CON ĐƯỜNG TỈNH THỨC PHẬT, TỔ VÀ BỒ-TÁT
Thích Đạt Ma Phổ Giác
KINH HẠNH NGUYỆN BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Tôi nghe như vầy: Có vị Bồ-tát, hiệu Vô tận Ý, ở trong pháp hội, hoa sen chánh pháp, chấp tay bạch Phật, cung kính thưa rằng: “ Bạch đức Thế tôn, ngài Quán Thế Âm, do nhân duyên gì, được danh hiệu ấy?”
Này Vô Tận Ý, này các Bồ-tát, nếu có muôn ức, các loài chúng sinh, chịu nhiều khổ nạn, khi nghe được tên, Bồ-tát Quán Âm, một lòng xưng danh, thọ trì miên mật, đều được an vui, giác ngộ giải thoát.
Nếu ai bất hạnh, bị lửa đốt thiêu, xưng niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, lửa chẳng đốt cháy. Lại nếu có người, bị nước cuốn trôi, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, liền đến chỗ cạn. Nếu ai đi thuyền, để tìm châu báu, vàng bạc lưu ly, trân châu mã não, hỗ phách xà cừ, san hô ngọc quý, lênh đênh biển lớn, giông gió cuốn trôi, vào nước La sát, thì nên thành tâm, trì niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, bình yên vô sự.
Lại nếu có người, sắp bị hãm hại, bằng dao gậy kiếm, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ-tát, do đó dao gậy, liền biến thành không, và được cứu thoát. Nếu bị các loài, La sát Dạ xoa, làm hại thân này, hãy niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, quỷ dữ bỏ đi.
Lại nếu có người, bị tù bị tội, xiềng xích gông cùm, khổ đau trói buộc, khắp cả toàn thân, nhờ niệm Quán Âm, thoát khỏi tù đày, dứt lìa oan nghiệt.
Lại nếu có người, mang nhiều châu báu, bị cướp tấn công, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ-tát, nhờ sức oai thần, bọn cướp khiếp sợ, không dám hãm hại.
Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Âm, có sức oai thần, nhiệm mầu như thế, công đức sâu dày, không thể nghĩ bàn, rộng độ chúng sinh. Vì thế, các ông nên thường, niệm danh Bồ-tát, một lòng tinh chuyên.
Nếu có chúng sinh, tham lam ích kỷ, giận hờn ngu si, phải thường cung kính, niệm danh Bồ-tát, thì tham sân si, thảy đều tan biến.
Lại nếu có người, cầu xin con trai, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, liền sinh con trai, phước đức đầy đủ, trí tuệ hơn người.
Lại nếu có người, muốn cầu con gái, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ tát, nhờ sức oai thần, hạ sinh thục nữ, xinh đẹp kiều diễm, thì được nhiều người, yêu thích mến thương.
Thần lực Quán Âm, nhiệm mầu như thế! Ta khuyên mọi người, cung kính đảnh lễ, niệm danh Bồ tát, tán thán thọ trì, để được lợi lạc, khắp cả chúng sinh.
Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, liền hỏi Phật rằng: “ Bồ-tát Quán Âm, phát tâm vào đời, cứu độ chúng sinh, bằng phương tiện gì, giúp cho muôn loài, thảy đều tỏ ngộ?”.
Này Vô Tận Ý: “Nếu có chúng sinh, thích dùng thân Phật, để được độ thoát, chứng nên quả giác, thì Quán Thế Âm, thị hiện thân Phật, vì họ thuyết pháp.”
Tương tự như thế, tùy theo sở thích, của các chúng sinh, Bồ-tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, như thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc Trời Đế thích, hoặc Trời Phạm vương, thân Tự Tại Thiên, đại Tự Tại Thiên, Trời Đại Tướng Quân, hoặc Tỳ Sa môn, tiểu vương trưởng giả, vua quan cư sĩ, hoặc Bà la môn, tín nữ thiện nam, hoặc làm Tăng Ni, hoặc thân công chúa, nữ hoàng tôn quý, đồng nam đồng nữ, hoặc ứng hiện thân: Trời, Rồng, Dạ xoa, hoặc Càn thát bà, hoặc A tu la, hoặc Câu lâu la, hoặc Khẩn na la, Ma hầu na già, thần Chấp Kim Cang, tất cả băm ba, ứng thân sai khác, giúp cho mọi người, an vui giải thoát, thì Quán Thế Âm, sẵn sàng hóa thân, không chút quản ngại.
Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, cứu độ chúng sinh, khắp cả thế gian, không thể nghĩ bàn. Vì thế các ông, hãy nên một lòng, tán thán cúng dường, Bồ-tát Quán Âm.
Này Vô Tận Ý, thí không sợ hãi, trong chốn trần gian, cứu khổ chúng sinh, tai qua nạn khỏi, chính là nguyện lớn, Bồ-tát Quán Âm, nên cõi Ta Bà, thảy đều gọi ngài, là Quán Tự Tại.
Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, xin thưa đức Phật, cho con cúng dường, Bồ-tát Quán Âm. Nói xong ngài đem, chuỗi ngọc như ý, tặng làm pháp thí, giá trị ngàn vàng, cung kính cúng dường, Bồ-tát Quán Âm. Bồ-tát Quán Âm, không dám chịu nhận, chuỗi ngọc như ý. Phật liền dạy rõ, về pháp cúng dường, khuyên Quán Thế Âm, hãy vì bốn chúng, tám bộ trời rồng, và Vô Tận Ý, nhận chuỗi pháp thí, lợi ích trời người.
Phật vừa dứt lời, Bồ-tát Quán Âm, vui vẻ đón nhận, chia làm hai phần, một phần dâng cúng, đức Phật Thích ca, còn lại phần kia, cúng tháp Đa Bảo.
Bấy giờ trong hội, có vị Bồ tát, tên là Trì Địa, chấp tay thưa Phật : “Bạch đức Thế tôn, nếu có chúng sinh, nghe được kinh này, cũng như công đức, ứng hiện các thân, tùy duyên giáo hóa, của ngài Quán Âm, thì phước người ấy, vô lượng vô biên”.
Khi nghe Phật nói, hạnh nguyện Quán Âm, tám mươi bốn ngàn, các loại chúng sinh, thảy đều phát tâm, Vô Thượng Chánh Giác.
MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN
Một nguyền khi hành Bồ-tát đạo,
Danh hiệu tôi Tự Tại Quán Âm.
Sáu căn thanh tịnh viên thông,
Chỗ nào khốn khổ liền tìm đến nơi.
Hai nguyền không sợ gian nan,
Vớt người chìm đắm, biển sông lâu dài.
Ba nguyền ứng hiện Ta Bà,
U minh đau khổ mau mau giải trừ.
Bốn nguyền ma quỷ yêu tinh,
Hãy mau thức tỉnh hồi quy Phật-đà.
Năm nguyền Dương liễu Tịnh bình,
Cam lồ rưới mát, nhân thiên an lành.
Sáu nguyền bình đẳng xót thương,
Không còn phân biệt, thân sơ mọi loài.
Bảy nguyền dứt khổ ba đường,
Chúng sinh thoát nạn, không còn trầm luân.
Tám nguyền cứu khổ tội tù,
Chúng sinh vui vẻ, an nhiên thanh nhàn.
Chín nguyền cứu khổ thế nhân,
Thảy đều thể nhập, Niết-bàn vô sinh.
Mười nguyền hổ trợ Tây Phương,
Muốn cho tất cả, biết đường về Tây.
Mười một nguyền Di Đà thọ ký,
Cảnh Tây Phương tuổi thọ lâu dài,
Chúng sinh muốn sống an lành,
Niệm danh Bồ-tát, Tây Phương mau về.
Mười hai nguyền tinh tấn tu hành,
Dù thân này lao khổ trăm bề,
Thành tâm nỗ lực không ngừng,
Mười hai nguyện lớn độ sinh đời đời.
Chúng tôi được phúc duyên tu theo Hòa Thượng Trúc Lâm với phương pháp biết vọng không theo, thấy biết là chơn tâm, một dòng thiền hiện đại của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, dưới sự chỉ dạy trực tiếp của Hòa thượng trụ trì Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu. Sau một thời gian tu học, chúng tôi nhận thấy kinh là lời Phật dạy, thiền là hành thẳng nơi tâm. Qua lời Phật dạy phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa và thiền không hai, không khác. Đây là bài kinh nói về Hạnh nguyện độ sinh của Bồ-tát Quán Thế Âm trong cõi Ta-Bà, giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
Cho nên chúng tôi biên soạn lại và mạnh dạn đặt tên: Kinh Hạnh Nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm và nương theo đó để hướng dẫn áp dụng hành trì, nếu ai có nhân duyên với Bồ-tát. Trong phần biên soạn, chúng tôi giảm bớt phần trùng tụng nhưng vẫn giữ được yếu chỉ của kinh. Thời gian tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu, chúng tôi có nhân duyên lớn hướng dẫn hoằng pháp và từ thiện, cho người bất hạnh tại Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa Tỉnh Bình Dương. Thực hiện chương trình kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống tài trợ học bổng cho học sinh giỏi và giúp đỡ học sinh khó khăn tại 19 Trường trung tiểu học Huyện Tân Châu Tỉnh Tây Ninh. Hoằng pháp và từ thiện các chùa vùng sâu vùng xa để giúp đỡ người bất hạnh nghèo khổ, thiếu thốn khó khăn.
Chủ trương của chúng tôi là hoằng pháp và từ thiện, như đôi cánh chim tung bay giữa bầu trời trí tuệ và từ bi, nhờ phương tiện giúp đỡ vật chất để xoa dịu bớt nỗi đau bất hạnh. Chúng tôi còn chia sẻ một số kinh nghiệm để họ có đủ niềm tin trong cuộc sống, tin sâu nhân quả và vươn lên làm mới lại chính mình. Bởi vì người bất hạnh đa số không học hành tới nơi, tới chốn, cuộc sống bấp bênh nên sự học hỏi, hiểu biết, nhận thức không được sáng suốt. Do đó dễ oán trời trách đất đổ thừa tại bị thì là…trách móc xã hội sau quá bất công, thù ghét người thân bạn bè sau không giúp đỡ, những người này họ đáng thương hơn là đáng ghét.
Để có cơ hội giúp đỡ hướng họ đi đến con đường sáng, chúng tôi phương tiện hướng dẫn phương pháp trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, giúp cho mọi người có đủ niềm tin, cố gắng vươn lên vượt qua nỗi khổ niềm đau, làm mới lại chính mình để sống an vui và hạnh phúc.
Phương pháp trì niệm danh hiệu Bồ-tát đơn giản và dễ dàng, nhờ thần lực nhiệm mầu Quán Thế Âm luôn xem xét lắng nghe tiếng kêu cứu khổ để giúp mọi người được tai qua nạn khỏi.
Nếu nói về chùa và tín ngưỡng của người Việt Nam, thì hầu như hình ảnh Bồ-tát Quán Thế Âm đã ăn sâu và thấm nhuần trong lòng mọi người. Từ khắp ba miền đất nước chùa nào cũng đều có thờ tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, thậm chí tại nhà mọi người đều có thờ riêng. Rõ ràng niềm tin đối với Bồ-tát Quán Thế Âm, đã ăn sâu vào tàng thức của người dân nước Việt.
Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam trên 2000 năm, trải qua rất nhiều thời đại vàng son, nhất là đời Lý, đời Trần, nhờ chủ trương đưa Phật giáo vào áp dụng cho toàn dân, nên mọi người sống có ý thức và trách nhiệm, biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, do đó mà luôn sống trong bình yên, hạnh phúc. Song bên cạnh đó không biết bao nhiêu cuộc thăng trầm, thịnh suy, tùy theo vận mệnh của đất nước. Nhưng niềm tin của người dân nước Việt đối với Bồ-tát Quán Thế Âm không bao giờ bị mai một.
Một niềm tin dựa trên thần lực nhiệm mầu của Bồ-tát Quán Thế Âm, đi vào đời để cứu độ chúng sinh như “ có cầu tất ứng.” Bồ-tát Quán Thế Âm sở dĩ được tôn xưng với danh hiệu không thể nghĩ bàn, nhờ ngài luôn ban bố niềm vui đến cho mọi người và sẵn sàng giúp đỡ tất cả chúng sinh vượt qua sợ hãi khổ đau, đang chịu nhiều bất hạnh trong đời. Như thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, động đất, bị yêu tinh tà ma hảm hại, bị giam cầm tù tội, cho đến bị nạn trộm cướp, bị vua quan chiếm đoạt và nghèo đói thiếu thốn khó khăn.
Bồ-tát Quán Thế Âm là điểm tựa tinh thần vững chắc để mọi người bắt chước và noi theo, từ một con người phàm phu tục tử có thể trở thành một Thánh nhân cao quý nhờ biết cách trì niệm hồng danh Ngài.
Điểm đặc biệt để mọi người lưu ý, bài kinh này mang ẩn dụ rất cao nếu chúng ta không có trí tuệ soi sáng, dễ lầm tưởng Ngài có thể ban phước giáng họa và “cầu gì được nấy”. Thái độ cầu nguyện van xin tha lực của người tín ngưỡng, không phải là nội dung chính yếu mà Phật muốn chỉ dạy.
Ở đây, cốt lõi của bài kinh đức Phật nói rõ con người do tưởng quá nhiều nên mới sinh ra đau khổ. Tưởng là nhân đau khổ của tất cả chúng sinh, vì có tưởng tượng nên con người sợ hãi mà sinh ra đau khổ. Muốn hết đau khổ thì phải dứt bặt sự tưởng tượng về ta người, phải quấy, đúng sai, thiện ác, khi tưởng hết mọi khổ đau đều hết theo. Nếu chúng ta kiên trì bền bỉ trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thể nhập tính nghe thường hằng thì chắc chắn sẽ hết khổ.
Quán Thế Âm còn có nghĩa Quán Tự Tại, vì sao? Vì ngài soi thấy năm uẩn đều không, có nghĩa là thân tứ đại này do bốn chất đất nước gió lửa hoà hợp lại mà thành, tâm suy tư nghĩ tưởng phân biệt ta, người, chúng sinh là vọng dối không thật có. Cái gì thiệt thì trước sau như một, thường hằng bất biến không thay đổi, thân này già bệnh chết, tâm tư thay đổi không dừng nghỉ cho nên bản chất của nó là không thật thể cố định, thấy như thế thì liền qua hết thảy khổ ách.
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy sáu căn là nhân của luân hồi sinh tử và sáu căn cũng là nhân của giải thoát. Sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý khi tiếp xúc với sáu trần là sắc thinh hương vị xúc pháp, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, thấy tức biết, biết mà không dấy niệm tốt xấu, đúng sai, cái biết đó đâu có đổi thay thường hằng trước sau như một.
Sau khi Phật bảo 25 vị Thánh trình bày chỗ tu chứng của mình xong rồi, Phật dạy Bồ-tát Văn thù chọn lựa căn viên thông để tu. Cuối cùng Bồ-tát chọn lựa “nhĩ căn” là viên thông hơn cả. Đây là lối tu: “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm. Chữ phản ở đây có nghĩa là ngược lại, thay vì từ xưa đến giờ chúng ta chạy theo âm thanh, có tiếng là có nghe, không tiếng là không nghe, quên mất tính nghe thường hằng của mình, bây giờ xoay lại chính mình thể nhập tính nghe.
Người Phật tử chân chính khi biết tu rồi, chỉ nhớ mình có tính biết sáng suốt, nghe tất cả tiếng mà không dính mắc vào âm thanh riêng biệt nào. Cho nên Bồ-tát Văn Thù khuyên đại chúng và ngài A nan: “xoay cơ quan nghe của ông, trở lại nghe tính nghe của mình, thành tựu tính nghe là đạo vô thượng Chánh Đẳng Giác. Đây là con đường vào cửa Niết-bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.
Nên kinh nói, trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, công đức thù thắng hơn tất cả. Vậy, chúng ta trì niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại tính nghe chân thật của mình, nên không bị âm thanh bên ngoài chi phối, do đó hằng sống với tính nghe. Trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là phương pháp tu tập quán chiếu cuộc đời, để chúng ta thấy rõ được bản chất thực hư của nó, nên mỗi hành giả tự độ mình, vượt qua các khổ đau đang có mặt.
Mục đích chính của kinh là độ thoát tất cả chúng sinh, trừ bẩy tai nạn trong đời và thực hiện hai sự cầu vi diệu, mà trong kinh nói: “cầu con trai thì được con trai, cầu con gái thì được con gái. ” Vì bài kinh mang ẩn dụ cao siêu, chỉ cần người tin tưởng niệm danh hiệu Bồ-tát là đã có an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Huống hồ là chúng ta nhất tâm chí thành “niệm” tinh chuyên miên mật không gián đoạn, thì kết quả sẽ được y như nguyện.
Theo sự hiểu biết của chúng tôi cầu con trai là cầu được trí tuệ rộng lớn, vì con trai tượng trưng cho lý trí mà muốn có trí tuệ thì phải tu tập thiền định, chứ không thể nào cầu nguyện van xin suông mà được. Đạo Phật là nền tảng của nhân quả, muốn được quả tốt thì phải gieo nhân tốt, nếu chúng ta không thành tâm khẩn thiết thì làm sau có cảm ứng giao thoa.
Cầu con gái là cầu được phước đức, mà phụ nữ tượng trưng cho tình cảm dạt dào, muốn giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau bất hạnh nghèo đói, thiếu thốn khó khăn, Bồ-tát phải có nhiều tiền của, nhờ vậy mới đủ sức chia sẻ nỗi khổ niềm đau cho tất cả mọi người.
Khi giúp chúng sinh mà không có trí tuệ rộng lớn thì còn thấy mình là kẻ ban ơn, người là kẻ thọ ơn và vật để cho. Nếu thấy như vậy thì dễ sinh ra phiền muộn khổ đau, vì mình còn chấp trước dính mắc ta, người, chúng sinh. Do đó Bồ-tát muốn vào đời để độ sinh thì phải Quán Tự Tại bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, với tấm lòng vô ngã, vị tha.
Ngoài ra kinh này còn nói lên tình thương bao la rộng lớn của một vị Bồ-tát Quán Thế Âm trong mỗi hành giả, với cách thức độ sinh đa dạng của 33 ứng thân khác nhau.
Bồ-tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua hay tể tướng, kẻ thiện nam người tín nữ, cho đến kẻ bần cùng, chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ-tát ứng hiện điều kiện đó, để hòa nhập vào cộng đồng xã hội mà san sẻ nỗi khổ niềm đau và đem niềm vui đến cho mọi người. Hay nói rõ hơn, Bồ-tát đi vào đời là tùy bệnh cho thuốc, do đó người hành đạo muốn độ sinh có hiệu quả phải biết căn cơ và sở thích của từng chúng sinh. Chúng tôi xin chân thành nói rộng pháp tu Bồ-tát Quán Thế Âm theo nhiều cấp độ như sau: Thứ nhất là trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm.
_Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. Phương pháp niệm danh hiệu Bồ-tát, giống như niệm Phật A Di Đà cũng lấy tín, hạnh, nguyện, làm tông chỉ. Nhưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm khác ở chỗ là không cầu về cõi Tây Phương Cực lạc, mà phát nguyện đi vào đời để cứu khổ chúng sinh, luôn xem xét lắng nghe, sẵn sàng chia sẻ tình yêu thương chân thật, nhằm xoa dịu bớt nỗi đau bất hạnh giúp mọi người chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc.
Giải thích từ ngữ: Nam mô có nghĩa là cung kính, tôn trọng. Chúng ta cung kính tôn trọng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, để bắt chước tấm lòng vị tha từ bi cứu khổ chúng sinh lâu dài, không biết mệt mỏi, nhàm chán.
Đại từ có nghĩa là mở rộng tấm lòng, đem niềm vui tình thương vô lượng vô biên, đến với tất cả chúng sinh mà không phân biệt thân sơ. Bồ-tát bình đẳng đối với tất cả mọi người không thấy ai là kẻ thù, chỉ thấy người chưa thông cảm với nhau mà thôi.
Đại bi có nghĩa là mở rộng tấm lòng sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau đối với người người bất hạnh khổ đau. Chỉ biết một bề giúp đỡ sẻ chia khi có nhân duyên và điều kiện, bình đẳng thương xót mà không một niệm oán trách.
Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát xem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyên cứu độ. Ngài luôn quán chiếu cuộc đời lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp đỡ mọi người vượt qua lo lắng sợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau. Quán chiếu cuộc đời thực tế có 5 cách:
Một là quán chân thật, hai là quán thanh tịnh, ba là quán trí tuệ rộng lớn, bốn là quán tình thương, năm là quán cứu khổ. Mỗi hành giả nương vào năm pháp quán này, mà vươn lên làm mới lại chính mình để vượt qua cạm bẫy cuộc đời, sống an vui giải thoát.
Quán chân thật để thấy rõ bản chất cuộc đời là một dòng chuyển biến, theo nguyên lý duyên khởi, vô ngã, vô thường. “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. ”Tất cả mọi hiện tượng sự vật không có thực thể cố định, nhờ quán chiếu như vậy nên chúng ta dễ dàng buông xả, không chấp trước dính mắc về thân tâm, ta, người, hoàn cảnh.
Quán thanh tịnh để thấy rõ bản chất của các pháp không nhơ sạch, đúng sai, tốt xấu, nhờ vậy chúng ta dứt tưởng nên hành giả sống lạc quan không dính mắc hai bên.
Quán trí tuệ rộng lớn, là pháp quán cần yếu của mỗi hành giả. Không có trí tuệ chúng ta dễ rơi vào si mê lầm lạc, muốn có trí tuệ mỗi hành giả phải biết thiền định để loại trừ rác rưởi tà niệm. Cho nên đất tâm nếu không, thì mặt trời trí tuệ tự sáng. Hành giả khi có trí tuệ thì thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách nên gọi là Quán Tự Tại.
Hai pháp quán sau gộp chung lại gọi là quán từ bi, tâm từ bi có thể phát xuất từ tấm lòng vị tha của mỗi con người. Nhờ quán từ bi mỗi hành giả thấu suốt nguyên lý duyên khởi, vô ngã tính không thực thể của các pháp. Nhưng có tính biết sáng suốt hằng tri, hằng giác nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.
Do biết rõ thật giả phân minh, nên Bồ-tát đi vào đời luôn đem niềm vui, tình thương chân thật bình đẳng với tất cả chúng sinh, dù đó là người thù. Bồ-tát sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau, để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh cho tất cả chúng sinh. Nhờ Bồ tát thấu rõ chân lý cuộc đời nên không thấy mình là kẻ ban ơn, người nhận thí và kẻ thọ ơn, nên bình đẳng kết nối yêu thương mở rộng tấm lòng không phân biệt người thân hay kẻ thù.
Người tu niệm danh hiệu Bồ-tát thì phải lấy tín, hạnh, nguyện làm nền tảng, nhưng tín hạnh nguyện của người niệm Quán Thế Âm khác với niệm Phật cầu vãng sinh.
Tín có nghĩa là tin thần lực nhiệm mầu của Bồ-tát Quán Thế Âm, có đủ khả năng giúp chính mình chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, đạt được kết quả như ý muốn. Nhưng tại sao có người nhờ niệm Quán Thế Âm mà vượt qua hoạn nạn tai ương, cũng có người khi niệm chẳng thấy linh ứng và hiệu nghiệm tại sao?
Người phát tâm trì niệm danh hiệu Bồ tát điều đầu tiên, cần phải có lòng tin sâu sắc với Bồ-tát luôn cung kính chí thành, niệm tinh chuyên ròng rặc. Ai đặt hết niềm tin tưởng và thành khẩn cầu sự cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm thì được cảm ứng không thể nghĩ bàn “có cầu tất ứng”.
Hạnh có nghĩa là thực hành niệm danh hiệu Bồ-tát một cách tinh chuyên, ròng rặc, miên mật, thường xuyên mỗi ngày không lơ là giải đãi. Chúng ta cung kính, chí thành niệm danh hiệu Bồ-tát trong mọi hoàn cảnh, trong bốn oai nghi, đi đứng nằm ngồi mà không bị ngoại cảnh chi phối làm thất niệm.
Cuộc sống thế gian vốn nhiều đau khổ bất an, tham lam, thù hận đố kỵ, tranh chấp xung đột, sợ hãi và sẵn sàng triệt tiêu lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư. Nếu chúng ta không thường xuyên cung kính niệm Bồ-tát, chờ đến khi gặp hoạn nạn mới khẩn cầu thì e rằng sẽ không có kết quả như nguyện. Vì lúc này tinh thần không sáng suốt khủng hoảng, sợ hãi, mất bình tĩnh, thì làm sao đủ khả năng cầu sự gia hộ của Bồ-tát có hiệu quả được.
Nguyện ở đây có nghĩa là chí nguyện độ sinh, cứu vớt chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt thoát khổ đau và luôn đem niềm vui đến với tất cả muôn loài. Bồ-tát sau khi thành tựu đạo quả, nguyện dấn thân đi vào đời để làm lợi ích chúng sinh, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng đóng góp, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng chia vui và cùng sớt khổ với tất cả chúng sinh. Và chúng ta phải thường xuyên quán chiếu thế gian lúc nào cũng đầy dẫy khổ đau bất hạnh, như đang sống trong nhà lửa, chịu sự nóng bức của phiền não trong từng phút giây.
Tu và học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm như nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, luôn giúp mọi người sống gần gũi gắn bó với nhau, bằng sự thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ, nhưng không thấy ai là người thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.
Bồ-tát có nghĩa là người giác ngộ, nhưng giác ngộ từng phần chưa được viên mãn như Phật. Nhưng vì thấy chúng sinh ở cõi Ta-Bà này vui ít, khổ nhiều bị phiền não khổ đau chi phối, nên động lòng thương xót đi vào đời lấy tứ nhiếp pháp để ban vui cứu khổ theo đúng tâm tư nguyện vọng của chúng sinh. Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự.
Bồ-tát thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ, nên rộng rải phát tâm bố thí, giúp đỡ sẻ chia, để diệt trừ tâm địa hẹp hòi san tham. Bồ tát sẵn sàng đem tài sản của cải hoặc sức lực của mình bố thí giúp đỡ mỗi khi cần thiết. Bồ-tát không những giúp đỡ về vật chất mà còn phát tâm hướng dẫn phần tinh thần để chúng sinh dứt trừ tâm sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt của người khác, tà dâm, nói dối hại người, tin sâu nhân quả dứt ác làm lành. Nhờ sự giúp đỡ tận tình nên Bồ-tát dễ dàng gần gũi và được nhiều người mến thương, do đó dễ nhiếp phục họ bằng bố thí vật chất và tinh thần.
Thứ hai là Bồ-tát phải dùng lời ngon ngọt, hòa nhã dịu dàng, nhỏ nhẹ dễ thương, không nên nói lời cộc cằn thô bạo nếu giúp người mà như thế dễ làm họ chán ghét, phiền muộn khổ đau. Khéo dùng lời nói từ ái hiền hòa, nhưng chân thật nên dễ thành công trong công cuộc độ sinh.
Thứ ba là Bồ-tát phải tích cực làm việc gì đó để lợi ích chúng sinh, chứ không phải nói suông vô ích. Nhờ vậy họ mới tin tưởng mình, sau đó chúng ta dùng chánh pháp để giúp họ hướng thiện, dứt ác làm lành.
Thứ tư là đồng sự, Bồ-tát phải siêng năng giỏi biết nhiều ngành nghề để cùng làm cùng sống với họ. Nhờ sống gần gũi thường xuyên chúng ta mới có cơ hội dùng chánh pháp để thuyết phục họ, tin sâu nhân quả, tự tin chính mình và giúp họ đi theo con đường hướng thượng là luôn chia vui sớt khổ trong tình thương yêu bình đẳng bằng trái tim hiểu biết.
Khi chúng ta niệm danh hiệu Bồ-tát thuần thục rồi, ta hãy dùng pháp quán chiếu, xem xét, soi sáng các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường, nhờ vậy hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định, nên dễ dàng buông xả tâm dính mắc. Do đó hằng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt của mình.
Muốn được như thế Bồ-tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm si mê và sống với tính biết sáng suốt, nương nới mắt thì thấy nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh, mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy Nhĩ căn Viên Thông là thù thắng hơn hết. Bồ-tát Quán Thế Âm do tu: “ phản văn văn tự tánh” Xoay cái hay nghe trở lại tánh nghe thường hằng của mình nên thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Vậy chúng ta làm sao xác định được tính nghe thường hằng của mình.
Chỉ có người đã thật sự sống với tâm chân thật của mình, mới không chạy theo âm thanh lớn nhỏ bên ngoài. Tai nghe tiếng thì biết mình đang nghe mà không chạy theo tiếng, lại biết mình có tính nghe thường hằng là pháp tu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Âm thanh lớn nhỏ xa gần lúc nào cũng có, tính nghe hiện hữu nên mới thường nghe. Nếu tính nghe bị gián đoạn thì tai ta có lúc nghe, lúc không.
Như trong kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông, rồi hỏi ngài A Nan có nghe không? Ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi lâu. Phật hỏi lại ông có nghe không? Ngài A Nan trả lời là không nghe, bị Phật quở tại sao ông quên mình theo vật. Phật nói tiếp, khi có tiếng là nghe có tiếng, khi không tiếng là nghe không tiếng.
Tính nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, không tiếng vậy mà chúng ta không chịu thừa nhận nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Qua câu chuyện Phật dạy trong Lăng Nghiêm cho Ngài A Nan và những thiền sư tu theo cách hành thẳng nơi tâm không thông qua phương tiện, không hai không khác. Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm cần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.
Trong thiền môn có một câu chuyện nỗi tiếng về Bồ-tát Quán Thế Âm. Một thiền sinh trên đường đi tham vấn, đến một chùa nọ thấy thờ Bồ-tát nghìn tay nghìn mắt mới hỏi thiền sư: Bồ tát nghìn tay nghìn mắt, vậy mắt nào là mắt chánh? Thiền sư nói: “ Như người ngủ ban đêm, với tay ra sau tìm chiếc gối”. Ngay khi đó là mắt chánh hiện tiền. Chỗ này mọi người tự biết… tôi không thể biết! Cái gì, biết tìm chiếc gối trong đêm tối.
Bồ-tát nghìn tay là tượng trưng cho sự dấn thân làm việc không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán vì lợi ích chúng sinh. Và con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho trí tuệ thấy biết đúng như thật, nhờ vậy Bồ-tát thương yêu bằng trái tim hiểu biết, giúp đỡ chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù.
Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: phản văn văn tự tánh là xoay cái hay nghe, nghe lại tự tánh mình thì được đạo vô thượng. Hòa Thượng chúng tôi dạy thấy biết là chơn tâm, nghe biết là chơn tâm, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Vậy thiền và kinh đâu có khác, Phật và tổ không hai, đồng một con đường sáng để thể nhập Niết bàn.
Chúng tôi lập ra một pháp tu trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, nếu ai có nhân duyên với Bồ-tát xin hãy cùng chúng tôi đồng hành, để được kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, hạnh phúc tràn đầy, con đường tỉnh thức, từ thiện duyên lành, để được cho và nhận, với tấm lòng vô ngã vị tha.