Chương 12 - 20

25 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 31369)

Bhante Henepola Gunaratana & Jeanne Malmgren
HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Tự Truyện Của Bhante Henepola Gunaratana
Journey to Mindfulness: The Autobiography of Bhante G.
NXB Wisdom Publications 2003
Chuyển Ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh 2006 - NXB Phương Đông 2007

Chương 12
Giữa Những Người Hạ Tiện

 Mặc dầu tôi rất thích sống ở ngôi chùa trên đồi ở Sanchi, nhưng mà hình như lúc nào cũng có vấn đề, những vấn đề khá nghiêm trọng, khiến tôi dần dần bắt đầu nghĩ đến việc rời bỏ nơi này.

 Một buổi tối, người đầu bếp của chúng tôi, Anuruddha, đến gặp tôi và nói, “Đại đức Gunaratana, tôi đã hỏi mượn sư Pannatissa số tiền hai mươi lăm rupee. Sư bảo rằng không có tiền, vì đại đức chưa trả tiền cơm tháng rồi.”

 Tôi kinh hoàng. Mỗi tháng khi nhận được bảy mươi lăm rupee tiền chi tiêu từ hội Mahabodhi, việc đầu tiên tôi làm là trả ngay cho đại đức Pannatissa bốn mươi rupee tiền ăn uống. Tiếc thay tôi chẳng bao giờ đòi hỏi biên lai. Đối với giới luật của người tu, đó là một sự sỉ nhục. Chúng tôi phải tin lời nói của nhau, vậy mà giờ đại đức Pannatissa đã không ngại ngùng nói dối với người đầu bếp.

 Chiều hôm đó, vào giờ trà ẩm, đại đức Pannatissa và tôi gặp nhau ở nhà bếp, như lệ thường. Tôi ngồi kế bên ông trên một ghế đẩu thấp, và Anuruddha ngồi trên sàn nhà, cách chúng tôi không xa, đang chuẩn bị trà. Tôi quay qua đại đức Pannatissa.

 “Thưa, có đúng là sư đã bảo với Anuruddha rằng con chưa trả tiền ăn tháng rồi không? Sư biết rằng con đã trả rồi mà. Tại sao sư lại làm cho anh ta nghĩ rằng con không chân thật? Ngay nếu như con chưa trả cho sư, sư cũng nên nói với con trước. Chúng ta là những tỳ kheo duy nhất ở nơi này. Chúng ta có thể trao đổi với nhau bất cứ chuyện gì, như là những người bạn.”

 Đại đức Pannatissa mặt đỏ như trái gấc. Ông đứng dậy, đá cái ghế tôi đang ngồi và vùng vằng đi ra khỏi phòng.

 Tôi cũng có vấn đề với một trong những người cảnh sát Ấn Độ làm bảo vệ ở chùa. Một lần nọ, tôi đang tiếp một vài vị khách trong chánh điện, thì nhớ ra tôi cần phải lấy ít đồ nơi khu nội điện. Tôi bước vào phòng mình và thấy người cảnh sát đang lui cui nơi hộc tủ chúng tôi cất tiền bán sách trong tiệm sách nhỏ của chúng tôi.

 Ngay khi người cảnh sát vừa thấy tôi, ông vội rút tay ra khỏi tủ, trong tay còn nắm đầy tiền! Thật sự mà nói tôi cảm thấy xấu hổ cho ông hơn là giận dữ. Tôi không biết phải làm gì hay nói gì, vì thế tôi vội vã quay ra khỏi phòng.

 Ngay khi các vị khách vãng lai rời chùa, tôi gửi giấy nhắn cho viên thanh tra cảnh sát ở trong làng dưới đồi, mời ông đến gặp tôi.

 Chỉ một tiếng sau, ông ta đã có mặt. Tôi kể cho ông nghe chuyện gì đã xảy ra và yêu cầu ông thuyên chuyển viên cảnh sát đi nơi khác. 

 Sau khi vị thanh tra cảnh sát ra về, người cảnh sát tội lỗi vào, quỳ xuống chân tôi khóc, ông xin tôi tha thứ cho ông.

 “Anh đến đây để bảo vệ chúng tôi,” tôi nói. “Vậy mà tôi lại thấy anh ăn cắp tiền bán sách của chúng tôi. Tại sao anh lại làm một việc dại khờ như thế?” 

 Ngày hôm sau, vị tổng thanh tra cảnh sát ở tận Bhopal cũng đến. Ông hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra và tôi thưa chuyện lại với ông. Ông rất giận, nói rằng ông sẽ đuổi viên cảnh sát kia.

 “Xin ông đừng làm như thế,” tôi nói. “Anh ta là một người nghèo, có đông con cái phải chăm lo. Xin ông đừng đuổi anh ta; chỉ chuyển nhiệm sở đi chỗ nào khác. Tôi không muốn thấy anh ta ở đây nữa.” 

 Đó là những vấn đề khiến tôi suy nghĩ đến việc rời bỏ Sanchi.

 Ngoài ra còn một yếu tố khiến tôi muốn ra đi là việc tôi rất nôn nóng muốn đi học lại, nên khi một vị giáo sư ở Đại học Benares Hindi đến viếng thăm Sanchi, tôi cảm thấy cơ hội của mình đã đến. Đại đức tiến sĩ Hammalawa Saddhatissa dạy tiếng Pali ở trường đại học đó và đã viết nhiều cuốn sách về Phật pháp bằng tiếng Ấn Độ, Sinhala và tiếng Anh. Năm 1956, tôi được nghe một bài thuyết pháp rất đặc sắc của ông về ngày Phật đản sinh. Cá tính ôn hoà và trình độ hiểu biết Phật pháp sâu sắc của ông đã gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi. Tôi nhìn ông và thấy rằng đó chính là hình ảnh tôi hy vọng sẽ trở thành trong vài năm tới.

 Khi đại đức Saddhatissa đến viếng Sanchi, tôi đã nhờ ông giúp đỡ. Tôi thưa với ông rằng tôi đã học tiếng Anh một thời gian, nhưng rất khó tìm được những người thầy giỏi.

 “Để tôi gửi cho sư một đơn nhập học ở trường đại học,” ông nói.

 Tôi thật sung sướng. Trong khi chờ đợi, tôi nghĩ là mình cần phải chuẩn bị, vì tôi đã bỏ học một thời gian. Tôi quyết định viếng thăm một trường đại học cộng đồng nhỏ cách Sanchi khoảng một phần tư dặm để tìm một gia sư. Bằng cách ăn uống tiện tặn, tôi để dành được một phần tiền hàng tháng của tôi, do đó tôi có thể trả tiền thuê gia sư.

 Vị hiệu trưởng của trường đại học cộng đồng đồng ý kèm tôi học. Nhưng sau một vài buổi ông bắt đầu chấp vấn động lực khiến tôi muốn học tiếng Anh. Một ngày kia, ông vụt nói, “Sư là người tu, tại sao sư muốn học tiếng Anh?”

 Giọng ông đầy vẻ mỉa mai, chê trách, như muốn nói rằng, “Sư nghĩ sư là ai -một Bà La Môn giai cấp thượng lưu muốn có bằng đại học?” Tôi đoán biết ông nghĩ rằng tôi không có việc gì phải nghĩ đến chuyện học hành thành đạt.

 “Tôi không phải là một trong những người ăn xin Ấn Độ lõa thể, đi lang thang cùng khắp với khuôn mặt trát đầy than tro, xướng tụng tên các vị thần thánh Ấn Độ!” tôi trả lời. “Tôi là một tu sĩ Phật giáo, và tu sĩ Phật giáo có thể học bất cứ môn gì mà họ muốn. Tôi còn là thầy truyền giáo, vì thế tôi cần phải học tiếng Anh để dạy Phật pháp ở những xứ sở khác. Dầu ông có muốn dạy cho tôi nữa hay không, tôi vẫn tiếp tục học.”

 Chiều hôm đó, vị hiệu trưởng và phó hiệu trưởng đến chùa ở Sanchi. Tôi pha trà cho họ, và chúng tôi ngồi xuống nói chuyện. Vị hiệu trưởng xin lỗi đã chỉ trích tôi sáng nay. Ông nói rằng từ nay tôi có thể được kèm học miễn phí.

 Cuộc thi tuyển sinh vào đại học bắt đầu vào tháng 3, 1956. Tôi rời bỏ nhiệm sở ở Sanchi vào tháng hai và đi đến Benares lần đầu tiên. 

 Benares đã là và vẫn là một trong những thành phố đông dân cư nhất của Ấn Độ. Nó cũng là một trong những nơi thiêng liêng nhất. Rất nhiều người Ấn Độ trong những năm cuối đời họ đã đến Benares, sống ven bờ tây của dòng sông Gange huyền bí. Họ tắm trong dòng sông, rồi uống nước sông đó, dầu nó rất dơ bẩn. Họ tin rằng nếu họ chết ở đây, mặt hướng về phương đông, họ sẽ đi thẳng lên thiên đàng.

 Dọc theo bờ sông Gange là những lò hoả táng ngoài trời gọi là ghat, nơi người ta thiêu người chết. Đó là một quá trình thô sơ, không giống chút nào với việc hoả táng tân tiến. Trước hết, người chết được đặt trên một vài thanh củi trên một lò bằng sắt. Những miếng phân bò khô, giống như những miếng bánh tráng nâu, được đặt thẳng ngay lên thân người chết. Ghee (bơ tinh chất) được đổ lên người và củi, rồi đốt lửa, công việc này thường do người con trai trưởng của người chết thực hiện. Khi tử thi đã bị thiêu huỷ gần hết và lửa đã tắt, tro và những gì còn lại được thải xuống sông.

 Phần còn lại của Benares thì bụi bặm và ồn ào. Những con đường hẹp đầy ổ gà thì đông nghẹt với những chiếc xe đạp, xe máy, xe buýt, xe tải, xe hai bánh và xe ba bánh không mui. Bên đường, thiên hạ ngồi ngoài trời để đi vệ sinh. Các vị thực hành tôn giáo kỳ bí, những người mà người Ấn cho là các vị thánh, lõa thể lăn lộn trong bụi cát, ca tụng tên của thượng đế. Ăn xin, gồm người già và trẻ em, đi đầy đường với những bàn tay chìa ra.

 Những con chó hoang, dơ dáy, rụi lông chạy rong ngoài đường, mấy con bò cũng thế. Vì người Ấn Độ coi bò là thánh, nó được tự do đi nghênh ngang khắp đường phố. Đôi khi các chú bò này đi thẳng đến các hàng bán rau quả để gặm rau cải và trái cây. Chó, ngược lại, không được để ý hoặc bị đá ra khỏi đường.

 Ngay khi vừa đến Benares, tôi bắt đầu đi tìm chỗ trọ ở gần trường đại học. May mắn thay, khi đang đi trên campus (khuôn viên trường đại học), tôi gặp được một vị sư. Ông bảo tôi có thể đến ở chung dầu rằng chúng tôi vừa mới gặp nhau. Tình cờ ông cũng có cùng tên lót như tôi: Gunaratana. Ông cũng có một thứ mà tôi coi là rất quý giá: đó là một quyển sách giáo khoa tiếng Pali. Biết bao ngày chúng tôi đã cùng nghiền ngẫm quyển sách đó với nhau. Tôi không thể tin được sự may mắn của mình.

 Rồi chỉ hai ngày trước khi cuộc thi tuyển sinh bắt đầu, vị huynh đệ kia bỗng tuyên bố rằng ông sẽ dời đến ở chỗ khác. Duyên ở chung với nhau thật ngắn ngủi, tôi không còn chỗ nào để đi. Quá tuyệt vọng tôi đến văn phòng của hội Mahabodhi ở Benares cầu cứu. Vị sư ở đó ân cần tìm cho tôi phòng ở một chùa của người Burma gần trường. Từ chùa, chỉ đi bộ một đoạn ngắn là đến phòng thi.

 Tôi phải thi nhiều môn: tiếng Ấn Độ, Sanskrit, Pali, lịch sử Ấn Độ và Ấn Độ Giáo. May mắn thay tôi đã có học về Ấn Độ Giáo trong thời gian theo học ở trường Phật học Vidyalankara.

 Mỗi môn thi vào một ngày khác nhau. Một ngày trước ngày thi, tôi tìm gặp người bạn Gunaratana để hỏi mượn quyển sách Pali của ông trong vài tiếng đồng hồ.

 “Sư có biết về ngũ giới không?” ông hỏi. "Bát giới? Thập giới? Sư cần biết có vậy, vì họ cũng sẽ chỉ hỏi có vậy. Hơn nữa, tôi cũng đã mất quyển sách Pali đó rồi."

 Chỉ còn vài giờ nữa là đến giờ thi, tôi rất cần quyển sách đó, nên tôi đến tìm Đại Đức Sadhatissa, nhờ ông giúp đỡ. Ông đưa cho tôi một quyển sách Pali, và nói, “Tuần rồi tôi cũng đưa copy của quyển sách này cho một vị cũng tên Gunaratana. Lý ra sư có thể hỏi mượn người đó trong vài giờ."

 Suốt đêm tôi cắm cúi học quyển sách Pali đó. Sáng hôm sau, khi bước vào phòng thi, vị giám khảo bảo chúng tôi phải để tất cả các xách tay trên bàn ngoài hành lang. Khi tôi sắp trở lui ra cửa, Gunaratana dúi túi xách của ông vào tay tôi, nhờ tôi đặt nó lên bàn với các túi xách khác.

 Dĩ nhiên, ngay khi vừa ra đến hành lang, tôi lén nhìn vào túi xách của Gunaratana. Đúng như tôi đã nghi ngờ, trong đó có quyển sách Pali mà ông đã nói rằng ông không có. Đó không phải là lần đầu tiên hay là lần cuối cùng mà tôi khám phá ra một huynh đệ đã phạm giới. Nó khiến tôi rất buồn, vì người tu sĩ lý ra phải làm gương cho hàng cư sĩ. Người cư sĩ đã hết lòng tin tưởng chúng ta. Chúng ta đã truyền giới cho họ, nhưng nếu chính bản thân chúng ta không tuân theo các giới luật này, thì chúng ta là những người đạo đức giả.

 Dầu chỉ có một vị tu sĩ bị bắt gặp nói dối, điều đó cũng ảnh hưởng đến lòng tin của họ đối với tăng đoàn. Người ta bắt đầu kết tội chung rằng có thể tất cả các tu sĩ đều nói dối. Vì thế các vị tu sĩ chân chính phải cố gắng hơn nữa để có được lòng tin và sự tôn kính của người khác.

 Tôi cảm thấy buồn bất cứ khi nào tôi thấy ai nói dối, vì tôi biết rằng họ sẽ phải gánh chịu hậu quả xấu tới đâu. Tôi biết điều đó bằng kinh nghiệm bản thân của mình. Hồi còn nhỏ khi tôi nói dối, tôi phải làm bất cứ điều gì để che đậy sự giả dối đó. Tôi nói dối điều này để che giấu điều khác, rồi lại dối nữa để che đậy lời nói dối sau cùng. Dần dần, tôi chìm đắm trong sự gian dối và cảm thấy tội lỗi vô cùng. Phải một thời gian dài, có lẽ cho đến sau khi tôi đã thọ đại giới, tôi mới nhận ra mình đã sống giả dối như thế nào và đã phải đau khổ biết bao nhiêu khi sống trong giả dối. Cuối cùng tôi mới hiểu lời Phật dạy về sự giả dối, trong kinh Pháp Cú: “Người nói dối đã phạm luật (của sự chân thật), người ấy từ đó phải chịu sự quở trách, và không có điều xấu gì mà họ không thể làm.”

 Cuối năm đó, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một nhóm người mà sau này trở thành một phần quan trọng trong công việc truyền giáo của tôi: những người hạ tiện. Nhóm người này ở tận cùng của chế độ phân chia giai cấp khắt khe trong xã hội Ấn Độ. 

 Chế độ phân chia giai cấp cũng lâu đời như là Ấn Độ giáo, đã hơn ba ngàn năm, và vẫn còn bền vững. Người theo Ấn Độ giáo tin rằng một người được sanh vào một giai cấp nào đó, dầu cao hay thấp, là tuỳ theo ý muốn của đấng tạo hoá. Có bốn giai cấp chánh.

 Bà La Môn, là giai cấp thượng đẳng, được tin là sanh ra từ miệng của đấng Brahma. Bổn phận của họ là phải học kinh Vệ đà (Kinh thánh Ấn Độ giáo), dạy cho các Bà la Môn khác, giảng đạo, hành các lễ nghi tôn giáo, phục vụ, cố vấn nhà vua cách trị vì xứ sở.

 Giai cấp thứ hai, gọi là Kshatriyas (nghĩa là “những người cai trị”), được cho là sanh ra từ nách của đấng Brahma. Những người Kshatriyas là các chiến sĩ và các vị vua vì thế họ được quyền sử dụng vũ khí để củng cố luật lệ và bảo vệ xứ sở.

Giai cấp thứ ba là Vaisyas. Họ được coi là sanh ra từ bụng của đấng Brahma. Bổn phận của họ là nuôi dưỡng dân chúng. Do đó họ nắm giữ một số nghề nghiệp khác nhau như là: nông dân, nhà buôn, người trao đổi hàng hóa. Họ cũng tham gia vào các dịch vụ thương mại như ngân hàng, chứng khoán, cho vay và kinh doanh. 

 Giai cấp thứ tư là Sudras, được tin là sanh ra từ chân của đấng Brahma. Họ làm những công việc thấp hèn như là giúp việc nhà cho các giai cấp cao hơn hoặc lượm lặt đồng nát hay những thứ có thể tái chế. 

 Người Hạ tiện thì còn dưới cả giai cấp Sudras rất nhiều đến nỗi họ không được coi là có một giai cấp. Họ buộc phải làm những công việc tay chân rất gớm ghiếc như là: dọn dẹp ống cống, kéo rác, dọn dẹp xác súc vật chết ngoài đường và nhặt phân bò để làm nhiên liệu. Khi tôi ở Ấn Độ, giai cấp hạ tiện không được quyền đi học, hay đi xem phim, hoặc đến tiệm ăn, vào công viên, vì họ có thể làm 'lây nhiễm' cho những người ở giai cấp cao hơn. Khi đi ra đường, họ bị buộc phải mang một cái chuông quanh cổ, để cho người khác có thể nghe họ đến gần mà tránh xa đi. Những người hạ tiện này không được phép uống nước ở các giếng nước công cộng; nước uống của họ phải lấy từ các cống rãnh ngoài trời.

 Khi người Anh cai trị Ấn Độ, họ ra các luật chống lại sự phân biệt dựa trên giai cấp này. Năm 1947, hiến pháp mới ở Ấn Độ đã chính thức xoá bỏ chế độ phân chia giai cấp, dầu vậy nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Ý tưởng phân chia giai cấp đã quá ăn sâu trong tín ngưỡng của Ấn Độ giáo, lại được các giai cấp thượng lưu ủng hộ, nên gần như không thể nào xoá bỏ được. Hôn nhân giữa các giai cấp gần như không hiện hữu, và các nhà chính trị thường lợi dụng sự phân chia giai cấp để làm lợi cho mình.

 Điều đó rất giống như sự phân chia màu da mà tôi đã thấy ở Mỹ, dầu không được chấp nhận một cách chính thức, nhưng mà nó vẫn hiện hữu một cách vi tế và rất khó biết để xử phạt.

 Đức Phật đã phản đối việc phân chia giai cấp một cách quyết liệt như ta đã thấy rõ trong kinh Pháp Cú:
 
 Không phải vì màu tóc, không phải vì gia tộc, không phải vì sinh ra ở đâu mà người ta trở thành người thánh thiện. Nhưng người có lòng tin và chân thật, người ấy trong sạch, người ấy là người thánh thiện. Màu tóc của ngươi thì có nghĩa lý gì, hỡi những kẻ vô minh? Quần áo sang trọng của ngươi che giấu được điều gì? Trong tâm ngươi tán loạn; thì ngươi chỉ làm sạch được ở phía bên ngoài.
 Ta không gọi một người là thánh thiện bởi vì dòng tộc hay bởi vì mẹ họ quyền quí. Nếu người ấy đầy các chướng ngại, bám víu, thì người ấy chỉ là một người cao ngạo. Nhưng nếu người ấy được giải thoát khỏi chướng ngại, bám víu, thì ta gọi đó là người thánh thiện.

 Và trong kinh Vasala thuộc tạng kinh Khuddaka, Đức Phật giảng về một định nghĩa chính xác của một người không được xã hội chấp nhận, hay người đã bị loại ra khỏi chế độ phân chia giai cấp: "Không phải do sinh ra ở đâu mà người đó bị ruồng bỏ. Không phải do sinh ra ở đâu mà người đó là một Bà La Môn. Nhưng do hành động khiến họ bị ruồng bỏ. Do hành động khiến họ là một Bà La Môn.” 

 Nói một cách khác, một Bà La Môn có thể trở thành một kẻ hạ tiện và một người hạ tiện có thể trở thành một Bà La Môn, tuỳ thuộc vào hành động và sự bám víu của họ. Không phải vì do ai sanh ra mà có thể quyết định được số phận của chúng ta, đó là do những gì chúng ta đã làm trong cuộc đời. Đây là một trong những quan điểm căn bản mà người Phật tử có cái nhìn khác với người Ấn Độ giáo.

 Khi tôi ở Ấn Độ vào khoảng những năm 1950, có tám mươi triệu người thuộc giai cấp hạ tiện. Tháng 10 năm 1956, bác sĩ Bhimarao Ambedka, vị lãnh đạo xuất sắc của phong trào đòi thay đổi cuộc sống của người hạ tiện, đã cải đạo thành Phật giáo, một tôn giáo mà ông đã khám phá, oái ăm thay, trong thời gian học tại Anh. Đối với Ambedkar, Phật giáo là con đường của lòng bi mẫn, là lối thoát ra khỏi hệ thống phân chia giai cấp khắc nghiệt mà Ấn Độ giáo ủng hộ.

 Đối với những người hạ tiện, câu chuyện đời của bác sĩ Ambedkar là một nguồn cảm hứng tuyệt vời. Khi còn là một cậu bé, ông lắng nghe các bài giảng bên ngoài các lớp học mà ông bị cấm không được vào vì giai cấp của mình. Một ngày kia, khi không có ai trong lớp có thể giải một bài toán, người thầy giáo đã gọi Ambedkar vào lớp để thử giải trên bảng. Ông đã giải được bài toán, nhưng những đứa trẻ khác sau đó đều vứt túi đựng đồ ăn trưa của chúng vào sọt rác vì đã có bóng của ông in lên khi đi ngang qua chúng.

 Được cha khuyến khích, Ambedkar tiếp tục học hành. Những năm học trung học, ông phải ngồi bên ngoài để dự các kỳ thi. Nhưng điểm thi của ông rất cao đến nỗi vị thống đốc của bang cũng chú ý đến người thanh niên trẻ này, và giúp đỡ để ông được sang học tại New York, rồi sau này là London. Ở đó, trong một thế giới không có sự phân chia giai cấp, tài năng của Ambedkar đã nở rộ. Ông có bằng về luật và hai bằng tiến sĩ về triết và kinh tế.

 Tuy nhiên, lần đầu tiên khi ông bước vào tòa án Ấn Độ với tư cách là một luật sư, thì tất cả mọi người trong phòng -thẩm phán, các vị luật sư khác, bồi thẩm đoàn, và những người dự thính- đều bỏ ra ngoài. Chế độ phân chia giai cấp vẫn còn rất mạnh mẽ.

 Vì thế Ambedkar tham gia chính trị. Ông dễ dàng được một ghế trong quốc hội vì tất cả những người hạ tiện ở bang Maharashtra đều bầu cho ông. Khi Ấn Độ sẵn sàng để tuyên bố độc lập khỏi sự thống trị của Anh năm 1947, Ambedkar là chủ tịch của hội đồng phác thảo bản hiến pháp mới của xứ sở này. Trong đó có những đoạn nói đến sự thống khổ của những người hạ tiện và những người thuộc giai cấp thấp. Hiến pháp mới đề nghị cho họ học bổng ở các trường dạy nghề, được ở nhà dành cho người có thu nhập thấp, được giảm thuế và những sự giúp đỡ khác về kinh tế.

 Ambedkar là một người anh hùng đối với những người hạ tiện. Ông là vị lãnh đạo được họ kính trọng, yêu thương suốt mười năm, và khi ông cải đạo sang Phật giáo, nửa triệu người hạ tiện cũng làm theo gương ông. Đáng tiếc, hai tháng sau đó ông đã ra đi, vào tháng 12 năm 1956.

 Vì tôi nói tiếng Ấn Độ giỏi, tôi thường được yêu cầu đi giao tiếp với những người hạ tiện đã cải đạo sang Phật giáo, nhất là sau khi Ambedkar mất. Tháng 12 năm 1956, không lâu sau khi Ambedkar mất, một buổi sáng kia, đại đức Pannatissa đến gặp tôi lúc bốn giờ rưỡi. Đi cùng với ông có hai người nghèo khổ, áo quần tả tơi. “Đây là những người hạ tiện,” đại đức Pannatissa bảo với tôi. “Hôm nay tro của Ambedkar sắp được mang đến Nagpur để thờ trong nhà tưởng niệm. Và hàng ngàn người hạ tiện đang chờ đợi ở đó để được quy y. Họ cần một vị tu sĩ để truyền năm giới và quy y tam bảo cho họ. Sư có thể đi không?"

 “Thưa vâng, dĩ nhiên là được rồi.” tôi đáp, không một chút do dự. 

 Cuộc hành trình bằng xe lửa mất gần một ngày. Chúng tôi đến Nagpur vào khoảng ba giờ chiều. Rồi chúng tôi lại lấy xe buýt đi khoảng sáu mươi dặm nữa đến Amarawati, mất thêm năm tiếng nữa.

 Khi chúng tôi đến Amarawati, tôi thật kinh hoàng khi nhìn thấy hàng ngàn người tụ tập trên một cánh đồng trống cạnh bên những tòa chung cư cao ngất mà chính phủ đã xây dựng cho người hạ tiện. Người ta ở khắp nơi, hoặc đứng hay ngồi trên mặt đất. Trẻ con, bò, chó, và gà tự do đi rong khắp nơi.

 Ngay khi họ nhìn thấy tôi trong y áo người tu, một giọng tụng lớn bằng tiếng Marathi nổi lên từ đám đông: “Bhagavan Buddhanca jayaho! ahaparinirvanprapta parama puyya baba saheb doctor. Ambedkar yanca jayaho!" (Đảnh lễ Đức Thế Tôn! Đảnh lễ vị giáo sư tiến sĩ Ambedkar, người xứng đáng được kính trọng vô cùng và đã đạt được giải thoát cuối cùng!).

 Âm thanh của một trăm ngàn giọng nói tán thán Đức Phật và tán thán vị lãnh đạo vừa mất của họ là một âm thanh rung động tuyệt vời, và gần như làm điếc tai người nghe.

 Tôi leo ba bậc thang lên một sàn gỗ nhỏ, và một người vẫy tay ra hiệu cho đám đông im lặng.

 Tôi cầm lấy micro, đọc lời quy y tam bảo và truyền ngũ giới cho họ bằng tiếng Pali. Đám đông nhiệt tình hưởng ứng, lặp lại những câu kinh truyền thống sau khi tôi đã xướng chúng. Chưa từng có bao giờ và cũng chưa từng xảy ra sau này việc tôi đã truyền giới cho một đám đông người như thế. Thật là phấn khởi. Những giọt nước mắt vui mừng làm cay mắt tôi.

 Sau khi đã xong phần quy y và truyền giới, tôi được mời thuyết pháp. Vì chuyến đi này quá bất thình lình, tôi đã không kịp chuẩn bị gì. Dù thế, tôi vẫn cố gắng để thuyết pháp trong ba mươi phút bằng tiếng Ấn Độ về sự quan trọng của việc quy y và thọ giới, và về việc trở thành một người Phật tử bằng chính sự tự do lựa chọn của mình. Ngày hôm sau, bài nói chuyện ngay tại chỗ của tôi được tóm tắt và đăng trong tờ báo hằng ngày. 

 Suốt bốn ngày sau đó, tôi luôn phải giao tiếp với những nhóm người hạ tiện từ khắp nơi trong vùng đó của Ấn Độ. Người ta đưa tôi đi từ cuộc họp này sang cuộc họp khác, bắt đầu từ bảy giờ sáng và đôi khi tiếp tục cho đến thật khuya trong đêm. Những người hạ tiện này hình như rất đói khát các món ăn tinh thần.

 Vào ngày 24 tháng mười hai, chúng tôi đến Wardha, một thành lũy của Ấn Độ giáo. Đây là lần đầu tiên một buổi họp ở nơi công cộng dành cho Phật tử được tổ chức ở đây.

 Vào lúc mười giờ tối đó tôi đi ngủ, mệt nhoài vì chương trình liên tục của mấy ngày vừa qua.

 Ngay sau khi tôi vừa vào giường, một người đàn ông chạy vào phòng tôi, đưa cho tôi một lá thư, rồi chạy ra. Lá thư được viết bằng tiếng Anh. “Đừng dự buổi họp ngày mai,” lá thư cảnh báo, “nếu không người ta sẽ giết ông.”

 Tôi gọi người chủ nhà, và đưa cho ông xem lá thư. Ông cau mày lo lắng.

 “Ai đưa cho sư cái này?” ông hỏi. 

 Tôi tả lại người đàn ông đã chạy vào phòng tôi. Người chủ nhà lắng nghe chăm chú, rồi đi kêu gọi thêm vài người đàn ông nữa để canh gác phòng tôi suốt đêm.

 Tôi cố gắng ngủ. Nhưng khoảng một tiếng sau, tôi nghe lào xào ở ngoài hành lang.

 “Chúng tôi muốn thưa chuyện với Swamiji,” tôi nghe một vài giọng nói cùng một lúc. Họ dùng cách gọi phổ biến của người Ấn Độ để bày tỏ lòng cung kính đối với người tu. Nó có nghĩa là “Sư kính mến.” 

 "Không được," người chủ nhà trả lời. "Đại đức đã mệt. Ông ấy đã thuyết pháp không ngừng nghỉ suốt mấy ngày nay, nên cần được nghỉ ngơi. Không ai được gặp ông tối nay."

 Họ phản đối, "Swamiji không phải chỉ của ông, mà của chúng tôi nữa. Hãy cho chúng tôi gặp đại đức."

 "Không! Đại đức đang nghỉ. Hãy đi đi."

 "Chúng tôi sẽ không đi đâu cho đến lúc được gặp Đại đức."

 Cuộc giằng co kéo dài thêm một lúc nữa, rồi cuối cùng các vị khách cũng đồng ý ra về, khi người chủ nhà hứa sẽ cho họ được gặp tôi ngày hôm sau.

 Người chủ nhà xin lỗi tôi vì sự náo động vừa xảy ra.

 "Swamiji, đây là địa bàn của người Ấn Độ giáo," ông nói. "Có rất nhiều kẻ cuồng tín về tôn giáo và chủng tộc ở đây. Họ không thích việc Sư giảng giải Phật Pháp ở đây. Lại còn việc quá nhiều người Hạ tiện cải đạo sang Phật giáo là quá nguy hiểm. Nếu ai mời Sư đi dự hội họp ở đâu ngày mai, xin đứng đi. Không an toàn đâu."

 Nhưng đã có một buổi hội họp dự định vào ngày hôm sau lúc 4 giờ chiều, ở một thành phố gọi là Goregaong, cạnh bên một dự án xây nhà cho người Hạ tiện. Tôi phải làm lễ quy y, truyền giới và thuyết pháp cho một đám đông khác. Khi lái xe đến đó, chúng tôi đi qua những đoàn người đang hào hứng tiến về nơi tập họp.

 Ở cửa ra vào xảy ra việc lộn xộn -xô đẩy nhau, chửi bới nhau. Tôi được dặn cứ ở trong xe cho an toàn.

 Cuối cùng khi mọi thứ đã trật tự trở lại, tôi được bảo vệ đưa đến một khán đài vừa dựng tạm lên. Người tổ chức báo rằng đã có vài kẻ côn đồ muốn xông vào phá cuộc mít-ting. Chúng đòi tôi phải đi theo chúng mà không được thuyết pháp, rồi ấu đả với những người tổ chức chương trình khi những người này từ chối giao tôi cho họ. Có một người bị gãy chân trong cuộc hỗn chiến, còn đồng bọn thì đã tháo chạy.

 Sau này tôi được biết tôi đã thoát được một vụ mưu tính bắt cóc trong gang tấc.


Chương 13
Dưới Cây Đại Bồ Đề

 Mùa hè năm 1956 tôi sốt sắng lên kế hoạch để rời khỏi Sanchi. Dầu rất yêu thích ngôi chùa này và công tác Phật sự của tôi ở đó, nhưng tôi đã chán ngán cách đối xử không tốt của đại đức Pannatissa. Tuy nhiên hợp đồng tôi ký ban đầu với hội Mahabodhi là năm năm, vậy là vẫn còn ba năm nữa.

 Một ngày kia chùa đón tiếp một nhóm các vị khách rất đặc biệt, trong đó có đại sư Narada và đại đức K.Dhammananda. Vào lúc đó, đại sư Narada là một vị giảng sư nổi tiếng nhất ở Ceylon, vì sư có thể giảng pháp bằng cả hai thứ tiếng Sinhala và tiếng Anh, và đại đức Dhammananda là chủ tịch của Tăng Đoàn Phật giáo ở Malaysia.

 Tôi biết đại đức Dhammananda có một ngôi chùa rất lớn ở Kuala Lumpur. Tôi đánh bạo đến bên đại đức và hỏi nếu như người có cần một tu sĩ trẻ ở Malaysia.

 “Có chứ,” Sư trả lời. “Nếu sư thích đến Malaysia, tôi sẽ giúp. Cho tôi biết khi sư đã sẵn sàng.”

 Vài phút sau đó, đại sư Narada bỗng nhiên nói với tôi: “Gunaratana, kiến thức của sư về Sanchi và cách sư giải thích về các khắc chạm trên cổng rất tốt. Sư lại nói được tiếng Anh, tôi có thể dàn xếp cho sư đến Malaysia nếu muốn.”

 Hai lời mời đầy hứa hẹn trong năm phút –tôi thật là may mắn! Tôi thưa với cả hai vị sư rằng tôi bị ràng buộc bởi một hợp đồng năm năm với hội Mahabodhi, nhưng tôi sẽ xem nếu tôi có thể dàn xếp như thế nào đó. 

 Điều mà tôi không thưa với họ là tôi cũng đã nhận được một lời mời khác vài tháng trước đó, khi Devapriya, Tổng thư ký của hội Mahabodhi, đến thăm Sanchi. Sau khi tôi chất vấn đại đức Pannatissa về việc không chân thật với người đầu bếp, đại đức đã than phiền với Devapriya rằng ông không muốn có một tu sĩ như Gunaratana ở trong chùa của ông nữa. Devapriya không nói gì đáp lại, nhưng sáng hôm sau ông mời tôi cùng đi với ông đến Bhopal. Ông muốn nói chuyện riêng với tôi, và trên xe lửa, ông nói thẳng với tôi rằng ông biết đại đức Pannatissa là người không thành thật.

 “Tôi muốn sư chuyển đến Calcutta hay Bodhgaya,” ông nói. “Tôi sẽ gửi cho sư một lá thư bổ nhiệm mới.”

 Trong khi chờ đợi lá thư đó, tôi tự viết một lá thư gửi cho vị Cao ủy ở New Delhi. Hộ chiếu khẩn cấp của tôi, được xuất khi tôi rời Ceylon để đến Ấn Độ, sẽ hết hạn trong một vài tháng và cần phải được gia hạn.

 Đến tháng 12, 1956, tôi vẫn chưa nhận được hồi âm, và tôi bắt đầu lo lắng. Hộ chiếu của tôi sẽ hết hạn vào cuối tháng giêng, vì thế tôi lại viết một lá thư khẩn thiết hơn.

 Vào ngày 5 tháng 1, với không hơn ba tuần còn lại trên hộ chiếu của mình, tôi nhận được thư trả lời. Vị Cao uỷ gửi cho tôi một lá đơn xin hộ chiếu khẩn cấp mới và bảo nếu tôi nộp đơn trở lại với sự bảo lãnh của một bác sĩ hay luật sư uy tín ở Ceylon, thì đơn của tôi sẽ được chấp thuận. Một lần nữa, vì tôi không có đồng nào, tôi lại cần một người đỡ đầu.

 May mắn thay một vị bác sĩ người Ceylon đã đến thăm viếng Sanchi vài ngày sau đó. Tuy nhiên khi tôi nhờ ông ký giùm giấy bảo lãnh, ông từ chối vì cảm thấy ông chưa biết tôi đủ. Vài ngày sau đó, lại có một vị luật sư đến Sanchi. Ông mời tôi cùng đi với ông trong chuyến hành hương để thăm viếng bốn thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ. Tôi nghĩ rằng nếu tôi đi với người này, ông ta có thể giúp tôi, vả lại tôi vẫn luôn mong muốn được thăm viếng những nơi này.

 Ngày hôm sau chúng tôi lên đường, hướng đến New Delhi. Buổi sáng kế tiếp, chúng tôi viếng đền thờ Taj Mahal lộng lẫy ở Agra. Rồi, sau khi chúng tôi đến New Delhi tôi nhờ vị luật sư ký giấy bão lãnh để tôi xin hộ chiếu khẩn cấp. Ông bảo rất vui lòng.

 Tôi đến văn phòng của vị Cao ủy, và đối mặt với người đã phớt lờ lá thư mà tôi gửi bảy tháng trước đó.

 “Thưa ông,” tôi nói, “tôi đã gửi cho ông một lá đơn bảy tháng về trước. Ông có nhận được không?”

 “Đừng hỏi tôi bất cứ điều gì về việc đó,” vị cao ủy ngắt lời. 

 “Tại sao không?” tôi hỏi.
 “Tôi cũng không thể trả lời câu hỏi đó.”

 Tôi giận sôi và sự ngông cuồng của tuổi trẻ nổi lên trong tôi. Tôi tức giận vì nghĩ do tôi là một tu sĩ, nên bị coi thường. Tôi cũng giận vì phải cần người làm chứng cho mình.

 “Thưa ông, tôi đã đi sáu trăm cây số để gia hạn hộ chiếu với ông. Ông đại diện cho xứ sở của tôi ở Ấn Độ này. Tôi có quyền để hỏi ông những câu đơn giản này chứ.”

 Bỗng nhiên người luật sư lên tiếng.

 “Tôi đến đây để giúp vị tu sĩ này, nhưng giờ tôi cảm thấy phải phản đối ông ấy. Ông ấy nghĩ mình biết hết mọi việc.”

 “Tôi không nghĩ là tôi biết tất cả mọi việc,” tôi chống chế. “Nhưng tôi biết mình có quyển để hỏi vị này một câu hợp lý.”

 Người luật sư chồm tới và nói nhỏ vào tai tôi. “Đừng lo, tôi đồng ý với sư. Vị Cao ủy này là người cao ngạo, đáng ghét, nhưng ông ta có quyền từ chối không cho sư hộ chiếu, vì thế tốt hơn hết là hãy kiên nhẫn với ông ta.”

 Dĩ nhiên, người luật sư nói đúng. Không bao giờ nên tranh cãi với người có quyền hạn mà người đó lại tự mãn với quyền lực của mình. Tôi không nói thêm một lời nào nữa và vị cao ủy, với một nụ cười gượng gạo, nói rằng ông sẽ gửi hộ chiếu mới đến Sanchi cho tôi trong ba ngày tới. Chúng tôi rối rít cảm ơn ông, chào đi, chào lại, rồi đi ra.

 Cuộc hành hương của chúng tôi bắt đầu ở Kushinagar, nơi Đức Phật nhập diệt ở miền Bắc Ấn Độ. Ở đó có một ngôi chùa bằng vàng nhỏ, với chỉ một vị sư già trông coi. Vị sư này rất thân thiện, dẫn chúng tôi đi cùng khắp quanh chùa. Tôi cảm thấy tràn đầy niềm vui được đến nơi mà Đức Phật đã từng có mặt. Vị lão sư và tôi đọc lại một số đoạn của Kinh Mahaparinibbana (Kinh Đại Niết Bàn), chứa đựng những lời dạy của Đức Phật ngay trườc khi Ngài nhập diệt: “Hãy tinh tấn tu tập giải thoát. Đừng sao lãng việc tu tập.”

 Chỉ hai câu đơn giản đó đã tóm tắt tất cả bốn mươi lăm năm thuyết pháp của Đức Phật. Điều Đức Phật muốn nhắn nhủ là người tu hành không được lãng phí một giây phút nào. Chúng ta phải luôn cố gắng chánh niệm không ngừng, với mục đích là để hiểu được chân lý cuộc sống, để chúng ta có thể được giải thoát khỏi khổ đau. Đây là những lời Đức Phật thuyết giảng cho các đệ tử của ngài trong một bài kinh khác:

 Đừng sống trong quá khứ,
 hay hy vọng ở tương lai,
 vì quá khứ đã qua
 và tương lai chưa tới.
 Dùng trí tuệ để thấy
 từng giây phút phát khởi;
 hãy biết và biết rõ điều đó,
 không suy chuyển, chẳng nghi ngờ 
 Phải cố gắng hôm nay;
 ngày mai ai biết được, thần chết đến hay không? 
 Không thể trì hoãn với tử thần,
 không thể xua đuổi hay tránh né,
 ai siêng năng quán tưởng (điều đó)
 đêm ngày không ngừng nghỉ
 bậc hiền triết sẽ nói người đó
 được duyên lành theo sau.

 Sau thời gian ở Kushinagar, chúng tôi đi taxi đến Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sinh, ở ngay biên giới với Nepal.

 Lâm Tỳ Ni rất xuống cấp, cỏ mọc đầy, và bò tự do chạy rong. Chỉ có một đền thờ nhỏ đánh dấu nơi mẹ của thái tử Siddhattha, hoàng hậu Mahamaya đã lâm bồn trong rừng cây. Một trụ đá do vua Ashoka dựng lên, để báo rằng đây là nơi thái tử Siddhattha Gotama được sinh ra. Gần đó trong một túp lều chỉ vừa đủ lớn để bước vào, có một bàn thờ bằng đá có khắc cảnh hoàng hậu Mahamaya níu vào một cành cây, trong khi các cung nữ giăng màn che quanh bà. Bàn thờ chất đầy hoa tươi, đèn nhang.

 Chúng tôi ngồi tọa thiền ở đó một lúc. Đó là một nơi đặc biệt nhưng tôi cảm thấy buồn khi thấy một thánh địa không được ai chăm sóc. 

 (Hiện tại, Lâm Tỳ Ni đã tốt hơn. Xứ Nepal, dầu quốc đạo là Ấn Độ giáo, vẫn cho phép các Phật tử trùng tu lại nơi Phật đản sinh. Một vài quốc gia, kể cả Tích Lan và Burma, cũng đã có chùa ở đó, và “ngôi chùa hoà bình” quốc tế vĩ đại đã được dựng lên).

 Ngày hôm sau chúng tôi đến Sarnath, miền bắc Ấn Độ, nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên trong Vườn Nai (Deer Park) nổi tiếng. Trong lúc đi quanh những vườn cây yên tĩnh đầy xoài, ổi và các loại cây nhiệt đới khác, tôi gặp Ponnamperuma, một người bạn làm việc ở văn phòng hội Mahabodhi vùng Sarnath.

 “Huynh nhận được thư chưa?” ông hỏi tôi ngay lập tức.

 “Thưa chưa, ” tôi trả lời.

 “Có một lá thư bảo đảm của đại học Benares gửi đến văn phòng chúng tôi. Lá thư đề chỉ trao cho đại đức Gunaratana, vì thế tôi mang lá thư đến cho một tu sĩ cùng tên ở Benares. Ông mở thư ra và nói rằng đó là thư của Sư, không phải của ông. Ông ấy bảo sẽ chuyển thư cho sư.”

 Vì chúng tôi đang ở gần Benares, nên tôi đến chùa, tìm đại đức Potuwila Gunaratana. Đó là vị tăng sĩ mà tôi đã sống chung một thời gian ngắn, ngay trước kỳ thi tuyển sinh đại học. Ông đã từ chối cho tôi mượn sách và đã nói dối với tôi. Tôi biết ông không phải là bạn mình. 

 “Tôi đã chuyển thư cho Sư lâu rồi,” ông bảo tôi. “Có thể bưu điện đã làm mất.”

 Tôi nghi là ông đã nói dối, nhưng điều tôi quan tâm nhất là nội dung lá thư.

 “Sư đã mở thư,” tôi nói. “Vậy thư nói gì?” 

 “Tôi không biết, tôi không đọc kỹ,” ông trả lời. “Hình như về đơn xin nhập học của ông. Hình như đã bị từ chối.”

 Ông mỉa mai. Hình như ông rất thích thú về điều đó.

 Không thể hỏi thêm được điều gì, nên tôi đến gặp đại đức Hammalawa Saddhatissa, là vị giáo sư người Benares, người đã khuyên tôi nộp đơn vào đại học. Ông bảo đúng là tôi đã bị từ chối, nhưng ông giúp tôi tìm ra lý do tại sao: tôi đã quên ký tên vào phía sau bức ảnh mà tôi nộp với đơn xin nhập học, và thế là đơn nhập học của tôi không được xét đến!

 Còn năm ngày nữa mới hết thời hạn, và đại đức Saddhatissa khuyên tôi nên nộp một đơn nhập học mới. Tôi báo cho người bạn luật sư biết tôi cần ở lại Benares một vài ngày và khuyên ông nên tiếp tục cuộc hành trình một mình. Rồi tôi bắt đầu bị cuốn vào việc phải chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để nộp đơn trở lại. 

 Trước hết tôi phải chụp ảnh lại và tôi đã van nài người thợ ảnh nhanh chóng rửa ảnh. Nhưng tôi không tìm ra được tờ đơn xin nhập học nào -trường đại học cũng không còn. Có người mách rằng Potuwila Gunaratana có thể còn vài tờ, nên tôi lại cùng với Ponnamperuma, người bạn ở hội Mahabodhi, đến phòng vị này. Đứng ở cửa, Gunaratana nói ông không còn tờ đơn nào nữa, nên chúng tôi quay đi.

 “Ponnamperuma, tại sao ông đến đây với con người khốn khổ đó?” vị tu sĩ gọi với theo. Dĩ nhiên là ông ám chỉ tôi. “Nếu ông đi một mình, có thể tôi sẽ cho ông một tờ đơn. Nhưng ông đi với người đó . . . thì hãy quên đi!”

 Lần nữa tôi lại quay qua đại đức Saddhatissa cầu xin giúp đở. Cả hai chúng tôi đi khắp trường cho đến khi chúng tôi tìm được người có dư một tờ đơn. Lúc đó đã chín giờ rưỡi tối, đêm hôm trước ngày hết hạn nộp đơn. Ngày đã qua đi nhanh chóng và không còn thời gian nữa. 

 Tôi ngồi xuống để điền đơn. Ngay hàng đầu tiên người ta đã đòi biên lai chứng nhận rằng tôi đã nộp mười lăm rupee trong lần nộp đơn trước. Họ đòi con số trên tờ ngân phiếu mà tôi đã gửi và dĩ nhiên tôi không thể nào nhớ được chi tiết đó.

 Vì thế sau tất cả những cố gắng điên cuồng đó, tôi cũng đành bó tay. Tôi không thể nộp đơn xin học. Lúc đó, trước khi máy vi tính trở thành thông dụng, một việc đơn giản như thế cũng có thể khiến người ta không thể nộp đơn và vì thế tôi không thể vào đại học.

 Để giảm bớt sự thất vọng của mình, tôi quyết định tiếp tục cuộc hành hương. Tôi tụ họp một số bạn để cùng đi đến Bodhgaya. 

 Đến được đó, ở tại nơi mà Đức Phật đã đạt được giác ngộ, khi ngồi dưới cội cây, tôi cảm thấy như được tái sinh. Khi được nhìn thấy cây bồ đề to lớn, xum xuê, trong tôi tràn đầy xúc động và hạnh phúc với tâm chí thành. 

 Tuy nhiên, đó không phải là cây Ficus religiosa đầu tiên đã được trồng ở đó vào thời Đức Phật còn tại thế. Cây bồ đề nguyên thủy đã bị hủy diệt -đốt cháy và đầu độc- bởi vợ của vua Ashoka vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên, vì bà ghen tỵ với việc chồng mình bỏ quá nhiều thế gian ở tu viện ở Bodhgaya. Sau này, vị vua thành tín đó đã trồng một cây bồ đề khác tại thánh địa này. Theo truyền thuyết, Đức Phật đã yêu cầu thị giả của Ngài, đại đức Ananda, chiết một nhánh từ cây bồ đề nguyên thủy, đem trồng ở Jetavana, nơi Đức Phật thường thuyết pháp. Vì thế cây bồ đề mới ở Bodhgaya của vua Ashoka, được chiết nhánh từ cây bồ đề của đại đức Ananda, là có nguồn gốc từ cây nguyên thủy mà vợ vua đã hủy diệt.

 Ngày nay, địa điểm này là nơi thu hút các đoàn hành hương Phật giáo. Người ta đi vòng quanh cây cổ thụ nhiều lần, xướng tụng “Sadhu, Sadhu, Sadhu” (Lành thay, lành thay, lành thay). Không khí đầy khói bụi của nhang. Những cây đèn đất cháy sáng dưới gốc cây, bao bọc bởi hàng chồng hoa, trái cây và đèn cầy. Vải xà-rong quấn đầy quanh thân cây. Các vị tăng ni người Tây Tạng úp mặt lạy khi họ làm lễ.

 Tôi cảm thấy là tôi có thể ngồi tọa thiền hằng giờ dưới gốc cây. Tôi cảm nhận sự hiện diện của Đức Phật khi ngài sắp hoàn thành bước nhảy cuối cùng, vĩ đại vào giải thoát. Tôi tưởng tượng ra quỷ dạ xoa, trong một cố gắng cuối cùng, đưa những người con gái của nó –Tham, Sân và Si- đến để quyến rũ Đức Phật. 

 Đứng ở đó trong bóng cây bồ đề bao la, tôi dường như nghe được tiếng của Đức Phật khi Ngài chạm mặt đất với những đầu ngón tay của một bàn tay, gọi nó chứng kiến việc đạt được giác ngộ giải thoát của Ngài.


Chương 14
Hành Trình Trở Lại Nhà

 Ngay khi vừa trở về sau cuộc hành hương, tôi đã gửi thư đến Devapriya, tổng thư ký của hội Mahabodhi, người đã hứa cho tôi chuyển nhiệm sở mới để tôi có thể rời bỏ Sanchi. Khi trao đổi với nhau trước đó, ông bảo rằng có thể sẽ gửi tôi đến Calcutta hay Bodhgaya, nhưng khi viết thư trả lời tôi, ông đã có một nhiệm sở mới trong đầu: New Delhi. Hình như có đại đức Ariyawansa, người Bengal, có thể cần đến tôi. Tôi vui mừng chấp nhận nhiệm vụ mới và sau đó tìm được một tu sĩ khác thay thế tôi ở Sanchi. Tôi báo cho đại đức Pannatissa việc tôi sắp ra đi. Phản ứng của ông đúng như tôi đã đoán trước: ông rất vui mừng được tống khứ tôi đi vì tôi không biết vâng lời.

 Điều duy nhất mà đại đức Pannatissa cần, trước khi tôi ra đi là bản thảo mà tôi đã viết giải thích về các hình ảnh được khắc trên các cột đá ở cổng chùa Sanchi. Tôi đã cố gắng tìm người giúp in quyển sách nhỏ bằng tiếng Anh đó, để chúng tôi có thể tặng cho khách đến viếng chùa. Tôi do dự, vì biết đại đức Pannatissa sẽ không in bản thảo mà sẽ lờ nó đi hay ngay cả hủy bỏ nó, và thế là tất cả mọi công sức của tôi sẽ tiêu tan. Tôi chắc chắn rằng đó đúng là lý do tại sao ông cần nó. Tuy nhiên, tôi biết rằng nếu từ chối, ông sẽ không bao giờ để tôi ra đi trong bình an. Vì thế tôi chỉ biết hít thở sâu vào, và trao bản thảo viết tay cho ông, rồi xách duy nhất một chiếc valise, đi xuống đồi lần cuối cùng. Tôi không một lần ngoái đầu nhìn lại.

 Vào ngày 1 tháng 2 năm 1957, tôi đến New Delhi, sẵn sàng vào làm việc tại văn phòng hội Mahabodhi trên đường Reading. Tôi sống trong ngôi chùa nhỏ với vị sư người Bengal, đã từng học ở Ceylon. Ông nói lưu loát tiếng Sinhala, và tiếp nhận tôi rất nồng hậu.

 Ngay sau đó tôi viết thư cho ông Moonasinghe, thư ký của hội Mahabodhi ở Ceylon. Tôi báo cho ông biết tôi đã chuyển về New Delhi và nhờ ông chuyển tiền chi tiêu hàng tháng của tôi đến đó. Chỉ trong vài ngày, ông đã trả lời: “Ai cho phép sư chuyển đến New Delhi?” ông viết. “Trụ sở đó là của hội Mahabodhi Ấn Độ! Chúng tôi không thể chu cấp tiền sinh hoạt hằng tháng cho sư nếu như sư còn sống ở đó. Nếu còn muốn lãnh bảy mươi lăm rupee của chúng tôi, sư phải trở về Sanchi. Ngôi chùa đó mới là sở hữu của chúng tôi.”

 Tôi rụng rời. Tôi không hề biết các hội Mahabodhi ở Ceylon và Ấn Độ là những đơn vị tách biệt. Tôi cầu cứu với Devapriya, “Làm sao tôi có thể sống mà không có tiền sinh hoạt này?” tôi hỏi ông. “Phật tử quanh đây rất ít, tôi không thể đi khất thực quanh Delhi vì đường nào cũng đầy người ăn xin.”

 Devapriya viết một lá thư đến Moonasinghe, giải thích rằng ông là tổng thư ký của Hội Mahabodhi ở cả Ấn Độ và Ceylon. Với tư cách như thế, ông có quyền hạn để chỉ định, loại trừ hay chuyển đổi bất cứ tu sĩ nào và chính ông muốn tôi đến New Delhi.

 Sau đó, Devapriya theo dõi để chắc rằng người ta vẫn gửi tiền từ Calcutta cho tôi hàng tháng mà không có vấn đề gì.

 Công việc của tôi ở New Delhi là làm việc với những người thuộc giai cấp Hạ tiện đã quy y theo Phật giáo. Mỗi chủ nhật tôi đều đến chỗ họp của họ để thuyết pháp. Tôi cũng viếng thăm các cộng đồng của người Hạ tiện ở ngoại ô thành phố. Một lần đó tôi đến Beerat, là nơi người ta tin rằng Đức Phật đã giảng bài kinh nổi tiếng Mahasatipatthana, bài kinh Tứ Niệm Xứ ở đó.

 Tôi cũng tìm được một trường học gần đó, đại học cộng đồng Das Gupta, nơi tôi có thể ghi danh học tiếng Anh và những môn ngoại điển khác. Thầy hiệu trưởng, một người rất rộng rãi và từ bi, đã miễn phí tiền học cho tôi. Das Gupta không thể so sánh với đại học Benares về nhiều mặt, nhưng ít nhất tôi cũng được trau dồi thêm kiến thức và điều đó khiến tôi rất hạnh phúc. Vấn đề duy nhất là, từ ngày đầu tiên tôi đặt chân đến trường, các sinh viên khác đã dùng lời lẽ thóa mạ tôi. Tôi đoán là do họ nghĩ tôi là người thuộc giai cấp Hạ tiện vì tôi luôn có mặt ở các khu vực của người Hạ tiện.

 Tất cả các tu sĩ phục vụ cho Hội Mahabodhi đều được nghỉ phép mỗi hai năm. Lúc đó tôi đã ở Ấn Độ hơn hai năm, vì thế tôi đủ điều kiện, hay đúng ra là đã phải được nghỉ phép lâu rồi. Tôi nhận được thư gia đình báo rằng cha tôi bịnh nặng và họ yêu cầu tôi về thực hiện nghi lễ tụng niệm cầu an cho ông. Tôi đã trả lời rằng tôi sẽ về vào ngày 20 tháng 3. 

 Đơn xin nghỉ phép của tôi nhanh chóng được chấp thuận, nhưng tôi không tin rằng mọi thứ sẽ hoàn toàn trôi chảy. Dầu tiền đi lại phải được tính trong kỳ nghỉ phép, nhưng văn phòng Hội không gửi cho tôi vé tàu hỏa. Khi gần đến ngày 20 tháng 3, tôi vẫn còn nôn nóng chờ đợi vé tàu. Rồi bỗng nhiên, tôi được gặp một vị sư cho biết ông có một vé tàu hạng nhất đến Bombay. Sư nói rằng ông không cần dùng vé, nên đã cho một tu sĩ khác, nhưng người này cũng không có nhu cầu sử dụng. Vào ngày 20, khoảng mười giờ rưỡi sáng, cuối cùng tôi cũng tìm ra được vị sư thứ hai. Ông nói rằng ông cũng dự định đi chuyến tàu ngày đó, nhưng vừa hoãn lại, vì thế ông trao tôi cái vé. Chuyến tàu dự định sẽ rời sân ga để đến Bombay lúc năm giờ rưỡi chiều. 

 Tôi vội vàng chuẩn bị hành lý và vì tôi chỉ có ba rupee trên người, tôi mướn một chiếc taxi ba bánh, một loại xe đạp có ba bánh thật to -với người điều khiển đạp xe ở phía trước và hành khách ngồi ở phía sau -để đưa tôi đến trạm xe lửa. Vé tàu hạng nhất đến Bombay cho phép tôi được lên xuống ở nhiều trạm nếu tôi muốn, vì thế tôi đã tham quan một số nơi. Trên đường đi, tôi dừng lại ở một số chùa, mỗi nơi ở lại một hay hai đêm. Và tôi cũng viếng được những hang Phật nổi tiếng ở Ajanta và Allora. Lúc tôi đến Bombay thì đã đầu tháng 4.

 Tôi bước ra khỏi tàu không biết chắc mình phải làm gì. Tôi chỉ mới đi được nửa đường về nhà mà đã hết tiền. May mắn thay, tôi gặp một nhóm khoảng hai mươi người Sinhala. Họ đang đi hành hương ở Ấn Độ, và đang trên đường trở về nhà ở Ceylon. Họ nói rằng họ đã giữ chỗ cả một buồng tàu hỏa, nên vẫn còn đủ chỗ cho tôi tháp tùng theo họ, và tôi đã làm thế.

 Đêm đó, tôi để túi xách dưới gối nằm ngủ. Việc trộm cắp trên tàu hỏa rất thường xảy ra, vì thế tôi phải cẩn thận. Trong túi xách đó có tất cả những giấy tờ tùy thân của tôi, kể cả công văn hộ chiếu khẩn cấp mà khó khăn lắm tôi mới xin được. Sáng hôm sau, thức dậy thì tôi thấy túi xách đã biến mất, ai đó đã rút nó ra khỏi gối nằm của tôi! Tôi lục tung mọi xó xỉnh, nhưng cũng không thể tìm được chiếc túi. Tôi biết rằng mình không thể đi qua biên giới giữa Ấn Độ và Ceylon nếu không có công văn chứng thực đó. Tôi cần phải xin một công văn khác, mà nơi gần nhất là Madras. Vì thế tôi trao hành lý cho một trong những vị khách hành hương Sinhala mà tôi vừa quen. Tôi nhờ ông trao lại những vật này cho bất cứ ai trong gia đình đến đón tôi ở trạm cuối cùng. “Không,” người khách nói. “Hãy đi với chúng tôi đến Mandapam, trạm kiểm soát hộ chiếu để báo lại sự việc với hải quan. Hy vọng rằng họ có thể viết cho Sư một thông tư giải thích mọi việc với chính quyền Ceylon. Nếu họ không tin thì Sư có thể trở về Madras để xin giấy tờ khác.”

 Tôi không tin tưởng lắm về lời đề nghị này. Nếu cuối cùng mà tôi phải trở lại Madras khi tôi đã ở Mandapam, thì chuyến đi của tôi sẽ còn bị trì hoãn thêm nữa. Nhưng họ cố thuyết phục tôi.

 Đứng trong hàng chờ đợi kiểm soát giấy xuất nhập cảnh ở Mandapam, tôi rất lo lắng. “Lý ra mình phải trở lại Madras sớm hơn,” tôi suy nghĩ. Trong đầu tôi một hình ảnh khiến tôi cảm thấy thật bất an, nhưng không thể xua đuổi khỏi tâm trí: hình ảnh đám táng của cha tôi. Tôi nhìn thấy mẹ, các anh chị em tôi khóc khi họ đứng quanh quan tài của cha.

 Tôi cũng suy nghĩ: “Không biết tôi có phải quay trở lại gặp vị Cao ủy ở New Delhi, người đã gây khó khăn cho tôi khi tôi xin hộ chiếu lúc trước?”

 Khi đến lượt mình, tôi giải thích với người hải quan rằng túi xách đã bị mất cắp. May mắn thay, ông ta tin chuyện tôi kể, và lập tức trao cho tôi một lá thư để giao cho hải quan ở cửa khẩu Ceylon. Tôi thở phào nhẹ nhõm.

 Trong lúc đó, những người hành khách đi cùng tàu, đã gom góp lại được một ít tiền cho tôi, vì họ cảm thấy tội nghiệp việc tôi bị mất cắp túi xách. Họ lén bỏ tiền vào tay nải của tôi.

 5 giờ sáng hôm sau, ngày 6 tháng 4 năm 1957, tôi về đến Ceylon.

 Khi tàu vào ga ở Kurunegala, tôi nhìn quanh tìm những khuôn mặt thân thuộc nhưng không thấy ai. Tôi cảm giác giống như lần đầu tiên xa nhà -chỉ có một mình.

 Dùng tiền mà những người hành hương Sinhala đã gom góp cho, tôi mướn một chiếc taxi. Xe chạy qua những trang trại dừa gần Malandeniya, cho tới khi không còn đường đi nữa. Tôi phải đi bộ khoảng đường còn lại, qua những ruộng lúa mà nhiều năm trước tôi và Gunawardhena đã lẻn băng qua khi chúng tôi bỏ chùa chạy trốn.

 Khi tôi về đến chùa, tất cả hoàn toàn yên ắng. Sư phụ tôi không có ở chùa, nên tôi hỏi một nhóm cư sĩ. “Sư phụ ra ga đón thầy,” một người bảo với tôi. “Sư phụ đi rồi,” một người khác nữa nói. Tất cả thì thầm một cách lo âu với nhau và liếc nhìn tôi. Chắc chắn có điều gì đó không bình thường. Cuối cùng lúc 10 giờ, sư phụ tôi bước vào khuôn viên chùa. Tôi đảnh lễ xuống chân sư.

 “Sư vừa đến thăm gia đình con,” ông nói với tôi. “Cha con vừa mất tối qua.”


Chương 15
Đám Tang Cha

 Tôi điếng người. Tôi đã trở về Ceylon chỉ trễ một vài giờ. Cha tôi mất ở tuổi 79. Tôi đã không về kịp để thực hiện nghi lễ tụng niệm cầu an cho cha như tôi đã hứa với gia đình. Tôi biết mẹ chắc buồn lắm.

 Tôi mướn một chiếc taxi khác, chạy về Henepola. Vừa nhìn thấy tôi xuất hiện trong sân ngôi nhà nhỏ, bà đã oà khóc.

 “Đáng lý ra con về làm lễ cầu an cho cha,” bà sụt sùi. “Nhưng bất ngờ chưa! Cha con đã ra đi.”
 Nước mắt tuôn tràn xuống mặt tôi.

 Trước hiên nhà, xác cha tôi mặc áo chemise và xà-rong trắng, được đặt nằm ngay trên chiếc giường nơi ông mất đã hai ngày. Để che lấp mùi hôi, chúng tôi đốt nhang và lá chanh. Mấy cây đèn dầu cháy nhấp nháy ở đầu và chân giường. Công việc đầu tiên của chúng tôi là mời vị sư ở chùa trong làng đến để làm đám táng. Vị sư này lại có thể mời thêm nhiều vị khác, bằng cách đi từ chùa này đến chùa kia chuyển lời. Đám táng ở Ceylon không cử hành trong chùa, mà làm ngay tại nhà người chết, nếu nhà đó có sân rộng đủ cho mọi người đến viếng ở bên ngoài. Nếu nhà không đủ rộng, các thầy sẽ đến nghĩa trang làm lễ, tụng kinh ở ngoài huyệt chôn người chết. 

 Mặc dầu mọi người trong làng đều đã biết việc cha tôi mất, nhưng chúng tôi cũng phải đích thân đến từng nhà mời mọi người đến dự đám táng. Việc này do anh tôi, Rambanda, đảm nhiệm. Lý ra Tikiribanda, là con trai cả, phải làm chuyện này, nhưng anh đang đi xa và mẹ tôi không biết làm sao để nhắn tìm anh. Anh còn không biết rằng cha của chúng tôi đã mất.

 Theo truyền thống Sinhala, lá trầu được dùng để mời cho tất cả mọi trường hợp. Ở mỗi nhà, bạn sẽ cầm ba lá trầu trong tay, và khi chủ nhà mở cửa, bạn sẽ trao các lá trầu cho người ấy. Chỉ bằng cách nhìn sự xếp đặt của các lá trầu, người đó sẽ biết là họ được mời cho dịp nào.

 Đối với những chuyện vui –đám cưới, tân gia, đặt tên con- thì các lá trầu sẽ được sắp xếp với cọng trầu hướng về khách. Khi là tang lễ, thì đuôi lá trầu sẽ hướng về khách. Đây là một nghi lễ quan trọng và chúng tôi không thể bỏ qua nhà nào, nếu không họ sẽ cảm thấy rất buồn lòng. Ở Ceylon, tất cả mọi người trong làng đều đến thăm viếng đám tang, dù họ có quen với người chết hay không. Bạn sẽ bị coi là thất lễ khi không đến dự lễ tang vì bất cứ lý do gì. Trong hai ngày trước khi chôn, nhiều bạn bè và hàng xóm đến nhà chúng tôi để chia buồn. Vì một gia đình đang có tang chế không nấu ăn nên các vị khách mang đồ ăn đến cho chúng tôi. Tất cả mọi hình và kiếng trong nhà đều được xoay mặt trở vào tường. Mẹ và các chị em tôi khóc suốt. 

 Rambanda và tôi đi bộ gần năm cây số để đến tiệm mua một khúc vải trắng dùng trong đám tang. Thường, miếng vải đó phải dài khoảng hai mươi thước, nhưng chúng tôi chỉ đủ sức mua tám thước.

 Trong lúc đó, những người bạn của gia đình đi thu gom gỗ để đóng cho cha tôi một cái hòm. Nhóm khác thì ra nghĩa trang đào mộ, một công việc phải mất cả ngày mới xong.

 Ngày tẩn liệm, gia đình và tôi chuyển xác cha vào hòm trong lúc những người hàng xóm đốt pháo ngoài sân theo đúng tục lệ. Nắp hòm được hé mở để chúng tôi có thể nhìn mặt cha lần cuối. Dân làng cứ tiếp tục đến, cho đến khi có khoảng bốn trăm người rảo quanh trong vườn.

 Chiều hôm đó, có mười vị tu sĩ đã đến nhà chúng tôi. Sau khi thăm viếng người chết, họ đến ngồi trên những chiếc ghế mà chúng tôi đã phủ vải lên. Vị sư trưởng truyền tam quy và ngũ giới cho mọi người. Rồi Rambanda mở xấp vải trắng mà chúng tôi đã mua ra, trao cho vị sư trưởng. Vị này lại chuyền nó xuống cho các vị sư khác, để mỗi người có thể nắm một phần của miếng vải.

 Rồi tất cả đồng loạt tụng bài kinh truyền thống của Đức Phật về vô thường. Những lời kinh tụng dĩ nhiên là bằng tiếng Pali, nhưng trong tiếng Anh, chúng có nghĩa là: 

 Tất cả mọi hữu lậu đều vô thường, đều đến rồi đi. 
 Đã có sinh tất phải có diệt. Biết được như thế, ta sẽ an lạc.

 Các ý niệm về vô thường và sự chết là một trong những phần khó nhất để thuyết pháp. Người ta bực tức khi phải nghe những điều như, "Tất cả chúng ta đều đang chết, từng giây phút," hay “Tất cả đều vô thường; chúng ta không thể bám víu vào điều gì.” Nhưng đó chỉ là vì chúng ta bám víu vào những vật đang biến chuyển, những thứ mà chúng ta sẽ không thể tránh khỏi mất mát, vì thế mà chúng ta đau khổ.

 Nhưng nếu chúng ta thực sự nhìn thẳng vào vô thường, ta sẽ bắt đầu thấy rằng nó cũng có mặt tốt. Ta có thể đoan chắc rằng bất cứ hoàn cảnh nào đang hiện hữu trong cuộc sống của ta, chúng cũng sẽ phải thay đổi. Chúng có thể trở nên tệ hơn, nhưng cũng có thể tốt hơn. Do vì vô thường, chúng ta có cơ hội để học hỏi, phát triển, trưởng thành, dạy dỗ và thực hiện những sự thay đổi tích cực khác, kể cả việc tu tập theo con đường Phật pháp. Nếu mọi thứ trên thế gian này đều cố định, thì không có sự thay đổi nào có thể xảy ra. Người thất học sẽ luôn thất học; người nghèo đói sẽ luôn nghèo đói. Chúng ta sẽ không có cơ hội để chế ngự tham, sân, si, và những hậu quả tiêu cực của chúng.

 Về việc không thể tránh được cái chết, chúng ta phải nhớ rằng không chỉ là cơ thể ta trở nên già yếu, hư hoại và chết, mà các cảm giác và trạng thái tâm của ta cũng thế. Nếu bạn nhắm mắt lại chỉ trong một phút, bạn có thể cảm nhận được một cảm giác hay tình cảm đã phát sinh, trở nên già cỗi và qua đi. Nó giống như một làn sóng, trồi cao lên và rồi đổ xuống. Tương tự, những suy nghĩ của ta cũng trở nên cũ kỹ và hư hoại. Tư tưởng của ta, thức của ta, cũng trở nên già cỗi và chết. Đó là bản chất của sự hiện hữu của chúng ta, và điều đó xảy ra từng giây phút.

 Buổi lễ đơn giản đánh dấu sự ra đi của cha tôi kết thúc với sự hồi hướng. Mẹ, anh và các chị em tôi quỳ gối trên sàn nhà và chế nước trong bình ra các tách trong khi đọc tụng những lời hồi hướng truyền thống. 

 Nguyện hướng công đức này đến các thân quyến của chúng tôi. Cầu cho thân quyến của chúng tôi được hạnh phúc.

 Khi họ tiếp tục chế nước vào tách, các vị sư tụng kinh cầu nguyện cho cha tôi được tái sinh:

 Như những con sông đầy nước chảy ra biển đầy nước, mong rằng những công đức này sẽ đem lại lợi ích cho người ra đi. Như nước chảy từ trên cao nguyên xuống dưới đồng bằng, mong rằng những công đức này sẽ đem lại lợi ích cho người ra đi. Với các công đức này, mong người sẽ được sống lâu, sức khỏe, tái sinh lên các cõi trời và đạt được niết bàn. Mong rằng tất cả những hy vọng và ước muốn của người đều được thành tựu, tất cả những mong cầu đều được thỏa mãn, như là được ước từ những viên ngọc ước hay mặt trăng vào ngày trăng rằm.

 Những lời tốt đẹp về sự tái sinh ở cõi trời biểu hiện một phần giáo lý của Đức Phật phải được người ta tin theo bằng tín tâm. Thiên văn Phật giáo tả có ba mươi mốt hành tinh hiện hữu. Có cõi của địa ngục, cõi của quỷ đói, cõi thú, cõi người và nhiều cõi trời. Người ta được sinh vào các cõi này với những mức độ sung sướng khác nhau tùy theo nghiệp của họ. Đó là do luật nhân quả quyết định cả quá trình.

 Niềm tin này có thể tạo nên vấn đề trong một giáo lý nhấn mạnh vào sự cố gắng và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Nhưng sự thật là chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra sau khi ta chết, vì thế chúng ta phải quyết định xem có muốn chấp nhận những lời dạy của Đức Phật chỉ dựa trên lòng tin. Đôi khi làm thế là khôn ngoan. Thí dụ như bác sĩ cho bạn một toa thuốc và nói rằng nó sẽ chữa được bịnh của bạn. Bạn không biết rằng nó sẽ chữa bạn hết bịnh hay không; nhưng bạn phải có lòng tin vào sự hiểu biết và kinh nghiệm của người bác sĩ.

 Dầu vậy, người thiếu lòng tin cũng có thể nghĩ, “Tôi không quan tâm cho đời sống tương lai. Tôi chỉ muốn biết tôi sẽ được gì ngay trong cuộc sống này.” Do vậy, Đức Phật khuyên chúng ta hãy nghĩ đến một khả năng khác.

 Ngài dạy, ngay nếu như không có một đời sống ở tương lai, thì làm việc thiện cũng sẽ mang đến cho bạn hạnh phúc và tâm thanh tịnh trong kiếp này. Còn nếu thực sự có một đời sống ở tương lai sau khi chết, thì người làm việc thiện sẽ được thưởng đến hai lần: bây giờ và trong kiếp sau.

 Mặt khác, thí dụ như bạn chọn con đường bất thiện. Ngay nếu như không có đời sống trong tương lai, bạn vẫn cảm thấy tội lỗi và khổ đau trong kiếp sống này. Còn nếu như thực sự có một đời sống tương lai sau khi chết, thì bạn sẽ phải khổ lần nữa sau này.

 Vì thế, dầu việc tái sinh có là một thực tại hay không, hãy buông bỏ điều ác và vun trồng điều thiện để đảm bảo cho hạnh phúc của chúng ta.

 Ở đám tang của cha tôi, vị sư trưởng thuyết về những điều này. Sau đó một vài người bạn, và thân quyến đứng lên, từng người một, nói vài lời ngắn ngủi về cha tôi.

 Cuối cùng, đến lượt tôi cảm ơn mọi người đã đến. Cho đến lúc đó, tôi đã có thể kiềm chế xúc động của mình. Nhưng khi bắt đầu mở lời, tôi không kiềm giữ được và bật khóc. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm thay lời cảm ơn.

 Sau đám tang của cha, tôi nán lại thêm vài ngày với mẹ; rồi sau đó tôi đi Colombo. Tôi muốn viếng trường truyền giáo Phật giáo và đến đảnh lễ lão sư Vajirananda Nayaka.

 Một sự thật phũ phàng đang chờ đợi tôi ở đó!

 ”Sư đang làm gì ở đây?” là những lời chào đón không được nồng hậu của lão sư Vajirananda đối với tôi. “Chúng tôi huấn luyện cho sư, rồi sư bỏ rơi chúng tôi và gia nhập Hội Mahabodhi Ấn Độ! Giờ sư muốn trở lại ở đây, ăn cơm của chúng tôi? Sư không có quyền đến đây. Chúng tôi không muốn có mối liên hệ gì với sư nữa.”

 Đó là bài học thứ hai của tôi về sự chia rẽ sâu xa giữa các phân hội Sinhala và Ấn Độ của Hội Mahabodhi. Rõ ràng họ là những người chống đối nhau dữ dội và lão sư Vajirananda nổi giận đối với tôi vì tôi đã cố gắng phục vụ cả hai.

 Không chỉ là vị lão sư đã quên lá thư tôi viết cho Sư, giải thích lý do tôi phải rời Sanchi, mà Sư cũng không muốn nghe tôi phân trần. Sư không hỏi tôi lấy một câu về tình hình ở Sanchi mà cũng không cho tôi một cơ hội để giải bày.

 Khi tôi đến viếng Moonasinghe, ông này cũng giận dữ. Ông vẫn ngồi trong ghế, mặc dầu người cư sĩ thường phải đứng lên chào hỏi người tu sĩ, rồi ngồi xuống sàn nhà để bày tỏ lòng kính trọng. Ông không muốn tiếp chuyện với tôi hay cả đến nhìn tôi.

 Đó là cung cách trong nền văn hoá Sinhala trải qua bao thế hệ. Người trẻ tuổi là không được quyền nói lên ý kiến của mình. Ngày nay nhiều tăng sĩ trẻ hoàn tục, bỏ chùa ra đi chỉ vì quá bức xúc với những sự đối xử như thế. Kết cục là chỉ còn lại các vị sư lớn tuổi phải xoay sở, cố gắng duy trì để cho chùa hoạt động. Tất cả chỉ vì cách quản lý sai, không đối xử công bằng đối với cả thế hệ già và trẻ.

 Khi còn nhỏ, chúng tôi không bao giờ được trả lời lại với cha mẹ. Không bao giờ. Chúng tôi phải im lặng để bày tỏ lòng kính trọng đối với người lớn. Suốt thời thơ ấu, chưa bao giờ tôi dám không đồng ý với cha tôi hay ngay cả nói to tiếng với ông. Ở trường cũng thế; các thầy biết tất cả mọi việc. Họ tuôn tràn tri thức, và chúng tôi không được quyền chất vấn hay bàn cãi về bất cứ điều gì.

 Vì thế suốt thời thơ ấu, tôi im lặng một cách cam phận. Khi có mặt người lớn, tôi hầu như không mở miệng. Và điều đó vẫn còn trường tồn, một cách khó tin, cho đến ngày nay, bảy mươi năm sau. Đôi khi tôi mơ thấy mình ngồi bên cha hay quý sư, mà sợ hãi không dám nói. Nỗi sợ hãi đó đã bám sâu gốc rễ vào tâm thức tôi.

 Vào ngày 6, tháng 5, 1957, một tháng sau đám tang của cha, tôi trở lại Ấn Độ. Tôi ở một tháng ở Madras, thăm viếng bạn bè, rồi trở về New Delhi. Ở đó tôi lại tiếp tục những bổn phận ở chùa và ở trường đại học Das Gupta.

 Khi Devapriya, thư ký Hội Mahabodhi, nghe rằng tôi đang theo học các lớp ở trường đại học, ông ta rất giận. Ông cố gắng thuyết phục tôi đi Bodhgaya, để thay thế vị tu sĩ ở đó, người mà ông nói là đã bị “tiếng xấu” -một ám chỉ rằng vị tu sĩ đó có lẽ đã phạm một giới trọng.

 Đó là vào đầu tháng 7, bắt đầu mùa mưa khi các vị tu sĩ theo truyền thống phải ở trong tu viện ba tháng, để tuân theo thời gian khi Đức Phật và đệ tử của Ngài thực hành an cư mùa mưa. Vì thế tôi bảo với Devapriya tôi không thể đi đâu ngay lập tức.

 Vào tháng mười, ngay khi mùa an cư vừa chấm dứt, Devapriya lại quấy nhiễu tôi. Ông gửi một lá thư khác, lần này ra lệnh cho tôi đi Bombay.

 “Nếu Sư không đi, chúng ta có thể bị mất một trung tâm của Hội ở đó," ông viết. “Xin vui lòng khởi hành ngay lập tức”.

 Tôi được biết, chùa đó không còn có vị sư nào trụ trì, và các vị lãnh đạo trong Hội Mahabodhi sợ rằng một số trong hàng triệu người vô gia cư ở Bombay sẽ dọn vào toà nhà trống đó, rồi đòi quyền cư ngụ. Lúc đó, những việc như thế vẫn thường xảy ra.

 Vì thế tôi đi Bombay. Trung tâm đó được gọi là Ananda Vihara; vihara là một thuật ngữ Pali thực sự có nghĩa là “chốn cư ngụ của Phật;” ngày nay vihara được sử dụng rộng rãi hơn để chỉ cho nơi ở của bất kỳ tăng sĩ nào, cũng như là chánh điện, thiền đường và tất cả những nơi nào mà chỉ chung là chùa hay trung tâm thiền Phật giáo.

 Trung tâm Ananda nằm trên đường Lamington, trong khung viên của một bệnh viện. Một bác sĩ trong bệnh viện đã bỏ kinh phí xây dựng lên. Tầng dưới có một thư viện. Tầng trên là chánh điện, phòng tắm, phòng ngủ và một nơi được coi là văn phòng của tôi.

 Đối diện với văn phòng tôi là khu phụ sản của bệnh viện. Ngày hay đêm bất cứ khi nào ngồi vào bàn làm việc, tôi cũng có thể nghe những tiếng la hét, rên rỉ của các sản phụ. Tuy nhiên, phần lớn thời gian khi ở Bombay, tôi thường ra ngoài thăm viếng cộng đồng của những người thuộc giai cấp Hạ tiện ở quanh thành phố. Ở chùa còn có một tu sĩ nữa, nhưng vị này không nói tiếng Ấn Độ hay tiếng Anh, vì thế những người Hạ tiện thích chọn tôi. Tôi thường thực hiện các buổi lễ quy y, truyền giới, dạy tiếng Pali, tụng kinh cầu an cho người bệnh, tụng kinh cho đám tang và dạy các lớp giáo lý. Tôi cũng đi thăm các bệnh nhân phải nằm viện.

 Mỗi chủ nhật có ít nhất năm trăm người đến chùa dự lễ. Đó là một tiến bộ lớn cho trung tâm so với thời gian qua, khi trung tâm chỉ có những sinh hoạt xã hội, nơi người ta tụ hội lại để hút thuốc, uống rượu. Chúng tôi cũng thành lập một thư viện và tiệm sách nhỏ. Nhân dịp giỗ đầu năm của tiến sĩ Ambedkar, chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ long trọng với sự có mặt của thống đốc tiểu bang Bombay.

 Đôi khi tôi phục vụ cho những người Hạ tiện liên tục trong một hay hai tuần một lúc, cứ đi từ làng này sang làng khác chứ không trở về chùa. Những người này sống trong những ngôi nhà rất tồi tàn -phần lớn là những cái chòi một gian với tường bằng bùn, mái tranh và sàn nhà làm bằng phân bò. Khi tôi bước vào nhà ai, gia đình sẽ trải chiếu trên sàn cho tôi ngồi lên. Rồi họ đãi tôi ăn, với chút ít gì mà họ có. Thường có một người nào đó ngồi gần tôi, phe phẩy miếng vải trong không khí để đuổi ruồi.

 Bên ngoài, sân nhà đầy những vũng nước đọng, phân người và phân gà, những chiếc nồi vỡ và các thứ rác rưởi khác. Các loại côn trùng bay khắp nơi. Tôi biết rằng thọ thực ở những nơi điều kiện quá mất vệ sinh như thế này sẽ khiến tôi bị bệnh, và điều đó xảy ra, lần này đến lần khác. Nhưng tôi chẳng bao giờ từ chối lời mời của họ; tôi không thể từ chối lòng mến khách chân thành của những người Hạ tiện.

 Khi sư phụ tôi đến thăm vào năm 1958, ông rất ngạc nhiên khi thấy tôi trở nên gầy yếu đến vậy. Việc thường xuyên đến thăm viếng các ngôi làng của người Hạ tiện đã làm ảnh hưởng đến hệ thống miễn nhiễm của tôi. Tôi nghĩ là sư phụ tôi đã báo cáo việc này lại với hội Mahabodhi.

 Vào tháng chín tôi nhận được một lá thư của đại đức Dhammananda, người mà tôi đã gặp ở Sanchi. Ông gửi cho tôi một đơn xin visa, yêu cầu tôi điền vào và gửi trở lại cho ông. Ông muốn tôi đi Malaysia.

 Vì thế vào ngày 1 tháng 10, sau 18 tháng ở Bombay, một lần nữa tôi lại chuyển đến một ngôi chùa mới. Trước khi ra đi, tôi vội trở về thăm quê để chào từ giã mẹ và bà con. Rồi tôi lên tàu ở Madras. Chuyến tàu hướng đến Nhật Bản, nhưng trên đường sẽ dừng lại ở Malaysia, là nơi tôi sẽ xuống –và bắt đầu một chương mới trong công tác truyền giáo của tôi.

 


Chương 16
Malaysia

 Vào ngày 5 tháng 11, 1958, tàu dừng ở Penang, thành phố lớn thứ hai ở Malaysia. Malaysia vừa giành được độc lập từ người Anh một năm trước đó, vì thế nó vẫn còn những nét đặc biệt của một thuộc địa. Nó sạch sẽ và tối tân hơn ở Ấn Độ nhiều. Đường xá được sửa sang tốt đẹp và sự nghèo đói dường như không có mặt. Không có người ăn xin, và người đi trên đường phố đều ăn mặc lịch sự. Có rất nhiều ngôi chùa Trung Hoa tráng lệ với các pho tượng Phật vĩ đại. Những ngôi chùa này luôn đầy các Phật tử đến dâng cúng hoa quả và đốt nhang. Ở khu vực chợ, các bảng hiệu bằng chữ Trung Hoa được gắn trên hầu hết các tiệm.

 Đó là một xứ sở đẹp đẽ khiến tôi nhớ đến Ceylon –với những núi, những mùa mưa nhiệt đới, đồng lúa, đồn điền cao su và dừa- và ở đây cũng có hầu hết các loại rau cải của vùng nhiệt đới. Vì đất đai mầu mỡ và khí hậu ấm áp, có thể trồng được nhiều loại hoa mầu. Ngoài gạo, còn có cao su và trà, người nông dân Malaysia cũng trồng đu đủ, xoài, chôm chôm, sắn, khoai tây, mít, và chanh.

 Tôi ở một tuần tại chùa Phật giáo Mahindaram, với tư cách là khách của lão sư Kamburupitiye Gunaratana. (Ông cũng là một trong vài tu sĩ cùng tên Gunaratana mà tôi đã được gặp gỡ trong đời. Tất cả chúng tôi đều không có liên hệ gì với nhau. Chỉ là vì chúng tôi được đặt cùng một họ Pali lúc xuất gia. Chỉ có tên gọi của chúng tôi -thường là tên làng quê của mỗi người- là khác). Ông là một vị trưởng lão tăng, là vị tỳ kheo Phật giáo trưởng thượng ở Malaysia.

 Mỗi ngày vào giờ thọ trai, các tín đồ người Trung Hoa vây quanh ngài để cúng dường cho ngài một dĩa đồ ăn đặc biệt. Khi vị lão sư Kamburupitiye dùng xong, ông trộn tất cả những thứ còn lại với nhau –cơm, thịt, rau, trái cây và đồ ngọt. Rồi thì các đệ tử sắp hàng để được nhận một phần nhỏ thực phẩm đó, mà theo họ chứa đựng sự chúc phúc của ngài.

 Vài năm sau đó khi ông mất, có người nói ông là một vị A-la-hán đã hoàn toàn giác ngộ.

 Khi lão sư Kamburupitiye gặp tôi lần đầu tiên, ông có vẻ rất thích thú. “Tôi không nghĩ chú nên xuất gia,’ ông nói. “Chú chưa đầy mười tám tuổi. Chú còn quá trẻ để thọ giới tỳ kheo.”

 Tôi cười. Lúc đó tôi đã ba mươi tuổi, nhưng trông như là một sadi.

 Khi tôi đến Kuala Lumpur, tôi được đón tiếp bởi vị tu sĩ nổi tiếng, người đã mời tôi đến Malaysia: thượng tọa Dhammanda. Ngôi chùa nơi tôi đến cư trú gồm có hai phòng ngủ, một phòng ăn và một nhà bếp, hai phòng tắm, một chánh điện và một giảng đường rộng lớn có thể chứa đến khỏang bốn mươi người.

 Ngôi chùa này chánh yếu là để phục vụ cho khoảng năm mươi gia đình người Sinhala sống ở Kuala Lumpur. Có vài Phật tử người Trung Hoa cũng đến. Chùa thường có những buổi tụng kinh, những lớp học giáo lý và những buổi thuyết pháp vào ngày chủ nhật.

 Tôi nhanh chóng nhận ra rằng tôi cần phải trau dồi thêm tiếng Anh của mình nếu tôi muốn được trở thành một người giảng pháp hữu hiệu ở chùa. Các bậc phụ huynh người Sinhala yêu cầu chúng tôi giảng pháp cho con họ bằng tiếng Sinhala, nhưng lũ trẻ lớn lên ở Malaysia, phần lớn nói tiếng Mã Lai hay tiếng Anh. Khi cha mẹ đem chúng đến chùa, chúng không cảm thấy tự nhiên khi ở quanh những vị sư chỉ nói với chúng bằng tiếng Sinhala.

 Vì thế tôi quyết định giảng trong phần lớn các lớp học pháp vào ngày chủ nhật bằng tiếng Anh, để làm cho các em nhỏ cảm thấy dễ chịu và muốn lắng nghe. Tôi bắt đầu bằng cách kể các câu chuyện Phật pháp.

 Một vài người Sinhala chỉ trích tôi vì đã giảng Pháp bằng tiếng Anh, nhưng những người trí thức ủng hộ tôi. Họ nhận thấy giá trị của việc cho con họ học Pháp bằng tiếng Anh.

 Một ngày kia, một người Trung hoa đến chở chúng tôi đi làm đám táng cho một người quen. Trên đường đi ông hỏi chùa chúng tôi có cần giúp đỡ gì không. Chúng tôi bảo rằng lớp học giáo lý ngày chủ nhật, học sinh ghi danh ngày càng tăng, và chúng tôi cần một ngôi nhà rộng hơn để chứa tất cả học sinh. Người đàn ông suy nghĩ một lúc, rồi anh ta cho chúng tôi biết một điều rất thú vị.

 Ông bảo rằng ông là thành viên của hội xổ số Malaysia, và đôi khi, vì lý do gì đó, người trúng số không đến lãnh thưởng. Khi điều đó xảy ra, tiền trúng số sẽ được tặng cho mục đích từ thiện.

 "Lần sau, tôi sẽ đề nghị với hội đồng để cúng số tiền thưởng không người nhận đó cho chùa của quý sư," người đàn ông nói.

 Một vài tháng sau, ông ta bỗng nhiên xuất hiện với tấm ngân phiếu tương đương với bốn chục ngàn đô la Mỹ. Với số tiền đó, chúng tôi đã xây một tòa nhà mới thật đẹp cho lớp học giáo lý ngày Chủ nhật.

 Gần một năm sau ngày tôi đến Malaysia, vào khoảng cuối tháng 9, 1959, thủ tướng Ceylon bị bắn chết ở nhà riêng tại Colombo. Kẻ sát thủ mặc đồ nhà sư. Ngày hôm sau tôi tổ chức một buổi lễ cầu siêu cho ông ở chùa chúng tôi.

 Buổi chiều hôm đó, khi mọi người bắt đầu đến chùa, chúng tôi ngồi ở ngoài hiên để bàn luận về tai họa đó. Bỗng nhiên tôi nghe ồn ào. Ông K.A.Albert, lãnh tụ của cộng đồng người Sinhala ở Kuala Lumpur, xải bước vào hiên, trông rất giận dữ.

 Ông la hét tôi vào mặt tôi bằng những ngôn ngữ hết sức thô tục. Ông tức giận vì một nhà sư Phật giáo đã ám sát Thủ tướng và ông bắt đầu la hét nhục mạ tăng đoàn.

 "Thưa ngài Albert," tôi nói, "thật không công bằng khi ông kết tội tất cả các tu sĩ, chỉ vì một người mặc áo tu sĩ làm điều gì sai trái. Người đó cũng chưa chắc là tu sĩ. Có thể ông ta chỉ mặc áo nhà sư để trá hình, để ông ta có thể đến gần Thủ tướng."

 Không hiểu vì sao những lời tôi nói càng làm ngài Albert thêm tức giận. Ông nhào đến tôi, vung cú đấm. Vị Đại sứ người Sinhala đang ngồi với tôi ngoài hiên, nhảy vào giữa để ngăn cản ông. Ngài Albert dần dần bình tĩnh lại và ra về. Ông từ chối không ở lại dự buổi lễ cầu siêu. 

 Khuya đó, người nhà của ngài Albert gọi để báo cho tôi biết ông phát bịnh nặng, sốt cao, ói mửa và tiêu chảy. Họ yêu cầu tôi đến nhà để tụng kinh cầu an cho ông.

 Tôi đã đến, nhưng thấy ông nằm quay mặt vào tường, xoay lưng ra phía tôi. Ông không nói gì cũng không nhìn đến tôi. Dầu vậy, tôi đã tụng kinh, rồi cột một sợi dây chúc phúc theo truyền thống, quanh cổ tay ông. Ông không chống đối nhưng cũng chẳng nói một lời nào.

 Một vài ngày sau đó, tình trạng sức khoẻ và tâm lý của ngài Albert đã ổn định hơn. Cảm động vì lòng tử tế của tôi hay có lẽ vì đã khỏi bị cơn sốt hành hạ, ông đã điện thoại mời tôi đến dùng bữa trưa tại nhà ông. Tôi nghĩ rằng đó là cách ông xin lỗi và cũng thử xem tôi có giận ông không. Khi tôi nhận lời mời, ông biết rằng tôi không có gì chống đối ông. Ông tự chiêu đãi tôi bữa trưa rất thân tình. 

 Những ngày tôi ở chùa Kuala Lumpur khá bận rộn. Tôi giảng pháp bằng cả hai thứ tiếng Anh và Sinhala vào mỗi ngày rằm và mỗi chủ nhật. Tôi cũng dạy giáo lý vào ngày chủ nhật cho các em nhỏ và phụ trách lớp hàm thụ về Phật giáo cho những ai thích học qua đường bưu điện. 

 Khóa học có mười hai bài cho những người mới bắt đầu và mười hai bài trình độ nâng cao, tất cả là về cuộc đời của Đức Phật và giáo lý của Ngài. Tôi có người phụ tá giúp tôi gửi đi các thư từ tài liệu. Công việc in ấn, copy các bài giảng rất tỉ mẫn; tốn thì giờ; chúng tôi tạo bản in trên một bàn máy chữ đánh tay bằng cách đánh vào một miếng phim mỏng, có sáp, xong rồi dùng phim đó để quay ra những bảng copy nhòe nhẹt trên một máy in quay bằng tay (in roneo).

 Mỗi bài học kết thúc với một số câu hỏi để học viên làm bài trả lời. Khi bài làm được gửi trả lại qua đường bưu điện, tôi sẽ chấm bài, rồi gửi bài trả lại cho học viên.

 Nhiều năm sau, khi qua Mỹ, tôi đã gặp lại những người có duyên được biết đến Phật pháp lần đầu tiên là qua những khóa học hàm thụ này. 

 Ước muốn được hoàn thiện tiếng Anh vẫn cháy bỏng trong tôi như một ngọn lửa không thể tắt. Đầu tiên, tôi dự các lớp học buổi chiều ở một trường của Ấn Độ giáo, rồi đến một trường trung học tư nơi vị hiệu trưởng cho phép tôi được học miễn phí. Sau này, tôi đến một trường tư thục khác gần chùa hơn, và khi đến đó thì các vị thí chủ ở chùa đã hỗ trợ tiền học cho tôi.

 Năm 1960, tôi quyết định dự kỳ thi ngoại khóa của đại học Cambridge, do Bộ Giáo dục Malaysia tổ chức. Đó là một phần ảnh hưởng của người Anh còn sót lại ở nơi này.

 Có nhiều trình độ, tất cả đều bằng tiếng Anh. Trình độ thấp nhất gọi là kỳ thi trắc nghiệm tương đương với trình độ lớp chín, trình độ kế tiếp, kỳ thi Senior Cambridge, thì bằng trình độ lớp mười. Cuối cùng kỳ thi chứng chỉ Trung học Cambridge, thì giống như kỳ thi tuyển sinh vào Đại học ngày nay, dành cho những học sinh trình độ lớp mười hai. Ai qua được kỳ thi đó, sẽ được vào đại học Cambridge hay đại học Malaysia.

 Tôi hy vọng được vào đại học Malaysia. Tôi nghĩ một bằng cấp đại học có thể là tấm bùa giúp tôi được kính trọng giữa những người thuộc mọi trình độ học vấn. Tôi nghĩ rằng mình càng có nhiều tri thức thì càng có nhiều người lắng nghe các bài thuyết pháp của tôi.

 Khi tôi ghi tên để tham dự kỳ thi trắc nghiệm, thì chỉ cần thi tiếng Anh. Rồi trong lúc tôi đang chuẩn bị, thì điều kiện thi lại thay đổi. Từ đó trở đi, phải thi luôn cả môn toán nữa. 

 Tôi chỉ có tám tháng để chuẩn bị, vì thế tôi mượn một số sách giáo khoa về toán của thầy giáo, rồi bắt tay vào học. Tôi học với một thanh niên Trung Hoa đến viếng chùa và cũng sẽ dự thi. Tôi đã vượt qua được kỳ thi đó.

 Năm sau, tôi dự kỳ thi cấp cao hơn và cũng thành công. Hai năm sau đó, tôi lại dự kỳ thi lấy bằng Trung học Cambridge, nhưng tôi làm bài không được tốt. Tôi phải thi lại hai lần nữa mới qua được. Đến năm 1964, tôi đã đậu với hai môn thi được điểm xuất sắc và hai môn điểm trung bình. Tôi nghĩ vậy là đủ để tôi được tuyển vào đại học Malaysia. Nhưng khi nộp đơn xin học, tôi bị từ chối. Thật là một sự thất vọng não nề cho tôi.

 Trong lúc đó, ngày càng có nhiều người Trung Hoa đến chùa chúng tôi. Năm 1961, đại sư Dhammananda mời vài vị Phật tử Trung Hoa nổi tiếng để tham gia với ông trong việc thiết lập một Hội Truyền Giáo Phật giáo. Đó là cách để tỏ lòng trân trọng đối với nhiều sự đóng góp của họ ở chùa. 

 Ngay sau khi Hội vừa được thành lập, càng có nhiều người Trung Hoa đến chùa hơn, đem lại nhiều tiền cho chùa hơn. Đại sư Dhammananda bắt đầu ấn tống sách Phật giáo để phân phát khắp thế giới. Ông du hành xuyên suốt Mã Lai để thuyết pháp và thành lập nhiều đạo tràng Phật giáo hơn. Ông cũng xuất bản một tạp chí gọi là Tiếng Nói của Phật giáo.

 Trong cùng năm đó, chúng tôi mở thêm một trường dạy ban ngày cho các em nữ ở chùa. Gần hai trăm học sinh ghi danh. Bên cạnh các hoạt động khác, tôi bắt đầu dạy ở đó nữa. Cuối năm 1961, tôi được mời tháp tùng một vị tu sĩ khác đi qua Thái Lan. Đây là lần đầu tiên tôi đến đó, và tôi đã mời một nhà bảo trợ, ngài R.A.Janis, đi cùng với tôi. Trên đường đi, chúng tôi dừng lại một chùa ở Penang, và khi đang ở đó, tôi bắt đầu cảm thấy đau ở một bên thận. Suốt mấy ngày, tôi đi tiểu ra máu và cuối cùng tôi phải nhập viện. Bác sĩ khám phá tôi bị sỏi thận nên cho uống thuốc trụ sinh. Dầu hồi phục, nhưng tôi vẫn chưa bao giờ tống được viên sỏi đó ra khỏi người.

 Sau hai năm ở chùa tại Kuala Lumpur, tôi được nghỉ phép. Hội bảo trợ chùa tặng tôi một vé tàu để về thăm nhà ở Ceylon. Vào tháng 12, năm 1962, chỉ một hay hai ngày trước sinh nhật thứ ba mươi lăm, tôi đi Singapore, nơi tôi dự định sẽ ở lại vài ngày, thăm viếng các chùa trước khi tàu nhổ neo về quê tôi.

 Vào ngày 14 tháng 12, tôi gửi hành lý ra bến cảng trước để hai ngày sau khi chúng tôi xuống thì đã có sẵn. Buổi chiều hôm đó, khi đang tiếp chuyện với một số người sau giờ thọ trai, bỗng dưng tôi cảm thấy rất đau ở ngực. Tôi xin lỗi và đi nằm. Mồ hôi vã ra như tắm. Dần dần sự đau đớn trở nên quá khủng khiếp đến nỗi tôi bất tỉnh.

 Vị sư trưởng ở chùa tôi đang thăm viếng phải gọi xe cấp cứu. Trên đường tới bệnh viện, cơn đau dường như quá sức chịu đựng của tôi. Tôi cảm giác như có một bàn tay khổng lồ nào đang bóp mạnh trái tim tôi. Khó thở đến độ tôi nghĩ là mình sẽ chết trước khi đến được bệnh viện.

 Nhưng tôi đã đến được bệnh viện và không lâu sau đã nằm trong phòng cách ly, với tấm biển treo trên cửa “Không được thăm viếng". Bác sĩ bảo rằng tôi đã bị một cơn nhồi máu cơ tim nhẹ, nhưng ông không cho tôi thuốc gì; chỉ bảo tôi hãy nằm nghỉ ngơi. 

 Hai ngày sau, tôi cảm thấy khỏe hơn nhiều. Buổi sáng khi tôi thức dậy, cơn đau đã qua và tôi cảm thấy bình thường trở lại. Tôi nhận ra đã là ngày 16 tháng 12 và tàu sẽ ra khơi với hành lý của tôi trên đó. Tôi gọi y tá, bảo rằng tôi cần phải rời bệnh viện ngay. Người y tá gọi bác sĩ.

 “Sư điên chưa?” bác sĩ nói khi ông đến bên giường tôi. “Mới hôm kia sư bị nhồi máu cơ tim mà giờ sư muốn ra viện?”

 “Tôi thấy khỏe rồi,” tôi chống chế. “Tôi không còn thấy đau, hay mệt. Tôi phải đi.”

 Ông nói một cách nghiêm khắc, “Tôi không thể cho Sư ra viện.”

 Chúng tôi đôi co qua lại vài phút. Tôi giải thích rằng hành lý của tôi ở trên chiếc tàu sắp ra khơi, rằng tôi đã viết thư báo tin với thân quyến ngày tôi đến Ceylon.

 Cuối cùng vị bác sĩ nhượng bộ, nhưng ông bắt tôi ký giấy nói rằng tôi tự ý rời khỏi bệnh viện, không theo lời khuyên của ông. Tôi đi ngay ra bến tàu, lên tàu, và bảy ngày sau tôi đã đến Ceylon.

 Và từ đó tôi không có vấn đề gì về tim nữa. Mỗi ngày sau giờ ăn tôi đi bộ vài cây số. Bác sĩ mà tôi đi khám bây giờ đều nói rằng tôi có trái tim của một người thanh niên.

 Mặc dầu thế, có một việc tôi vẫn làm mỗi ngày, một sự thực hành tôi vẫn làm từ năm hai mươi tuổi: quán tưởng về cái chết của bản thân.

 Mỗi đêm khi lên giường, ngay trước khi ngủ, tôi quán tưởng, “Tôi có thể chết tối nay. Tôi có thể chẳng bao giờ thấy ngày mai.” Khi tôi đi bộ hằng ngày, tôi quán: “Tôi có thể bị đụng xe.” Khi đi máy bay, tôi quán: “Máy bay có thể gặp nạn.” Khi tôi lái xe, tôi quán: “Tôi có thể bị tai nạn.”

 Có thể vì tôi đã có vài kinh nghiệm suýt chết đuối lúc còn trẻ, nên trong đầu tôi luôn nghĩ về cái chết. Nó đã có ở đó tự lúc nào tôi không biết, nhưng chắc chắn nó không phải là một ám ảnh đen tối. Nó có nhiều mặt tích cực -một cơ hội, một sự nhắc nhở để ta thực hành Pháp một cách tinh tấn.

 Chúng ta chẳng bao giờ biết mình còn lại bao nhiêu thời gian. 


Chương 17
Lời Mời Đến Phương Tây

 Đại sư Dhammananda lúc đầu đã mời tôi đến Malaysia, tôi đoán vì ông mến tôi. Tuy nhiên, dần dần tình bạn của chúng tôi trở nên lợt lạt. Tôi không biết chắc chắn tại vì sao.

 Có thể vì tôi quá khăng khăng trong trong việc dạy tiếng Anh. Có thể do tuổi trẻ của tôi. Có thể do những lớp học ngoại khóa tôi tham dự đã không cho phép tôi thường xuyên có mặt tại chùa, do đó thiếu sót các bổn phận ở chùa.

 Tôi biết tôi cũng va chạm với một số thành viên của Hội Sasana Ahbiwurdhiwardhana, là Hội hỗ trợ và điều hành công việc chùa. Số người này khó chịu vì tôi tiếp tục giảng pháp cho các em nhỏ bằng tiếng Anh. Vì giai cấp trung lưu coi việc nói được tiếng Anh là thời thượng và tiến bộ, nên những đứa trẻ này đã được nghe tiếng Anh ở nhà. Rồi ở trường học, trên radio, truyền hình, đâu cũng nói tiếng Anh. Nhưng phụ huynh học sinh muốn chúng tôi, các tăng sĩ ở chùa nói tiếng Sinhala với con cái họ.

 Tôi biết tốt nhất là nên sử dụng tiếng Anh, ngôn ngữ mà những đứa trẻ này cảm thấy dễ hiểu. Các tư tưởng trong giáo lý đã đủ khó cho các em hiểu, cộng thêm, nếu tôi dạy bằng thứ ngôn ngữ mà chúng không hiễu rõ, chúng sẽ bức xúc và không muốn đến chùa chút nào.

 Tôi đã trao đổi nhiều với các bậc phụ huynh về các vấn đề này.

 “Chúng tôi dựa vào Sư để giúp chúng tôi bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa,” họ nói. “Chúng tôi đã mời Sư đến đây để dạy con em chúng tôi tiếng Sinhala. Thay vì làm thế, Sư luôn dạy chúng bằng tiếng Anh.”

 “Điều đó không đúng,” tôi đáp lại. “Tôi thuyết pháp bằng cả hai thứ tiếng Sinhala và tiếng Anh. Tôi cũng đã tìm những người tình nguyện dạy tiếng Sinhala trong các lớp giáo lý ngày chủ nhật. Nhưng tôi giảng Pháp bằng tiếng Anh. Đó là cách tốt nhất.”

 Tiếc thay, tôi không thuyết phục được các vị phụ huynh này.

 Trong lúc đó, cơ quan di trú của Malaysia đã báo cho tôi biết họ không thể gia hạn visa của tôi nữa. Họ đã gia hạn cho tôi chín năm liên tiếp, mỗi lần tôi nộp đơn. Nhưng rõ ràng nó đã vượt giới hạn của họ. Họ cảnh báo với tôi rằng họ không thể gia hạn lần thứ mười. Tôi sẽ phải rời xứ này vào cuối năm 1968.

 Vì thế tôi bắt đầu suy gẫm về những chọn lựa của mình. Tôi đã gửi thư hỏi đến các chùa ở Hồng Kông, Đại Hàn, Indonesia, và Canada. Phần đông đều sốt sắng, với những lời mời tôi đến trú ngụ và dạy ở đó. Vấn đề chỉ còn là sự chọn lựa của tôi về nơi tôi muốn đến kế tiếp.

 Năm 1967 tôi đã thực hiện một chuyến du hành thú vị qua tất cả các xứ ở Á châu, nhờ sự giúp đỡcủa Hội Sasana Abhiwurdhiwardhana. Trong thời gian sáu tháng, tôi đã viếng Campuchia, Lào, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật, Đài Loan, Phi Luật Tân, và Indonesia, cũng như là Hồng Kông. Thật là một chuyến viễn du đầy ấn tượng đối với một vị tu sĩ trẻ và thật đúng là kỳ “nghỉ phép” đầu tiên mà tôi được hưởng. Tôi không phải dạy lớp nào hay học hành gì. Tôi chỉ ở trong các chùa và viếng thăm những địa danh tôn giáo ở bất cứ nơi nào tôi đến.

 Đặc biệt là Việt Nam, rất thú vị. Mặc dầu là thời điểm chiến tranh đang bắt đầu sôi bỏng trong nước, người Việt Nam rất tử tế với tôi. Họ dẫn tôi đi thăm viếng các đền chùa và tổ chức những buổi diễn thuyết cho tôi ở khắp mọi nơi mà tôi đến. Hằng trăm người đến lắng nghe, và luôn có người dịch các bài giảng của tôi từ tiếng Anh sang tiếng Việt. 

 Ở một thành phố của Việt Nam, là Đà Nẵng, cứ vài phút, bom B52 của Mỹ lại dội xuống vùng DMZ (vùng tự do oanh tạc). Cả tòa nhà nơi tôi đang lưu trú rung chuyển với từng trái bom dội xuống.

 Ở Lào, tôi thăm viếng các thành phố của Luong Prabang và Vientiane. Vì không có máy bay tư nhân nào, một vị đại sư Lào danh tiếng đã thu xếp để tôi có thể đi bằng máy bay quân sự. Tất cả những người đồng hành với tôi đều là lính.

 Ở Campuchia, tôi đã leo lên những bậc thang dốc đứng bằng đá của Angkor Wat, một kiến trúc các dãy chùa nổi tiếng của thế kỷ thứ 12, kéo dài hằng cây số xuyên qua rừng.

 Ở Nhật, tôi gặp một vị sư người Sinhala khác, đại đức Ratmalane Sivali, người cũng đang du hành qua Đông Nam Á. Tôi kể với Sư rằng visa của tôi ở Malaysia sắp hết hạn. Sư cho tôi biết có một ngôi chùa Sinhala đã được thành lập ở Washington D.C., một trong những ngôi chùa Sinhala đầu tiên ở Mỹ. Chùa này đang tìm một vị tu sĩ có thể nói tiếng Anh với kinh nghiệm truyền giáo để giúp đỡ sư trụ trì ở đó. Đại đức Ratmalane Sivali cho tôi địa chỉ của chùa và tên vị trụ trì. Sư khuyên tôi cũng nên viết thư đến cho Hội Sasanasevaka ở Ceylon, bày tỏ ý muốn đến Washington.

 Cuối chuyến du hành sáu tháng ở châu Á, tôi trở về nhà ở Ceylon.

 Tôi ở đó khoảng một tháng, thăm viếng tất cả thân quyến của tôi. Tôi cũng đến viếng Thượng tọa Madihe Pannasiha Nayaka, người đỡ đầu của Hội Sasanasevaka, người đã trả lời thư của tôi về công việc ở Washington. Sau một cuộc phỏng vấn ngắn, Sư nói rằng sẽ báo lại với các thành viên trong Hội về tôi và họ sẽ cho tôi biết quyết định sau. 

 Một ngày kia vào khoảng gần cuối thời gian tôi ở Ceylon, tôi đã thọ trai xong ở nhà anh tôi, Rambanda. Rồi tôi đến ở chùa Yakkala, cách làng Henepola của tôi khoảng bảy mươi dặm. Ngày hôm sau, em gái tôi đã nhắn tin.

 Lời nhắn rằng, “Rambanda đã mất. Sư phải về ngay.” Cái gì? Không thể nào. Anh vẫn còn khỏe mạnh lúc dùng bữa trưa hôm qua với tôi. Rambanda còn trẻ, chỉ mới bốn mươi lăm và hoàn toàn khỏe mạnh.

 Tôi đưa mảnh giấy báo tin cho đại đức Candajoti. “Đây chắc là một sự nhầm lẫn,” tôi nói. “Hay là một sự trêu đùa ác độc nào đó.”

 “Không,” Sư trả lời. “Tôi không nghĩ đó là trò đùa. Tử thần có thể đến viếng bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Tốt nhất sư nên về.”

 Tôi mướn một chiếc taxi chạy đến nhà anh tôi. Cả nhà đang ở đó, than khóc.

 Tôi được biết rằng đêm hôm trước, chỉ vài giờ sau khi tôi ra về, Rambanda đã dẫn con trai lớn nhất của mình đi hái mít cho mấy con trâu nước ăn. Anh đã dặn con trai ở dưới đất và rằng anh sẽ thải mấy trái mít to xuống cho nó. Rambanda trèo cao lên cây, có thể là mười lăm mét. Khi anh thải trái mít đầu tiên, nhánh cây mà anh đang đứng và đang tựa tay vào, cả hai đều gãy. Anh té nhào xuống đất, gãy cổ. Anh chết ngay lập tức.

 Sáng hôm sau tôi đi đến Galagedara với vài người thân quyến để mua xấp vải trắng và những thứ khác mà chúng tôi cần dùng cho đám táng anh trai tôi. Tôi tê tái người. Những ngày sau đó chỉ là những ký ức nhạt nhòe.

 Sau đám tang là lúc tôi phải trở lại Malaysia. Tôi lên máy bay ở Colombo. Khi ngồi xuống trong máy bay, tim tôi đau nhói, nhớ thương anh. Lúc còn nhỏ, chúng tôi rất thân nhau, luôn gây ra lắm chuyện và cũng có nhiều điều kỳ thú. Kỷ niệm tràn ngập đầu óc tôi.

 Và rồi tôi nghĩ đến, lần nào khi tôi rời Ceylon, Rambanda cũng là người đưa tiễn tôi đến sân ga hay bến tàu. Lần này, anh không có ở đó.

 Tôi bắt đầu khóc.

 Sau khi trở lại Malaysia không lâu, tôi nhận được lá thư quyết định một chương mới trong cuộc đời tôi. Đó là lá thư của Hội Sasanasevaka chính thức mời tôi đến Washington D.C, để trở thành vị giảng sư lưu trú ở chùa họ. Việc thuyên chuyển của tôi bắt đầu vào năm sau, 1968.

 Tôi đã bốn mươi tuổi. Cuối cùng tôi sẽ được làm những gì mà tôi luôn mong muốn –được giảng pháp bằng tiếng Anh, trong thủ đô của xứ sở có nhiều người nói tiếng Anh nhất trên thế giới.

 Tôi sắp sửa đi Mỹ.

 

Chương 18
Đến Mỹ

 Năm 1968, tôi đi hành hương đến tất cả các thánh địa ở Ceylon. Tôi sắp bước chân đến một nơi xa xôi: Mỹ quốc, và không ai biết khi nào tôi có thể trở lại quê hương nữa. Vì thế điều quan trọng là tôi phải đến viếng thăm những nơi linh thiêng nhất ở Ceylon trước khi rời xa quê hương. 

 Đó là một chuyến đi tuyệt vời. Hầu hết thân quyến của tôi và một vài người bạn thân cùng đi. Chúng tôi mướn một chiếc xe buýt. Tôi cũng mong là mẹ tôi có thể đi cùng, nhưng lúc đó bà bị tê liệt nặng đến nỗi bà không thể chịu đựng được những chuyến đi đường dài. Đi hành hương đến những thánh địa ở Ceylon thì cũng giống như đi picnic ở các quốc gia khác. Người ta mướn xe buýt hay những chiếc xe nhỏ, trang hoàng xe với hoa dừa. Họ ca hát trên đường đi và thỉnh thoảng cho xe dừng lại ra ngoài, ngồi dưới bóng cây, dùng bữa với thức ăn mang theo. Thật là thư giãn và vui vẻ.

 Nhóm của chúng tôi viếng thăm một vài tu viện cổ xưa và các di tích chùa. Chúng tôi đến viếng cây bồ đề cổ xưa và thăm cung điện ở trên núi của vua Kassapa thứ năm, nơi có những bức họa các vị thần đồng cầm hoa sen tô điểm trên tường thật đẹp đẽ. Ở Kandy, chúng tôi viếng chùa Răng, nơi một xá lợi của Đức Phật được tôn thờ, được coi là một trong những nơi linh thiêng nhất ở quê hương tôi. Tích xưa kể rằng khi hoàng tử Danta Kumara và em gái của ngài, là Hemamala, mang xá lợi đển đảo. Bà công chúa thắt tóc mình lại thành bím và giấu răng xá lợi trong đó để không ai có thể đánh cắp. Một ngôi chùa lộng lẫy đã được xây lên để thờ phụng xá lợi này.

 Theo lịch sử Tích Lan, mỗi vị vua phải nguyện bảo vệ ngôi chùa Răng, nếu người đó muốn duy trì ngôi vị. Nếu nhà vua nào không tôn trọng xá lợi, ông sẽ bị lật đổ. Nhờ thế ngôi chùa nầy luôn được bảo vệ. Ngay chính cả người Anh cũng tôn trọng ngôi chùa Răng này khi họ chiếm đóng Tích Lan và biến nó thành một thuộc địa gọi là Ceylon.

 Ngày nay, các nhà chính trị cũng thường đến chùa Răng để bày tỏ lòng kính trọng sau khi đắc cử. Và hằng năm đều có một cuộc diễn hành lớn ở Kandy để tôn vinh xá lợi. 

 Tiếc thay, ngôi chùa đã bị hư hoại trong một cuộc bỏ bom khủng bố vào năm 1998, một trong những tổn thất lớn của cuộc nội chiến kéo dài của chúng tôi. Phần mặt tiền tuyệt đẹp của ngôi chùa đã bị tàn phá dữ dội trong vụ nổ đó. Suốt nhiều năm, người ta kéo những cổng rào lớn bao quanh chùa để ngăn cấm bất cứ ai lái xe đến gần, nhưng vào năm 2002, chúng được tháo gỡ xuống như một biểu hiện của thiện chí khi việc thương thuyết cho hoà bình giũa chính phủ và những kẻ chống đối, người Tamil đang diễn ra.

 Trên đường trở về nhà, tôi cũng ghé đến tòa đại sứ Mỹ ở Colombo để xin visa. Viên chức cư trú dành cho tôi hai cuộc phỏng vấn vào hai ngày khác nhau. Rồi sau đó tôi được yêu cầu đi khám sức khoẻ. Vị bác sĩ nhận ra tôi thường đến nhà cha mẹ ông để khất thực, khi tôi còn là một chú tiểu nhỏ ở chùa Vidyasekhara Pirivena ở Gampaha. Ông rất ngạc nhiên khi gặp lại tôi lần này và chúc tôi may mắn trong cuộc hành trình.

 Vào những ngày đó việc ghi vé máy bay dễ hơn là hiện nay. Không bị phạt khi hủy vé, không phải trả tiền thêm khi dừng lại ở bất cứ nơi nào. Bạn có thể chọn bất cứ tuyến đường nào bạn thích với nhiều nơi dừng chân theo ý muốn, miễn là cuối cùng bạn sẽ đến nơi đã định. 

 Vì chuyến đi quá dài, tôi quyết định biến nó thành một cuộc phiêu lưu, dừng lại nhiều nơi trên đường, để viếng những nơi tôi chưa từng đặt chân tới. Tôi liệt kê các quốc gia tôi muốn viếng thăm, rồi viết thư đến từng tòa đại sứ của các nước này ở Ceylon, nhờ họ tìm giùm chỗ cho tôi tá túc một đôi ngày.

 Đây là những nơi tôi dừng chân: Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Hy Lạp, Ý, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Bỉ, Hòa Lan và Anh quốc.

 Ở Rome, tôi được người đại diện của tòa đại sứ Ceylon đón tại phi trường. Anh ta đưa tôi đến một khách sạn lộng lẫy, và ngay khi vừa đến khách sạn, tôi đã bảo với nhân viên tiếp tân ở khách sạn tôi muốn tham gia tour đi Vatican. Ngay lúc đó có một tour sắp bắt đầu, vì thế tôi mang hành lý vào phòng, rồi vội vã đi ngay lên xe buýt với một số du khách khác. Chúng tôi được chia thành nhóm tùy theo ngôn ngữ mà chúng tôi sử dụng. Tôi gia nhập nhóm du khách nói tiếng Anh. Khi người hướng dẫn viên đến thu vé, tôi không tìm ra vé của mình, dầu tôi nhớ rằng nhân viên tiếp tân có đưa vé cho tôi. Người hướng dẫn lại nói: "Thưa ông, không sao, tôi biết ông đang ở khách sạn. Chỉ cần cho tôi tên khách sạn ông đang trú."

 Tôi nghẹn lời. Tôi không kịp hỏi tên khách sạn nơi tôi đang trú. Tôi được người ta chở đến đó, nên không để ý đến tên. Tôi cũng không mang theo mình biên lai hay giấy tờ gì.

 Dầu vậy, người hướng dẫn viên vẫn điềm tĩnh.

 "Thưa ông, đừng lo ngại. Hãy đi thăm Vatican cho vui vẻ, xe buýt sẽ trở lại đón ông lúc 5 giờ chiều. Hy vọng là tới lúc đó ông sẽ nhớ ra tên khách sạn của mình."

 Tour viếng Vatican thật kỳ thú, nhưng suốt cả thời gian, tôi bị lo ra, cố nhớ cho được tên khách sạn của mình. Sự mất chánh niệm của tôi trong việc để ý đến một điều đơn giản như tên khách sạn đã cướp đi của tôi cơ hội được sống trong giây phút hiện tại, thực sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vatican.

 Khi xe buýt trở lại lúc 5 giờ chiều, tôi vẫn không thể biết mình ở khách sạn nào. Tôi thật xấu hổ. Tôi bảo người hướng dẫn viên rằng có thể khách sạn của tôi gần tòa đại sứ Ceylon.

 "Tòa đại sứ Ceylon. Nó ở đâu vậy?" anh ta hỏi.

 Tôi hoàn toàn mù tịt.

 Giờ thì người hướng dẫn viên không còn bình tĩnh nữa. Đã qua giờ ăn tối. Anh ta bảo rằng đã hết ngày làm việc của anh; anh phải về nhà. Anh ta rất tiếc nhưng phải để tôi xuống giữa đường, và tôi phải tự mình tìm đường đến khách sạn hay tòa đại sứ.

 Hằng giờ, tôi đi lang thang khắp các nẻo đường của Rome. Đó là một tối trời mưa lạnh. Tôi hỏi tất cả mọi người mà tôi gặp tòa đại sứ Ceylon ở đâu. Nhưng tôi chỉ được trả lời bằng những cái nhìn ngơ ngác. Tôi đi vào bất cứ cửa hàng, câu lạc bộ, quán bar nào có người.

 Cuối cùng khoảng 10g30 tối, tôi đến một cây xăng, hỏi xem người bán xăng có biết tòa đại sứ Ceylon không. Thật kỳ diệu, anh ta hiểu tôi ngay.

 Và còn diệu kỳ hơn nữa, khi anh ta vào văn phòng, rồi trở ra ít phút sau với lá thư đề địa chỉ và số điện thoại của tòa đại sứ Ceylon. Cây xăng có lá thư đó vì chính phủ Ý miễn tiền thuế cho tòa đại sứ khi họ mua xăng.

 Và điều kỳ diệu cuối cùng là có người trả lời điện thoại vào giờ đó ở tòa đại sứ! Tôi thở phào khi được chở trở lại khách sạn một tiếng đồng hồ sau đó.

 Tôi vẫn không biết tên của khách sạn.

 Ở Brussels, tôi không quen ai, và cũng không có tòa đại sứ Ceylon ở đó. Ở phi trường, tôi trả mười đồng đô để lấy visa, rồi tôi đón taxi vào thành phố. Tôi xem trong quyển danh bạ điện thoại, tìm tên người Sinhala, rồi gọi số điện thoại. Gia đình đó đã đến rước tôi. Tôi ở với họ vài ngày, chúng tôi đi thăm viếng một số điểm du lịch ở địa phương, kể cả Waterloo, chiến trường nổi tiếng nơi Nã Phá Luân (Napoleon) phải thuận theo số phần.

 Ở Luân Đôn, tôi ở chùa Phật giáo Luân Đôn. Một ngày kia tôi đến viếng Stratford-upon-Avon, quê hương của Shakespeare. Trong lúc tôi đang ở đó, một cặp vợ chồng người Mỹ bắt chuyện với tôi. Tôi bảo với họ tôi là một vị tu sĩ Phật giáo, đang trên đường đến sống ở Mỹ.

 Người chồng nói: “Khi đến Mỹ, ông phải thay đổi y phục đang mặc.”

 “Không, đâu cần phải vậy,” người vợ phản đối. “Ông ấy là tu sĩ Phật giáo. Mặc áo của người tu sĩ Phật giáo. Tại sao lại phải bỏ chứ? Đó mới chính là vấn đề đối với các linh mục của chúng ta ngày nay. Không có dấu hiệu gì ở bề ngoài cho biết họ là người tu. Mình không thể nhận ra họ. Không thể tìm được ai để làm lễ sám hối. Chúng ta phải nể phục lòng can đảm duy trì truyền thống của các vị tu sĩ Phật giáo.”

 Thật ra, mặc chiếc áo tu không phải chỉ là truyền thống, hay để người khác có thể nhận ra chúng tôi. Đúng hơn là để chúng tôi tự nhắc nhở mình là ai, phải làm gì, và phải đối xử với người khác như thế nào. Nó giúp chúng tôi cẩn trọng trong lời nói, tránh quá độ, và nhớ giữ sự hòa nhã với người xung quanh.

 Mặc chiếc áo tu khi đi du lịch khiến chúng tôi tự ý thức về mình một cách tích cực. Chúng tôi sẽ luôn tự vấn: “Mình có làm gì xúc phạm đến người khác không?” “Mình có làm gương tốt cho ai không? Mình có tiêu biểu tốt cho tăng đoàn không?"

 Tất cả những sự tự quán sát này đều là nhờ nơi mảnh áo vàng đơn giản đó.

 Từ Amsterdam, tôi bay qua thành phố Nữu Ước. Đó là chặng cuối cùng của một cuộc hành trình dài, và là nét chấm phá cuối cùng trong bức tranh tôi đã phác thảo trong đầu từ nhiều năm trước, khi tôi mở quyển sách Anh ngữ đầu tiên của mình. Tôi rất phấn khởi.

 Vào lúc 2giờ chiều ngày 18 tháng 9 năm 1968, tôi đặt chân xuống phi trường John F. Kennedy. Tôi không biết phải đi đâu, nên đi theo những người hành khách khác rời khỏi máy bay. Sau khi qua cửa hải quan và sở di trú, tôi mang hành lý của mình vào sảnh đường to lớn. Không có ai chờ đón tôi ở đó. 

 Tôi phải tự lo liệu, trong một xứ sở sẽ trở thành quê hương mới của tôi.


Chương 19
Nghĩa Vụ Lao Khổ

 Tôi đến New York với chỉ một hướng dẫn - địa chỉ và điện thoại của một ngôi chùa Trung Hoa ở Bronx, mà nhiều năm trước đó ở Malaysia, một vị sư đã cho tôi, và mời tôi đến thăm họ nếu có bao giờ tôi đến Mỹ.

 Tôi lang thang quanh phi trường Kennedy cho đến khi tôi thấy một máy điện thoại công cộng. 

 Tôi bước đến, cầm ống nghe lên và quay con số chùa trên tấm danh thiếp. Tôi thấy lỗ bỏ tiền xu trên điện thoại nhưng lúc đó tôi không biết đó là gì. Mà nếu như có biết, tôi cũng chưa có đồng xu Mỹ nào, chỉ có tiền giấy.

 Trong suốt ít nhất cũng là bốn mươi lăm phút, tôi quay đi, quay lại số điện thoại mà cũng chẳng được gì. Tôi không hiểu tại sao lại không có gì xảy ra. Và tôi cũng không thể hiểu lời hướng dẫn đã ghi âm sẵn trong máy bảo tôi phải bỏ mười xu vào.

 Cuối cùng tôi bỏ cuộc. Tôi thấy một phụ nữ trẻ ngồi ở một nơi giống như bàn hướng dẫn. Tôi tiến đến và cố gắng phát âm tiếng Anh với hết khả năng của mình, để hỏi cô cách sử dụng điện thoại.

 Cô ta không trả lời. Cô chỉ trố mắt nhìn tôi. Tôi lặp lại câu hỏi của mình . Cô ta nhìn tôi như thể bị hớp hồn. Tôi nghĩ có thể cô ta không hiểu tôi. Hay cách tôi phát âm tiếng Anh quá nặng.

 Rồi tôi chợt hiểu ra: Cô gái trẻ này chưa bao giờ thấy ai giống như tôi. Một người đàn ông nhỏ thó với cái đầu trọc, mình lại quấn y vàng. Có thể cô ta đã nghĩ tôi là một loại hippy tâm thần, mặc y phục của người Ấn Độ -dầu gì đây cũng là thời kỳ của những năm sáu mươi.

 Chán nản, tôi quay đi, kéo lê hai chiếc va-li nặng nề của mình. Tôi cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ. Cho tới lúc này, tôi đã lang thang trong phi trường ít nhất là một giờ. Trong tuyệt vọng, tôi bắt đầu hỏi bất cứ ai đi ngang thử xem họ có biết đường đến chùa Trung Hoa ở Bronx. Tôi chặn bất cứ ai lại, tất cả mọi người.

 Dĩ nhiên, sau này tôi mới biết, đó là điều mà bạn không nên làm ở Queens.

 Người ta nhìn tôi như thể tôi điên. Hoặc họ chỉ phớt lờ tôi, lướt qua mà chẳng để ý đến câu hỏi của tôi.

 Cuối cùng, có người cảm thấy tội nghiệp cho tôi. Ông ta bảo tôi ra cửa phi trường, lấy taxi về Bronx. 

 Tôi làm theo lời ông, rồi chẳng bao lâu sau tôi đứng đợi trong một hàng dài với các hành khách khác, ở trạm taxi. Khi đến phiên tôi, vì lý do gì đó, người tài xế taxi từ chối không chở tôi. Chiếc kế tiếp và kế tiếp nữa cũng vậy. Không ai muốn chở tôi.

 Tôi hoàn toàn bối rối. Vẻ bề ngoài của tôi đáng sợ đến thế sao? Tôi có thể nói tiếng Anh, tôi cũng có tiền để trả họ mà. Nhưng không ai muốn chở tôi. 

 Cuối cùng, một bác tài đồng ý cho tôi lên xe. Ông có vẻ chẳng thích thú gì khi ông vứt hành lý tôi vào thùng xe. Khi xe vừa tách khỏi lề đường, ông hỏi tôi muốn đi đâu.

 “Chùa Phật giáo Trung Hoa ở Bronx,” tôi trả lời.

 Bác tài lập tức tấp lại bên đường và thắng mạnh. Ông ta nhảy ra khỏi xe.

 “Ra khỏi xe đi,” ông ra lệnh. “Tôi không đi Bronx.”

 Chán nản và hoang mang, tôi kéo hành lý trở lại sắp hàng chờ taxi khác. Lần nữa, cũng cảnh chán nản đó tái diễn: Khi tôi cuối cùng đến được đầu hàng, thì người tài xế này đến người tài xế khác đều từ chối chở tôi.

 Lúc đó trời đã tối và đã khuya lắm rồi. Tôi bắt đầu hoảng sợ. Tôi sẽ làm sao qua đêm nếu không có bác tài nào chịu cho tôi lên xe? Tôi đã tưởng Mỹ là một nơi thân thiện, cởi mở, nhưng giờ ở đây tôi đã bị đối xử với sự nghi ngờ, thô lỗ.

 (Dĩ nhiên, mãi sau này, tôi mới hiểu rằng đi đến Bronx vào đêm khuya như thế không an tòan. Cộng thêm với vẻ bề ngoài lạ lùng của tôi, có lẽ đã khiến cho các bác tài xế taxi phải lo sợ.)

 Mãi đến hơn 10 giờ 30 tối, khi hành khách đã thưa đi, các bác tài mới chịu đi xa một chút, cuối cùng một người bằng lòng chở tôi đến Bronx. Tôi thật sự hoàn hồn. 

 Khi đến nơi, chúng tôi thấy chùa tối đen nhưng khi tôi nhấn chuông, đèn ngoài hiên bật sáng. Tôi tự giới thiệu mình và sau đó cửa mở, để lộ ra gương mặt của một tu sĩ người Trung hoa. Ông không nói tiếng Anh, nhưng nhận thấy tôi mặc y áo, nên để tôi vào. Ông mang cho tôi một ly trà xanh ngút khói và đưa vào một căn phòng ấm áp để ngủ. Cuối cùng thật là tuyệt vời để có một chỗ ngả lưng.

 Sáng hôm sau, sau bữa điểm tâm, một phụ nữ Mỹ trẻ xuất hiện. Cô có mái tóc đen, cắt ngắn và mang kính gọng sừng. Cô tự giới thiệu là Martha Sentnor, một Phật Tử ở chùa này.

 Khi tôi nói rằng tôi đến Mỹ để sống ở chùa Phật Giáo Washington, cô nở rộng nụ cười.

 “Tôi là một thành viên của chùa,” cô nói.” Tôi đã đến đó nhiều lần rồi.”

 Tôi kể lại những phiền phức mà tôi gặp ở phi trường cho cô nghe.

 “Ồ, Bhante,” cô nói, dùng thuật ngữ để gọi một cách thân mật, có nghĩa là thưa đại đức, "đó là chuyện bình thường trong một thành phố lớn như New York. Người ta có thể rất bất lịch sự. Sư có thể coi như may mắn là đã không bị mugged (trấn lột).”

 Cô phải giải thích cho tôi nghe từ mugged nghĩa là gì.

 Những ngày sau đó, Martha tử tế chở tôi đi quanh thăm các điểm du lịch ở Manhattan: Tượng nữ thần tự do, tòa Empire State, cảng Nữu Ước. Không gian, sự hối hả và tiếng ồn của thành phố choáng ngợp tôi. Tôi chưa bao giờ kinh nghiệm thứ gì giống như vậy. Tưởng chừng như đây là một thế giới khác với thế giới của ngôi làng nhỏ bé của tôi ở Henepola.

 Một tuần lễ sau, tôi bay từ Nữu Ước đến Washington, chặng cuối cùng của cuộc hành trình của tôi. Tôi đặt chân đến phi trường National vào ngày 26 tháng 9. Có hai người chờ đón tôi ở đó: Đại đức Dickwela Piyananda và Michael Roehm, một thanh niên Mỹ, Phật tử chùa Phật giáo Washington.

 Nơi trú ngụ mới của tôi là một ngôi nhà bằng gạch, ba tầng đã xuống cấp, nằm trên đường số 16 Tây Bắc. Một bên chùa là nhà thờ Cơ Đốc Hy Lạp, bên kia là một nhà tư nhân. Cuối đường là tòa Đại sứ Nga và Canada.

 Chùa Phật giáo Washington là chùa Phật Giáo Nguyên thủy đầu tiên ở Mỹ, do hội Sasanasevaka ở Ceylon thành lập.

 Năm 1965 một tu sĩ trẻ người Sinhala, tên là đại đức Bope Vinita sang Mỹ để học ở trường Harvard Divinity nhờ vào học bổng của Quỹ Tài Trợ Á châu. Trong khi sống và học ở Boston, đại đức Vinita thấy rằng người Mỹ rất thích nghiên cứu về các tôn giáo phương Đông. Đó là khoảng thời gian của Jack Kerouac, các nhà thơ trường phái Beat, Alan Watts và Thiền, và Richard Alpert tự là Ram Dass.

 Khi đại đức Vinita trở về Ceylon, ông trình lại điều này với đại sư Madihe Pannasiha Mahanayaka, hội trưởng Hội Sasanasevaka. Một năm sau đó, năm 1966, Đại sư Pannashiha tự thân hành đến Mỹ, và đã đi thăm viếng nhiều thành phố. Ông cũng thấy có nhiều người rất thích tìm hiểu Phật Giáo. Khi trở lại Ceylon, đại sư thuyết phục Hội quyên tiền để xây chùa ở Mỹ.

 Với số tiền $16,500 đô trong tay, đại đức Vinita trở lại Mỹ vào đầu năm 1967, và tham khảo ý kiến của Oliver Weerasinghe, Đại sứ của Ceylon ở Mỹ lúc đó.

 “Tại sao không xây dựng ngôi chùa mới đó ngay tại đây ở Washington?” Weerasinghe đề nghị. Sau đó hai người tìm được một tòa nhà thích hợp trước kia là tòa đại sứ của Thái, đang cần bán. Trong lúc họ đang thương lượng với chính phủ Thái để mua ngôi nhà, thì một tu sĩ người Sinhala khác cũng đến Mỹ, đại đức Dickwela Piyananda. Ông và đại đức Vinita sống chung trong một căn phòng nhỏ bé trên đường Harvard ở Washington.

 Cuộc thương lượng phải mất nhiều tháng. Cuối cùng khi việc ngã giá bán mua gần hòan tất, chính phủ Thái cho phép Đại đức Piyananda dọn vào tòa nhà, dầu giấy tờ mua bán chưa ký xong. Đại đức Vinita ở lại căn phòng thuê.

 Ngay khoảng thời gian đó, vào mùa thu năm 1968 tôi đến. 

 Ngay buổi tối đầu tiên của tôi ở chùa, đại đức Piyananda bảo tôi, “Tôi là một người già cả ở đây. Nhưng sư còn trẻ, đầy nhiệt huyết và có nhiều kinh nghiệm. Nơi này rất nhiều việc, và tôi muốn sư đảm trách công việc này. Tôi sẽ là người chủ trì ở đây, để cố vấn sư khi nào sư cần giúp đỡ. Nhưng tôi muốn sư đảm trách các công việc.”

 Đại đức Piyananda không già đến thế, còn chưa đến sáu mươi, nhưng tôi nghĩ ông không quen với công việc chân tay. Ý nghĩ phải tái tạo lại tòa nhà đã xuống cấp này khiến ông ái ngại. Vì thế, ông rất mừng được có một tăng sĩ trẻ đến góp tay.

 Vì thế tôi bắt đầu làm việc một mình. (Đại đức Vinita đã trở lại Ceylon ngay khi tôi vừa đến Mỹ).

 Tòa nhà rộng mênh mông: Tám phòng ngủ, bốn nhà tắm, một tầng hầm và một căn gác. Tòa đại sứ Thái đã chứa các sinh viên đại học ở đó, mà những sinh viên này có thể đã không nương tay với tòa nhà. Các cửa sổ, cửa ra vào đều hỏng. Nhiều phòng, giấy dán tường loang lổ. Trần nhà của căn hầm vôi vữa ra. Nhiều cửa không có khóa. Mái nhà cũng xuống cấp. Vườn tuợc thì giống như một khu rừng rậm.

 Máy nước nóng bị nhiễu, toilet cũng vậy. Trong một phòng tắm, vòi sen tắm giống như chỉ được gắn đại vào. Khi vặn vòi, nước sẽ chĩa lên trần nhà, vì thế chúng tôi đã gắn một miếng kiếng trên đó để nước dội trở lại. Để tắm được bằng vòi sen, nếu bạn có thể gọi như thế, tôi phải ngồi dưới vòi nước chảy ngược lại đó.
 Nói đến việc tu sửa, tôi cũng không biết tôi đang làm gì? Tôi không có kinh nghiệm xây dựng gì cả, vì thế tôi đi đến một tiệm bán đồ gia dụng gần nhất, cách chùa khoảng một dặm và bắt đầu bằng nhiều câu hỏi. Đối với những công trình tu sửa lớn, tôi phải đợi đến khi có đủ tiền cúng dường để trả cho vật liệu xây dựng. Sau đó, tôi phải khiêng vác bất cứ vật liệu nào tôi mua, kể cả gỗ.

 Sau một thời gian tôi được một vài người Thái đến chùa giúp đỡ. Rồi dần dần, một số gia đình người Burma, Việt Nam cũng đến góp tay. Chúng tôi đập tường ở tầng dưới ra, ghép mấy phòng nhỏ thành một phòng lớn, dùng làm chánh điện. Rồi chúng tôi bắt tay vào sửa sang phòng ngủ để có thể ở được.

 Tôi đóng đinh, mài dũa, dựng cột, thọc các ống thông hơi -làm tất cả mà không đeo mặt nạ. Tôi nghĩ tất cả những bụi bặm và mảnh vụn mà tôi hít thở trong những tháng ngày này đã khiến tôi phát sinh bịnh dị ứng, mà vẫn còn cho đến ngày nay.

 Tôi cũng phụ trách luôn các việc thường nhật ở chùa –đi chợ, dọn dẹp, cắt cỏ, công việc văn phòng, thâu tiền cúng dường, và dạy các lớp giáo lý. Để kêu gọi thêm nhiều thành viên, tôi đã quyết định in một tờ tin hàng tháng. Tôi làm báo trên một máy in quay bằng tay. Số đầu tiên rất đơn giản: tôi viết về hành trình đến Washington của tôi và công việc trùng tu sửa Chùa. Tôi cũng kêu gọi sự hỗ trợ về tài chánh để trả nợ tiền mua lại tòa nhà.

 Phần lớn thời gian, tôi mệt nhoài. Ngày của tôi bắt đầu từ 5 giờ sáng đến 11 giờ đêm, với những công việc không dừng dứt. Và nếu có khách đến thăm Chùa, tôi phải bỏ tất cả công việc đang làm để tiếp họ.

 Dĩ nhiên vì đang ở Mỹ, chúng tôi không thể đi khất thực. Khất thực ở cửa nhà người có thể khiến chúng tôi phải đi tù. Một vài gia đình là đệ tử chùa mang đồ ăn đến như là một hành động của dana, hay cúng dường, nhưng việc đó chắc chắn không thể xảy ra mỗi ngày. Vì thế tôi phải tự học nấu ăn.

 Là một tăng sĩ ở Á châu, tôi luôn được phục vụ. Chưa bao giờ tôi nghĩ là khi đến Mỹ tôi phải lao động chân tay, làm đầu bếp, thợ sửa nhà. 

 Thú thật, tôi khá muộn phiền.
 Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể quay về, trở lại Á châu. Không có nơi nào để trở về, và tôi đã dự định là ở lại Mỹ luôn. May mắn thay, sự vận động tay chân và các nỗ lực trong việc sửa chữa chùa đã giúp tôi thật sự “giải tỏa” sự sân hận của mình.
 Dần dần, tôi bắt đầu yêu thích công việc mình làm. Học được nhiều kỹ năng cũng thú. Và cuối cùng tôi nhận ra rằng sân hận không có gì hơn là một sự lãng phí năng lượng – năng lượng mà tôi rất cần để dán giấy lên tường!

 Tuần thứ 3 của tháng mười, chưa đầy một tháng sau khi tôi đến, Sư Piyananda về Ceylon nghỉ phép hai tháng. Giờ thì tôi thật sự quản lý, và tôi chỉ có một mình.
 Vào một ngày cuối tháng 10 khoảng giờ ăn tối, chuông cửa vang lên. 

 Tôi mở cửa trước ra và thấy một đám trẻ đứng ở đó, mang những mặt nạ dễ sợ. Những chú quỷ nhỏ, ma cà-rong, và phù thủy đang trố mắt nhìn tôi. Đây có thể là một trong những “kẻ cướp” mà Martha Sentnor đã nói với tôi chăng?

 "Các cháu là ai?” tôi hỏi một cách lo lắng.

 “ TRICK OR TREAT!”, lũ trẻ la lên.

 “Xin lỗi?” tôi hỏi. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao lũ trẻ la hét với tôi. 

 Một trong những đứa lớn, tròn mắt lên giải thích là chúng muốn kẹo. Nếu tôi không cho chúng, chúng sẽ liệng trứng vào nhà chúng tôi.

 Tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết là làm vừa lòng những đứa trẻ này. Tôi vào nhà bếp và tìm thấy một vài hộp bánh do các đệ tử Chùa để lại. Tôi trở ra cửa trước, chia cho mỗi đứa trẻ một cái bánh. Tôi thở phào, khi đám trẻ nhận bánh rồi chạy đi.

 Vài phút sau đó, chuông cửa lại vang lên. Tôi không thể tin được: Lại thêm nhiều đứa trẻ nữa, lại đòi kẹo! Lần nữa tôi lại mang bánh ra cho chúng.

 Cứ như thế suốt buổi tối. Ngày hôm sau tôi kể chuyện lại với một thành viên người Mỹ của Chùa. Tôi nghĩ ông sẽ không tin câu chuyện khó tưởng tượng của tôi. Nhưng ông ngồi xuống và giải thích với tôi về lễ Halloween. Chúng tôi được một bữa cười no bụng. (ND: Lễ Halloween của Mỹ rơi vào ngày cuối tháng 10, khi trẻ con hóa trang đi từ nhà để xin kẹo bánh).

 Tháng 12, vào ngày sinh nhật thứ 41 của tôi, việc mua tòa nhà cuối cùng đã kết thúc. Ngôi chùa Phật giáo Washington, với giá bán là $33,000, chính thức thuộc về chúng tôi. 


Chương 20
Bị Lầm Là Phụ Nữ

 Trong những năm đầu ở chùa, chúng tôi lúc nào cũng chỉ có vừa đủ tiền để trả cho các thứ. Tiền nhà là một trăm bảy mươi hai đồng một tháng. Và các chi phí khác -điện thọai, điện, gas- tổng cộng chi phí đến $500 hay $600 đô một tháng. Dĩ nhiên, tất cả đều từ tiền cúng dường của Phật tử. 

 Mỗi lần đến viếng chùa, các Phật tử sẽ bỏ một hay hai đồng vào thùng phước xương. Khi chúng tôi đến nhà để tụng kinh, họ thường cúng dường một số tiền nhỏ, có thể là mười hay mười lăm đô. Mỗi tháng chúng tôi được khỏang $600 hay $700 đô.

 Không biết sao, bao giờ chúng tôi cũng dư chút ít. Chỉ chút ít.

 Chúng tôi bắt đầu thu nhận những người muốn làm thành viên chính thức của chùa. Chúng tôi lập ra ba loại thành viên -suốt đời, hàng năm và sinh viên– rồi in ra các thẻ hội viên. Tờ tin ngắn của tôi tiếp tục lôi cuốn thêm nhiều thành viên, nhờ thế chùa phát triển dần dần. Chúng tôi đã có thể hoàn thành những công việc trùng tu lớn cho chùa chỉ trong một vài năm.

 Mỗi tuần ba buổi tối, tôi hướng dẫn lớp tu thiền. Chiều chủ nhật dành cho các nghi lễ tụng kinh. Chúng tôi in một quyển sách nhỏ với các bài kinh tụng tiếng Pali, gọi là Vandana, để Phật tử có thể đọc theo trong các buổi lễ.

 Vào những ngày lễ Phật giáo, chúng tôi sẽ có những nghi lễ long trọng, theo truyền thống Sinhala. Đến ngày lễ Vesak, chúng tôi tổ chức lễ Phật Đản, Phật thành đạo và Phật Nhập diệt. Mỗi sự kiện rơi vào ngày rằm trong tháng Ấn Độ của Visakh, khoảng tháng tư hay tháng năm. Để chuẩn bị cho lễ Vesak, người ta dọn dẹp, và trang hoàng Chùa, làm lồng đèn bằng những cọng tre và giấy mỏng, và nấu rất nhiều thức ăn - thường là món chay. Đến ngày lễ, các Phật tử đều mặc màu trắng, đến chùa ở suốt ngày, gặp gỡ, chuyện trò, ăn uống và lắng nghe quý sư tụng kinh. Đó thật là một ngày lễ hội Phật giáo nhộn nhịp nhất trong năm.

 Kathina, một nghi lễ quen thuộc khác, đánh dấu sự chấm dứt của 'mùa an cư' truyền thống. Trong ba tháng (từ giữa tháng Bảy đến giữa tháng Mười), quý sư ở trong chùa, không đi ra ngoài. Truyền thống này được bắt đầu từ thời Phật còn tại thế, khi ngài và các đệ tử thực hành ba tháng an cư 'mùa mưa' trong năm, suốt thời gian đó tăng đoàn không đi ra ngoài, mà ở một chỗ cho đến hết mùa mưa.

 Hiện nay, lễ Kathina được tổ chức vào tháng mười. Trong thời gian đó cư sĩ thường dâng cúng y áo mới và các thứ vật dụng cần thiết cho tăng sĩ. Những chồng quà tặng trong chánh điện gồm có bàn chải đánh răng, thuốc súc miệng, thuốc cạo râu, xà bông và giấy vệ sinh.

 Nhưng món quà quý nhất trong tất cả, là y Kathina. Một mảnh vải vàng may bằng tay được xếp rất khéo, bọc trong bao plastic, rồi được dâng cúng một cách tượng trưng cho cả tăng đoàn. Các sư sẽ quyết định ai là người đặc biệt được nhận món quà ấy. Đôi khi đó là vị sư nhiều tuổi nhất, hay người y áo bị sờn rách nhiều nhất. Hay một vị sư đến từ một địa phương hẻo lánh nơi có thể không có các cư sĩ cúng dường y áo.

 Suốt trong những năm đầu ở chùa Washington, tôi phải hội nhập vào đời sống ở Mỹ, và nước Mỹ cũng hội nhập theo tôi.

 Tôi khá nhỏ người, chỉ cao khoảng một thước rưỡi, quấn y, đầu cạo nhẵn. Vào những năm sáu mươi, hình ảnh đó thật quá sức tưởng tượng đối với người dân Mỹ.

 Nhiều lần, khi tôi hỏi nhà vệ sinh công cộng, người ta chỉ vào phòng dành cho phụ nữ. 

 Một ngày kia trên đường đi chợ về, tay tôi ôm đầy giỏ bị, và tôi đi ngang qua một người đàn ông đang rửa xe trong sân nhà. Con chó nhà ông chạy theo tôi sửa. Anh ta la chó: “Đừng có làm phiền bà ấy!”

 Ngay cả người gặp tôi hàng ngày cũng lầm tưởng tôi là phụ nữ. Trong suốt hai mươi năm tôi sống ở Washington, mỗi ngày người phát thư vui tính bao giờ cũng chào tôi: “Đây là thư của bà, thưa bà”.

 Vào một buổi chiều tháng hai, năm 1969, một người đàn ông nhấn chuông chùa và lễ phép xin được sử dụng thư viện của chúng tôi. Tôi rất vui vì có người thích tìm hiểu về Phật giáo, vì thế, dĩ nhiên là tôi đồng ý.

 Sau đó, người này đến gần như mỗi ngày, bồng một em bé và mang theo một cái nôi nhỏ. Khi con ngủ, ông ngồi đọc sách về Phật giáo. Ông gần như không trao đổi gì với tôi, nên tôi cũng không phiền đến ông.

 Vào tháng 5, khi chúng tôi tổ chức lễ Vesak, người đàn ông nhập vào với một nhóm nhỏ các cư sĩ áo trắng và ở lại chùa suốt ngày hôm đó tu bát quan trai và tọa thiền.

 Michael Roehm, một trong những thành viên người Mỹ ở chùa, thấy ông.

 “Tiến sĩ Rodier làm gì ở đây vậy?” anh ta hỏi tôi.

 "Ai là tiến sĩ Rodier?” tôi hỏi. 

 Michael bảo với tôi là người đàn ông đó tên là David Rodier, và ông là giáo sư triết ở đại học American, chỉ cách chùa vài dặm. 

 Ngày hôm sau tôi nôn nóng chờ tiến sĩ Rodier đến thư viện vào buổi chiều như thường lệ. Khi ông đến, tôi tiến lại gần ông. 

 “Thưa, ông có phải là giáo sư ở đại học American?” tôi hỏi.

 Ông gật đầu, mỉm cười.

 Tôi thưa với ông rằng tôi rất muốn được tiếp tục việc học của mình. Tôi kể với ông về những trường tôi đã học ở Ceylon và Ấn Độ, cố gắng chắp vá việc học của mình. Tôi cũng kể với ông về việc tôi đã đậu kỳ thi ngọai khóa của Cambridge, nhưng không vào được đại học ở Malaysia.

 Ông Rodier khuyên tôi bảo đại học Cambridge gửi điểm thi của tôi đến trường đại học American. 

 Rodier cũng đề nghị tôi dự thính lớp của ông để có thể thực tập tiếng Anh.

 Hàng tháng trời, mỗi ngày tiến sĩ Rodier đều đến chùa chở tôi đến trường đại học, để tôi có thể dự thính lớp triết học của ông. Được đi học trở lại, thật là một cảm giác tuyệt vời!

 Khoảng thời gian đó, tôi bắt đầu cảm thấy đau lại ở thận trái. Dần dần tôi phải đi bác sĩ, và được chuyển qua bác sĩ nội tiết. Vị này giống như vị bác sĩ ở Malaysia, cũng bảo tôi bị sỏi thận nhưng lần này phải giải phẫu.

 May mắn thay, đại đức Piyananda và tôi đều được bảo hiểm qua chương trình bảo hiểm tập thể ở tòa đại sứ Ceylon. Tôi nằm trong bệnh viện mười ngày. Bảo hiểm trả 80 phần trăm viện phí và Michael Roehm, với tâm rộng lượng, đã trả phần còn lại cho tôi. 

 Năm 1971, ở tuổi bốn mươi ba, tôi được nhận vào trường đại học American làm sinh viên năm thứ nhất. Michael Roehm trả học phí cho tôi, lại còn cúng dường tiền cho tôi mua sách vở. Bên cạnh đó, tôi cũng dành dụm được chút ít từ số tiền ăn một trăm đồng hàng tháng mà chính phủ Ceylon cung cấp để trang trải cho chi phí học tập. 

 Vì các Phật sự ở chùa, mỗi khóa học, tôi chỉ có thời gian học hai lớp. Những năm sau đó, tôi vừa quản lý chùa, vừa là sinh viên đại học, và cũng đến các đại học khác để thuyết giảng về Phật giáo. Tôi đi khắp nơi, từ Miami đến Saint John, Newfoundland. Một số nơi biết tôi qua trường đại học American; các nơi khác thì qua mẫu quảng cáo nhỏ của chúng tôi đăng trên tờ Washington Post, về các hoạt động của chùa, cũng như các lớp giáo lý. 

 Năm 1972 tôi bắt đầu hướng dẫn một lớp thiền ở đại học American. Hơn hai mươi sinh viên ghi danh học. Vị tuyên úy ở trường đại học dành cho chúng tôi một phòng rộng trong nhà nguyện. Chúng tôi trang bị phòng với những chiếc tọa cụ êm ái.

 Khoảng một tuần sau khi lớp học khai giảng, một ngày kia tôi đến lớp sớm hơn thường lệ, thì thấy ai đó đã dùng dao rạch nát các tọa cụ. Bông gạo trắng trong tọa cụ vung vẩy khắp trên sàn nhà như là tuyết. Tôi thật thất vọng! Vị tuyên úy sắm lại cho chúng tôi những tọa cụ khác, nhưng chúng tôi đã nhận ra một thông điệp qua hành động trên: có ai đó muốn phản đối việc chúng tôi làm.

 Cũng khoảng thời gian đó, chùa cần một số giấy văn phòng có in tên chùa. Tôi đến một nhà in, đưa cho họ coi mẫu huy hiệu chùa của chúng tôi để đặt hàng. Tuần sau, khi tôi đến nhận hàng, một người khác đang làm việc trong phòng in -là chủ tiệm in. 

 “Đi ngay!” ông ta hét lên, ngay khi tôi vừa nói tên chùa. “Tôi không nhận bất cứ đơn hàng nào có chữ Buddhist (Phật giáo) trong đó."

 Đó là một số kinh nghiệm đầu tiên của tôi về vấn đề phân biệt tôn giáo, theo kiểu Mỹ. Trước đó, tôi đã có một cái nhìn rất sách vở về Hiệp chủng quốc như là một mảnh đất tự do được thành lập nên bởi những người yêu nước can đảm, muốn đem lại tự do cho tất cả mọi người. Tôi đã được đọc về George Washington và Abraham Lincoln. Tôi biết rằng lịch sử Mỹ là lịch sử của cuộc chiến đấu cho sự bình đẳng. Tôi đã nghĩ rằng là ở đây, bất cứ ai cũng được tự do để tin theo bất cứ tôn giáo nào mà họ chọn lựa. 

 Nhưng vấn đề không đơn giản như thế.

 Năm 1973 đại học American cử tôi làm vị tuyên úy Phật giáo tại trường, một chức vị mới được tạo ra vì tôi. Trường đã có các vị tuyên úy thuộc các tôn giáo khác, nhưng chưa bao giờ có tuyên úy Phật giáo. Đúng ra, tôi nghĩ đó là trường đại học đầu tiên ở Mỹ đã chỉ định một vị tuyên úy Phật giáo. Tin đó được đăng trên tờ báo trường. Lập tức có người viết thơ đến viện trưởng trường, đòi phải được giải thích tại sao ông lại chọn một kẻ 'ngoại đạo' làm tuyên úy. 

 Có khoảng thời gian đôi ba năm, cứ mỗi tháng một lần tôi đều đến một nơi trong vùng ngoại ô của Nữu Ước, gọi là Trung tâm Hướng dẫn Truyền giáo. Họ mời tôi đến để thuyết giảng về Phật giáo. Tôi thường đi cùng với Richard Stoneham, một thành viên của chùa, sống ở Nữu Ước.

 Mỗi khi thuyết giảng ở đó, tôi cẩn thận không so sánh Phật với bất cứ một vị lãnh đạo tâm linh của tôn giáo nào. Tôi muốn tỏ sự tôn trọng đối với các tôn giáo khác. Tuy nhiên, một ngày kia sau buổi giảng của tôi, khi một phụ nữ trẻ phát biểu: "Thật tuyệt vời! Trước đây tôi không biết tí gì về Đức Phật."

 Một vị mục sư lớn tuổi trong hàng thính giả lên tiếng. "Tuy nhiên, Chúa Jesus vẫn cao siêu hơn Đức Phật," ông nói một cách chắc nịch.

 "Trên phương diện nào?" Richard hỏi.

 Vị mục sư đứng lên.

 "Tôi đã sống ở Thái Lan tám năm," ông tuyên bố. "Tôi đã nhìn thấy Đức Phật này chỉ ngồi xếp chân trong các căn phòng được trang hoàng đẹp đẽ, không làm gì hết. Tôi đã thấy những người đàn ông mặc áo vàng đi xin ăn ngoài đường. Họ không làm gì cho thế giới cả. Chúa Jesus đã hy sinh cả đời cho nhân loại."

 Richard và vị mục sư bị cuốn vào một cuộc tranh cãi qua lại. Tôi chỉ im lặng. Cuối cùng, người phụ nữ trẻ bắt đầu khóc. Cô nói: "Chúng ta mời vị tăng sĩ này đi từ Washington đến đây để giảng cho chúng ta biết về Phật giáo, về tôn giáo mà ông tin tưởng. Đây có phải là cách chúng ta tiếp khách không?"

 Khi bài giảng buổi chiều kết thúc, vị giám đốc trung tâm đến hỏi tôi có điều gì xảy ra chăng. Tôi bảo không có gì, mọi việc đều tốt đẹp. Rồi tôi hướng về phía vị mục sư lớn tuổi, nói thẳng với ông.

 "Thưa ông, ông đã bảo rằng Đức Phật chỉ ngồi trong các phòng trang hoàng đẹp đẽ mà không làm gì cả. Những gì ông được thấy là các hình tượng của Đức Phật, không phải là vị Phật bằng xương thịt. Đức Phật xưa kia rất năng động. Ngài đã hy sinh ngai vàng, vương quốc, tài sản, và cả gia đình -chỉ để sống một cuộc đời đơn giản. Ngay cả sau khi đã đạt được giác ngộ, ngài chỉ ngủ hai tiếng mỗi ngày. Ngài bận rộn thuyết pháp cứu độ chúng sinh. Vì chúng sinh Ngài đã làm việc hai mươi hai tiếng mỗi ngày, trong bốn mươi lăm năm, cho đến khi ngài tịch diệt.

 Còn những người mặc áo vàng đi khất thực mà ông thấy là các tu sĩ đã nguyện sống đời đơn giản, theo như Đức Phật. Họ không phải là người xin ăn như ông nghĩ; họ được người khác kính trọng vì cuộc sống tâm linh mà họ đã chọn lựa. Các cư sĩ cúng dường họ thực phẩm, y áo, nơi ở và thuốc men. Đáp lại, các vị tu sĩ này ban cho họ những thức ăn tinh thần. Các vị tu sĩ này chỉ nhận một ít thực phẩm từ mỗi nhà. Như thế, họ không là gánh nặng cho ai."

 Có lẽ tôi không thể thuyết phục được ông, nhưng có thể tôi đã giải được một số hiểu lầm của ông.

 Vào những năm đầu của thập niên 70 là thời kỳ của chiến tranh Việt Nam, thời của 'những đứa con của hoa' (flower children), và những người phản chiến.

 Nhiều lần khi tôi đến giảng tại các trường cộng đồng và trường đại học, sinh viên sẽ hỏi tôi, Phật giáo quan niệm về vấn đề tự tử như thế nào, vì họ đã nghe tin tức về các nhà sư Việt Nam tự thiêu để chống chiến tranh.

 Tôi luôn trả lời rằng tự tử không được chấp nhận trong giáo lý của Đức Phật. Đúng ra Đức Phật hoàn toàn chống việc này. Giới luật thứ ba của Patimokkha, các giới luật dành cho người tu, dạy rằng bất cứ vị tu sĩ nào phạm tội hay tham gia vào việc mưu sát, đều lập tức bị loại trừ ra khỏi tăng đoàn. Tự tử cũng giống như giết hại bất cứ chúng sinh nào khác, cũng được coi là một trong những trọng tội. Nhưng khi người ta ở trong những hoàn cảnh bị đàn áp tôn giáo hay áp bức trong xã hội, họ phải bỏ qua những giới luật tôn giáo. 

 Những người đang cầm quyền Việt Nam lúc bấy giờ đã lạm dụng quyền hạn của họ một cách quá đáng. Phần lớn Phật tử bị chính quyền theo Thiên Chúa giáo của ông Ngô Đình Diệm đối xử tàn tệ. Người Phật tử không được quyền tổ chức những buổi nói chuyện công cộng hay những nghi lễ tôn giáo, và bị gán là Cộng sản, để chính phủ Mỹ chống lại họ. Căn bản là ông Diệm đã lợi dụng sự sốt sắng chống Cộng của chính quyền Mỹ để đàn áp Phật giáo ở Việt Nam. Đó là một chiến thuật tinh vi nhưng khá độc ác. 

 Vì quá tuyệt vọng, các nhà sư Việt Nam đã phải tự thiêu để nói cho thế giới biết những gì đang xảy ra trên quê hương họ. Hành động của họ không liên quan gì đến Phật giáo, mà chỉ là những hành động yêu nước. 

 Để làm rõ, tôi cố gắng giúp các sinh viên hiểu ý nghĩa thục sự của Phật giáo. Phật giáo, tôi bảo với họ, là một tôn giáo hòa bình.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn