng một lần, thường là ngay trước ngày rằm. Người khác thì cạo mỗi tuần, hay có khi mỗi ngày.

 Điều lệ này quan trọng đến nỗi một lưỡi dao cạo bén là một trong tám thứ được kể trong nhóm sở hữu (thường được gọi là nhu yếu phẩm) mà người tu sĩ được tiếp nhận lúc thọ giới. (Những vật dụng khác là nội y; áo để quấn quanh mình; áo ngoài hai lớp như một tấm mền; một dây nịt vải; một đồ lược nước; một bộ kim chỉ; và một bình bát.) 

 Khi vị sư huynh nhất định là tôi phải cạo tóc cho ông, tôi đảnh lễ và đồng ý làm theo truyền thống. Tôi thấm nước lên đầu ông, chà xà bông lên đó, và cầm lưỡi lam lên. Đứng phía sau ông, tôi kéo lưỡi dao trên da đầu và một miếng da khoảng hai centimét tụt khỏi đầu ông! Ngay lập tức máu tuôn ra. Tôi sợ quá đến nỗi tôi bắt đầu run lên.

 “Thưa đại đức, xin hãy tha thứ cho con,” tôi nói, rồi chạy đi tìm một tăng sinh khác. Thầy ấy mang vào một ít nước lạnh để rửa vết thương. Rồi trong khi tôi đứng nhìn trong sự xấu hổ và sợ hãi, thầy cạo nốt phần tóc còn lại của vị đại đức không may. Dĩ nhiên vào thời đó chúng tôi không có băng cá nhân, nên vị sư huynh kia phải đi khất thực với một cục thuốc dán trên đầu.

 Nhờ vào trí nhớ như chụp ảnh, tôi học rất nhanh. Tiếng Sinhala, Pali và Santrit là những môn bắt buộc. Và tiếng Tamil, Ấn Độ và tiếng Anh là tuỳ chọn. Không cần nhiều cố gắng, tôi học được tất cả các môn. Như để thưởng tôi, cuối cùng tôi được phép vào sống trong ký túc xá với các tăng sinh khác, mặc dầu tôi tiếp tục không có khả năng để trả tiền trọ. Tôi được phép đến ở chung phòng với một sadi khác.

 Rủi thay, người bạn cùng phòng ganh tỵ với tôi. Một ngày kia tôi kéo trong túi ra một quyển sách giáo khoa tiếng Anh mỏng, mà tôi đã mượn của người khác, tôi thấy nó đã bị xé hai. Tôi lo lắng không biết làm sao để đền tiền quyển sách, và bắt đầu khóc. Một tăng sinh khác ở phòng bên cạnh nghe tôi thút thít, đã hứa giúp đỡ bằng cách mua một quyển sách khác.

 Vài ngày sau đó, người bạn cùng phòng đã thú nhận rằng thầy đã xé sách của tôi vì ganh tỵ với sự nổi tiếng và học giỏi của tôi ở trường. Chiều hôm đó chúng tôi giải quyết mọi khúc mắc và dần trở thành bạn tốt của nhau.
 Dần dần, ngày thọ đại giới của tôi cũng đã được định. Đó là ngày 25 tháng 6, năm 1947. Tôi rất phấn khởi và hạnh phúc. Cuối cùng tôi cũng sẽ được làm một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật, ước mơ của tôi cũng đã thành hiện thực. Trước một hội đồng tăng già trang nghiêm, tôi sẽ thọ các giới luật mới khắt khe hơn. Thay vì là một sadi với mười giới luật, giờ tôi sẽ chấp nhận thọ 227 giới luật -những giới luật mà một tỳ kheo Phật giáo nguyên thủy phải tuân hành. 

 Tôi gần như không thể chờ đợi lâu hơn.

 Buồn thay, ngay từ ban đầu, đã có một bóng mây trong quá trình đó. Vấn đề không phải là tôi có đủ tư cách để trở thành một tỳ kheo không, mà là vấn đề chính trị trong hội đồng Tăng Già Phật giáo ở Ceylon. Những vấn đề chính trị nầy đe dọa sẽ trì hoãn giấc mơ mà tôi đã ấp ủ cả đời.


Chương 6
Thọ Đại Giới

 Ở Tích Lan, có ba tông phái chánh của Phật giáo nguyên thủy. Tông phái xưa nhất và lớn nhất, mà tôi là một thành viên, là Siyam Nikaya. Tông phái này có nhiều tăng sĩ và chùa chiền hơn là các tông phái khác. Nó cũng có những ngôi chùa cổ xưa nhất ở đất nước này. Cái tên Siyam, có từ khi Tăng già, hay là tăng đoàn, đã rơi xuống con số thấp nhất dưới sự cai trị của người Anh ở Ceylon, và cũng do ảnh hưởng của các nhà truyền đạo người Hòa Lan và Bồ Đào Nha. Có rất nhiều Sadi nhưng không còn lại một vị tỳ kheo đã thọ đại giới với 227 giới luật nào –do đó không thể truyền giới cho người khác.

 Một Sadi người Ceylon du hành qua Xiêm (Siam), là tên gọi của Thái Lan thời đó (hay "Siyama" trong tiếng Pali), để được thọ đại giới làm tỳ kheo. Rồi sau đó ông trở về Ceylon, thiết lập lại tăng đoàn vào năm 1753.

 Chỉ có những người thuộc giai cấp cao quý nhất trong xã hội Ceylon, gọi là Goyigama, mới được phép thọ đại giới trong tông phái Siyam Nikaya. Gia đình của tôi, tuy nghèo, lại thuộc vào giai cấp này. Ở Ceylon, giai cấp không dựa vào sự giàu có, nhưng vào dòng dõi gia đình. Nhiều năm sau đó, một nhóm Sadi không thuộc dòng dõi Goyigama du hành đến Amarapura, ở Burma, và được thọ đại giới ở đó. Nhóm người này trở lại Ceylon và thành lập tông phái Amarapura Nikaya vào năm 1800. Tông thứ ba, thành lập vào năm 1810 bởi các tăng sĩ đã đến khu vực Ramanna của Burma, trở thành tông phái Ramanna Nikaya.

 Lúc đầu giữa các tông phái có rất nhiều tranh chấp. Mỗi tông phái đều nghĩ rằng tông phái khác không gìn giữ các giới luật tăng đoàn nghiêm chỉnh đủ. Các tăng sĩ thuộc dòng Siyam Nikaya, thí dụ, cạo cả lông mày cũng như tóc. Tăng sĩ thuộc các tông phái khác thì không. Mặt khác, khi ra khỏi chùa, tăng sĩ thuộc tông phái Siyam được phép để một vai trần khi họ quấn y quanh mình. Tăng sĩ thuộc các tông phái khác thì phải che phủ cả hai vai.

 Sư phụ của tôi, sư Sonuttara, thuộc về tông phái Siyam Nikaya. Thầy của ông là một thành viên của hội đồng chứng minh cao nhất của tông phái này, hoà thượng Pahamune Sumangala.

 Năm 1911, lúc thầy tôi được hai mươi lăm tuổi, ông được gửi đến trông coi một ngôi chùa ở làng Malandeniya. Lập tức vị sư trưởng ở một chùa trong làng kế bên, Kebilitigoda, không bằng lòng. Ngôi chùa ở Kebilitigoda đã có mặt hơn mười năm trước khi thầy tôi đến Malandeniya. Dù thế, vị sư trưởng này cũng ganh tỵ với thầy tôi, vì thế ông khiếu nại ra luật pháp rằng ngôi chùa mới đó thuộc quyền sở hữu của ông. Do đó, thầy tôi phải đến đảnh lễ và thăm viếng vị sư ở Kebilitigoda mỗi ngày để tỏ lòng kính trọng.

 Thì ra, vị sư ở Kebilitigoda là đại đức Sumanatissa, là người đã truyền giới sadi cho tôi năm tôi mười ba tuổi. Ông cũng có thể "khiếu nại" rằng tôi là đệ tử của ông, nhưng ông không làm thế. Tôi đoán có lẽ lúc đó tôi không có dấu hiệu gì là một tăng sĩ có nhiều triển vọng.

 Qua thời gian, sự hiềm khích giữa hai chùa càng tăng lên. Và đến thời điểm tôi thọ đại giới năm 1947, tôi bị vướng vào cuộc tranh chấp này.

 Theo truyền thống, khi một sadi sắp thọ đại giới, thông báo về buổi lễ được gửi đến cho bạn bè, người thân, các vị tăng sĩ ở chùa, và tất cả những chùa mà người sadi đó đã từng lưu trú. Tờ thông báo được in trên giấy rẻ tiền rồi được gửi hay đưa tận tay.

 Thầy hiệu trưởng trường Phật học viết tờ thông báo cho tôi, và theo truyền thống, tôi phải mang về cho thầy tôi ký. Nhưng vì lý do gì đó, sư Sonuttara ngại ngùng khi phải ký tên ông như là trụ trì chùa ở Malandeniya.

 “Nhưng sư bắt đầu ở chùa này từ năm 1911,” tôi nói. “Sư đã gầy dựng nó và sư là vị tăng sĩ duy nhất sống ở đây. Còn ai có thể là trụ trì của chùa?”

 Sư Sonuttara không nói gì nhưng cuối cùng ông cũng ký tờ giấy. Tôi làm nhiều bản copy và tự tay mang tờ đầu tiên đến cho đại đức Sumanatissa, vị thầy đầu tiên của tôi, ở ngôi chùa trong làng kế bên. Ngay khi vừa thấy chữ ký của sư phụ tôi như là trụ trì của ngôi chùa kia, ông nổi giận.

 “Đại đức Sonuttara không phải là trụ trì ở chùa đó,” ông la to. “Tôi mới là! Và tôi cũng không có tên trong danh sách các sư phụ của thầy.”

 Ông lập tức đi ra trụ sở của tông phái Siyam Nikaya ở Kandy và yêu cầu hoãn buổi lễ thọ giới của tôi lại. Sư phụ và tôi cảm thấy bàng hoàng, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chuẩn bị cho buổi lễ, hy vọng rằng sự tranh chấp bằng cách nào đó sẽ được giải quyết.

 Vào đêm trước lễ thọ đại giới của tôi, theo tục lệ, người dân làng Malandeniya đã sắp xếp một nghi thức trọng thể và một buổi tiếp đón ở chùa dành cho tôi. Mặc dầu đại đức Sumanatissa đe doạ sẽ cản trở buổi lễ, nó vẫn được diễn ra mà không có vấn đề gì.

 Ngày hôm sau, 25 tháng 6, chúng tôi đến Kandy. Nghi lễ thọ giới sẽ được tổ chức trong sima, một tòa thánh trong khuôn viên của trụ sở tông phái Siyam Nikaya. Vào ngày đó, hai mươi sáu vị sadi, kể cả tôi, được chuẩn bị để thọ đại giới. Bạn bè, người thân và những người đến chúc phúc đã có mặt ở sima.

 Như tôi đã lo ngại, đại đức Sumanatissa không để yên cho việc này. Ông đã đệ đơn chính thức khiếu nại, chống lại sự thọ giới của tôi, vì ông, chứ không phải sư phụ tôi, là trụ trì của chùa ở Malandeniya. Vì thế, sư phụ tôi không có quyền ký tên vào giấy chứng nhận thọ giới của tôi với tư cách là “sư trưởng.” Đại đức Sumanatissa nhất quyết rằng sư phụ tôi chỉ được ký tên với tư cách là vị "sư thường trú" tại chùa.

 Sư phụ tôi, sư Sonuttara, là người ít học, không rành chữ nghĩa. Ông rất sợ phải chống đối với bất cứ vị sư nào trưởng thượng hơn. Nhưng trên tất cả, ông không muốn sự tranh chấp này sẽ phá hỏng cơ hôi được thọ giới của tôi. Tôi rất giận đại đức Sumanatissa, một phần vì ông quá khó khăn với sư phụ tôi, phần vì ông đã muốn làm hỏng một ngày quan trọng nhất trong đời tôi. Tôi cảm thấy tính chính trị trong tất cả mọi thứ thật là kinh khủng, nhưng tôi không thể làm được gì hơn. 

 Không một lời cãi vả, sư phụ tôi ký vào giấy chứng nhận theo như đại đức Sumanatissa yêu cầu, với mấy chữ 'sư thường trú' cạnh bên tên ông. 

 Vài giờ trước khi buổi lễ bắt đầu, hai vị sư huynh vận y cho tôi toàn trắng, với một cái mũ giống như vương miện trên đầu. Nếu người sắp thọ giới có bà con hay người bảo trợ giàu có, thì có thể cưỡi voi, một biểu tượng của sự oai nghiêm và đẳng cấp. Vị đó cũng có thể có hàng trăm người đi theo, đánh trống, thổi kèn, sáo, và nhảy múa. Vì gia đình tôi không giàu có, nghi lễ dành cho tôi đơn giản hơn.

 Trong lúc tôi đang thay y áo, bà con họ hàng và các thầy của tôi đã chuẩn bị sẵn những mâm quà cho các thành viên của hội đồng chứng minh. Mỗi mâm gồm có trầu cau để ăn, thuốc để hút, một cái khăn lông, một bánh xà bông, kem đánh răng, bàn chải đánh răng làm từ những cọng cỏ nhỏ và một hộp bánh.

 Có khoảng hai mươi vị chức sắc đến dự: hòa thượng trưởng môn của tông phái Siyam Nikaya; hai thị giả của ngài, cũng là những người cao hạ, uy nghi; một tăng sĩ thư ký, người quản lý mọi giấy tờ trong tông phái; và mười sáu người khác. Theo một tôn ti trật tự rất khắt khe, tôi phải đến lễ mỗi vị sư ở thất của họ, theo thứ tự, và dâng cúng cho họ những mâm quà. Nghi lễ này kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ.

 Mặc dầu có vẻ rườm rà, nhưng mỗi vị sắp thọ giới trọng, phải thọ giới sadi trở lại và mặc chiếc y mới màu vàng chói trong những giờ phút cuối cùng, trước khi người đó trở thành một vị tỳ kheo. Điều đó nhắc nhở người sắp thọ giới, một lần nữa, về sự từ bỏ cuộc sống vương giả của thái tử Siddhattha, chỉ quấn quanh người Ngài một mảnh vải màu vàng khi Ngài bắt đầu cuộc sống không nhà. Nó cũng được dùng để "lau sạch mọi tội lỗi" trong trường hợp người sắp thọ giới đã phạm lỗi gì trong giai đoạn làm sadi, và đã không kịp sám hối với sư phụ của mình.

 Khoảng sáu giờ chiều, buổi lễ bắt đầu.

 Một sợi dây ngăn tòa sima làm hai- một bên dành cho quý sư, bên kia cho cư sĩ. Phía bên cư sĩ thì đông nghẹt với hàng trăm khách khứa ồn ào. Trẻ con đùa giỡn, em bé khóc lóc, và người lớn trò chuyện cười đùa.

 Ở cuối phòng họp là một tượng Phật to lớn. Tượng Phật được đặt trên một bàn thờ gỗ đen đã tróc nước sơn, tràn đầy những đèn cầy dâng cúng và đèn đất nhỏ, các lư hương ngun ngút khói, các bình hoa, các ly nhỏ chứa đầy nước trái cây, nước trà hay nước lã. Một mâm đựng những trầu cau theo truyền thống. Một đôi đèn dầu bằng đồng to được đặt hai bên hông bàn thờ, chiếu ánh sáng lung linh trên khuôn mặt trầm tĩnh của Đức Phật.

 Ngồi bên phải bức tượng là vị thượng tọa trưởng môn, hai bên là hai thị giả. Các vị tăng khác trong hội đồng chứng minh ngồi trên sàn gỗ, hai hàng đối mặt nhau.

 Các sadi chúng tôi được dặn phải ngồi trên sàn nhà theo thứ tự tuổi tác. Còn sáu tháng nữa mới được hai mươi tuổi, tôi là người trẻ nhất. Một sadi ít nhất phải hai mươi tuổi mới được thọ giới trọng, nhưng vì tôi đã hoàn tất mọi điều kiện khác, tôi được thọ giới sáu tháng sớm hơn.

 Đầu tiên là một cuộc sát hạch bằng miệng, qua đó một vị sư cao niên sẽ hỏi các sadi, từng người một, tụng lại các kinh và trả lời câu hỏi. Người giám khảo buổi chiều hôm đó là vị sư cao niên cấp bậc thứ hai, một người được biết là rất khắt khe. Cách của ông là đọc một dòng đầu tiên trong các kinh Phật, rồi yêu cầu người sắp thọ giới phải hoàn tất bài kinh.

 Phần đông các sadi khác chỉ thuộc các đoạn kinh bắt buộc. Còn tôi, với trí nhớ như in và lòng muốn chứng tỏ sự vượt trội, đã học thuộc lòng nhiều hơn. Dầu thế, trước đám đông tôi cũng rất run.

 Cuối cùng, sau hai mươi lăm vị sadi khác, cũng đến phiên tôi. Vị giám khảo đã làm việc hơn một tiếng rưỡi rồi và ông có vẻ mệt nhoài.

 Ông yêu cầu tôi đọc một đoạn trong kinh Pháp Cú. Tôi hít một hơi thở sâu, nhắm mắt lại và đọc một mạch không ngừng tám đoạn kinh. 

 "Thôi đủ rồi,” vị giám khảo nói. "Thầy rất thuộc bài."

 Kế tiếp, mỗi sadi phải được chấp nhận một cách chính thức là người sẽ được thọ giới. Giống như các sadi trước tôi, tôi đứng dậy và đến trước một trong các vị sư chứng minh. Ông hỏi tôi theo như thể thức bắt buộc: tên tôi; giới tính; tên cha mẹ; tên sư phụ; tôi có bệnh truyền nhiễm gì không; tôi có ở trong quân đội hay là một người thường dân; và cả câu hỏi về tôi là người hay ma quỷ.

 Trong khi phần lớn chỉ là hình thức, những câu hỏi này nhằm xác nhận rằng, tôi không phải là một kẻ tội đồ đang tìm cách trốn tránh pháp luật bằng màu áo người tu. Câu hỏi về bệnh truyền nhiễm để chắc chắn rằng tôi không có những chứng bệnh có thể lây lan cho cộng đồng các tăng sĩ. Những câu hỏi khác, hơi kỳ hoặc, là những câu hỏi truyền thống đã có từ thời Đức Phật.

 Sau khi tôi đã trả lời tất cả các câu hỏi, vị sư tuyên bố với vị trưởng môn rằng tôi hội đủ điều kiện để được truyền giới. Tôi quỳ trước vị trưởng môn và đảnh lễ, chạm trán xuống sàn nhà trước mặt ông ba lần. Lần nữa, tôi lại trả lời một số câu hỏi, lần này cho vị trưởng môn nghe. 

 Sau đó tôi được dạy ngồi xuống với các sadi khác. Hai vị sư thuyết giảng cho chúng tôi nghe về sự quan trọng của 227 giới mà chúng tôi phải tuân giữ sau khi thọ giới, nhấn mạnh đến bốn giới trọng: không dâm dục; không lấy bất cứ gì không phải là cho mình; không sát hại; và không khoe khoang về các khả năng siêu nhiên. Ngoài ra, chúng tôi cũng được nhắc nhở về việc vun trồng tâm xả đối với bốn vật dụng mà các cư sĩ cúng dường: y áo, thực phẩm, nơi ở và thuốc men. Tất cả những lời khuyên này đều xuất phát từ những lời dạy ban đầu của Đức Phật đối với đệ tử của Ngài.

 Cuối cùng, với chiếc bình bát mới tinh đeo trên cổ, chúng tôi đảnh lễ từng vị sư trong hội đồng chứng minh, bắt đầu từ vị trưởng môn. Sau đó chúng tôi ngồi xuống thành hàng dài, và tất cả các cư sĩ xếp hàng đến cúng dường vật dụng cho chúng tôi. Đây là phần vui nhất của buổi lễ. Nó nhấn mạnh đến sự tương quan tùy thuộc giữa tăng đoàn và cư sĩ. Nhiều cư sĩ khóc khi họ vái chào và đặt đồ cúng dường của họ trước mặt chúng tôi.

 Nghi lễ cúng dường là một trong những nét văn hóa trong Phật giáo, nhưng đôi khi bị hiểu lầm bởi người ngoại đạo cho rằng tăng sĩ là những hành khất lười biếng, được đám đông khờ dại hỗ trợ. Thật ra, điều đó hoàn toàn ngược lại: người cho cũng nhận được nhiều như, nếu không nói là hơn, người nhận vì họ đã thực hành hạnh bố thí, hay sự rộng lượng.

 Bất cứ ai cúng dường cũng là đang thực hành tâm rộng lượng. Đức Phật dạy rằng cách thực hành này là một phương tiện thiện xảo để đoạn diệt lòng tham chấp. Trong rất nhiều bài kinh, Đức Phật đã khuyến khích các Phật tử thực hành hạnh bố thí bất cứ khi nào và ở bất cứ nơi nào có thể:

 NHƯ MỘT BÌNH CHỨA NƯỚC ĐẦY, 
 NẾU DỐC NGƯỢC BÌNH,
 TẤT CẢ NƯỚC CHẢY RA
 KHÔNG GIỮ GÌ LẠI CẢ.
 HƠN THẾ NỮA, NẾU BẠN GẶP NGƯỜI CẦN GIÚP ĐỠ
 DẦU Ở GIAI CẤP THẤP, TRUNG HAY SANG CẢ, 
 THÌ HÃY BỐ THÍ NHƯ CHIẾC BÌNH DỐC NGƯỢC
 KHÔNG GIỮ LẠI GÌ CẢ.

 Trong một bài thuyết giảng khác, Đức Phật dạy rằng có ba cách để tạo công đức. Ba cách đó là giữ giới, thiền định và bố thí.

 Hình thức bố thí giữa người cư sĩ và tu sĩ gần giống như một sự hỗ tương lẫn nhau. Người cư sĩ cúng dường các vật dụng cần thiết để giúp vị tu sĩ có thể bước trên con đường đạo, mà không phải lo lắng về những vật dụng cần thiết. Đáp lại, người tu sĩ cầu an, cũng như thuyết pháp -là Pháp thí cho cư sĩ.

 Trong buổi lễ thọ giới của tôi, khi các vật dụng cúng dường dần dần chất cao trên sàn nhà trước mặt tôi, tôi ngồi đó và tưởng nhớ đến mẹ. Tôi ước chi bà có thể chứng kiến buổi lễ này! Tôi biết nó có ý nghĩa xiết bao đối với bà, và nếu có bà ở đây thì nó cũng có ý nghĩa với tôi xiết bao. Nhưng vì lưng mẹ tôi bị chấn thương, bà không thể đi bộ hơn mười mấy cây số từ làng đến đây, và bà cũng không có phương tiện gì khác để có thể đến đây. Nếu bà có mặt ở Kandy ngày hôm đó, chắc chắn rằng bà sẽ khóc những giọt nước mắt vui mừng, thấy rằng đứa con trai út của bà, cuối cùng cũng đã trở thành một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật. 


Chương 7
Thuốc Chữa Cuối Cùng: Thiền Quán

 Một vài ngày sau lễ thọ đại giới, tôi sốt sắng tham gia vào một trong những Phật sự của một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật, là đả Phật thất. Nghi lễ này, được gọi trong tiếng Pali là paritta, được thực hiện nhằm xua đuổi những vong linh xấu ác -một thí dụ khác nữa về việc niềm tin dân gian và Phật giáo vẫn có mặt cạnh nhau. Nếu có người bệnh, hay dân làng đang gánh chịu một trận đói hay hạn hán (những bất hạnh mà có thể là do những linh hồn xấu ác tạo ra), người ta thường yêu cầu quý sư thực hiện việc tụng niệm đặc biệt này. Suốt cả tuần, từng hai tu sĩ luôn phiên tụng niệm không dừng. Mỗi lần, họ tụng khoảng một giờ, rồi hai người khác thay phiên tụng. Sự tụng niệm này rất nhiệt huyết, gần như là hét hơn là xướng tụng. Chỉ có các vị sư với giọng tụng mạnh mẽ mới được lựa chọn, và họ được coi trọng vì sự nỗ lực này. Các tăng sĩ trẻ thường nôn nóng để được đến lượt mình gia nhập nhóm tụng niệm này.

 Một người bạn của tôi ở trường Phật học cũng nôn nóng được tham gia nghi lễ này như là tôi. Vị này thọ giới trước tôi một ngày, vì thế cả hai chúng tôi cùng đủ điều kiện như nhau. Chẳng bao lâu sau đó, chúng tôi tranh nhau nhận lời mời tham dự một nghi lễ tụng niệm ở một ngôi chùa gần bên, mà bạn chúng tôi là sư trưởng ở đó. 

 Cả hai chúng tôi đều trẻ, đầy nhiệt huyết và vì đây là nghi lễ đả Phật thất đầu tiên của chúng tôi, nên chúng tôi muốn tụng nhiều hơn là chỉ một lần. Vì thế, chúng tôi khẩn cầu vài vị sư huynh nhường cho chúng tôi phần tụng niệm của họ. Họ đã thực hiện rất nhiều paritta nên vui vẻ nhận lời, vì thế cuối cùng là chúng tôi tụng phần lớn thời gian. Chúng tôi chỉ nghỉ để ăn hay làm công tác vệ sinh. Chúng tôi không ngủ chút nào! 

 Mỗi ngày lúc sáu giờ sáng, mười một giờ sáng, và sáu giờ chiều, người ta gióng trống lên để báo hiệu buổi tụng niệm bắt đầu. Họ phải đánh trống thật lớn để có thể át tiếng tụng niệm của chúng tôi. Ngược lại, để chứng tỏ sinh lực của mình, bạn tôi và tôi tụng còn lớn hơn nữa. Vì cố gắng để át tiếng trống, chúng tôi gần như là hét khan cả phổi. 

 Sau ba ngày bạn tôi xỉu luôn. Mấy vị cư sĩ ở chùa phải khiêng thầy vào phòng và đặt thầy lên giường ngủ. Tới chiều tỉnh lại, thầy lại cùng tôi tiếp tục tụng niệm.

 Đến cuối tuần thì cả hai chúng tôi đều không còn sức lực. Dầu rất cần nghỉ ngơi, chúng tôi không thể ngủ. Chúng tôi cũng không thể nuốt trôi thứ gì, và cả hai đều bị nhức đầu khủng khiếp. Chúng tôi không thể chịu đựng ai ở quanh mình. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi bị khủng hoảng tinh thần.

 Tệ hơn cả là tôi mất trí nhớ, không chỉ trí nhớ như in mà tất cả mọi thứ! Tôi không thể nhận ra mẫu tự của bất cứ ngôn ngữ nào -Sinhala, Sanskrit, Tamil, hay tiếng Anh. Khi mở một trang sách, tôi không hiểu trong đó nói gì. Nếu tôi gặp ai đó, rồi năm phút sau gặp lại, tôi cũng không thể nhớ tên người đó. Tôi cảm thấy rất đau khổ và buồn bực bởi những gì đã xảy đến cho tôi. Tất cả niềm hãnh diện về những thành tựu trong việc học tập của tôi đều tan biến. 

 Trở lại trường, tôi không làm tốt các bài thi cuối khóa. Thầy hiệu trưởng hoang mang vì người học trò siêu sao của ông đã làm bài quá tệ, ông cho gọi tôi vào văn phòng. Tôi kể cho ông nghe về việc tôi tụng kinh suốt bảy ngày đêm và trí nhớ của tôi đã biến mất như thế nào. Ông bảo tôi hãy trở về chùa để nghỉ ngơi và trị bệnh.

 Cả năm trời sau đó, tôi tìm đến đủ mọi phương cách chữa bệnh, một cuộc tìm kiếm vô vọng cho 'phương thuốc thần'. Đầu tiên, sư phụ tôi chế ra một hỗn hợp thuốc từ các loại cây và đắp lên trán tôi mỗi sáng. Sau một tháng tôi cũng không khá hơn, dầu vậy, tôi vẫn muốn được trở lại trường học. Những ngày huy hoàng của tôi đã qua đi. Giờ tôi phải vất vả học chính những điều đơn giản nhất.

 Không chỉ là trí nhớ như in của tôi đã biến mất, mà tôi còn phải vật lộn với từng câu từng chữ, hay đôi khi cả từng mẫu tự. Có những đêm, trong lúc đọc sách, tôi cảm thấy như có bao sâu bọ cắn rứt óc não tôi. Tôi thật hoảng loạn và bắt đầu nghĩ đến việc tự tử. Tôi không muốn sống trong hoàn cảnh như thế này chút nào. Tôi đã nghe người ta nói rằng những sợi tim đèn dầu rất độc, vì thế tôi bắt đầu thu thập và giấu chúng trong một chiếc hộp. May mà các bạn tôi biết được ý đồ đó và đã vứt cái hộp đi.

 Có người lại khuyên tôi nên tìm một thầy thuốc Ayurvedic (ND: giống như thuốc nam) quảng cáo trong báo. Tôi đến gặp ông, kể bệnh của mình, và nói rằng tôi không có tiền. Là người tử tế; ông đã cho tôi một thứ thuốc rất quý mà không tính tiền. Mỗi ngày, theo lời ông chỉ dẫn, tôi thoa một ít dầu đó lên đầu, lên mũi, và còn uống cả một vài giọt nữa. Nó cũng giúp thông bịnh xoang mũi của tôi, và trả lại cho tôi chút ít trí nhớ; còn để hoàn toàn bình phục thì con đường còn dài. 

 Rồi sư phụ tôi kết luận rằng những rủi ro của tôi là do các oan hồn ma quỷ gây ra. “Quý sư sẽ tụng kinh suốt đêm cho con,” sư nói. Lúc đó, tôi không nghĩ lời đề nghị này khá oái ăm. Trong lúc tôi nằm trên sàn, tám vị tăng tụng niệm bằng tiếng Pali suốt đêm dài. Sáng hôm sau tôi cũng không thấy có gì khác.

 Cha mẹ tôi cũng nghĩ rằng có thể một oan hồn nào đó đã nhập vào tôi, vì thế họ gọi một pháp sư làm bùa chú. Tôi đến gặp người này ở nhà cha mẹ tôi. Ông yêu cầu cha tôi lấy bảy trái chanh và bảo tôi ngồi lên ghế trong khi ông cầm một trái chanh và một cái kéo để trên đầu tôi, rồi tụng những câu chú bằng một thứ ngôn ngữ mà tôi nghĩ là ông ta đã tự chế ra ngay tại chỗ. Vừa tụng chú, ông vừa dùng kéo cắt chanh, để nước chanh chảy xuống đầu tôi. Ông lập lại nghi thức đó với tất cả bảy trái chanh. Cuối cùng, ông cột một dây bùa bằng vải quanh cổ tôi.

 Cha mẹ tôi chắc chắn rằng làm vậy sẽ chữa được tôi khỏi bệnh. Nhưng tôi không khỏi, vì thế họ lại mời một thầy phù thủy khác, có lẽ có nhiều oai lực hơn. 

 Thầy phù thủy và sáu người tùy tùng đến nhà tôi. Ông yêu cầu cha tôi mang đến bao nhiêu thứ: dừa, dầu dừa, cau trầu, hoa dâm bụt và ít vải quấn quanh các cành cây khô để làm đuốc. Trong lúc đó, thầy phù thủy tạc một hình tượng bằng đất sét giống như tôi. Tượng tròn mập, giống như một người tuyết bằng đất nung. Khi mọi thứ đã xong, thầy phù thủy và đoàn tùy tùng vận xà rong, vấn khăn trắng lên đầu. Họ dẫn tôi đến một căn lều nhỏ và để tôi ngồi trước tượng đất sét mà họ đã làm. Các thành viên khác trong gia đình được phép ngồi gần bên, trên những chiếc chiếu trải trên mặt đất. Sau khi nhai trầu, bọn họ bắt đầu tụng chú bằng một thứ ngôn ngữ lạ lùng. Không phải tiếng Sinhala, không phải Pali, cũng không phải Sanskrit. Tôi chưa bao giờ nghe qua ngôn ngữ này. Chỉ là một hỗn tạp của âm thanh. Trong khi tụng chú, họ cầm những cây đuốc lửa và vãi bột nhang vào đó để làm cho ngọn lửa bùng sáng hơn.

 Mỗi lần ngọn lửa bùng lên, hai người trong đoàn ngồi ở hai bên tôi sẽ la lên bằng tiếng Sinhala, “Ayu bova!” (Cầu cho ngươi sống lâu!). 

 Nghi lễ kéo dài cả đêm, cho đến khi các cây đuốc tàn lụi. Rạng sáng, họ xiên mấy cây đinh vào đầu của hình nộm, rõ ràng là để giải thoát tôi khỏi bệnh hoạn. Rồi họ cột một sợi chỉ quanh cổ tôi, giống như là vị thầy chú trước đã làm.

 Lần này, cũng chẳng có kết quả gì.

 Cha mẹ tôi thì không còn biết phải làm gì nữa, nhưng sư phụ tôi lại nghĩ ra một cách khác nữa: Ông cho tôi một miếng bùa làm bằng thiếc được cuộn lại thành một cái ống khoảng bốn centimet, cỡ như cây viết bi. Đó là một miếng bùa theo truyền thống ở Ceylon được gọi là ratana yantra, hay là miếng bùa kim loại. Một số đoạn trong kinh Ratana được chọn để khắc lên đó. Người Sinhala tin rằng nếu loại bùa này được đeo quanh cổ hay ngang thắt lưng, nó sẽ xua đuổi được ma quỷ. Sư phụ tôi đeo cái bùa lên cổ tôi.

 Tôi rất mang ơn cha mẹ, sư phụ tôi và các lương y đã cố gắng chữa trị cho tôi. Nhưng tiếc thay, tất cả mọi cố gắng của họ đều vô ích. Không có kết quả gì. Trí nhớ siêu việt của tôi đã biến mất mãi mãi.

 Ở thời điểm mà tôi hoàn toàn thất vọng, một ý nghĩ lạ lùng bỗng hiện lên trong đầu tôi. Có thể thiền tập sẽ giúp mình. Khi các huynh đệ của tôi nghe về ý tưởng này, họ phá lên cười. Vào những ngày ấy, thiền tập không phải là công phu tu tập bình thường, ngay đối với một tỳ kheo.
 "Huynh điên rồi sao?” một người nói. “Thiền chỉ dành cho những người già yếu không thể làm được việc gì nữa. Huynh vẫn còn trẻ, quá trẻ để hành thiền. Đừng có dại dột thế.”

 Dầu tôi rất thông suốt lý thuyết thiền, thuộc nằm lòng tứ niệm xứ, tôi chưa bao giờ thực sự hành thiền, tin được hay không. Thời đó rất ít tu sĩ hành thiền. Họ quá bận rộn thuyết pháp, tụng kinh và thực hành các lễ cầu an. Dĩ nhiên họ cũng nói nhiều về thiền, nhưng rất ít khi thực hành. Có người thực sự còn tin rằng nếu tọa thiền quá lâu, sẽ bị tán loạn tâm thần.

 Tôi thì nghĩ rằng tôi đã bị tán loạn tâm thần rồi. Vậy thì tôi còn sợ gì nữa?

 Tôi bắt đầu hành thiền một cách bí mật – đôi khi giữa khuya, đôi khi sáng sớm. Bất cứ khi nào tôi có được vài giây phút yên tĩnh một mình, tôi tọa thiền, ngồi trong một góc tối của chánh điện nơi tôi hy vọng rằng không ai bắt gặp mình. Tôi biết rằng tôi đang cố gắng để huân tập một thói quen tâm linh, và để có được kết quả, tôi dành thời gian thực hành mỗi ngày. Đó cũng giống như tập thể dục cho tâm, cố gắng chuyển động những bắp thịt đã quá yếu đuối do thiếu tập luyện.

 Lúc đầu, tôi chỉ cố gắng để an tịnh tâm bằng cách nhớ lại những chuyện thường tình – tên bạn bè, những ngôi chùa đã viếng thăm, tên các quyển sách đã đọc. Không phải là điều dễ dàng, có những khoảng trống lớn trong ký ức tôi. Nhưng tôi đã cố gắng không hoảng loạn. 

 Rồi dựa vào sự chỉ dẫn trong bốn căn bản chánh niệm (tứ niệm xứ), tôi bắt đầu theo dõi hơi thở, các cảm thọ nơi thân, các cảm giác và ý nghĩ đi qua đầu tôi.

 Sự quán sát đó dần dần mang đến một cảm giác rất an tịnh bên trong tôi. Thỉnh thoảng tôi còn kinh nghiệm được những giây phút hỷ lạc thoáng qua. Dĩ nhiên, những giây phút ngắn ngủi này khiến cho sự hành thiền thêm dễ chịu và khuyến khích tôi tiếp tục.

 Dần dần những thứ tôi đã học trong quá khứ bắt đầu trở lại với tôi. Tôi bắt đầu nhận ra chữ cái và con số. Tính khí tôi cũng thay đổi một cách không ngờ. Sau vài tháng kiên trì thực tập, tôi đã có thể đọc và nhớ những gì đã đọc. Tôi thật vui mừng và nhẹ nhõm vì tôi đã tìm ra “thuốc chữa”.

 Thiền đã làm được tất cả những gì mà bùa phép và các thứ dầu thuốc không thể làm được.
 Nó đã mang lại sự thanh tịnh cho tâm tôi. 


 Chương 8
Phấn Đấu Để Được Học

 Nhờ hành thiền, hai năm sống trong ác mộng vì mất trí nhớ của tôi cuối cùng cũng đã chấm dứt. Trí não tôi dường như được chữa lành khỏi cơn kích động gây ra bởi bảy ngày tụng niệm. Nhưng giờ thì, dầu tôi đã có thể nhớ mọi thứ gần như người bình thường, trí nhớ như in của tôi chẳng bao giờ trở lại nữa.

 Hai năm sau, vào năm 1949, tôi đã có thể đi học trở lại. Điều đó làm tôi rất hạnh phúc. Cuối năm học đó, lần đầu tiên tôi tham dự cuộc thi chung cho tất cả các trường, được biết như là cuộc thi lấy bằng cao cấp, tương tự như những cuộc thi cuối năm ở trung học. Chúng tôi phải thi tám môn (Sinhala, Tamil, Pali, văn chương Sinhala, lịch sử Ceylon, toán, khoa học sức khỏe, và Phật giáo) và tôi đều đủ điểm đậu cả.

 Tôi rất hãnh diện về thành tích này vì chỉ vài tháng trước đó, tôi đã không thể đọc hay nhớ điều gì. 

 Tuy nhiên cũng năm đó, tôi gặp nhiều khó khăn do nhiệt tình muốn học tiếng Anh của mình. Tôi tham dự một cuộc thi ở trường Phật học nơi tôi đã là một tăng sinh vài năm nay, và điểm tiếng Anh của tôi cao hơn điểm tiếng Sanskrit nhiều. 

 Thầy hiệu trưởng trường cho gọi tôi đến văn phòng. Gương mặt không vui, ông nói: "Gunaratana, thầy nên nhớ rằng giáo lý của Đức Phật được lưu truyền trong vòng hai ngàn năm trăm năm nay không phải bằng tiếng Anh mà bằng tiếng Pali và Sanskrit. Tôi khuyên thầy nên để ý đến các ngôn ngữ này nhiều hơn.” Vào năm 1950 tôi được nhận vào Vidyalankara Pirivena, một đại học cộng đồng dành cho tăng sĩ gần thủ đô Colombo, và là một trong hai đại học có tiếng ở Ceylon. Ban giảng huấn gồm khoảng mười người -những vị thầy khiêm tốn, uyên thâm về tôn giáo, thông suốt Pháp, lịch sử Phật giáo, tiếng Pali, Sanskrit, Sinhala, Tamil và Ấn Độ.

 Tôi rất hạnh phúc được theo học ở đây, nhưng tôi lại không có khả năng trả tiền trọ. Tôi không có nơi nào để tạm trú, vì thế tôi dành vài tuần thăm viếng những chùa gần đó, mong tìm được nơi trọ học. Cuối cùng, tôi tìm được một ngôi chùa bên bờ sông Kelaniya, và vị trụ trì cho phép tôi được dọn vào. Tôi trở lại với những bổn phận của một tu sĩ sống ở chùa. Khất thực ở ngôi làng gần nhất cũng không mấy kết quả. Thường tôi chỉ nhận được cơm trắng trong bình bát, không có rau hay bất cứ thứ gì. Tôi đành trở về chùa, rắc đầy muối vào cơm, rồi ăn.

 Từ chùa đến trường cũng là một con đường dài và rất phức tạp. Trước hết, tôi phải sang sông trong một chiếc thuyền nhỏ do Jinadasa, một cư sĩ ở chùa làm chủ. Mỗi ngày sau bữa trưa, ông sẽ đợi ở dưới thuyền để đưa tôi sang sông. 

 Thường trên những chuyến đò qua sông hằng ngày, tôi lại nghĩ về kinh Alagaddupama, kinh “Ẩn dụ về chiếc bè” vì, trong bài kinh đó, Đức Phật đã so sánh Pháp như là một chiếc bè: chúng ta có thể sử dụng Pháp để vượt qua con sông cuộc đời đầy sóng gió, Đức Phật dạy, nhưng một khi đã đến bờ bên kia, chúng ta cần để chiếc bè lại đằng sau. Tham ái, bám víu vào bất cứ điều gì, kể cả những điều tốt, cũng có thể khiến chúng ta sanh phiền não.

 Mỗi ngày, sau khi qua sông, tôi phải đi bộ đến một trạm xe buýt để lấy xe buýt đến trường trên đường Kandy-Colombo. Dĩ nhiên, tôi cũng không có tiền mua vé xe buýt, nhưng ông chủ công ty xe buýt đã tử tế cho phép tôi được đi miễn phí.

 Cuối tuần, tôi lại đi đến Yakkala, một làng gần bên, để giảng Pháp cho trường Sunday (ND: các lớp giáo lý cuối tuần). Vào những ngày rằm, tôi cũng thuyết pháp ở ngôi chùa tôi đang tạm trú. Mặc dầu tôi còn khá trẻ, người ta cũng tôn trọng tôi và muốn được nghe tôi giảng.

 Đôi khi tôi giảng về những vấn đề quan trọng như là nghiệp, tái sinh, và lý duyên sanh, nhưng tôi không chắc rằng mình thực sự hiểu những điều mình giảng vào thời điểm đó. Thường tôi chỉ học thuộc lòng các đoạn giảng giải trong sách, rồi lặp lại.

 Tôi cũng kể những câu chuyện dân gian Phật giáo. Tôi rất thích những chuyện về Đức Phật và Đề Bà Đạt Đa, vị tỳ kheo luôn tìm cách ám hại Đức Phật. Họ đã là kẻ thù của nhau trong nhiều tiền kiếp. Có rất nhiều chuyện kể về những xung đột của họ. Trong câu truyện mà tôi thích, Bồ Tát (Đức Phật) tái sinh làm một chú khỉ đầy lòng nhân ái và Đề Bà Đạt Đa là một lữ hành lạc lối trong rừng.

 Khi ở trong rừng, người lữ hành bị rơi xuống một cái giếng bỏ hoang, và chú khỉ tình cờ đi ngang qua, đã cố gắng hàng giờ để kéo anh ta lên. Sau đó mệt nhoài, chú khỉ nằm xuống đất nghỉ. Gã lữ hành cũng mệt và đói, đã lượm một cục đá to, đập lên đầu khỉ với hy vọng có thể giết nó lấy thịt ăn.

 Vì yếu đuối, gã ta không giết được chú khỉ. Mình đầy máu, chú khỉ chạy lên cây, ngồi suy nghĩ: “Mặc dầu anh ta vừa định giết mình, nhưng nếu mình chạy trốn và bỏ anh ta lại,” chú khỉ nghĩ. “Thì anh ta có thể chết đói. Anh ta sẽ không bao giờ có thể tìm đường ra trong khu rừng rậm này. Ta cần phải dẫn anh ta đến ngôi làng gần nhất.”

 Thế là chú khỉ bắt đầu chuyền từ cây này đến cây khác, nhào lộn như thể nó đang bị đau. Gã lữ hành nghĩ rằng con khỉ có thể ngã chết bất cứ lúc nào, nên đi theo nó. Khi đến bìa làng, gã ta không để ý đến chú khỉ nữa mà vào làng để xin thức ăn và nước uống, còn chú khỉ quay trở vào rừng.

 Câu chuyện này cho ta thấy những đặc tính đáng ngưỡng mộ của Đức Phật, ngay trước khi Ngài được có thân người hay được hoàn toàn giác ngộ, và câu chuyện đó lúc nào cũng khiến cho thính giả của tôi ở trường Sunday lấy làm thích thú.

 Một ngày kia, Jinadasa nói ông muốn cúng dường cho tôi trong lần thuyết pháp sau. Ông ta hỏi tôi cần gì, nhưng tôi không trả lời, vì biết ông quá nghèo và thực sự không có khả năng mua quà.
 Dầu vậy, vào ngày rằm kế tiếp, ông cúng dường cho tôi một cây đèn pin. Cả hai chúng tôi đều không biết món quà đó sẽ đem lại tai hại gì.

 Một buổi chiều kia, tôi thuyết pháp trong một phòng ăn mới ở trường đại học. Đó là một dịp quan trọng; tất cả các thầy, các bạn học của tôi và hàng trăm cư sĩ đã đến để nghe tôi nói chuyện. Bài thuyết pháp của tôi là về kinh Culamalunkyaputta trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya), khuyên chúng ta không nên bỏ phí thời gian vào những việc vô ích. Đức Phật dạy rằng chúng ta cần phải cảm thấy nôn nóng muốn tu tập để đạt được giải thoát khỏi khổ đau.

 Khi bài giảng của tôi chấm dứt và mọi người đã hỏi xong các câu hỏi, thì đã gần nửa đêm. Tôi đã trễ chuyến xe buýt cuối cùng nên tôi phải đi bộ gần mười cây số đến bờ sông nơi tôi hy vọng Jinadasa sẽ đưa tôi sang bờ bên kia. 

 Con sông, tràn bờ bởi mưa, chảy xiết. Đã gần hai giờ sáng và tôi biết Jinadasa đang ngủ. Tôi bật cây đèn pin mà ông đã tặng tôi, quét ánh sáng qua bờ bên kia, và réo gọi tên ông thật lớn. Sau một lúc, ông xuất hiện ở bờ bên kia và xuống đò. Ông rất bực tức vì bị đánh thức giữa đêm.
 Khi ông chèo đò qua, tôi nghe đủ lời sỉ vả. Ông nguyền rủa, nhục mạ tôi đủ điều. Rõ ràng là vì ông nghĩ tôi đã ở lại dưới phố hành xử không đúng với tư cách một vị tu sĩ, như trò chuyện, đùa giỡn với phụ nữ hay những việc đại loại như thế. Ông không biết rằng tôi vừa thuyết pháp xong.

 Tôi bước xuống đò, xin lỗi vì đã làm phiền ông giữa đêm. Tôi cố gắng giải thích tại sao tôi bị trễ như vậy, nhưng ông không muốn nghe. Ông tiếp tục tuôn ra những lời chửi bới thô tục, buộc tội tôi về đủ các thứ mà tôi chẳng bao giờ tưởng tượng mình có thể làm. Rồi ông trao cho tôi cái dằm, bảo tôi phải tự chèo.

 Trước đó, tôi chưa bao giờ chèo thuyền, và chắc chắn là không bao giờ trên một dòng nước chảy xiết như thế này. Tôi bỏ dằm xuống nước và ngay khi tôi làm thế, chiếc thuyền bắt đầu nghiêng triền. Tôi thật sự sợ hãi. Tất cả những kinh nghiệm suýt chết vì nước hiện ra trước mắt tôi.

 Jinadasa giựt cây dằm từ tay tôi, lại tuôn ra thêm một tràng chửi rủa khác. Ông ta bắt đầu chèo chống dòng nước ngược cuồng xiết chảy, cằn nhằn, chửi rủa suốt thời gian. Thường chuyến đò chỉ mất mười phút, nhưng đêm đó mất gần hai tiếng. Đó là hai tiếng đồng hồ dài nhất trong cuộc đời tôi.

 Sáng hôm sau, sau một đêm chợp mắt ngắn ngủi, tôi thức dậy và quyết định rời ngôi chùa tôi đang tạm trú, vì không thể chịu đựng được nữa những chuyến đò qua sông với Jinadasa. 

 Sau khi khất thực về, tôi sắp xếp vài quyển sách vào tay nải, rồi đi ra bờ sông. Jinadasa đang ở đó, vẻ mặt không vui.

 “Tại sao tay nải của thầy hôm nay to thế?” ông hỏi tôi.

 “Vì tôi không trở về chùa nữa,” tôi trả lời. 

 Ông hỏi tại sao nên tôi cho ông biết những lời sỉ nhục, nguyền rủa của ông đêm hôm qua đã tổn thương tôi như thế nào. Tôi bảo rằng tôi có lý do chính đáng về sự trễ muộn của mình, nhưng ông đã không muốn nghe. Tôi kể rằng tôi đã suýt bị chết đuối vài lần, rằng tôi rất sợ nước và sự trách mắng của ông chỉ làm tôi thêm đau khổ. 

 Jinadasa chực trào nước mắt. Với đôi mắt xụp xuống, ông van nài tôi ở lại, nhưng tôi đã quyết định.

 “Tôi muốn tìm một nơi mà tôi không phải qua sông mỗi ngày để đến trường,” tôi trả lời.
 Và như thế, một lần nữa tôi lại phải đi tìm một nơi để tạm trú.

 Cuối cùng, tôi tìm ra được một ngôi chùa cách trường khoảng mười sáu cây số. Vị sư ở đó bảo rằng tôi có thể ở trong cái thất nhỏ trong khuôn viên chùa. Cái thất này đã không có ai ở nhiều năm nay, hoàn toàn trống rỗng, trừ khoảng năm mươi chú dơi! Đôi khi, mùi nước tiểu dơi quá hôi đến nỗi tôi không thể ngủ được.

 Buổi trưa, sau khi khất thực xong, tôi đón xe buýt đến trường. Sau giờ học, khi tôi chuẩn bị về nhà, đó là giờ cao điểm, xe buýt luôn đầy -không có chỗ cho những người không thể trả tiền như tôi- tôi đành phải đi bộ mười mấy cây số từ trường về nhà mỗi ngày.

 Khi tôi về đến thất thì đã chín hay chín giờ rưỡi tối, nên phải đốt đèn dầu lên. Ở gần đó có một thương nhân tên là Albert. Ông là người Sinhala, nhưng giống như nhiều người ở xứ tôi, tên gọi của ông là tên tiếng Anh. Một số người Sinhala đặt cho con cái họ những tên tiếng Anh hay Hà Lan hay Bồ Đào Nha, tuỳ thuộc vào việc quốc gia nào đang chiếm đóng Ceylon vào lúc đó, vì họ hy vọng rằng điều đó sẽ giúp con cái họ được vào các trường Thiên Chúa giáo nổi tiếng, hay một công việc làm với chính phủ sau này khi chúng lớn lên.

 Albert là một người rộng rãi. Mỗi đêm, khi nhìn thấy đèn trong thất của tôi thắp sáng lên, ông sẽ sai người giúp việc mang qua cho tôi một tách trà nóng. Dầu đó chỉ là trà, nhưng sau một ngày dài, một tách trà nóng bao giờ cũng ngon tuyệt vời. Sau đó tôi sẽ học cho tới nửa đêm rồi đi ngủ.

 Albert rất quan tâm đến tôi và đến ước muốn được học xong đại học của tôi. Ông đề nghị sẽ mang thức ăn cho tôi mỗi ngày, để tôi không phải đi khất thực. Và ông cũng đề nghị được trả tiền sách vở cho tôi. Tôi không muốn phải dựa vào ông, nhưng là một tăng sĩ không có của cải vật chất gì, tôi đành phải nhận bất cứ sự giúp đỡ nào mà các cư sĩ có lòng cúng dường. Vì thế tôi chấp nhận lòng tử tế của ông. 

 Rủi thay, sự hỗ trợ của Albert dần dần đem đến rắc rối cho tôi. Khoảng một tháng sau khi tôi dọn vào thất, Albert bảo với vị trụ trì ở chùa rằng ông nghĩ tôi là một tăng sĩ trẻ xuất sắc, có khả năng giảng Pháp tuyệt vời. 

 Vị trụ trì lập tức trở nên nghi ngờ, cho rằng tôi đang toan tính để chiếm đoạt ngôi chùa của ông, vì thế ông sai một trong những đệ tử của mình đến bảo tôi phải rời khỏi chùa. Ông buộc tôi phải đi ngay lập tức, đến nỗi tôi không có cơ hội đến chào từ giã Albert. Tôi được gửi đến sống ở một thất trống trong ngôi chùa gần đó, nhưng rồi một tháng sau, tôi cũng bị đuổi ra khỏi đó nữa. Tôi đoán là vị sư đầy lòng nghi hoặc muốn tôi hoàn toàn biến khỏi khu vực đó.

 May mắn thay, tôi tìm được một nơi ở mới, một cái thất gần đường Kandy-Colombo, chỉ cách trạm xe buýt một đoạn đường ngắn. Cái thất này đã được một phụ nữ giàu có tạo ra để cúng dường cho các tăng sinh ở trường. Thật là tuyệt vời. Tôi bắt đầu thuyết pháp trở lại, và người dân địa phương đã đến để nghe pháp. Họ có vẻ rất hoan hỷ vì sự có mặt của tôi, họ còn tặng tôi một cái bếp gas để nấu nước.

 Buồn thay, tôi cũng chưa được yên thân. Vị trụ trì, người đã coi tôi là một mối đe doạ, lại gửi đệ tử đến phá rối tôi nữa. Lần này, ông bảo là có hai tăng sinh khác cần đến ở trong thất đó, nên không đủ thực phẩm cho cả ba người. Vì thế, ông lệnh tôi phải ra đi. Vị trụ trì của các chùa ở địa phương rất có quyền hạn đối với những vấn đề như thế.

 Tôi khẩn thiết van xin. ‘Gia đình tôi rất nghèo,’ tôi nói, ‘tôi không có mười xu mỗi tháng để trả tiền trọ ở trường. Tôi chỉ còn sáu tháng nữa là ra trường -hãy để tôi ở đây cho đến lúc đó.’
 Dầu vậy, ông vẫn nhất quyết buộc tôi ra đi.

 Tôi mang sách vở trở về Yakkala, nơi tôi đã được tiếp đón nồng hậu một năm trước đó. Lần này, tôi được cho một căn phòng trong chùa. 

 Buồn thay, ngay với sự tiếp đón nồng hậu đó, tất cả những vất vả trước đây để tìm một chỗ nương thân vẫn đè nặng tâm trí tôi. "Tại sao tôi phải cố gắng như thế để được đi học ?" tôi tự hỏi. "Các môn học này không có ích lợi gì đối với một tu sĩ. Tại sao tôi phải quá vất vả để đạt được mục đích đó ?"

 Tôi cũng rất tủi nhục về việc phải luôn vay mượn tiền bạc. Không có khả năng mua sách, tôi phải năn nỉ các sinh viên khác để mượn sách của họ. Rồi tôi phải trả sách trước khi đọc xong. Khi cần một vài rupee để đóng tiền thi, tôi cũng phải về hỏi mẹ, bổn sư hay người bảo trợ, để xin vài đồng xu. Thật là xấu hổ, tôi ghét phải xin những người mà chính họ cũng không dư giả.

 Vì thế vào năm 1952, tôi quyết định bỏ học, mặc dầu chỉ còn kỳ thi cuối khóa là tôi hoàn tất chương trình. Lệ phí để thi là mười lăm rupee, khoảng bốn đô rưỡi, nhưng tôi không có tiền. Thế là tôi bỏ học.


Chương 9 
Thầy Truyền Giáo

 Dầu tôi đã bỏ học trước kỳ thi cuối khoá, nhưng niềm hoài vọng tuổi trẻ là được giảng pháp bằng tiếng Anh vẫn còn mãnh liệt trong tôi. Tôi không biết chính xác niềm hoài vọng này bắt nguồn từ đâu. Có thể một phần vì tiếng Anh được những người Sinhala thuộc giai cấp thượng lưu sử dụng, một nét văn hoá còn sót lại từ thời thuộc địa Anh. Tôi đã từng mơ được đi đến Ấn Độ hay Malaysia, nơi tiếng Anh được sử dụng rộng rãi hơn. Nếu may mắn hơn, tôi còn có thể thuyết pháp ở Anh quốc, nguồn gốc của di sản lệ thuộc Anh ở quê hương tôi. 

 Chẳng bao giờ trong những giấc mơ hão huyền đó, tôi đã có thể tưởng tượng ra việc tôi sẽ giảng dạy tại Mỹ; đối với một thiếu niên ở Ceylon như tôi, đó là điểm tận cùng của trái đất.

 Sau trường Phật học, tôi tiếp tục theo học các lớp tiếng Anh ở bất cứ nơi nào tôi biết, đôi khi phải đi hàng bao nhiêu cây số chỉ để được ngồi trong một lớp học dạy tiếng Anh. Nhiều người chế nhạo sự ham muốn học thứ tiếng khó hiểu đó của tôi.

 "Này ông thầy trẻ," họ sẽ nói, "tại sao thầy nhất quyết phải học tiếng Anh? Chỉ có cư sĩ mới sử dụng tiếng Anh, mà cũng rất ít. Thầy cần trụ ở một ngôi chùa, và làm tròn bổn phận của mình ở đó."

 "Nhưng một ngày nào đó, tôi có thể đi ra nước ngoài," tôi chống chế. "Tôi cần phải biết tiếng Anh."

 Họ sẽ nhìn tôi giống như tôi điên. 

 Tôi đã giảng Pháp cho các lớp cuối tuần ở một chùa ở Yakkala trong khoảng thời gian ít nhất là sáu năm. Có hàng trăm các lớp cuối tuần (Sunday School) ở Ceylon và trường tôi dạy khá nhỏ. Vào mỗi chủ nhật có khoảng hai trăm học sinh, phần đông chưa đến mười tám tuổi. Tôi giảng về những điều cơ bản: giới luật, bát chánh đạo, cuộc đời Đức Phật, và lịch sử Phật giáo. Vào thời đó, các trường không hướng dẫn hành thiền, mà tôi cũng không khuyến khích họ học thiền vào thời điểm ấy. Ngày nay thì thiền là môn dạy chủ yếu của tôi.

 May mắn thay, vị trụ trì chùa ở Yakkala, đại đức Candajoti Thera, rất ủng hộ việc học tiếng Anh của tôi. Ông cũng nghĩ rằng đó là một ngôn ngữ quan trọng cần phải học và tổ chức cuộc thi lấy bằng trung học cơ sở tiếng Anh.

 Dần dần với sự giúp đỡ của đại đức Candajoti, anh tôi và tôi mở một trường dạy tiếng Anh nho nhỏ ở chùa tại Kebilitigoda. Anh tôi giỏi tiếng Anh, vì đã sống và học hành ở Colombo mấy năm, nên anh làm giảng viên chính. Chúng tôi mượn bàn ghế và bảng đen từ một chùa khác. Rồi chúng tôi căng bảng hiệu lên, và thật bất ngờ, hai mươi học sinh đã đến! Tuy nhiên, phần đông là con cái của những gia đình nghèo, nên họ không có tiền đóng học phí. Đó là vấn đề, vì anh tôi cần có lương để trả tiền ăn ở. Còn tôi, dĩ nhiên được chùa hỗ trợ.

 Đại đức Candajoti ra sức quyên góp cho chúng tôi được một ngàn rupee (khoảng ba trăm đô la), thì cũng vừa đủ để trường được tiếp tục hoạt động trong ba tháng. Cuối thời gian đó, mặc dầu chúng tôi đã cố gắng hết sức, cũng không có ai giúp thêm kinh phí. Vì thế chúng tôi đành miễn cưỡng đóng cửa trường, trả lại bàn ghế mà chúng tôi đã mượn.

 Và rồi tôi trở lại cuộc sống lang thang của mình. Tôi tiếp tục sống ở chùa Yakkala thêm một thời gian nữa, nơi đại đức Candajoti đối với tôi như anh em. Vì ông ủng hộ việc học tiếng Anh của tôi, nên ông đã tử tế cung cấp thực phẩm cho tôi khi tôi không có thì giờ đi khất thực. (Lúc đó, tôi đang học ở trường tiếng Anh Vidyasekhara, một trường học bắt nguồn từ trường Vidyasekhara Pirivena, nơi tôi đã học vào cuối những năm 1940 lúc còn là một sadi. Vì không có tuyến xe buýt giữa trường tiếng Anh và chùa Yakkala, tôi dọn vào một chùa ở làng Udugampola. Ở đó tôi vẫn phải đi bộ hơn hai cây số để đón xe buýt đến trường.)

 Năm 1953, vào một cuối tuần, tôi đến thăm các bạn học cũ ở Vidyasekhara Pirivena. Ở đó, một tối kia, khi tôi đang vá y của mình trong ký túc xá của trường, tôi thoáng nghe hai vị tu sĩ nói chuyện ngoài hành lang. Họ đang bàn về một tin tức mà họ đã nhận được từ trường Truyền giáo Phật giáo (Buddhist Missionary School) ở Colombo. Trường này đang tìm một sinh viên mới có nhiều triển vọng để thay thế một tu sĩ đã bị đuổi vì phạm giới luật. 

 Trường Truyền giáo Phật giáo, đúng như tên gọi của nó, huấn luyện các tăng sĩ Phật giáo để họ đi ra nước ngoài thuyết Pháp. Tất cả được bắt đầu từ một tổ chức từ thiện Phật giáo gọi là hội Mahabodhi, được thành lập từ những năm cuối 1800.

 Trường đó khá nhỏ và rất chọn lọc. Cũng có một số ít sinh viên từ các quốc gia khác -Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Trung Hoa- nhưng chỉ có mười tăng sĩ đến từ Ceylon. Vị hiệu trưởng của trường, đại đức Paravahera Vajiranana, hấp thụ một nền giáo dục Tây phương nhưng rất giỏi về lý thuyết cũng như việc thực hành thiền Phật giáo. Ông là người mà tôi rất ngưỡng mộ.

 Ý tưởng về một ngôi trường truyền giáo có thể đối với những người biết về Phật giáo như là một tôn giáo tự giác thì có vẻ lạ lùng. Tuy nhiên chính Đức Phật là một nhà truyền giáo. Trong vòng ba tháng sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã có sáu mươi vị đệ tử quanh ngài. Sau đó Ngài yêu cầu các vị đệ tử này đi về sáu mươi phương hướng khác nhau để "truyền bá hạt giống Pháp." 

 Đức Phật khuyên đệ tử của Ngài rất rõ ràng rằng không nên cố gắng thay đổi tôn giáo của ai. Ngài dạy họ chỉ nên thuyết Pháp và rồi những ai chỉ có "chút ít bụi trong mắt," những người sẵn sàng muốn nghe, sẽ hiểu. Lời dạy này làm nổi bật một khía cạnh quan trọng trong Phật giáo. Trong một bài giảng nổi tiếng, Đức Phật đã diễn tả Pháp như là những chứng cứ hiển nhiên. Ngài dạy rằng nếu ta "đến để thấy," thì ta có thể tự phán đoán cho mình. Nói như thế Ngài không có ý nói về một lời mời cụ thể để đến một nơi nào đó để nghe thuyết pháp. Ngài chỉ có ý rằng Pháp luôn có mặt cho bất cứ người trí nào muốn tìm đến để quán sát nó.

 Đức Phật muốn chúng ta áp dụng những lời dạy của Ngài vào chính cuộc sống của bản thân để xem chúng có hợp lý không. Bằng cách đó, chúng ta có thể chấp nhận giáo lý của Đức Phật dựa trên kinh nghiệm bản thân hơn là một lòng tin mù quáng. Diễn tả Phật pháp như là một điều gì bạn có thể ‘đến để thấy’ là dựa trên trí tuệ, rằng sự chuyển hoá chỉ có thể xảy ra bên trong ta và không thể ép buộc một cá nhân nào từ bên ngoài.

 Khi nghe hai vị sư bàn luận về chỗ trống ở trường truyền giáo, dầu tôi chưa bao giờ được nghe về một nơi như thế, nhưng tôi lập tức biết rằng đó là điều mà tôi muốn làm. Tôi bỏ chiếc y đang vá xuống và chạy nhanh ra hành lang.

 "Thưa đại đức," tôi bắt chuyện với một trong hai vị tăng sĩ, "tôi muốn nộp đơn vào chỗ trống đó."

 "Khi nào thầy có thể đi gặp giám hiệu trường?" ông hỏi. 

 "Ngày mai," tôi trả lời.

 Ngày hôm sau, tôi trình với vị giám hiệu, đại đức Paravahera Vajiranana Nayaka Mahathera, tại sao trường truyền giáo là môi trường rất thích hợp cho tôi. Ấn tượng với sự quyết liệt của tôi (mà có thể cũng là sự liều lĩnh của tôi!), ông chấp thuận cho tôi vào học. Rủi thay, các sinh viên đã qua gần phân nửa chương trình học ba năm của họ, vì thế tôi phải vất vả đuổi theo cho kịp, nhất là giờ tôi không còn trí nhớ như in. “Đây là một chương trình học khó,” đại đức Vajiranana cảnh báo tôi, “thầy lại vào học trễ. Thầy sẽ phải cố gắng rất nhiều mới mong theo kịp.”

 Ông nhắc nhở tôi về lời Phật dạy về tinh tấn: "Pháp này chỉ dành cho những ai luôn tinh tấn, không phải cho người lười biếng.” Vị giám hiệu nói rằng nếu tôi muốn trở thành một thầy truyền giáo tốt, tôi cần phải tự nguyện thực hành tinh tấn ba-la-mật (parami-perfection). Đó là cách mà Đức Phật đạt được giác ngộ, vị giám hiệu nhấn mạnh, bằng cách hoàn thiện tinh tấn đến mức độ cao nhất.

 Vì thế tôi đắm mình vào việc học và chẳng bao lâu đã có thể theo kịp các bạn đồng môn. Cũng may, chương trình học ở trường truyền giáo tương tự với chương trình ở trường Phật học mà tôi học trước đây. Chúng tôi học tiếng Pali và triết lý Phật giáo, cũng như là tiếng Ấn Độ, Anh và Tamil. Sau khi ra trường, phần lớn sinh viên được gửi đến sống ở Ấn Độ, vì thế cũng có những lớp học nhằm dạy chúng tôi những điều cần biết khi đến sống ở đó. Chúng tôi học về lịch sử Ấn Độ, Ấn Độ giáo và Gia-nai giáo.

 Vì trường truyền giáo có nhiều tu sĩ đến từ các quốc gia Đông Nam Á khác, tôi đề nghị thành lập Hội Sinh Viên Phật Giáo Quốc Tế. Tất cả mọi hoạt động của Hội đều được đề ra bằng tiếng Anh để chúng tôi có thể thực hành ngôn ngữ này.

 Tôi có một kỷ niệm đáng nhớ trong thời gian ở trường truyền giáo. Ở Hunupitiya, ngoại ô Colombo cách trường tôi khoảng ba bốn cây số, có một ngôi nhà lễ dành cho các nghi lễ tôn giáo đặc biệt. Mỗi hai tuần, vào ngày trăng rằm và mùng một, chúng tôi đến ngôi nhà đó để đọc tụng giới luật, 227 giới của tăng sĩ. Nghi lễ này có thể được thực hiện ở bất cứ thánh địa nào (nơi dành riêng cho mục đích đó) và chỉ các tăng sĩ mới được dự; không có cư sĩ nào được đến.

 Riêng ngôi nhà lễ này đã một trăm năm mươi tuổi, ở giữa một hồ nước, nằm trên những cây cột bằng gỗ. Tường bằng gạch chỉ xây đến phân nửa với những cây xà chắc chắn để chống đỡ một mái ngói. Để đến được nơi đó, các tăng sĩ chúng tôi phải đi qua một cái cầu nhỏ bằng gỗ. Sau khi vào đến ngôi nhà, chúng tôi tháo cây cầu ra, một hành động để biểu tượng cho việc tách biệt khỏi đời sống thế tục của chúng tôi. 

 Một lần khi chúng tôi đến gần ngôi nhà lễ đó, vài cậu bé đã cảnh báo với chúng tôi rằng một số ván sàn nhà đã bị tháo cắp, có lẽ để dùng đốt lửa. “Không an toàn đâu,” chúng nói. “Đừng đi lên đó.”

 “Đừng để ý đến chúng,” một vị lão tăng ra lệnh. “Cứ tiếp bước.”

 Tất cả chúng tôi đều nghe theo lệnh của ông, và tiếp tục bước hàng một trong im lặng. 

 Khi đã vào trong nhà lễ, chúng tôi biết lũ trẻ nói đúng: phân nửa gỗ trên sàn nhà đã bị tháo dỡ. Thường chúng tôi ngồi chia đều trên mặt sàn để sức nặng của chúng tôi không làm ảnh hưởng đến mấy cây cột chống nhà đã yếu. Giờ với phân nửa mặt sàn đã biến mất, tất cả mười bốn người chúng tôi đành phải ngồi về một phía.

 Chúng tôi bắt đầu đọc tụng và giữa buổi lễ, chúng tôi bỗng nghe một tiếng động lớn. Vài tăng sĩ nhìn quanh lo ngại, nhưng vị lão tăng đọc càng lớn hơn nữa, bắt buộc chúng tôi phải theo gương ông. 

 Thình lình tất cả mọi thứ phía dưới chúng tôi sụp xuống. Thật là hỗn loạn. Người nhảy xuống hồ. Người té nhào xuống nước vì sàn nhà sụp. Tôi cố gắng bám vào phân nửa tường và cuối cùng thì là phân nửa ở trong nhà và phân nửa ở ngoài trời khi mái nhà đổ xuống người tôi. Lập tức các vị cư sĩ xúm đến cứu chúng tôi. Một số nhảy xuống hồ, lội về phía chúng tôi để kéo chúng tôi vào bờ. Vài vị tăng bị gãy xương; một mảnh xương sườn của tôi, nơi gần tim, bị toẹt ra khỏi lồng ngực. Lúc đầu không đau mấy, nhưng khi đã hoàn hồn, tôi bắt đầu cảm thấy đau buốt ở ngực. Kỳ diệu thay, vị lão tăng, người đã buộc chúng tôi phải bước tới, lại không bị một vết xước nào. Mái nhà đã rơi xuống ngay chỗ ông ngồi, và do đó bảo vệ ông an toàn.

 Còn chúng tôi thì được chở đến bệnh viện. Ngày hôm sau tôi được ra viện, ngực quấn đầy băng. Tôi vẫn còn đau hàng tuần sau đó.

 Cuối năm 1954, là lúc phải thi ra trường. Dầu nhập học trễ, tôi đã học hành rất cố gắng để theo kịp chương trình. Và sự nỗ lực đó đã được đền bù, các bài thi của tôi đều được điểm cao.

 Rồi thì cũng đến lúc chúng tôi được nhận trách vụ ở nước ngoài. Phật sự truyền giáo của chúng tôi sắp bắt đầu. Sư giám hiệu gọi tôi đến và bảo ông muốn gửi tôi đến Tanzania. 

 "Tanzania!” tôi thảng thốt. “Phi Châu! Cách đây nửa vòng trái đất.” Tôi không chắc rằng tôi đã sẵn sàng để đến đó. Tôi chỉ mới hai mươi bảy tuổi và chưa bao giờ bước chân ra khỏi Ceylon. 

 “Tôi muốn được ở gần nhà,” tôi thưa với ông. “Ấn Độ có được không ạ?”

 Ông gật đầu.
 Tôi thực sự sẵn sàng để đi bất cứ nơi nào. Giờ tôi đã ra trường, tôi biết mình không thể trở lại ngôi chùa nơi tôi đã được thọ giới. Vì sự tranh chấp giữa sư phụ tôi và đại đức Sumanatissa, tôi biết rằng khi sư phụ tôi mất đi, đại đức Sumanatissa sẽ chống đối việc tôi kế tục quản lý ngôi chùa đó.

 Tôi không có chỗ nào để đi, và trong tôi vẫn còn niềm ước muốn cháy bỏng, là một ngày nào đó được giảng Pháp bằng tiếng Anh, ở một nơi nào đó. Để thực hiện được điều đó, tôi phải rời bỏ quê hương xứ sở nơi tôi đã sinh ra và lớn lên. Ấn Độ, là một khởi đầu tốt cũng như ở bất cứ nơi nào khác, và dĩ nhiên là hấp dẫn hơn Phi Châu!

 Cuộc hành trình từ Ceylon tới Ấn Độ chỉ khoảng bốn mươi mấy cây số vượt qua biển Ấn Độ Dương, chỉ là một chuyến phà ngắn ngủi, nhưng đối với tôi đó là một cuộc hành trình vĩ đại, và là một khởi đầu cho những cuộc hành trình đi khắp thế giới của tôi.


Chương 10
Vượt Đại Dương Đến Ấn Độ

 Chuẩn bị để rời Ceylon lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi cần hai thứ: tiền và một hộ chiếu.
 Nhưng vì tôi là một tu sĩ, không có chứng từ thu nhập, tôi không thể lấy được hộ chiếu. Chỉ những người có đóng thuế thu nhập mới có thể nộp đơn xin hộ chiếu cho bản thân họ, vì thế vị giám hiệu trường truyền giáo đã nhờ một ân nhân giàu có, một người đã đóng rất nhiều tiền thuế, làm người bảo trợ cho tôi. Ông đã ký những giấy tờ cần thiết và tôi được người ta cấp cho một thứ gọi là công văn khẩn. Như thế là tôi được quyền đến và đi khỏi Ceylon trong thời hạn hai năm.

 Tôi biết rằng hội Mahabodhi sẽ trả tiền tàu cho tôi đến Ấn Độ. Dầu đó là điều tuyệt vời, nhưng tôi cảm thấy tôi cũng cần có một ít tiền dằn túi khi đặt chân đến Ấn Độ, để có thể được tự lập chút đỉnh. Nhưng một nhà sư mà đi xin tiền người khác thì không tiện lắm, vì thế tôi đến chùa Yakkala, nơi tôi đã sống một thời gian, để hỏi ý kiến Đại Đức Candajoti. 

 “Gune !” ông nói, gọi tôi một cách thân mật, “Đừng khờ vậy. Sư là tu sĩ. Mọi người đều biết sư không có tiền, và mọi người biết sư phải cần một ít tiền trong chuyến đi này.”

 Ông giúp tôi viết một lá thư nói về chuyến đi của tôi và những thứ tôi cần cho chuyến đi đó. Ông cho in ra bảy trăm tờ copy. Tôi phân phát một ít tận tay người nhận và gửi phần lớn qua đường bưu điện.

 Khi tất cả mọi thứ đã kết thúc, tôi nhận được hai trăm rupee (khoảng sáu mươi đô la), là một khoảng tiền khấm khá vào thời điểm đó. Mẹ tôi cũng cho một rupee và cha tôi cho năm. Em gái tôi cho hai rupee, và sư phụ của tôi gửi năm rupee từ tiền cúng dường mà ông nhận được của các cư sĩ ở chùa ông.

 Cuộc hành trình của tôi bắt đầu ở ga xe lửa Colombo vào ngày 15 tháng 1 năm 1955. Không có ai trong gia đình tôi có thể đi hơn trăm cây số đến tiễn đưa tôi, nhưng sư phụ của tôi đã cùng đáp xe lửa đi với tôi tới Colombo. Sau khi chúng tôi chia tay, tôi chỉ còn lại một mình. Tuy nhiên tôi không sợ hãi; tôi rất phấn khích được bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời mình. Cuối cùng thì chân trời cũng mở rộng trước mắt tôi. Dầu lúc ấy tôi khó có thể tưởng tượng ra trước, nhưng năm bảy mươi lăm tuổi tôi đã đi hoằng pháp trên sáu lục địa.

 Ở Colombo tôi gặp được những người đồng hành là một nhóm Phật tử hành hương trên đường đến các thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ. Chúng tôi đáp xe lửa qua đêm đến một thành phố gọi là Talaimanner, ở tận phía bắc của Ceylon. Ở đó chúng tôi lên một chiếc phà để vượt qua hai mươi hai dặm đường biển. 

 Đó là lần đầu tiên tôi ở trên một chiếc tàu lớn như vậy, và không kể những kinh nghiệm suýt chết đuối của tôi, tôi không hề cảm thấy lo sợ chút nào. Chỉ một tiếng đồng hồ sau là chúng tôi đã đến Ấn Độ.

 Tàu đỗ bến ở Mandapam, một thành phố ở bờ phía Nam của quần đảo Ấn Độ. Địa phận đó của Ấn Độ giống như một sa mạc; không cây cối, chỉ có đất khô cằn và ánh nắng mặt trời rực lửa. Chúng tôi lại lên một chuyến xe lửa khác.

 Trên xe lửa, chúng tôi được ăn xôi gói bằng lá chuối. Khi chúng tôi vứt lá chuối ra ngoài của sổ, một số người ăn mày chạy đến nhặt lá chuối dưới đất lên và liếm láp đến những hột nếp cuối cùng. Dầu những ngôi làng nhỏ ở Ceylon chắc chắn là không được giàu có, nhưng ở đây rõ ràng là sự nghèo khổ còn tồi tệ hơn tất cả những gì tôi đã chứng kiến.

 Trưa hôm sau chúng tôi đến Madras, trên bờ biển phía đông của Ấn Độ. Chương trình của tôi dự định là nghỉ ngơi một tuần và làm quen với Ấn Độ trước khi đến ngôi chùa mà tôi được gửi đến.

 Đại Đức Batuvangala Jinananda, hội trưởng của hội Mahabodhi ở Madras, đón tôi tại nhà ga xe lửa. Ông và các vị tăng đi theo đoàn nói tiếng Tamil, nên chúng tôi có thể trao đổi chuyện trò. Tôi trải qua một tuần lễ thư thả, viếng thăm các chùa và hội Thần Học, một trung tâm độc lập chuyên nghiên cứu việc giảng dạy các tôn giáo khác nhau. 

 Chẳng bao lâu thì đã đến lúc tôi phải đi Sanchi, là nhiệm sở đầu tiên của tôi. Sanchi thuộc bang Bhopal của Ấn Độ, ở giữa Delhi và Bombay. Bảy giờ tối hôm đó, tôi lên xe lửa ở Madras. Hơn hai mươi bốn giờ sau, sau khi xuyên qua gần nửa lãnh địa Ấn Độ, tôi đến được Sanchi. Tôi là người duy nhất xuống ga xe lửa ở một chấm li ti trên bản đồ. Nhà ga không có thềm để lên xuống; tôi bước xuống xe lửa và chân tôi chạm ngay xuống đất cạnh đường ray. Khi xe lửa chuyển bánh đi tiếp, một người đàn ông mặc đồng phục tiến đến bên tôi. Tôi đoán ông là trưởng trạm xe lửa.

 Đã gần nửa đêm, trời lạnh và tối đen. Đây là lần đầu tiên kể từ khi rời Ceylon, tôi mới cảm thấy sợ chết được. Tôi không hiểu người trưởng trạm xe lửa nói gì. Mặc dầu đã học tiếng Ấn Độ ba năm ở Ceylon, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được nghe một người bản xứ nói tiếng Ấn Độ.

 Cuối cùng, bằng thứ tiếng Anh lõm bõm, mà tôi hy vọng là vị trưởng trạm xe lửa có thể hiểu, tôi nói với ông là tôi đến để sống ở ngôi chùa tại Sanchi. Hình như điều đó khiến người kia hiểu tôi. Cũng bằng thứ tiếng Anh tồi tệ như tôi, ông nói là chùa ở cách đây khoảng hơn một cây số, trên đồi cao, và chỉ có điên mới đi đến đó đêm nay. Ông khuyên tôi nên qua đêm ở nhà ga rồi ngày mai hãy đi.

 Đêm đó, lần đầu tiên trong cuộc đời tôi cảm thấy lạnh, một cảm giác hoàn toàn mới lạ đối với một thanh niên đã sống gần trọn cuộc đời trong khí hậu nhiệt đới của Ceylon. Nhưng tháng giêng ở miền trung Ấn Độ thật khó có thể coi là nhiệt đới.

 Cũng may là các vị sư ở Madras đã tặng tôi một chiếc túi ngủ mỏng. Tôi trải nó ra trên sàn nhà ga xe lửa, rồi chui vào bên trong. Suốt đêm tôi không ngủ được chút nào, phần vì lo sợ nhưng phần lớn là vì cái lạnh thấu xương.

 Sáng hôm sau, ông trưởng trạm sai người khiêng hành lý theo tôi lên chùa. Chúng tôi đi bộ khoảng một dặm rồi bắt đầu leo lên một ngọn đồi lớn. Cuộc leo đồi kéo dài khoảng ba mươi phút, men theo một lối mòn quanh co. Tới đỉnh đồi, chúng tôi bước vào khuôn viên chùa, được bao bọc bởi những bức tường bằng đá cao. Dọc theo tường, mỗi mười thước hay khoảng đó là những cây cột xi măng với những cái đĩa tròn ở phía trên cột, trông giống như những cây dù, gợi nhớ đến những cây dù trang trí trên các chùa. 

 Bên trong khuôn viên là một khoảng sân làm bằng đá mô sắc (mosaic) rất đẹp. Một cầu thang ngắn dẫn lên chánh điện, nơi có hai phòng đối mặt nhau. Chánh điện mát mẻ, không có cửa sở, với một sàn nhà láng bóng. Cuối phòng, tôi có thể thấy một bàn thờ với một tượng Phật uy nghiêm trong tư thế tọa thiền. Tượng được làm bằng đá trắng, và chỉ có một ngọn đèn cầy trắng được đốt dưới chân tượng. 

 Tôi tràn ngập hân hoan được có mặt ở đây; cuộc đời tôi với tư cách là một vị thầy truyền giáo Phật giáo bắt đầu ở một nơi rất hẻo lánh này. Ngôi chùa ở Sanchi này được tạo dựng từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên, khi vua Ashoka, một Phật tử Ấn Độ thuần thành, đã gửi con trai và con gái ông, Mahinda và Sanghamitta, làm những người truyền giáo mang Phật pháp đến Ceylon. Trước khi họ rời Ấn Độ, Mahinda và Sanghamitta đã đến thăm viếng thân mẫu của họ, đang sống trong một ni viện Phật giáo trong khuôn viên chùa Sanchi.

 Vào cuối thế kỷ thứ mười chín, những nhà khảo cổ học người Anh đã khai quật khu vực Sanchi, khám phá ra một số tháp trang hoàng đẹp đẽ, dùng chứa hài cốt người chết, phần nhiều là các mảnh xương tìm thấy được sau khi hỏa táng. Các câu ghi khắc trên tháp cho biết đây là xá lợi của Phật và hai trong số những đệ tử lớn của Ngài, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Đến năm 1941, những xá lợi này bị chính phủ Anh chiếm đoạt, đem trưng bày ở bảo tàng viện Victoria và Albert ở Luân Đôn. Khi người Anh quyết định trả lại các báu vật này, các xá lợi được chia ra làm ba phần. Một phần ba được gửi đến Burma, một phần ba đến Vidyalankara Pirivena, trường Phật học mà tôi từng theo học, và phần ba cuối cùng được gửi về Sanchi. Ở đó hội Mahabodhi đã xây thêm một ngôi chùa để thờ những xá lợi linh thiêng này. Ngôi chùa sau được hoàn thành năm 1954, và Đại Đức Hedigalle Pannatissa được chọn làm trụ trì ở đó.

 Một năm sau, năm 1955, tôi được gửi đến để phụ tá Đại Đức Pannatissa ở Sanchi. Tôi làm thư ký cho ông suốt năm năm, và không thể mong đợi một công việc nào tốt hơn thế.


Chương 11
Xá Lợi Phật Và Đức Đạt Lai Lạt Ma

 Ngay khi vừa đến chùa Sanchi, tôi sang đảnh lễ Đại Đức Pannatissa. Tôi có rất nhiều quà để trao lại cho Đại Đức, những thứ tôi đã mang giúp cho thân hữu của Đại Đức ở Ceylon và của Hội Mahabodhi. Tôi cũng trình cho Đại Đức xem một bàn máy đánh chữ do Phật tử cúng dường, để tôi có thể thực hiện bổn phận người thư ký, đánh máy những lá thư bằng tiếng Anh cho ông.

 Đại Đức Pannatissa rất vui lòng, nhưng có điều ông không biết là tiếng Anh của tôi còn rất yếu và tôi chưa từng sử dụng bàn máy chữ bao giờ.

 Cuộc sống ở Sanchi rất dễ chịu và bình lặng. Rất ít người có thể trèo lên đồi thăm chùa, vì thế nơi đây yên tĩnh hơn nhiều so với những ngôi chùa ở làng mà tôi biết. Vì không có dân làng sống gần bên để cúng dường thực phẩm, hội Mahabodhi phải mướn người nấu ăn cho Đại Đức Pannatissa và tôi. Còn có thêm một người đàn ông lo chuyện dọn dẹp và xách nước cho chúng tôi. Anh ta phải gánh từng thùng nước từ giếng dưới chân đồi.

 Vì có các xá lợi thiêng liêng được thờ ở Sanchi, chính quyền Ấn Độ đã cử nhân viên cảnh sát phải túc trực ở đó suốt hai mươi bốn giờ một ngày. Những người bảo vệ này làm việc theo ca, tám tiếng một ngày. Họ thường ngồi đó trò chuyện với khách vãng lai hay với chúng tôi, khi chúng tôi có thời gian.

 Vào mùa hè, Sanchi rất nóng, nóng đến nỗi bạn gần như không thể thở được. Trong ngày nhiệt độ có thể lên đến 120 độ Fahrenheit (ND : Khoảng bằng 48 độ Celsius). Trong ngày, tôi thường tọa thiền trong nội điện, ngồi trên một chiếc khăn lông ướt trải trên nền xi măng. Đến bảy giờ chiều, tôi mang giường ngủ ra ngoài trời. Đó là một khung giường bằng gỗ đơn sơ, gọi là carpai (nghĩa đen, là 'bốn chân’) với những sợi dây đan trên mặt giường và một tấm chiếu mỏng trải lên trên.

 Tôi ngồi hàng giờ trên giường, toạ thiền trong không khí buổi chiều mát mẻ, thực tập chánh niệm hơi thở, như tôi vẫn thường làm trước khi ngủ kể từ khi tôi bắt đầu tu thiền. Rồi tôi ngủ đi ở ngoài trời như thế.

 Điện thờ các xá lợi ở phía dưới chánh điện. Một cánh cửa nhỏ về phía bên phải của bàn thờ dẫn xuống những cầu thang hẹp, đến một căn phòng tối, khoảng ba thước vuông. Một bên tường có một cửa dẫn đến một phòng khác nhỏ hơn, giống như một ngôi mộ. Một tủ lớn bằng thiếc để giữa phòng. Tủ có ba ngăn, mỗi ngăn đựng một bộ xá lợi. Bên trong các ngăn tủ được lót vải trắng và có những nắp bằng kiếng. Bên trong, các xá lợi được đựng trong những chiếc tách tròn nhỏ bằng bạc. Chiếc tách đựng xá lợi Phật lớn hơn mấy chiếc tách đựng xá lợi của hai vị đệ tử của Ngài.

 Các ngăn kéo này được khoá hai lớp, cũng như là mấy cánh cửa đi vào phòng chứa xá lợi. Có ba người giữ chìa khoá -vị tổng thư ký của hội Mahabodhi, thống đốc bang Bhopal, và vị sư trụ trì chùa. Nhưng không có ai trong ba người này có đủ bộ chìa khoá cho tất cả các ổ khoá. Do đó, để có thể mở tất cả các cửa dẫn đến nơi chứa xá lợi, cả ba người này đều phải có mặt. Hai viên cảnh sát cũng luôn luôn có mặt ở đó. Mỗi năm một lần, vào ngày Phật Đản rằm tháng năm, các ngăn tủ chứa xá lợi được mở ra và đưa lên chánh điện. Những đoàn người hành hương được phép sắp hàng đi ngang qua các ngăn tủ. Rất nhiều người đảnh lễ các xá lợi.

 Mặc dầu là trụ trì của Sanchi, Đại Đức Pannatissa chỉ sống ở đó giữa các tháng mười một và tháng hai. Thời gian còn lại trong năm, ông sống ở Ceylon, và khi ông vắng mặt, tôi là người quản lý ở đó. Bổn phận của tôi bao gồm tiếp khách, hành các buổi lễ sáng chiều, trả tiền công thợ và đánh các báo cáo cho hội Mahabodhi ở Ceylon.

 Tôi đã tự học đánh máy với một quyển sách dạy thực hành đánh máy viết tay mà ai đó đã cho mượn. Tôi nghĩ là tôi khá giỏi, cho đến một ngày Đại Đức Pannatissa yêu cầu tôi đánh một lá thư quan trọng gửi cho thư ký hội Mahabodhi. Ông đọc bằng tiếng Sinhala và tôi dịch sang thứ tiếng Anh yếu kém của mình.

 Với bài dịch đặt kế bên bàn máy, tôi đánh lá thư, không cần nhìn các mặt chữ. Tôi còn trẻ và quá tự tin. Tôi đánh xong lá thư, vẫn không coi lại và đưa nó cho Đại Đức Pannatissa ký. Ông nhìn qua những dòng chữ lạ lẫm, tưởng rằng nó chứa đựng những điều ông vừa đọc, ký tên và lá thư được gửi đi. 

 Ba tuần sau chúng tôi nhận được một lá thư từ người thư ký ở Colombo. Ông kèm theo lá thư của tôi mà giờ khi nhìn kỹ lại, thì nó giống như vẽ bùa cả đối với tôi. “Tôi không hiểu một chữ trong lá thư này,” ông viết bằng tiếng Sinhala cho Đại Đức Pannatissa. “Sư định nói gì đây?” 

 Đại Đức Pannatissa khá giận. Tôi đỏ mặt vì xấu hổ, rồi đánh máy lại lá thư, lần này cẩn thận đặt các ngón tay của tôi vào đúng các chữ và đọc lại lá thư lần cuối trước khi gửi. Sau đó tôi không còn tự mãn về khả năng đánh máy của mình nữa, dầu còn có một lần nữa sự cao ngạo của tuổi trẻ lại làm khổ tôi.

 Vị tổng thư ký của hội Mahabodhi đã đến viếng Sanchi. Hai ngày sau đó, tôi nhận được lời nhắn từ vị hiệu trưởng của một trường đại học gần đó. Rõ ràng là vị tổng thư ký đã viếng thăm trường đại học, sau khi rời Sanchi và để quên lại đó một gói đồ. Ông nhờ vị hiệu trưởng gọi tôi đến lấy gói đồ và gửi đi Calcutta.

 Tôi cảm thấy rất bực. Tại sao tôi phải đi tận xuống đồi để mang gói đồ đi gửi cho người thư ký? Tại sao ông hiệu trưởng không tự mình làm chuyện đó? Tôi giận dữ viết một lá thư gửi cho vị hiệu trưởng. “Vì ông ta đã để lại gói đồ chỗ ông, sao ông không đi gửi?”, tôi viết. “Có một bưu điện chỉ cách trường một con đường. Ông đến đó dễ hơn tôi nhiều!”.

 Mười ngày sau vị hiệu trưởng lại gửi cho tôi một lời nhắn khác, lặp lại yêu cầu của ông. Tôi lờ đi, và mười ngày sau nữa, lời nhắn thứ ba lại đến. Cuối cùng tôi đi xuống đồi để nhận gói đồ, nhưng tôi cằn nhằn suốt dọc đường đi. Khi gửi đi, tôi để dành lại biên lai, mà vị thư ký sẽ cần để hoàn tiền trả lại tôi.

 Khi gói đồ đã đến bưu điện ở Calcutta, người thư ký viết thư cho tôi, hỏi về biên lai gửi đồ. Tôi gửi biên lai cho ông cùng với những dòng chữ giận dữ. 

 Cuối cùng, khi người thư ký mở gói đồ ra, một tháng sau khi ông đã đóng gói nó, một mùi hôi thối khủng khiếp bay ra. Gói đồ có chứa đồ ăn mà vì những sự chậm trễ của tôi, đồ ăn đã mốc rữa. Giờ thì tới phiên ông ta gửi cho tôi một lá thư giận dữ.

 “Sư nổi sân vì một việc nhỏ mà tôi nhờ sư làm,” ông viết. “Rồi sư còn gửi cho tôi một lá thư trách móc. Nếu sư muốn tiếp tục làm việc cho hội Mahabodhi, tôi khuyên sư nên kiềm chế tính khí của mình.”

 Sân nộ là một trong những uế nhiễm khó đối trị nhất; tôi biết điều đó từ chính kinh nghiệm bản thân. Khi tôi còn là một tu sĩ trẻ ở Ceylon, tôi đã giảng nhiều bài pháp về sân nộ và phương cách để chế ngự nó, dầu rằng sự sân hận của chính tôi cũng khiến tôi nhiều lần mất tự chủ. Tôi gọi đó là sự sân hận "của tôi”, nhưng điều đó không hoàn toàn đúng, sân hận chế ngự, lấn áp tâm tôi và tôi để nó làm như thế, mặc dầu rõ ràng nó làm tôi cảm thấy rất khổ sở. Khi giận dữ, tôi cảm thấy đau trong ngực và nóng trong bao tử. Mắt tôi nhoè đi, sự suy nghĩ của tôi không rõ ràng và những lời cọc cằn thô lỗ được thốt ra từ miệng tôi.

 Khi bình tĩnh lại, lúc nào tôi cũng có cảm giác xấu hổ, điên rồ. Lúc đó , tôi quán chiếu những lời Đức Phật dạy về sân hận: “Ta cần buông bỏ sân hận, kiêu mạn, và chế ngự mọi kiết sử. Người không bám víu vào tâm hay thân, biết buông xả thì không thể khổ đau. Người biết kiềm chế sự phát sinh của sân hận giống như người đánh xe biết kiềm chế con ngựa của mình, người đó ta gọi đúng là người biết cầm cương.”

 Có một câu chuyện rất nổi tiếng từ tạng kinh Phật giáo minh chứng cho ta thấy sự khéo léo của Đức Phật khi đối phó với sân hận. Một ngày, một người Bà La Môn, thuộc dòng quý tộc và thế lực, đến gặp Đức Phật. Vị Bà La Môn này có một tánh khí nóng nảy và thường cãi cọ với mọi người. Ngay chính như khi người khác bị hại mà không tỏ vẻ giận dữ, ông cũng không bằng lòng. Vì thế, khi ông nghe rằng Đức Phật chẳng bao giờ nổi giận, ông quyết định đến thử Ngài.

 Người Bà La Môn đi đến gặp Đức Phật và tuôn ra những tràng chửi rủa. Đức Phật lắng nghe một cách bình tĩnh trong im lặng. Khi người Bà La Môn cuối cùng ngưng chửi và chờ đợi phản ứng của Đức Phật. Lúc đó, Đức Phật bình tĩnh hỏi ông, “Ông có gia đình hay bạn bè không?”

 “Dĩ nhiên rồi,” vị Bà La Môn trả lời. “Tại sao?”
 “Ông có thăm viếng họ thường xuyên không?” Đức Phật hỏi.
 “Có,” người Bà La Môn trả lời cọc cằn.
 “Khi đi thăm họ ông có mang quà theo không?” 
 “Dĩ nhiên là tôi có!” vị Bà La Môn gầm lên.
 “Nhưng nếu họ không nhận quà của ông thì sao?” Đức Phật hỏi. “Ông sẽ làm gì với món quà?”
 “Tôi sẽ mang nó về nhà và chia sẻ với gia đình tôi,” người Bà La Môn trả lời. “
 "Vậy thì,” Đức Phật nói, “nay ông đã mang cho tôi một món quà của những lời sỉ nhục giận dữ. Tôi không muốn nhận chúng, tôi xin trả lại cho ông. Hãy mang về nhà và chia sẻ với gia đình.”
 Giá mà tôi đã có thể sống theo trí tuệ của những lời dạy này lúc tôi còn trẻ.

 Những người hành hương thường đến Sanchi để tỏ lòng kính trọng các xá lợi và để được nhìn những chiếc cổng hoành tráng do vua Ashoka xây dựng. Có bốn cái tất cả, xây dựng vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên. Mỗi cổng gồm có hai trụ đá, cao hơn sáu mét, với những thanh gỗ bắt chéo qua chúng. Những cảnh từ các chuyện tiền kiếp của Đức Phật được khắc lên các trụ cột. Những chữ khắc cùng với các bức tranh được viết bằng một loại ngôn ngữ cổ xưa tương tự như tiếng Sanskrit và Pali.

 Nhiều lần các đoàn hành hương đến viếng thăm cùng với người hướng dẫn viên để giải thích những lời khắc trên trụ cột cho họ. Khi không có người hướng dẫn, thì các vị khách yêu cầu tôi giải thích. Lúc đầu tôi chỉ bảo với họ là tôi không biết, rồi bỏ đi. Nhưng dần dần sự thiếu hiểu biết này làm tôi xấu hổ. Tôi nhận thấy rằng, dầu gì, khi Đại Đức Pannatissa vắng mặt, tôi là vị sư duy nhất ở đó; tôi thật sự phải có khả năng để trả lời các câu hỏi về nơi chốn này.

 Vì thế tôi yêu cầu một trong những người hướng dẫn viên ở địa phương dạy tôi về ý nghĩa của những cột trụ này. Anh ta vui vẻ nhận lời và sau đó, tôi có thể giải thích giúp các khách vãng lai về những hình ảnh này. Dần dần, tôi viết một cuốn sổ tay hướng dẫn khách đến Sanchi bao gồm cả việc giải thích các trụ cột và những hình ảnh trên đó. 

 Thí dụ, một cảnh diễn tả lại lúc Đức Phật đản sinh với hoàng hậu Mahamaya, mẹ của ngài, đang lâm bồn dưới một cây sala trong rừng, với những người hầu của bà vây quanh dùng màn che chắn cho bà, và chư thiên tưới nước để tắm cho đứa bé. Một cảnh khác lại tả lúc Đức Phật giác ngộ, cũng xảy ra dưới một gốc cây. Khi thái tử Siddhattha Gotama ngồi tĩnh lặng dưới cây bồ đề, hàng chục ngạ quỷ, biểu tượng cho những uế nhiễm của tâm, đe doạ ngài bằng gươm, dao, cung và tên. Ở một cảnh khác, Đức Phật trở về từ cõi trời sau khi đã giảng pháp cho mẹ của ngài, đã tịch bảy ngày sau khi sanh ra ngài.

 Lại một cảnh khác diễn tả một con khỉ và hai con voi làm lễ trước Đức Phật, khi người đang ở Parileyya vào mùa mưa. Đó là, sau khi Đức Phật không thể dàn xếp được một cuộc tranh cãi giữa hai nhóm tăng sĩ, Đức Phật vào rừng ở Parileyya sống một mình trong mùa mưa đó. Theo truyền thuyết, khỉ đã mang đến cho ngài mật ong để ăn mỗi ngày và các chú voi đun nóng nước trên lửa để ngài tắm.

 Tất cả các cảnh khắc trên trụ cột, dĩ nhiên đã làm phát khởi lòng tin rộng lớn nơi những người hành hương đến đây để chiêm ngưỡng chúng. 

 Vào tháng 4, 1956, chúng tôi bắt đầu lên chương trình cho lễ Phật đản ở Sanchi sẽ cử hành trong tháng năm. Chúng tôi quyết định mời thủ tướng Ấn Độ, Jawarharl Nehru. Đại Đức Pannatissa và tôi đi Delhi để tận tay trao giấy mời. Dầu đã có hẹn qua thư, khi chúng tôi đến văn phòng của ngài Nehru, nơi này đầy các vị chức trách nước ngoài, kể cả các đại sứ từ những nước Á châu.

 Là người lãnh đạo chính trị, nhưng Nehru có vẻ mặt rất thanh tịnh và cử chỉ khoan thai. Ông cao trung bình, tóc bạc, và ăn vận theo truyền thống Ấn Độ: quần trắng, áo dài tay rộng rãi, với đôi dép dây đơn giản. 

 Nehru chào đón chúng tôi bằng một giọng nói nhẹ nhàng và cử chỉ thân thiện. Dầu ông đang dở chừng trong một buổi họp dài với các vị khách chức phận, ông cũng đưa Đại Đức Pannatissa và tôi vào văn phòng của ông. Cả ba chúng tôi trao đổi khoảng hai mươi phút. Nehru nói rằng ông xin lỗi, nhưng ông không thể dự lễ vì nó trùng với một hội nghị chính trị sắp diễn ra ở Indonesia. Vị thủ tướng nói tiếng Ấn Độ trôi chảy, nhuần nhuyễn. Tôi phải vất vả dịch những lời ông nói sang tiếng Sinhala cho Đại Đức Pannatissa.

 Cuối cùng, ông Nehru chúc chúng tôi những điều tốt đẹp nhất và đứng dậy để báo hiệu chấm dứt cuộc gặp gỡ. Ông đứng chụp hình với chúng tôi, rồi cúi chào từ giã, hai tay chắp vào nhau.

 Bên cạnh lần gặp gỡ ngắn ngủi đó với thủ tướng Nehru, tôi còn may mắn được gặp những người nổi tiếng khác nữa. Vào tháng 11, 1956, vua xứ Nepal có chương trình đến viếng Sanchi. Tôi muốn trang hoàng lại chùa để đón tiếp ông, nên tôi quyết định treo vài cây cờ Phật giáo với những đường sọc màu sắc, mà người ta cho rằng đó là để biểu hiện hào quang đã phát ra sau khi Đức Phật giác ngộ. Một giải thích khác nữa là cây cờ biểu hiện cho thân của Đức Phật: màu trắng biểu tượng cho xương và răng của ngài, đỏ cho máu, vàng cho mật, xanh cho tóc, và vàng cam cho da của ngài.

 Tôi trèo lên các vách đá dọc theo tường rào chùa để cột sợi dây treo cờ. Khi tôi kéo xiết sợi dây, nó bị đứt, khiến tôi mất thăng bằng té ngửa ra. Tôi té trên mặt đất đầy đá và bị gãy cổ tay. Khi nhà vua xứ Nepal đến, tôi ở trong bệnh viện. Ông nghe kể về sự rủi ro của tôi, nên đã đến bệnh viện thăm tôi.

 Không kể các vị vua và thủ tướng, cuối năm 1956, chúng tôi lại có một vị khách nổi tiếng cách khác: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Điều trùng hợp là ông đến viếng thăm nhằm vào ngày sinh nhật của tôi. Và tôi lại là vị thầy duy nhất có mặt ở đó để đón tiếp ngài.

 Lúc đó Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ mới mười chín tuổi, trẻ hơn tôi, nhưng đã là người cầm quyền của hoàng tộc ở Himalaya mà gần đây đã bị Trung Quốc chiếm. Tôi không ngờ ông là một nhân vật lỗi lạc đến thế. Ông đến Sanchi không báo trước, không có lính hay người theo bảo vệ quanh ông như bây giờ. Tuy nhiên có vài vị sư đi theo trong đoàn. Họ rất cung kính đối với ông, coi sóc không để y áo của ông dính bụi và đưa ông đi đến nơi nào ông cần. Khi ông cởi giày để bước vào chùa, họ cũng giúp ông, rồi họ đặt các xâu chuỗi của mình vào bên trong đôi giày trống của ông, như một hành động tỏ lòng cung kính.

 Đức Đạt Lai Lạt Ma có khuôn mặt trầm lặng nhưng thường nở những nụ cười rạng rỡ. Ông đeo kiếng có gọng bằng kẽm nhỏ và rất đẹp người. Da mặt mịn màng khiến ông nhìn còn trẻ hơn tuổi.

 Ông khẽ chào tôi, hai tay chắp lại và nói bằng tiếng Anh, “Đây là một nơi rất yên tĩnh, đẹp đẽ. Khá mát mẻ. Sư ở đây có dễ chịu không?”

 “Dạ có,” tôi trả lời ông, cũng vái chào đáp lại. “Con rất dễ chịu và con vui mừng đón tiếp ngài ở nơi thiêng liêng này.”

 Ông tỏ ra là người rất khiêm cung. Chúng tôi cùng đi bên nhau đến chánh điện, khi bất ngờ chúng tôi được tin thống đốc của bang Bhopal và tổng thư ký của hội Mahabodhi cũng đến. Sau này tôi được biết, họ đã được báo trước về chuyến viếng thăm Sanchi của Đức Đạt Lai Lạt Ma và ý muốn được viếng thăm các xá lợi Phật của ông. Họ biết rằng họ phải mang bộ chìa khoá của họ đến để chúng tôi có thể mở các ngăn tủ đựng xá lợi trong căn phòng tối ở phía dưới chánh điện.

 Sau khi người thị giả trải một miếng vải trắng sạch trên sàn nhà trước tượng Phật, Đức Đạt Lai Lạt Ma đảnh lễ ba lần, đầu chạm trên miếng vải. Rồi ông đặt hoa lên bàn thờ, đốt ba cây nhang và ba cây đèn cầy. Sau đó tất cả chúng tôi đi xuống lầu đến phòng đựng các xá lợi và mở các ngăn tủ. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn thấy các xá lợi thiêng liêng này, ông lại đảnh lễ ba lần.

 Rồi ông trao cho tôi một món quà tặng chùa: một cây đèn dầu bằng vàng, cao khoảng hai mươi lăm centimét. Chúng tôi đặt cây đèn vàng trong căn phòng dưới hầm cùng với các xá lợi.

 Ba năm sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma và một ít tùy tùng cưỡi ngựa băng qua núi để chạy trốn sự chiếm đóng của người Trung Quốc ở Tibet. Ông sống lưu vong ở phía bắc Ấn Độ và câu chuyện buồn về Tibet bắt đầu được lan truyền khắp thế giới.

 Nhưng dĩ nhiên tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra được điều này, khi ông và tôi đứng cạnh bên nhau ở Sanchi.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn