Bát Chánh Đạo

19 Tháng Mười Hai 201515:55(Xem: 4699)

ĂN MÀY CỬA PHẬT 
Lê Sỹ Minh Tùng

BÁT CHÁNH ĐẠO
(Eightfold Path)


Đức Phật từ bỏ cung vàng điện ngọc cốt là để đi tìm chân lý cứu khổ, một con đường giải thoát trước tiên là cho chính Ngài chớ không phải mang một tâm tư hoài bảo vĩ đại muốn cứu rỗi cho tất cả mọi chúng sinh. Ngài đã ra đi, bỏ lại tất cả, viễn ly mọi ràng buộc thế tình, trở thành một nhà tu khổ hạnh và phải tranh đấu với những hoàn cảnh khắc nghiệt để mong tìm thấy được ánh sáng chân lý. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Ngài đã tìm ra con đường giải thoát, có được thanh tịnh Niết bàn và giác ngộ viên mãn. Ban đầu Ngài có khuynh hướng giữ im lặng, không muốn đem giáo pháp Ngài vừa thực chứng dưới cội Bồ-đề giảng giải lại cho thế gian: “Nếu Ta đem con đường Đạo Pháp ra để thuyết giảng mà chẳng có ai hiểu được thì [việc ấy] chỉ mang lại thất vọng và nhọc nhằn cho Ta..." (Trung A Hàm). Thật vậy, "những ai chỉ biết tìm lạc thú trong dục vọng, nấp mình sau tấm màn của u mê thì sẽ không thể nào quán thấy được Sự thực" (Trung A Hàm).

Có lẽ lúc đó Ngài muốn theo đuổi con đường của một vị Độc giác Phật. Sau khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ rằng: “Xin Vị Thầy Tối thượng chớ nên phiền muộn, hãy nhìn vào chúng sinh đang phải gánh chịu đau buồn và khổ ải [vì vướng mắc] trong sự hình thành và già nua. Hỡi Vị Tối thắng trong cuộc chiến, hãy đứng lên! Hỡi Vị Thầy Tối thượng, hãy hy sinh tất cả để bước vào cái thế giới này. Cứ đem Giáo lý ra thuyết giảng, rồi đây cũng sẽ có người hiểu được" (Trung A Hàm), thì Đức Phật mới nhận lời sẽ truyền dạy lại những gì Ngài thật chứng cho chúng sinh để cùng có giải thoát Niết bàn và đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát ra khỏi biển sinh tử trầm luân. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở những trói buộc để thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ của cuộc đời.

Nhưng làm thế nào để ”Chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người”?

Sứ mạng cao cả Đức Phật muốn thực hiện là phải hóa độ và kết nạp đệ tử. Những người đệ tử đầu tiên này phải có kiến thức để thấu hiểu giáo lý của Ngài rồi sau đó mới nới rộng đến tất cả mọi người. Ngài thiết lập Tỳ kheo (nam phái) trước rồi Tỳ kheo ni (nữ phái) sau. Trước hết, Đức Phật muốn đem giáo lý ấy truyền cho hai vị thin sư Alara Kalama Uddaka Ramaputta đã dạy cho Ngài thiền vô sắc lúc ban đầu.

Theo kinh Thánh Cầu trang 379, Đức Phật đã nói cùng các Tỳ kheo rằng:

Này các Tỳ kheo! Rồi Ta tự suy nghĩ:
“Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp n
ày?” Này các Tỳ kheo! Rồi Ta tự suy nghĩ: “Nay có Alara Kalama là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết Pháp đầu tiên cho Alara Kalama, vị này sẽ mau hiểu Chánh Pháp này”. Này các Tỳ kheo! Rồi Chư Thiên đến và nói với Ta như sau: ”Bạch Thế Tôn! Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Này các Tỳ kheo! Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Alara Kalama: Nếu nghe pháp này, Alara Kalama sẽ mau thâm hiểu”.

Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp này?” Rồi này các Tỳ kheo, Ta lại nghĩ: “Nay có Uddaka Ramaputta là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta, vị này sẽ mau hiểu Chánh Pháp này”. Rồi Chư Thiên đến nói với Ta như sau: “Bạch Thế Tôn! Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua”. Này các Tỳ kheo! Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe Pháp này, Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu”.

Này các Tỳ kheo! Rồi Ta suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp này?” Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Nhóm năm Tỳ kheo này đã hầu hạ Ta khi Ta còn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy thật giúp ích nhiều. Vậy, Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm Tỳ kheo”. Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Nay nhóm năm Tỳ kheo ở tại đâu?” Này các Tỳ kheo! Với Thiên Nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm Tỳ kheo hiện ở Barasina, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỳ kheo! Sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến Baranasi.

Như lời nguyện xưa là “Ai thành đạo trước thì tìm độ cho nhau” cho nên Đức Phật liền tìm đến vườn Lộc uyển (Deer Park) để thuyết pháp cho năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia. Đó là các ông: Kiều Trần Như, Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam, và Bạc Đề. Đức Phật trên đường đến vườn Nai bằng bước chân thanh thoát xuất trần với dáng vẻ ngời ngời Trí Tuệ và bằng ánh nhìn trong sáng Từ Bi qua chiếc áo rách nhiều năm tháng phất phơ trong gió sớm, mưa chiều. Ngài thong dong bước với bình bát trong đôi tay vàng óng ả, với mái đầu tóc xoắn điểm phong sương.

Bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật nói về chân lý Tứ Diệu Đế mà đầu đề bài kinh là Dhamacakkappavattana, có nghĩa là “Chuyển bánh xe Pháp”. Trong bài kinh nầy, Đức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên theo hai cực đoan: cực đoan thứ nhất là  đam mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra đó chỉ là những cái vui tầm thường, nhất thời và ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh. Còn cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác chỉ làm mệt mỏi tinh thần và mê mờ trí tuệ. Vì thế cả hai đều có hại và vô ích. Con đường mà Đức Phật muốn nói ở đây chính là con đường trung đạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và sau cùng sẽ được giải thoát. Con đường giải thoát nầy chính là Bát Chánh Đạo.

Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng sáu. Ngài Đại đức Kiều Trần Như (Koṇḍanna) chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật. Đức Phật cho phép Ngài xuất gia thọ Tỳ-khưu đầu tiên. Ngay khi ấy, Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo trọn vẹn đầu tiên xuất hiện trên thế gian.

Trong nhóm 5 Tỳ-khưu, Ngài Koṇḍanna (Kiều Trần Như) trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, còn lại 4 vị Tỳ-khưu khác, Đức Phật còn phải dạy dỗ.

Sáng ngày 16 tháng 6, Đức Phật không ngự đi khất thực, ở lại trong khu rừng để dạy dỗ Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya, còn 3 vị Tỳ-khưu: Ngài Koṇḍanna, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại phân chia đều cho 5 Tỳ-khưu độ trong ngày. Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu cũng theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā (Các ông hãy đến với Như Lai)

Ngày 17 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Bhaddiya và Ngài Mahānāma, còn Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa và Ngài Assaji đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 Tỳ-khưu. Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.

Ngày 18 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Mahānāma và Ngài Assaji, còn Ngài Koṇḍanna, NgàiVappa và Ngài Bhaddiya đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 vị Tỳ-khưu.

Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.

Ngày 19 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Assaji, còn 4 vị Tỳ-khưu đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần còn lại chia đều đến 5 vị Tỳ-khưu. Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.

Như vậy nhóm 5 Tỳ-khưu đều trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo.

Với tâm nguyện dìu dắt, nâng đỡ nhóm 5 Tỳ-khưu lên bậc Thánh A la hán, ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta).

Đây là nói về chân lý vô ngã (không có cái Ta). Trong đó, Đức Phật đã khẳng định rằng: “Tất cả mọi hiện tượng trong thế gian này đều không ngừng tác tạo. Vì là do nhân duyên, nhân này quả nọ, mà thành chớ không có một vật thể nào tự chúng có được nên tất cả mọi hiện tượng đó không có thực thể, không có tự tánh tức là Vô Ngã”. Con người chúng ta cũng thế, không có cái gì gọi là Cái Tôi hay Cái Của Tôi tức là Vô Ngã. Đức Phật gọi Cái Tôi chỉ là một ảo giác do tâm thức biến hiện. Sự sai lầm là con người luôn đồng hóa ngũ uẩn (thân, tâm) là Tôi cho nên họ luôn bám chặt vào nó như là một cá thể vững bền. Nói một cách tổng quát,  thân thể con người gồm có hai phần là thân xác và tâm linh. Phần thân xác có hình dáng nên gọi là sắc uẩn và phần tâm linh gồm có thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Tuy nhiên, trong kinh Nikayà, ngũ uẩn thường được gọi là “ngũ thủ uẩn” nghĩa là năm đối tượng của sự chấp thủ, của tâm tham ái. Vì thế ngũ uẩn là nguyên nhân của biết bao nỗi khổ niềm đau mà con người gánh chịu trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Ngược lại đối với người giác ngộ thì ngũ uẩn lại là phương tiện giúp họ giải thoát. Vì vậy, Phật và ta không hai, không khác, không thể tìm Phật ngoài tấm thân ngũ uẩn này được. Sự bám víu vào “Cái Tôi” chính là nguyên nhân đem lại biết bao nỗi khổ đau trong kiếp sống này và mãi mãi về sau. Bởi vì: “Chư Pháp tùng bổn lai, Thường tự tịch diệt tướng” nghĩa là tất cả các pháp từ xưa đến nay, tánh chúng thường vắng lặng, không hạnh phúc và cũng chẳng có khổ đau. Vì thế khi nói khổ đau hay hạnh phúc là có sự hiện diện của bản ngã trong đó nghĩa là tôi khổ hay tôi hạnh phúc rồi. Thí dụ cành hoa tự nó không đẹp, không xấu, không thơm, không thúi cho nên người trí nhìn cành hoa là cành hoa thì tâm an lạc. Ngược lại, nếu cho cành hoa là đẹp thì trong tâm đã có sự so sánh, phân biệt. Tại vì mình cho nó đẹp, mình nghĩ nó đẹp…tức là có tự ngã. Thế thì đau khổ là không được như ý mình muốn còn hạnh phúc là thỏa mãn được ý muốn của mình. Nói cách khác thỏa mãn được Cái Tôi thì gọi là hạnh phúc, ngược lại không thỏa mãn được Cái Tôi thì gọi là đau khổ chớ trên thế gian này không có cái gì là khổ đau hay hạnh phúc cả. Do đó khi không còn sống với bản ngã, người đó trở về sống với thực tánh pháp thì gọi là giải thoát thế thôi.

Thật vậy, sau khi nghe Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng xong, nhóm 5 Tỳ-khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả cho đến A la hán Thánh Đạo – A la hán Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh A la hán cao thượng trong Phật giáo, diệt đoạn tuyệt hoàn toàn mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót.

Như vậy, Đức Phật có 5 vị Thánh A la hán đã xuất hiện trên thế gian này.

Khi thành lập Tăng đoàn, Đức Phật gọi tất cả người xuất gia là “Tỳ khưu” (Bhikkhu) tức là khất sĩ. Khất sĩ không nhất thiết chỉ là người khất thực mà phải là người thấy được sự nguy hiểm của tham ái trong luân hồi. Khất sĩ là người thật sự buông bỏ vì thế từ Đức Phật đến 1,250 vị A la hán khác đều là khất sĩ và họ chỉ có duy nhất tam y nhất bát. Cuộc sống của người giác ngộ rất đơn giản, thanh thản và được thể hiện bằng:

Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Kỳ vi sanh tử sự

Giáo hóa độ xuân thu

Nghĩa là:

Một bát cơm ngàn nhà

Thân chơi muôn dặm xa

Mắt xanh xem trần thế

Mây trắng hỏi đường qua.

Vậy thế nào là Bát chánh đạo?

Bát chánh đạo là con đường chân chính có tám nhánh, giúp chúng sinh hướng đến một đời sống đạo đức nhân bản, có cuộc sống cao thượng và hạnh phúc. Cao hơn nữa, thực hành rốt ráo Bát chánh đạo sẽ đưa hành giả đến đời sống an lạc, thanh tịnh, giải thoát Niết bàn. Cũng Bát chánh đạo đó mà những bậc Thánh giả nương theo để có giải thoát giác ngộ thì gọi là Bát Thánh đạo. 

Trong tám nhánh của Bát chánh đạo, tất cả đều liên hệ với nhau, bồi đắp cho nhau rất mật thiết. Nhánh nào cũng làm nhân và đồng thời làm quả cho bảy nhánh kia vì thế tuy có tám nhánh nhưng tựu trung cũng quyện tròn thành một, đó là độc lộ giải thoát.  

1)Chánh kiến (Complete or Perfect Vision or Right View): Kiến là cái nhìn, cái thấy và chánh là ngay thẳng. Chánh kiến dựa theo định nghĩa thông thường của cuộc đời là cái thấy biết đúng đắn về thực tại, về vạn pháp, về những gì đang xảy ra bên trong và bên ngoài thân, tâm của mình. Sự thấy biết chính xác hay sai lệch ảnh hưởng rất lớn đến cách sống vì thấy biết sai lầm sẽ làm cho suy nghĩ và hành động sai lệch theo.

Tuy nhiên, muốn thấy biết thật đúng đắn về mình và những gì chung quanh mình thì cái thấy biết đó bây giờ phải thâm sâu hơn rất nhiều, cái thấy biết mà người bình thường không bao giờ biết đến, nghĩ đến. Cái thấy biết chẳng những thay đổi cuộc sống con người trở thành hạnh phúc và an lạc nhiều hơn trong khuôn khổ của nền tảng đạo đức nhân bản mà có thể đưa họ đến giải thoát, tự tại viên mãn. Chánh kiến mà Đức Phật muốn nói ở đây là cái thấy biết đúng, chân thật về đạo đức của cuộc sống, về vô thường, vô ngã, về nhân duyên, về Niết bàn và về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường thoát khổ.

Nhân duyên là mối tương quan mật thiết cho sự hình thành và sự sống còn của nhân sinh vạn vật bởi vì cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Tất cả mọi vật thể trong thế gian này là do sự kết tập bởi biết bao nhân duyên cho nên chúng không có tự thể (tự tánh) vì thế tất cả đều là vô ngã. Muốn hiểu vô ngã hay không có tự tánh thì trước hết phải hiểu thế nào là ngã hay tự tánh. Ngã là bản chất để tự nó có thể phát triển và sinh tồn mà không cần đến sự giúp đỡ bởi những nhân duyên khác. Nếu hạt lúa có ngã thì tự nó lớn lên rồi trở thành cây lúa, nhưng hạt lúa không thể tự nó phát triển được nếu không có những trợ duyên như đất, nước, phân bón, ánh sáng…vì thế tự tánh của hạt lúa là vô ngã hay nói một cách khác là hạt lúa không có tự tánh. Bất cứ vạn pháp nào trên thế gian nầy mà muốn sinh tồn hay phát triển được đều cần phải có trợ duyên. Cái xe là sự tổng hợp của biết bao sắt, kim loại, plastic và công phu của bao nhiêu người thợ…Cái nhà chúng ta đang ở là do cây, gỗ, gạch, ngói và công thợ tạo thành mà chính cây, gỗ, gạch, ngói không thể tồn tại bởi chính nó cho nên toàn bộ cái nhà không thể nào tồn tại được vì thế cái nhà cũng là vô ngã  nghĩa là cái nhà nầy một ngày nào đó sẽ trở về với cát bụi vì phải chịu ảnh hưởng bởi luật vô thường sinh, trụ, dị, diệt.  

Con người thì cũng thế, thân, tâm có được là do sự kết tập và vận hành của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) vậy thử xem thân, tâm có vô ngã không?

-Sắc uẩn là sự tập hợp của đất, nước, gió, lửa mà trong đó có hàng triệu, hàng tỷ tỷ nguyên tố biến đổi từng sát na. Muốn những nguyên tố đó tồn tại hay muốn bảo tồn sự sống thì thân cần ngoại duyên cho nên thân là vô ngã. Trong Tương Ưng Bộ kinh (Samyutta Nikàya), Đức Phật dạy rằng: “Nầy chư Tỳ Khưu, sắc là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ không phải là tự ngã. Cái gì không phải tự ngã ắt không phải là của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Khi sắc thật sự sanh khởi, ta phải phân biện nó với Chánh Kiến như vậy”.

-Thọ uẩn là nhóm những cảm thọ do sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Gặp thuận duyên thì cảm thấy lòng hân hoan vui sướng, gặp nghịch cảnh thì lo lắng, buồn phiền, đau khổ. Nhưng có vui, có buồn cũng do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà phát sinh ra cảm thọ, chớ cảm thọ không tự nó có được vì thế thọ uẩn là vô ngã.

-Tưởng uẩn là nhóm nhớ về quá khứ, mơ ước những chuyện tương lai, nhưng muốn có những ký ức, kinh nghiệm để nhớ đó thì cần có ngoại duyên đã xảy ra hoặc đang xảy ra trong tiềm thức cho nên tưởng uẩn cũng là vô ngã.

-Hành uẩn là nhóm tác ý khiến cho thân, khẩu, ý thực hành mà tạo ra thân, khẩu, ý nghiệp. Khi con người có những tư tưởng xấu ác, lời nói hung dữ hay hành động tàn ác thì trong tâm phải có tác ý bất thiện đó. Ngược lại nếu chúng ta có những tư tưởng tốt, lời nói hài hòa, hành động nhân ái thì đây là những tác ý thiện. Nói chung tập hợp của tất cả “tác ý” thiện hay bất thiện được thể hiện bằng tư tưởng, lời nói hay hành động thì gọi chung là hành uẩn. Nhưng sự tác ý là do tâm duyên với đối tượng bên ngoài cho nên hành uẩn là vô ngã.

-Thức uẩn là nhóm nhận thức từ những đối tượng bên ngoài do sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo thành sáu cái tâm tức là sáu thức. Vì là do duyên từ bên ngoài nên thức uẫn cũng là vô ngã.

Thân, tâm là do sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu tạo mà thành, nhưng mỗi uẩn là vô ngã cho nên toàn khối ngũ uẩn là vô ngã nghĩa là thân, tâm của chúng ta là vô ngã mà Bát Nhã Tâm Kinh gọi là Ngũ uẩn giai không.

Do đó, nếu chấp Thân là Ta, chấp Thọ là Ta, chấp Tưởng là Ta, chấp Hành là Ta, chấp Thức là Ta thì một người mà bây giờ có tới năm cái Ta hay sao? Ngay cả sắc uẩn là vô ngã thì làm gì có cái Ta trong đó vì thế Đức Phật dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn là Ta, là Của Ta, là tự ngã Của Ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”. Các uẩn còn lại cũng thế. Thế thì thân, và tâm là vô ngã cho nên không có gì gọi là Ta hay là cái của Ta. Nhưng vì còn sống trong vô minh bất giác nên chúng ta thường ngộ nhận cho rằng đây là thân của tôi và tư tưởng, ý nghĩ hay lời nói cũng là của Tôi. Khi vui thì cho rằng Tôi vui và khi đau khổ thì nói là Tôi đau khổ. Thật ra tôi đâu có vui hay tôi làm gì biết đau khổ mà chỉ có cái vui hay cái đau khổ, nhưng tuyệt đối không có người vui hay người đau khổ trong đó. Vì ngũ uẩn luôn vận chuyển không ngừng từ trong ra ngoài rồi từ ngoài vào trong, từ sinh lý đến tâm lý cho nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoạt động liên tục. Cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt cho nên toàn bộ sắc, thọ, tưởng, hành, thức sinh khởi liên tục tạo ra những cảm giác vui buồn, những biến đổi trong thân và tâm…mà chúng ta lầm lẫn ngộ nhận những cảm thọ đó là Tôi hay là của Tôi… Thí dụ có người đánh vào mặt thì chúng ta kêu “Tôi đau quá” hay có người khen thì chúng ta hãnh diện là “Tôi sung sướng quá”. Thật ra nếu bị đánh thì thân đau, thân bị chảy máu chớ đâu có dính dáng gì đến Tôi. Bởi vì sau đó thân hết đau thì nói “Tôi không còn đau”. Nếu thật sự có cái Tôi thì chỉ một cái Tôi duy nhất hoặc là “Tôi đau quá” hoặc là “Tôi sung sướng quá” nhưng cái Tôi cứ tuần tự thay hình biến dạng theo cuộc sống thì làm sao gọi đó là cái Tôi được. Sự biến đổi liên tục theo thời gian đó chỉ là vận hành của ngũ uẩn chớ không phải là Tôi hay là cái của Tôi. Thế thường khi chúng ta làm chủ được một cái gì thì cố nắm giữ rồi vội cho đó là của Tôi. Chưa có thì cố sức tìm cầu để có và có một thì muốn có mười và cứ thế cái của Tôi cứ tăng trưởng cho nên bản ngã cũng phải tăng trưởng theo. Con người là một hợp thể cấu thành bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức tồn tại trong thế gian này chỉ khi nào các hợp thể khác ở chung quanh cùng tồn tại bởi vì tất cả các pháp đều nương tựa vào nhau mà tồn tại. Vì thế cái Tôi chỉ là ảo giác trong tâm của con người chớ không có thật vì các pháp luôn luôn biến đổi, không bao giờ cố định. Cái tôi đã không có thì làm gì có cái của Tôi, tài sản của Tôi, công danh của Tôi, những người thương yêu của Tôi…mà đã khổ công gầy dựng và giữ gìn. Con người thì không chấp nhận như thế, họ cho thế gian là thật, thân này thật, những gì họ tác tạo là vĩnh viễn thuộc về họ cho nên Đức Phật gọi họ là những người chạy theo ảo ảnh, nắm bắt ảo ảnh để chuốc khổ vào thân. Cũng do si mê chấp ngã cho nên không có cái Tôi mà vẫn tìm cho Tôi, giữ cho Tôi. Không có cái của Tôi mà con người vẫn nắm giữ, bám níu, chấp chặt, ôm khư khư vào lòng của cải thế gian thì làm sao tránh khỏi lo lắng, buồn rầu và đau khổ.

Sau cùng thực hành Chánh kiến rốt ráo là thấu hiểu rõ ràng “Bốn Sự Thật” tức là chân lý Tứ Diệu Đế. Trọng tâm của giáo lý Phật Đà nằm trong Tứ Diệu Đế (Cattàri Ariyasaccani)(Four Noble Truths) mà Đức Phật tuyên dương ngay trong bài thuyết pháp đầu tiên (Chuyển Pháp luân) cho năm người bạn tu khổ hạnh cũ ở vườn Lộc uyển, gần thành Ba-la-nại (Benarès). Giáo Pháp (Dhamma) là thực tướng, là phương tiện để giải thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau. Trong Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Đức Phật dạy rằng: "Dầu chư Phật có thị hiện trên thế gian hay không, nầy các Tỳ Khưu, có một sự kiện, một nguyên tắc nhất định, một định luật thiên nhiên, là tất cả các vật cấu tạo đều Vô thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và tất cả đều không có gì trường cửu (Vô ngã, Anatta). Như Lai đã chứng ngộ và thấu triệt điều ấy. Như Lai quảng bá, truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân tách và chỉ dẫn rành mạch rằng tất cả các vật cấu tạo (hữu lậu) đều vô thường, khổ và vô ngã". Và sau cùng Đức Phật đã khẳng định trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya) rằng: "Như Lai chỉ dạy một điều: đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ".

-Sự thật thứ nhất là khổ (Khổ Đế)(The Noble Truth of the reality of Dukkha) Đạo Phật là đạo như thật, không bi quan, không lạc quan, không siêu hình ảo tưởng mà hiện thực. Đức Phật không phủ nhận có hạnh phúc trong cuộc sống từ vật chất đến tinh thần cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhưng rất tiếc không có niềm vui hay hạnh phúc nào vĩnh viễn ở mãi với chúng ta, nó đến rồi ra đi  bởi vì có duyên sinh thì có duyên diệt nhanh chóng cho nên cuộc sống con người luôn mãi khổ công nhọc kế đi tìm từ hạnh phúc này đến hạnh phúc khác. Thế thì cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc phải chăng đó là khổ đau cũng ví như viên thuốc bọc đường, khi chất ngọt tan mất thì vị đắng sẽ hiện ra. Ông hoàng bà chúa có nỗi khổ theo lối vua chúa, ngược lại người nghèo khó cũng phải cưu mang những nỗi khổ trong cuộc đời chẳng kém gì. Trong cuộc sống, không nhất thiết phải khóc lóc mới là đau đớn tột cùng, nhưng sẽ có lúc, sự câm lặng thầm kín mới gọi là đau. Đau đến nỗi, chạm nơi nào cũng thấy nhói.

Vậy Đức Phật nói những khổ gì?

Ngôn ngữ Đức Phật dùng để thuyết pháp không phải là tiếng Pali mà là tiếng Magadhi (Ma-kiệt-đà). Thật ra ngôn ngữ Ấn Độ rất phức tạp ngay cả bây giờ cũng đã có gần trên 15 loại được chính phủ Ấn công nhận. Đó là Sanskrit, Urdu, Bengali, Hindi…trong khi đó Pali không phải là ngôn ngữ thuộc nhóm Indic mà thuộc về thổ ngữ của vùng Trung Ấn. Giới thượng lưu và thành phần vua chúa Ấn Độ nói tiếng Sanskrit trong khi đó các thành phần dân chúng nói tiếng Magadhi, là ngôn ngữ gốc của Đức Phật, và phần lớn thành phần hạ tiện nói tiếng Paishachi. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài thuyết giảng rất nhiều trong những cuộc hành trình dài bằng cách đi bộ trong vùng Bắc Ấn gần nửa thế kỷ, nhưng chưa có ai nghĩ đến việc kết tập cho nên sau khi Ngài nhập diệt các đệ tử cảm thấy bàng hoàng vì sự thiếu vắng của bậc Đạo Sư. Cuối cùng họ quyết định kết tập những lời giảng dạy của Đức Phật và cô đọng lại thành kinh điển. Vì thế kinh điển Phật giáo được truyền miệng gần 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt hoàn toàn dựa vào trí nhớ của người đọc kinh.

Thế thì ngày xưa Đức Phật không nói tiếng Việt, tiếng Trung Hoa, tiếng Anh hay tiếng Pháp mà chỉ nói tiếng Ấn Độ cho nên trong kinh điển bằng tiếng Pali hay tiếng Sanskrit, Đức Phật chỉ nói “Dukkha”. Khi dịch sang Việt ngữ thì “Dukkha” biến thành “khổ” khiến mới nghe đạo Phật có vẻ quá tiêu cực, thụ động. Thật ra ý nghĩa chữ “Dukkha” rất rộng lớn bao gồm rất nhiều ý nghĩa với nội hàm nói lên sự thay đổi từ tâm lý đến sinh lý của con người gây ra sự xáo trộn, lo lắng, buồn phiền. “Dukkha” bao gồm cả những hạnh phúc, những mong muốn thành đạt trong cuộc sống nữa chứ. Nói chung tất cả những biến hành của tâm như vui, giận, yêu, ghét, thương, thích, muốn (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục)(thất tình) đều là “Dukkha” cả. Thật ra bất cứ hạnh phúc nào trong thế gian thì cuối cùng cũng nhàm chán, thất vọng, không hài lòng, không thỏa mãn. Hạnh phúc chẳng khác nào như chiếc bóng, không bao giờ ôm giữ được bằng đôi tay. Cuộc tìm cầu hạnh phúc lúc nào cũng khó khăn đến khi có thì hạnh phúc chợt đến, chợt đi và cứ thế con người cứ đi tìm và đi tìm mãi không ngừng nghỉ và hành trình tìm cầu đó đâu có ai gọi là hạnh phúc bao giờ? Nói chung tất cả những biến dạng của tâm để cho chúng ta những cảm giác hạnh phúc hay đau khổ tất cả đều phát xuất từ ngoại duyên chớ thật ra trên thế gian này không có gì là khổ đau hay hạnh phúc. Một khi có khổ hay hạnh phúc thì ngay vào thời điểm đó có sự hiện diện của bản ngã nghĩa là tôi khổ hay tôi sung sướng. Do đó nếu không có sự hiện diện của “Tôi” thì ai đang khổ hay là ai đang sung sướng? Tất cả chỉ là sự cảm thọ của ngũ uẩn chớ không người nào thọ lãnh khổ hay sung sướng cả. Khổ tuy có muôn hình vạn trạng, biến đổi từ sinh lý đến tâm lý, nhưng cho dù khổ có thay đổi kiểu gì, con người có sống ở bất cứ xã hội nào hay làm bất cứ nghề nghiệp gì thì chung quy cũng nằm gọn trong tam khổ, bát khổ:

1.-Tam khổ: là ba loại khổ đau mà ai ai cũng phải gánh chịu hằng ngày:

-Khổ khổ: là những sự khổ đau luôn chất chồng lên nhau, khổ này chưa dứt,  nỗi khổ khác đã hiện lên. Tuy nhiên, nếu mình không muốn rước phiền não vào mình thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho mình được bởi vì tâm mình không buông xuống nổi. Nên nhớ rằng khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Ngược lại, khi bạn đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

-Hành khổ: Hành có nghĩa là tác ý, là ý muốn làm phát xuất từ bộ óc rồi sau đó mới chuyển thành tư tưởng, lời nói hay hành động. Vì thân, khẩu, ý luôn tác tạo cho nên con người phải gánh chịu bao nhiêu hậu quả. Nếu chạy theo dục vọng mù quáng thì thân, khẩu, ý sẽ đọa con người vào trong những cảnh khổ trầm luân không lối thoát. Vì thế Đức Phật dạy rằng con đường giải thoát là biết thanh tịnh hóa thân, khẩu, ý của mình.

-Hoại khổ: Thế gian vũ trụ là do sự kếp tập và vận hành của ngũ uẩn trong đó có thân, tâm của con người. Vì thân, tâm là vô ngã cho nên nó phải chịu sự biến hóa hoại diệt của luật vô thường sinh, trụ, dị, diệt nghĩa là có sinh tất có ngày hoại diệt. Nếu không thấu hiểu chân lý sinh, già, bệnh, chết cho nên khi mình có bệnh thì đau khổ, thấy sắc diện không còn trẻ trung đẹp đẻ thì đau khổ, thấy người sắp chết hay mình sắp chết thì phát sinh luyến tiếc, bám níu, đau khổ…

2.-Bát khổ: Ngoài ba thứ khổ não trên, con người hằng ngày thường xuyên phải đối diện trong cuộc sống tám nỗi khổ khác:

-Mới sinh ra mắt nhắm nghiền quang quác

Khóc quơ tay, chân đá đạp, oa oa

Cất tiếng vang cho một kiếp Ta bà

Sinh là khổ – khóc dài cho một kiếp.

-Nợ trần gian mải xoay vòng trùng điệp

Bụi vô thường tan tác máu thời gian

Thân giả tạm mới đó cũng phai tàn

Già là khổ – bóng thân dần tắt lịm.

-Từ sinh – lão cho ta dòng suy bệnh

Dẫu bạc vàng chồng chất mấy tầng mây

Nhưng thân kia vẫn phải chịu đọa đày

Bệnh là khổ – làm sao ta tránh nổi.

-Và phút cuối tấm thân tàn còm cỏi

Thở hơi ra nhưng chẳng thấy quay về

Thôi nhắm mắt giã từ một kiếp mê

Tử là khổ – cuối cùng cho mộng ảo.

-Sống hội ngộ ngỡ đâu đào hoa đảo

Nào ngờ đâu duyên phận lắm bẽ bàng

Mới gặp đó thoáng chốc bỗng ly tan

Ái biệt ly – ngậm ngùi phút ly biệt.

-Chuyện thế gian trách đời sao khắc nghiệt

Vì tham lam nên mãi chẳng thỏa lòng

Dù bạc kia vàng cao núi chất chồng

Cầu bất đắc – góp hồn cho đau khổ.

-Tình thế trần ước cầu càng thêm khó

Lánh mặt rồi sao vẫn phải gặp nhau

Chẳng vui lòng mà thêm khổ thêm đau

Oán tặng hội – chỉ toàn là bất toại.

-Đời giả tạm cuối cùng rồi cũng hoại

Nhưng vì mê nên chấp mãi cái ta

Rồi một ngày cũng bỏ kiếp Ta bà

Chấp ngũ uẩn – chỉ lòng vòng sanh tử.

Tám điều khổ theo ta trong hành lữ

Bậc trí hiền mau chóng để ngộ ra

Còn kẻ ngu cứ mải lặn hải hà

Làm nô lệ suốt đời cho ma chủ. 

(Nguồn: Hoa Cúc)

Danh từ “Khổ” không phải chỉ để mô tả sự đau đớn cho thân xác hay cảm giác khó chịu của tinh thần mà còn bao gồm tất cả những gì có thể tạo ra đau khổ hay gánh chịu khổ đau. Vì thế chân lý về Khổ dạy rằng:”Vì nguyên lý vô thường mà tất cả mọi hình thức khoái lạc dù là thiên đường cực lạc cũng đều bị biến đổi và hủy diệt và tất cả mọi hình thức hiện hữu đều mang mầm mống khổ đau”. Chính vì sợ đau khổ nên con người cố nỗ lực tìm kiếm khoái lạc mà không biết rằng chính họ sẽ bị khoái lạc lừa đảo phản bội để rồi càng tìm kiếm khoái lạc con người càng thất vọng và cứ thế họ chìm đắm trong bể khổ trầm luân. Nói cách khác khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Ngay cả hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Hạnh phúc mà chúng ta mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà chúng ta khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương. Ngay cả những thiên tài là những người lúc nào cũng dằn vặt về nỗi khổ hiện sinh, về sự chán chường và sự cô đơn. Như Ernest Hemingway từng viết: “Hạnh phúc ở những người thông minh là điều hiếm gặp nhất mà tôi biết.”

-Sự thật thứ nhì là nguyên nhân của khổ (Tập Đế)(The Noble Truth that Dukkha has a causal arising)(Samudaya) Khổ là sự khao khát của những hứng thú, dục lạc, đam mê, ái dục…và nó nảy sinh và phát triển nơi nào có sự yêu thích, hài lòng, hay hạnh phúc. Thông thường chúng ta đo lường đau khổ bằng cảm thọ, nhưng cảm thọ không phải là đau khổ mà nguyên nhân gây ra khổ là sự giữ lấy dục vọng. Nói thế nghĩa là chính dục vọng tự nó không có khổ đau, nhưng nguyên nhân gây ra khổ đau là sự giữ lấy, bám níu, chấp thủ dục vọng đó.

Hằng ngày mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc chạm phát sinh biết bao dục vọng mà nhà Phật gọi là vọng tưởng. Thấy xe đẹp, đắc tiền sinh ra đam mê, thích thú. Nghe người khen thì hạnh phúc. Uống ly rượu ngon hay hay ăn cao lương mỹ vị thấy lòng lâng lâng sung sướng…Nhưng tất cả những cảm thọ thích thú, hay hạnh phúc đó không phải tự nó làm cho chúng ta đau khổ mà đau khổ chỉ bắt đầu hình thành trong tâm một khi chúng ta muốn lưu giữ, kéo dài hay chạy theo những thích thú đam mê đó. Ngày xưa, Đức Phật và các bậc Thánh giả vẫn sống, vẫn sinh hoạt trong thế giới này. Ăn thì họ vẫn biết ngon dở, mũi ngửi biết mùi thơm hay thối, lưỡi nếm vẫn biết vị mặn, ngọt, chua, cay…nghĩa là năm giác quan và hệ thống thần kinh não bộ vẫn hoạt động như tất cả mọi người. Thế thì người giải thoát khác ta hay ta khác người giải thoát ở chỗ nào? Đối với người giải thoát ăn thì vẫn biết món ngon, món dở, món mặn, món lạt nghĩa là các giác quan không hề bị mất tính năng động, nhưng sự khác nhau giữa Thánh và phàm là Thánh nhân tuyệt đối  không chấp vào món ngon hay dở nghĩa là ăn thì ăn miễn sao no thôi; ngon cũng ăn, dở cũng ăn chứ không đòi hỏi phải như thế này hay thế kia. Còn chúng ta chỉ thích ăn món ngon, vật lạ vì nó cho ta những cảm thọ thích thú, êm đềm, hạnh phúc nên muốn tận hưởng và kéo dài những giây phút hạnh phúc êm đềm đó càng nhiều, càng lâu thì càng tốt. Một khi tâm muốn chạy theo ái dục thì đây là nguyên nhân gây ra những nỗi khổ niềm đau. Nói cách khác, mỗi khi mắt thấy, tai nghe, lưỡi nếm, mũi ngửi, thân xúc chạm thì ta biết rất rõ, nhưng đừng bám níu vào những cảm giác, vì hiện tại duyên sinh nên ta có món ngon thì cứ thưởng thức nó, đến giây phút sau duyên diệt thì hết, không lưu luyến, thèm khát thì nguyên nhân gây ra khổ không bao giờ có. Nên nhớ của cải vật chất trên thế gian vốn không thuộc về ta mà nó chỉ cung ứng cho ta, vì thế chúng ta không cần vứt bỏ nó, cái chúng ta cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp, những tư duy sai lầm về Ngã. Vì thế biết thì cứ biết, nhưng không lưu giữ (chấp thủ) nó vào tâm thì nguyên nhân gây ra đau khổ không còn. Dục vọng là những thứ do ngoại duyên đưa đến chớ thật sự trong ta không bao giờ có dục vọng. Nếu không thấy tiền thì lửa tham không bùng cháy, không thiêu đốt tâm can. Nếu mắt không thấy cô gái đẹp thì tâm của gã si tình không bao giờ xao xuyến…Nhưng làm thế nào để buông dục vọng xuống? Đức Phật dạy rằng “buông xả” không có nghĩa là hủy diệt hoặc vứt bỏ, ném nó đi mà chỉ cần bỏ mặc nó rồi dục vọng sẽ qua đi. Chúng ta chỉ cần  tỉnh thức Chánh niệm để biết thật rõ ràng nó là dục vọng, nó là tham, nó là sân, nó là si rồi buông nó xuống, không chấp thủ, không dính mắc, luu luyến thì nó sẽ biến mất. Vì mắt thấy tiền (cái này sinh) nên lửa tham nổi dậy (cái kia sinh); bây giờ không chấp, không tham luyến vào tiền nữa (cái này diệt) thì lửa tham dập tắt (cái kia diệt). Có thực hành buông xả thì nguyên nhân gây ra đau khổ không còn. Thông thường những nỗi khổ niềm đau bắt nguồn từ sự ràng buộc của lý tưởng và những phức tạp do chính chúng ta tạo ra. Đôi khi chúng ta quá khắt khe, chỉ trích mọi thứ và cả chính chúng ta. Thật ra, đời sống và thế giới chúng ta đang sống dường như không bao giờ theo ý muốn của chúng ta cho nên nếu thực hành đứng đắn sự buông xả thì nguyên nhân gây ra đau khổ sẽ vĩnh viễn xa lìa.

Tóm lại, nguyên nhân gần gây ra biết bao nỗi khổ niềm đau chính là sự vô thường của vạn vật. Từ sự vô thường đó mới có sinh ly tử biệt, sinh già bệnh chết…Nhưng nguyên nhân xa sâu thẳm chính là “Ái dục”. Ái biến đổi khôn lường từ ái sắc, ái thanh, ái hương, ái vị, ái xúc cho đến ái pháp. Nó biến đổi dị thường từ hình thức này sang hình thức khác, quyến rũ khiến tâm con người rơi vào vòng kiềm tỏa của nó.

"Ái luyến sinh sầu ưu,

Ái luyến sinh sợ hãi.

Ai giải thoát ái luyến

Không sầu, đâu sợ hãi?"  (Pháp Cú 213)

 -Sự thật thứ ba là sự diệt khổ (Diệt Đế)(The truth of the end of Dukkha)(Nirhodha) Khi hành giả thực sự diệt hết khổ đau nghĩa là mọi mầm mống của tham, sân, si, ái dục hoàn toàn bị dập tắt thì người có thanh tịnh, tự tại Niết bàn. Niết bàn không phải là cảnh giới siêu hình hay thế giới cực lạc nào đó trong càn khôn vũ trụ mà chỉ là trạng thái thanh tịnh, tự tại phản ảnh bản tâm của người có cuộc sống toàn thiện, chân thiện và thánh thiện, không còn phiền não khổ đau chi phối. Nói cách khác, Diệt Đế là một trạng thái tâm đã đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp, người sống trong trạng thái này được xem là đã giải thoát hoàn toàn tức là người đã làm chủ sự sống chết của mình. Và người làm chủ sự sống chết của mình là người hạnh phúc nhất trên thế gian này.

Vào thời Đức Phật còn tại thế có một ẩn sĩ Bà-la-môn khi gặp ngài Xá Lợi Phất liền hỏi :

- Niết bàn, Niết bàn, này ông bạn Xá Lợi Phất xin cho biết đó là cái gì vậy?

Tôn giả Xá Lợi Phất bèn trả lời :

- Sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê sai lạc là cái mà con người gọi là Niết bàn.

Khi nói về Niết bàn, chính Đức Phật cũng dạy thêm rằng :

- Nếu chúng sinh nào đã từ bỏ thú vui và tham muốn, đã đầy đủ trí tuệ thì họ đã đạt đến sự giải thoát sinh tử, sự tịch tĩnh, đã đạt đến Niết bàn tức là nơi an dưỡng thường tồn, vĩnh cửu ngay ở trong cõi đời nầy.

Như vậy, Niết bàn không phải là một cõi, một cảnh và dĩ nhiên Niết bàn cũng không phải là cái hư vô. Rõ ràng Niết bàn không thể dùng văn tự ngôn ngữ của con người để diễn tả, vậy Niết bàn thật sự có hay không có?

Trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo, Ngài Na Tiên đã trả lời câu hỏi tương tự như thế của vua Milinda rằng :

- Tâu Hoàng thượng, thật sự có Niết bàn và Niết bàn chỉ có thể lấy trí mà nhận biết. Nếu chúng sinh giữ được tâm thanh tịnh và chánh trực, thoát khỏi các nghiệp chướng và thoát khỏi được các tham muốn thấp hèn thì chính họ sẽ thấy được Niết bàn.

Nhà vua xin cho một thí dụ.

Ngài Na Tiên lại tiếp :

- Hoàng thượng biết một cái gọi là gió, nhưng Hoàng thượng có biết gió màu sắc gì, hình dáng ra sao, nó dày hay mỏng, dài hay ngắn?

Nhà vua đáp :

- Gió thì vô hình vô sắc làm sao chỉ được. Tuy không chỉ được, nhưng nó vẫn có.

Bây giờ Tỳ Kheo Na Tiên mới kết luận :

- Cũng thế, tâu Hoàng thượng, Niết bàn là cái thật sự có mà không thể dùng văn tự ngôn ngữ để diễn tả cho con người thấy được hình sắc của nó.

Thế thì làm sao biết được Niết bàn, nhà vua lại hỏi.

- Nhờ sự thoát khỏi phiền não, nghiệp chướng, nhờ sự an ổn, an lạc thanh tịnh thì có được Niết bàn.

Rồi ngài Na Tiên lại tiếp :

- Như người té vào đống lửa ngùn ngụt, nếu họ cố gắng vượt ra khỏi và lên đựoc chỗ mát thì người ấy sẽ cảm thấy sung suớng vô cùng. Cũng thế, người thoát khỏi lửa của tham, sân, si sẽ huởng cái sung sướng an tịch của Niết bàn. Cũng như người thoát ra khỏi những tâm niệm bất thiện, người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết bàn. Và sau cùng những ai thoát khỏi cái lo sợ của sanh, lão, bệnh, tử người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết bàn.

Trong cuộc sống hằng ngày, có những giây phút chúng ta không còn quan tâm đến sắc, tài, danh, lợi cũng không còn để cho tham sân si lấn áp, tinh thần sáng suốt nhẹ nhàng thì ngay lúc đó chúng ta đang sống trong Niết bàn. Nhưng rất tiếc Niết bàn đến với chúng ta quá ngắn ngủi bởi vì khi tâm quay về với đời sống thực tại thì Niết bàn biến mất và lo lắng, phiền não xen vào. Vì thế thanh tịnh tự tại Niết bàn nằm trong tay ta và dĩ nhiên lo lắng, buồn phiền cũng do ta.

-Sự thật thứ tư là con đường thoát khổ. (Đạo Đế)(The Noble Truth of the Path that leads to Awakening)(Magga) Đạo đế là con đường đưa hành giả trở về với đời sống đạo đức nhân bản, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ muôn loài. Trong đó, Bát chánh đạo được xem là độc lộ để thăng hoa cuộc đời và đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát giác ngộ.

Như thế Chánh kiến là nền móng vững chắc để xây căn nhà Bát chánh đạo. Không có căn nhà Bát chánh đạo nào bền vững nếu con người không dụng tâm thực hành thâm sâu Chánh kiến hằng ngày để giúp cho chúng ta thấy biết đúng.

Chánh kiến cho chúng ta thấy biết rõ ràng thế gian vũ trụ này là do nhân duyên kết tập trải qua trùng trùng duyên khởi từ vô thỉ đến vô chung chớ không phải do Thượng đế sáng tạo.

Khoa học ngày nay khám phá vũ trụ có được là do một vụ nổ lớn từ một vi tử (The Big Bang Theory) khoảng 13.7 tỷ năm về trước và từ đó những dãy Thiên Hà được tạo dựng. Trước năm 1913 vũ trụ đối với khoa học chỉ vỏn vẹn có dãy Ngân Hà (The Milky Way). Mãi sau khi Edwin Hubble đo được khoảng cách của dãy Thiên Hà Andromeda khoảng 900,000 năm ánh sáng thì vũ trụ mới được hiểu là do sự tạo thành của rất nhiều dãy Thiên Hà khác chớ không nhất thiết chỉ có dãy Ngân Hà mà thôi. Nhưng mãi đến năm 1965 tại phòng thí nghiệm của hảng điện thoại Bell, hai nhà khoa học Arno Penzias và Robert Dicke thuộc đại học Princeton vô tình khám phá những năng lượng rơi rớt lại trong không gian sau vụ nổ lớn 13.7 tỷ năm về trước và từ đó họ đưa ra thuyết “The Big Bang”.

Hiện nay vũ trụ vẫn còn nằm trong thời kỳ nới rộng cho đến khi tất cả những hành tinh nóng như mặt trời…đốt cháy hoàn toàn những nhiên liệu như Hydrogen, Helium…và lúc đó vũ trụ sẽ chìm vào bóng tối, băng giá. Sau đó vũ trụ sẽ thu trở lại thành vi tử như lúc ban đầu. Hiện tượng này gọi là The Big Crunch.

Thế thì thế gian vũ trụ sinh rồi diệt và diệt để rồi sinh trở lại, nhân này quả nọ vô cùng vô tận từ vô thỉ đến vô chung, vậy đâu là điểm khởi đầu và đến bao giờ là ngày cùng tận?

Ngày xưa, khi khoa học còn nằm trong thời kỳ phôi thai, tín ngưỡng phát triển rất mạnh. Thế nhưng, ngày nay khoa học tiến rất xa và con người có tầm nhìn khá chính xác về nhân sinh vũ trụ cho nên tín ngưỡng, ngay cả tín ngưỡng dân gian, càng ngày càng bị thu hẹp. Vì thế Đức Phật luôn nhắc nhở chúng sinh đừng tin vội, tin vàng (Believe nothing, no matter where you read it, or who said it, no matter if I have said it, unless it agrees with your own reason and your own common sense. Buddha.) mà hãy dùng trí tuệ để nhận xét một cách công minh thì chúng ta đang thực hành Chánh kiến. Phật giáo ngày nay pha trộn quá nhiều với tín ngưỡng dân gian làm cho Phật giáo mất đi định hướng. Tin tưởng sai lầm còn tác hại hơn là không tin tưởng gì hết. Hiện nay, người Tây phương thuộc về tín ngưỡng thần quyền (religious) ở Hoa kỳ, Âu châu hay ngay cả Úc châu đi nhà thờ càng ngày càng sa sút đặc biệt là giới trẻ. Họ muốn đi tìm một định hướng mới cho cuộc sống, ngay cả những người không tin vào Thượng đế (atheism and agnosticism) bắt đầu quay về tìm hiểu, học hỏi và thực tập giáo lý Phật Đà càng ngày càng nhiều. Họ cảm thấy thoải mái và hạnh phúc hơn khi thực tập Bát chánh đạo và các phương pháp thiền. Họ tự tin nhiều hơn về lối sống mới vì chính họ tự lèo lái con thuyền định mệnh của họ chớ không do ai khác. Ngược lại, thế hệ trẻ Việt Nam ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới không biết tý gì về giáo pháp ngoài việc tụng kinh ê a và cơm chay. Vì thế nếu không thông hiểu và thực hành Chánh pháp, khi thế hệ đi trước mất đi thì có lẽ Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại sẽ biến mất giống như những thế hệ của người Trung Hoa ở Hoa Kỳ cách nay trên 50 năm cho dù có bao nhiêu chùa to, Phật lớn. Nếu các em biết thực hành Bát chánh đạo vào trong cuộc sống thì chính các em sẽ có biết bao lợi lạc, gia đình sẽ trên thuận dưới hòa, mọi người sẽ sống trong đạo đức nhân bản và kết quả gia đình sẽ có nhiều hạnh phúc và an lạc. Ngược lại, nếu không thông hiểu Bát chánh đạo, các em dễ dàng bị cải đạo vì nghĩ rằng đạo nào cũng tốt.

Phật giáo là tôn giáo không có tín ngưỡng bởi vì Phật giáo không phải là một hệ thống tín ngưỡng và lễ bái và Phật giáo không chấp nhận sự hiện hữu của một hay nhiều Thần Linh có năng lực chi phối định mệnh con người và con người có phận sự vâng lệnh, phục vụ và tôn sùng. Do đó, trong Bát Chánh Đạo, không bao giờ có Chánh tín do đó niềm tin trong Phật giáo hoàn toàn khác hẳn với niềm tin của những tôn giáo hữu thần (nhất thần giáo hoặc đa thần giáo). Vì thế nhánh đầu tiên của Bát Chánh Đạo là Chánh kiến nghĩa là con người phải có cái thấy biết một cách sát thật, rõ ràng, vô tư. Khi đã thấy biết sát thật thì niềm tin bây giờ không còn cần thiết nữa. Ngược lại, không thấy biết sát thật, nghiêng hướng này hay hướng kia thì gọi là tà kiến. Do vậy, đạo Phật là đạo “đến để thấy biết, chớ không phải đến để tin” cho nên đức tin không phải là một điều quan trọng trong Phật giáo và người đệ tử Phật không cần đến đức tin mà chỉ cần tinh tấn. Phật Giáo không đòi hỏi nơi tín đồ một đức tin mù quáng. Do đó một niềm tin tưởng suông không thể có chỗ đứng. Thay vào đó là lòng tín nhiệm căn cứ trên sự hiểu biết. Chính Đức Phật đã khẳng định rằng :“Ta không là Thượng đế, cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con người đã chiến thắng thế gian”. Đức Phật đã chiến thắng thế gian, nhưng Ngài không cần ngai vàng để ngự trị và cũng không cần thần dân để được tôn vinh. Ngài sống rất thảnh thơi với ba mảnh y và một bình bát, nhưng chiến thắng được tâm mình mới là chiến thắng vĩ đại nhất. Đức Phật chỉ là một đạo sư và giáo pháp của Ngài là ngọn đuốc tuệ giúp chúng sinh nương theo đó tìm ra con đường sáng, con đường giải thoát giác ngộ cho chính mình.

Để giải thích mối quan hệ giữa lòng tin và trí tuệ, Đức Phật dạy rằng: “Người có lòng tin mà không có trí tuệ thì thường làm tăng trưởng vô minh. Người có trí tuệ mà không có lòng tin thì thường làm tăng trưởng tà kiến”. Trí tuệ ở đây cần được hiểu là năng lực suy xét và phán đoán mọi sự việc cho nên nếu trí tuệ không có lòng tin vào Chánh pháp thì người tu tập dễ rơi vào tà kiến, tăng trưởng tự cao, tự đại, luôn cố chấp không thấy được chỗ sai lầm của mình. Ngược lại, người có lòng tin vào Chánh pháp mà thiếu đi trí tuệ để nhận hiểu và phân biệt đứng đắn thì dễ dàng lún sâu vào chỗ si mê, tăm tối, mê tín dị đoan.

Từ xưa đến nay, lý trí và đức tin luôn chống đối với nhau. Lý trí dùng lý luận và suy tư phát xuất từ kinh nghiệm và nhận xét, trong khi đức tin nằm trong phạm vi tình cảm, không thể suy luận, suy xét hay giảng giải được. Do đó những tôn giáo thần khải thì đức tin là Thượng đế cảm nhận bằng trái tim, không phải bằng lý trí. Tình thương phát xuất bằng trái tim thì dựa vào tình cảm nên rất thăng trầm vì thế nó có lúc đúng, có lúc sai, có lúc thương, có lúc ghét. Ngược lại lòng từ bi phát xuất từ trí tuệ sáng suốt thì dựa theo tinh thần khách quan bình đẳng, không thiên vị. Thêm nữa, đối với những tôn giáo thần khải thì thần thông, phép lạ là quan trọng. Ngược lại Đức Phật, đã chứng lục đại thần thông, coi đó là không đáng kể và không thích đáng bởi vì điều quan trọng nhất vẫn là bồi dưỡng trí tuệ để có giải thoát. Đối với đạo Phật, những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các bậc Thánh cho nên theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao siêu nhất và huyền diệu nhất phải là làm sao biến một người ngu si thành một người khôn ngoan, trí tuệ. Do đó hạnh phúc hay khổ đau là do nơi con người chớ không tùy thuộc vào một đấng quyền năng tuyệt đối nào.

Từ khi con người xuất hiện trên quả địa cầu trải qua biết bao nền văn minh cổ đại bắt đầu từ Ai Cập rồi đến Hy Lạp, La Mã cho đến ngày nay, ý nghĩa về Thượng đế rất thăng trầm, thay đổi từ nhất thần cho đến đa thần tùy theo mỗi thời đại. Nếu Thượng đế là đấng toàn năng thì tại sao Thượng đế lại để con người uốn nắn Ngài tùy theo ý muốn của con người? Từ đó, chúng ta dễ dàng kết luận rằng dọc theo dòng tiến hóa của nhân loại, con người đã sáng tạo ra Thượng đế chớ không phải Thượng đế đã sáng tạo ra con người. Bằng chứng là ông trời của Trung Hoa đâu có giống ông trời của người Do thái hay ông trời của người Ấn Độ cho nên ngày nay, mỗi tôn giáo tự tạo một Thượng đế riêng cho tôn giáo của mình, Thiên chúa giáo có God, Hồi giáo có Allah, Ấn Độ có Brahman, Trung Hoa thì có Ngọc Hoàng…từ đó mới có chiến tranh, hiềm khích và giết hại lẫn nhau để dành độc quyền ông Thượng đế không có thật đó. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo tin rằng linh hồn được gọi là Atman (tiểu ngã)  là do đấng toàn năng tạo ra và tất cả mọi sự sống trên quả địa cầu này đều có linh hồn. Linh hồn chuyển từ thân xác này qua thân xác khác, cứ thế cho đến khi có giải thoát thì tiểu ngã sẽ hòa đồng với đại ngã Brahman tức là Thượng đế hay là linh hồn của vũ trụ.

Đến khi đạo Phật ra đời, Đức Phật phủ nhận con người là do Thượng đế sinh ra và phủ nhận luôn cả ý nghĩa linh hồn (Soul) là do Thượng đế ban cho ta. Do đó, vào thời Đức Phật còn sinh tiền có sự ngăn cách rất rõ ràng giữa Phật giáo và đạo Bà la môn. Phật giáo chủ trương vô thần, diệt trừ bản ngã, tự giải thoát, bình đẳng và không có cúng tế nghi lễ rườm rà phức tạp. Đức Phật không chấp nhận khái niệm về một linh hồn bất tử hay ngay cả một bản ngã thường tại. Ngược lại đạo Bà la môn tin rằng có tự ngã và khi chết thì tự ngã hòa nhập vào đại ngã để có giải thoát. Vì thế con người mới cầu xin vào đấng phạm thiên, tin tưởng vào thần linh nên cúng kiến cầu xin ban phước, tha tội.

Trong kinh Pháp Cú (145), Đức Phật khẳng định rằng:

"Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm.

Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.

Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta.

Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch”.

Sau khi đắc tứ thiền, Đức Phật với Tuệ Minh Sát và trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác thấy biết như thật rằng từ con người cho đến nhân sinh vũ trụ tất cả đều là do nhân duyên, cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt, nhân này quả nọ mà tạo thành chớ tuyệt đối không có ai là tác giả cả. Do đó Đức Phật phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế trong cuộc sống và dĩ nhiên không có Thượng đế thì làm gì có ai cho ai linh hồn. Dựa theo các tôn giáo thần quyền, linh hồn là một thực thể vĩnh hằng do Thượng đế ban cho loài người cho nên linh hồn có thể chuyển từ thân xác này sang thân xác khác hay từ cõi này sang cõi khác. Ngược lại, đối với đạo Phật cái tâm còn không có thì làm gì có linh hồn. Tâm nhà Phật gọi là Thức. Thức là cái biết biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm lý và sinh lý của con người mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần. Thí dụ mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm mùi vị hay thân cảm xúc hoặc ý duyên với pháp trần thì có biết bao tư tưởng đưa vào tâm để cho ta cái biết. Phật giáo dùng chữ sát na để chỉ cho đơn vị thời gian nhỏ nhất và một sát na xảy ra rất nhanh bởi vì mỗi một cái nháy mắt có thể có hàng trăm sát na cũng như đơn vị nhỏ nhất để đo thời gian của nhân loại ngày nay là giây.

 Khi thành đạo, Đức Phật với tuệ minh sát, với trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác khi quán chiếu lại thân, tâm của mình và của nhân loại thì Ngài thấy rằng chúng sinh không hề có tâm mà chỉ có những sát na tư tưởng kết nối và kết nối lại với nhau khiến chúng ta cảm giác như có tâm. Thí dụ ở sát na trước mắt thấy sắc cho ta cái biết của sắc (nhãn thức), đến sát na sau tai nghe âm thanh cho ta cái biết về âm thanh (nhĩ thức)…Cái biết sau nối tiếp (thay thế) cái biết trước và cứ thế cái biết liên tục sinh diệt tạo thành chuổi thức chớ thật sự không có một thức nào (hay một cái tâm nào) cố định cả. Cái tâm sau thay thế cái tâm trước và cứ thế tâm luôn sinh diệt tuôn chảy trong tâm hồn của chúng ta vì thế Thức dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục của các ý niệm (sát na tư tưởng). Vì sự ngộ nhận lầm lẫn cho rằng mình có tâm cho nên họ mới nghĩ rằng trong ta phải có cái Ta. Bây giờ không có tâm thì làm gì có Ta hay cái của Ta tức là hoàn toàn vô ngã. Thí dụ, ban đêm nhìn ra xa lộ ở Hoa Kỳ, chúng ta thấy ánh sáng đèn chạy dài như dòng sông uốn khúc. Nếu bây giờ lấy hết những chiếc xe kia đi thì dòng sông ánh sáng đó sẽ không còn. Nói cách khác nếu không có những ánh sáng từ những chiếc xe kết nối lại thì không bao giờ có ánh đèn sáng dài đến thế. Cái tâm con người thì cũng thế, tuy mỗi sát na tư tưởng rất nhanh, nhưng vì kết nối liên tục những sát na tư tưởng đó thì chúng ta có một chuổi thức mà con người lầm lẫn cho là có tâm.

Hãy lắng nghe trong Vô Môn Quan có ghi lại cuộc đàm thoại đầu tiên giữa Bồ-đề-đạt-ma và Huệ Khả. Bồ-đề-đạt-ma ngồi nhìn vách tường. Huệ Khả dầm tuyết, rút dao tự chặt cánh tay, nói:

"Con không an được tâm, xin thầy an tâm cho con."

Đạt-ma bảo: "Đưa tâm cho ta, ta sẽ an cho."

Sư đáp: "Con không thấy tâm đâu cả."

Đạt-ma đáp: "Ta đã an tâm cho con."

Tâm quá khứ đã qua, tâm tương lai chưa có, tâm hiện tại đang quay cuồng sinh diệt thế thì Huệ Khả biết cái tâm nào để tìm? Vì sự ngộ nhận có tâm cho nên Đức Phật dạy rằng: “ Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng nó lại gạt bạn suốt đời”.

Nghiệp lực là sức mạnh (năng lực, power, force) của nghiệp và là động cơ chính khiến chúng sinh dính liền với sinh tử luân hồi. Chính nghiệp lực đã chuyển Thức cuối cùng (Tử tâm) sang Thức tái sinh để tạo thành sự sống cho một thai nhi. Nếu cho rằng những con người vừa mới sinh ra là do sự sáng tạo của Thượng đế và không có liên quan gì đến kiếp sống trước thì Phật giáo gọi đây là đoạn kiến, là không đúng. Ngược lại, có quan niệm cho rằng linh hồn từ kiếp trước đầu thai vào kiếp sống mới thì đạo Phật gọi đây là thường kiến, cũng không đúng luôn. Dựa theo tinh thần Phật giáo, sự hình thành của Danh và Sắc trong một kiếp sống mới là kết quả của vô minh, tham ái và nghiệp từ kiếp trước. Nói thế nghĩa là kiếp sống mới không phải là sự đầu thai của kiếp sống cũ, nhưng nó không phải không từ kiếp sống cũ mà có. Ví cũng như khi một cây đèn cầy được mồi từ ngọn lửa của cây đèn thứ nhất, ngọn lửa mới bây giờ không phải là ngọn lửa của cây đèn cầy thứ nhất, nhưng nó không thể hiện hữu nếu không có ngọn lửa của cây đèn thứ nhất. Thế thì hai cây đèn cầy hoàn toàn khác, kích thước khác nhau, màu sắc khác nhau, ngọn lửa cũng khác nhau. Do đó, từ tướng diện, nhân cách, tài năng…cho đến mọi sự khổ, vui trong đời này là phản ảnh trực tiếp từ những nghiệp mà con người đã kiến tạo từ kiếp trước cho nên hai ngọn lửa khác nhau là thể hiện hai cuộc sống khác nhau. Thí dụ tiền kiếp có người sống trong giàu sang quyền quý, nhưng tham lam bỏn xẻn, ưa hãm hại người (ngọn lửa cây đèn thứ nhất) nay sang đến kiếp này thì cuộc sống trở thành nghèo đói và luôn bị người hãm hại lại (ngọn lửa của cây đèn thứ hai).

Nếu nói Thượng đế là đấng toàn năng, toàn thiện thì tại sao Ngài lại sáng tạo cái thế giới con người đầy dẫy tội lỗi đau thương? Tại sao Ngài tạo ra biết bao nhiêu cảnh tai trời ách nước, tàn phá, giết hại chúng sinh? Như thế thì lòng bác ái của Ngài ở đâu? Vậy sự cầu nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa, chiến tranh hay khổ đau của con người được không? Vì thế Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu thần linh trong cuộc sống của con người. Theo tinh thần Phật giáo thì chính con người phải tự mình giải quyết những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc hay khổ đau của chính mình. Chiến tranh hay hòa bình là do con người quyết định chớ không dính dấp gì tới Phật trời cả. Nếu con người biết sống khoan dung độ lượng, biết thương yêu nhau thì họ biến chiến tranh thành hòa bình, ngược lại nếu các nhà lãnh đạo chạy theo những tham vọng đen tối thì từ hòa bình thành chiến tranh giết chóc thế thôi. Thêm nữa, do sự chuyển động của trái đất, của núi lửa, của những cơn gió lốc…theo định luật vô thường: sinh, thành, hoại, diệt đã tác hại con người. Nói chung thì đó cũng là do lòng tham của con người phá hũy môi trường sống của chính mình qua chiến tranh, qua những cuộc thí nghiệm nguyên tử, qua tàn phá thiên nhiên, đốt rừng tiêu hủy cây cối…tạo nên những ảnh hưởng dây chuyền nguy hiểm cho nhân sinh. Con người cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà đi ngược lại với thiên nhiên nên hàng ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng biển hàng triệu thứ từ kim cương đến vàng, bạc, nhôm, sắt, khí đốt, dầu hỏa rồi lại thải ra hàng triệu tấn chất độc tác hại gây ra lầm than qua thiên tai, động đất, sóng thần, bảo lụt, hạn hán…Vì thế con người không thể tin rằng có một Thần linh nào đó có thể nhẫn tâm trừng phạt, hủy diệt loài người và gây đau thương chết chóc tang tóc khắp mọi nơi.

Mới đây nhất, có trận động đất rất lớn xảy ra vào ngày 25 tháng 4 năm 2015 ở Nepal với cường độ 7.8 Richter scale cách thủ đô Kathmandu 80 cây số về phía tây bắc sát hại trên 8000 người và trên 18,000 người bị thương. Sau đó kéo theo hàng loạt những cơn động đất nhỏ gieo rắc biết bao kinh hoàng cho mọi người. Hơn hai tuần sau đó, vào ngày 12 tháng 5 năm 2015 động đất trở lại với cường độ 7.3 về phía đông, cách thủ đô Kathmandu 83 cây số gây thêm nhiều thiệt hại nữa. Nepal tuy là nơi đản sinh của Đức Phật, nhưng Phật giáo chỉ chiếm khoảng 20% và 80% dân số còn lại thuộc về Hồi giáo. Theo tục lệ của đạo Hồi, cứ mỗi 5 năm, Nepal lại tổ chức lễ tế thần và 250 ngàn con vật bị giết hại trong lễ hội này, phần lớn là trâu, dê và chim chóc. Lễ tế thần năm 2014, họ đã sát hại hơn 6000 con trâu vô tội, đầu lìa cổ và máu nhuộm đỏ cả một cánh đồng.

Một thời, Thái tử Tất Đạt Đa đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Ta La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn (Ấn Độ giáo ngày nay) đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần. Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn, và giảng giải cho mọi người nghe rằng:

- Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống.

Ngài nói với một giọng rất đầy thương cảm:

- Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình. Xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các Ngài đều thiện thì các Ngài sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế. Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được. Nhưng dầu thiện dầu ác, các Ngài cũng không tha tội cho ai. Tội của người nào thì người ấy phải chịu. Đấy là luật nhân quả, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm họa.

Các thầy Bà La Môn nghe xong đều giật hết lễ phục mang trên mình, với hai bàn tay chùi chưa sạch máu. Mấy trăm con cừu được thả ra, vui vẻ chạy rong trên đường phố như vừa thoát khỏi địa ngục mà sự u mê của con người mới tạo ra. Sau đó, vua sai khắc trong đá và chạm vào gỗ đạo dụ này: "Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không ai được làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sinh cùng chung một sự sống. Và nên nhớ rằng: những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương". (Trích Giáo Án Đức Hiếu Sinh).

Khi liễu ngộ như thế con người không phải sợ hãi thần linh, tôn thờ thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa. Phật Giáo không phải là một con đường siêu hình, cũng không phải là một con đường nghi thức. Đối với Phật giáo, Đức Phật Thích Ca là đấng đạo sư, là người đã tìm ra con đường giải thoát vì thế những ai muốn giải thoát ra khỏi đau khổ trầm luân hãy đi theo con đường mà Ngài đã đi qua. Đức Phật chỉ là người dẫn đường, còn đi hay không là do chúng sinh và muốn có kết quả thì chúng sinh phải tự mình làm chủ, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chớ không nương nhờ ở Đức Phật hay bất cứ đấng thần quyền nào.

Trong cuộc sống, ai cũng mong mình sẽ được điều này, được điều khác. Người giàu thì mong sẽ giàu hơn, người nghèo thì mong mình được như người giàu… để rồi họ tìm về chốn tâm linh để cầu xin. Sự cầu xin này cũng như là ăn mày với các đấng thần linh, mà họ không hiểu các đấng thần linh này có giúp cho họ được không?

Chuyện kể về một bác nông phu, kéo xe chở hàng rất nặng nhọc. Vào một ngày, bác kéo xe quá nặng nên bị đổ ra đường. Buồn rầu, bác ngồi xuống và nhìn thấy dòng người đi xe hơi tìm đến cửa chùa làm lễ.

Bác ngồi nghĩ: Ông trời thật không công bằng, người thì sinh ra đã có tất cả, còn kẻ làm lụng vất vả thì chẳng có gì. Sau đó có một bà đến nói: “Ông đã đến cửa Phật sao ông không vào thành tâm kêu cầu mà ngồi đây than thân trách phận”.

Ông lão liền đi vào chùa, ông thấy người ta cầu khấn rất đông, người lớn người nhỏ, kẻ già người trẻ…

Lúc đó ông nghe thầy trụ trì hỏi: Thí chủ lần đầu đến đây phải không? Ông đáp: Vâng! Lần đầu con đến cửa Phật nên không biết kêu cầu thế nào, ra làm sao? Mong thầy chỉ dạy.

Thầy trụ trì hỏi: Thí chủ thỉnh cầu điều gì?

Ông đáp: Con cầu xin Đức Phật ban phát sự công bằng. Con sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bần hàn, không được học hành tử tế. Từ bé đã phải tự mưu sinh. Lớn lên lấy một người vợ nghèo và nai lưng làm lụng như trâu bò để nuôi một bầy con nheo nhóc. Cuộc đời khốn khổ cơ hàn cứ theo con đằng đẵng trong khi có biết bao người khác sinh ra trong một gia đình giàu sang, chẳng cần cố gắng mà vẫn sống suốt đời trong nhung lụa. Như vậy là không công bằng, nếu Đức Phật linh thiêng xin người hãy ban phát cho con một chút may mắn của những người kia”.

Thầy trụ trì hỏi: Những người kia ư!

Ông đáp: Vâng! Chỉ cần nhìn họ là đủ biết họ giàu sang quý phái cỡ nào. Những người nghèo khổ như con không thể hiểu nổi họ làm gì mà giàu sang như vậy.

Thầy trụ trì đáp: Cái đó ta không biết, nhưng khi đã tới đây họ cũng chỉ là ăn mày cả thôi.

Ông ngạc nhiên hỏi: Ăn mày ư thưa thầy!.

Thầy trụ trì trả lời: Đúng! Ăn mày cửa Phật.

Ông vội hỏi: Nhưng nhìn họ giàu sang quý phái, có thiếu gì đâu mà phải đi ăn mày.

Thầy trụ trì chầm chậm trả lời: Sống trên cõi đời này, mấy ai thỏa mãn với những điều mình đang có, không tin thí chủ cứ lại gần họ mà xem.

Khi ông lão vào thì nghe người này xin đừng bị phá sản, người xin khỏi bệnh, người xin có người yêu…

Ông bước ra và nói: Họ cầu xin rất nhiều điều, hóa ra họ toàn là ăn mày thật, con cứ tưởng trên đời này ai cũng hạnh phúc hơn con. Biết đâu được họ cũng có nhiều nỗi khổ đau đến thế, ngẫm ra con còn nhiều điều hơn họ, như sức khỏe, vô tư chẳng hạn. Sau một lúc ngẫm nghĩ khiến ông thức tỉnh lời dạy của Phật:

Ai không bệnh, lợi nhất đời

Ai mà biết đủ là người giàu sang

Ai thành tín là bạn vàng

Và nơi cực lạc Niết bàn là đây. (Pháp Cú 204)

Thầy trụ trì trả lời: Đúng vậy, cuộc đời công bằng với tất cả mọi người, an phận với thực tại và cố gắng hết mình để tự mình hóa giải những khó khăn trong cuộc sống, đó mới là một cuộc đời hoàn mỹ.

Qua câu chuyện, chúng ta có thể thấy rằng: Cuộc đời này ai cũng muốn cầu xin những điều mà mình không có. Họ không thỏa mãn được điều đã có, luôn tìm kiếm những cái cao hơn, ngon hơn, tốt hơn, đẹp hơn… Đôi khi họ cứ nghĩ các đấng thần linh có thể ban phát mà không hiểu rằng, phải cố gắng và làm lụng thì mới có kết quả. Đừng có quá sống trong mộng tưởng mà quên mất thực tại của mình nghĩa là không gieo nhân lành thì làm sao có kết quả tốt?

Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo đổi chác, không phải là đạo ban bố phép mầu và cũng không phải là đạo hứa hẹn. Sự giải thoát giác ngộ hay sự an lạc thanh tịnh Niết bàn thật ra tự chúng sinh đem lại cho mình chớ Phật không ban bố cho ai cả. Vì thế, tuy đạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ và lòng dũng cảm, nhưng nếu con người không tin vào lòng từ bi để thương yêu, ban vui cứu khổ để cứu giúp chúng sinh; vào khả năng phát triển trí tuệ để chứng đạt chân lý ngỏ hầu thấu biết được thật tướng nhân sinh vũ trụ và lòng dũng cảm để vượt qua sóng gió chập chùng mà chiến thắng được vô minh phiền não của mình mà chỉ muốn cầu xin, van vái thần linh để có hạnh phúc thì con đường họ đi chắc chắn “không phải” là đạo Phật.

Vì thế, nếu không có Chánh kiến, sống trong vô minh bất giác lấy khổ làm vui, lấy giả làm thật thì chúng ta thường đối diện với năm tà kiến. Đó là:

-Thân kiến là si mê lầm tưởng cho là thân, tâm là Ta, là Của Ta. Thân, tâm của con người chẳng qua là sự vận hành của ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thân tức là sắc là sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa. Vì thế sự sống con người là sự vận hành của ngũ uẩn chớ không có chi là Ta hay là của Ta cả.

-Biện kiến: Do nhận thức (thấy biết) sai lạc về ngã mà sinh ra hai cực đoan: thứ nhất theo chủ nghĩa thân ta chết là hết , là đoạn diệt, là đoạn kiến hoặc theo chủ nghĩa thân ta chết mà vẫn còn, không mất, không thay đổi, có nghĩa thân ta là thường trụ, là thường kiến. Đối với con đường trung đạo của đạo Phật, vượt lên trên thường và đoạn kiến nghĩa là sinh để rồi diệt, nhưng chết không phải là mất hẳn mà diệt để rồi sinh trở lại, sinh sinh diệt diệt trong thế giới sinh tử luân hồi.

-Tà kiến là tin rằng đời người không có nhân quả và cũng không có thiện ác báo ứng. Tin rằng con người là sản phẩm của Thượng đế, hay mọi việc ở đời đều đã do trời định, đã được Thượng đế an bài sẵn cả rồi. Hoặc là đau bệnh, tai nạn là do ông thần này hành hay bà thánh kia phạt…Tất cả những định kiến đó nhà Phật gọi là tà kiến nghĩa là sống trong tư tưởng sai lầm, mê muội khiến cuộc sống không có định hướng sáng suốt.

-Kiến thủ kiến: Người có thực hành quán chiếu thì dễ dàng thấy rõ Thân kiến, Biện kiến, Tà kiến ở trên là những sai lầm trầm trọng chẳng những đưa con người thấy biết đời bằng ảo giác, nương tựa vào những kiến giải sai lầm biến cuộc đời thêm điên đảo. Tuy nhiên, cũng có người cố chấp, tin tưởng vào những định kiến sai lầm đó, không thể nào phân biệt đúng và sai thì họ đang thực hành kiến thủ kiến.

-Giới thủ kiến: Chữ “thủ” trong kiến thủ kiến và chữ “thủ” ở đây có nghĩa là ôm giữ lấy, bảo vệ lấy, hay bị mắc kẹt vào một cái gì. Dựa theo tinh thần Phật giáo, Giới là kim chỉ nam để con người nương theo đó mà vun bồi đời sống thêm đạo đức nhân bản, làm nền tảng cho giải thoát và phát triển trí tuệ. Tiến trình Tam vô lậu học xác định rõ ràng là nếu không thực hành Giới (chớ không phải giữ giới) đứng đắn thì không bao giờ tâm có thể vào định được. Tâm có an định thì trí tuệ mới phát sinh. Vì thế người tu Phật nếu phá Giới, phạm Giới thì không bao giờ xây được căn nhà giải thoát vì nhà không có nền móng. Ngoài Phật giáo ra, có những tôn giáo đề xướng những giới luật rất hoang đường, vô lý, cực đoan. Thí dụ ở Ấn Độ, người theo Ấn Độ giáo thì tôn thờ bò nên không bao giờ ăn thịt chúng. Ngược lại, người theo Hồi giáo hay Do Thái giáo thì không ăn thịt heo, nhưng có quyền thưởng thức bò bít tết. Vì tin tưởng kỳ dị nên nhà Phật gọi những đức tin đó là giới thủ kiến. Một người giữ giới trường chay, nhưng lòng tham, sân, si không giảm thì không có lợi ích gì, cuộc sống vẫn còn nhiều sóng gió. Ngược lại, một người thực hành giới đứng đắn nghĩa là họ lúc nào cũng tỉnh thức chánh niệm nghĩa là bất cứ lúc nào cũng ý thức và kiểm soát thân, khẩu, ý của mình cho nên cuộc sống nhiều hạnh phúc, an vui, tự tại.

Chính năm tà kiến nầy làm cho tâm tính con người tối tăm mù quáng và đắm chìm trong vẫn đục.

Tóm lại, Chánh kiến là thấy biết mọi sự đúng như thật mà duy chỉ có Tứ Diệu Đế mới giải thích mọi sự đúng như thật cho nên trong Bát chánh đạo có Tứ Diệu Đế và ngược lại.

Chánh kiến là một lối sống rất thực tế cho nên người học Phật nên thực hành và phát triển trong mọi hành tác của cuộc sống để gạt bỏ những thấy biết sai lầm và gặt hái những lợi ích cho nên Chánh kiến là con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc. Chánh kiến còn là con đường giúp hoàn thiện về đạo đức, tâm linh và tri thức qua sự thức tỉnh từ trong nội tâm của mỗi người. Sau cùng, vai trò quan trọng nhất của Chánh kiến giúp mở mang và phát triển trí tuệ, khai tâm mở tánh, thấy biết tất cả mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ như thật đưa đến giải thoát Niết bàn.

Thêm nữa, trong Kinh Chánh Kiến, Đức Phật dạy rằng:

-Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm. Vì vướng vào tri giác sai lầm đó cho nên mới kẹt vào hoặc “ý niệm có”, hoặc “ý niệm không.” Này Tán-đà Ca-chiên-diên! Phần lớn người đời đều bị kẹt vào chấp mắc và bảo thủ. Người không bị kẹt vào chấp và thủ thì không còn nắm giữ và vọng tưởng về cái ngã nữa. Người ấy biết cái khổ, chẳng hạn, khi có điều kiện phát sinh thì nó phát sinh, khi hết điều kiện tồn tại thì nó tiêu diệt. Người ấy không còn nghi hoặc gì nữa cả. Cái thấy của người ấy không do ảnh hưởng của kẻ khác mà có, trái lại do chính người ấy tự đạt được. Cái thấy ấy gọi là chánh kiến. Đó là cách trình bày chánh kiến của Như Lai. 

-Người có tri kiến chân chính khi quán sát về sự sinh khởi của thế gian không thấy thế gian là không. Người có tri kiến chân chính khi quan sát về sự hoại diệt của thế gian không thấy thế gian là có. Này Tán-đà Ca-chiên-diên! Chấp có là một biên kiến, chấp không là một biên kiến khác. Như Lai lìa hai biên kiến đó mà thuyết pháp một cách trung đạo. Nghĩa là: “Cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì có cái kia sinh.” Từ vô minh mà có hành, từ hành mà có thức, từ thức mà có danh sắc, từ danh sắc mà có lục nhập, từ lục nhập mà có xúc, từ xúc mà có thọ, từ thọ mà có ái, từ ái mà có thủ, từ thủ mà có hữu, từ hữu mà có sinh, từ sinh mà có lão tử, và khổ đau chồng chất thành khối. 

-Nếu vô minh không còn thì hành không còn, hành không còn thì thức không còn, thức không còn thì danh sắc không còn, danh sắc không còn thì lục nhập không còn, lục nhập không còn thì xúc không còn, xúc không còn thì thọ không còn, thọ, không còn thì ái không còn, ái không còn thì thủ không còn, thủ không còn thì hữu không còn, hữu không còn thì sinh không còn, sinh không còn thì lão tử không còn và nguyên khối khổ đau chồng chất kia bị tiêu diệt. 

Trí tuệ và vô minh là hai kẻ tử thù không đội trời chung cho nên nếu con người sống trong vô minh bất giác chạy theo tham đắm dục tình thì suốt đời không bao giờ thấy được ánh sáng trí tuệ. Ngược lại, nếu phá được màn vô minh hắc ám thì trí tuệ sẽ hiển hiện ra ngay cũng như mây tan thì trời sáng, nước trong trăng hiện vậy thôi. Trí tuệ không phải ở trên trời rơi xuống, cũng không phải do Thượng đế hay thần linh nào ban cho, mà là do tự mình phát triển, theo con đường giải thoát do Đức Phật vạch ra. Vì thế khi một người trực nhận được chân lý thì kinh điển thường gọi là “Con mắt của sự thật”.

2)Chánh tư duy (Perfected Emotion or Aspiration or Right Thought): là  tư duy đúng, phù hợp với đạo đức nhân bản và phù hợp với giáo lý duyên khởi. Chánh tư duy là tư duy chân chính chớ không phải là tư duy chín chắn theo định nghĩa thông thường của cuộc đời. Tư duy chín chắn là tư duy biết đắn đo, nghĩ trước nghĩ sau, có trong có ngoài, thận trọng, không nông nổi, không bộp chộp và chu đáo. Người có tư duy chín chắn thì tránh lỡ lầm, không có thái độ bồng bột, vội vã, hấp tấp và cẩn trọng trong mọi cư xử của cuộc sống đem lại nhiều kết quả ích lợi cho mình và cho đời. Tuy nhiên tư duy chín chắn chỉ là một phần nhỏ của Chánh tư duy bởi vì nó chỉ đáp ứng để thỏa mãn những hạnh phúc tạm bợ của  cuộc sống bình thường. Mặc dầu tư duy chín chắn giúp con người tránh những quyết định sai lầm, có kết quả tốt, nhưng cho dù kết quả có tốt cách mấy thì nó vẫn đưa con người đi lang thang lẩn thẩn không có lối thoát trong quỷ đạo của tham, sân, ai, ái dục mà kéo theo đó là những phiền não, khổ đau. Thông thường muốn làm giàu thì có khi phải gian dối, cạnh tranh bất chánh, lợi mình hại người cho nên người tư duy chín chắn đâu nhất thiết phải là người tư duy chân chính. Trên thế giới hiện nay có biết bao người hằng ngày thực hành tư duy chín chắn, nhưng họ vẫn còn tin vào tà kiến, mê tín dị đoan. Họ tin rằng thế gian vũ trụ này được tạo dựng bởi Thượng đế và số mệnh hay định mệnh của con người đã được an bài. Vì tin rằng con người là sản phẩm của Thượng đế cho nên có người Chúa đặt vào hoàn cảnh giàu sang, có cuộc sống sung sướng, còn người khác bị lâm vào những hoàn cảnh bần cùng, nghèo đói, cả đời tận tụy không thấy ánh sáng mặt trời. Dầu ở trong hoàn cảnh nào thì con người không được cải ý Chúa mà chỉ có thể cầu nguyện để cho Chúa thương xót mà thay đổi hoàn cảnh cho ta. Ngay cả những người có số phận nghiệt ngã cũng không nên than trời trách phận. Ngược lại, Chánh tư duy cho chúng ta thấy biết rằng thế gian nhân sinh vũ trụ này là do trùng trùng duyên khởi tác tạo từ vô thỉ đến vô chung chớ không do bất cứ bàn tay mầu nhiệm nào. Từ khi đạo Phật ra đời, Đức Phật phủ nhận con người là do Thượng đế sinh ra cho nên đạo Phật tuyệt đối phủ nhận linh hồn (Soul) mà chỉ có Thức (Mind) (hay Consciousness). Thức còn gọi là tâm, là cái biết biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm lý và sinh lý cho nên con người có thể cải đổi cho tâm được trong sáng và từ đó cuộc sống sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Cao hơn nữa là có giải thoát mà Bát chánh đạo là con đường hữu hiệu nhất để đạt đến cứu cánh tối thượng đó.

Không có tôn giáo nào trên thế giới từ ngàn xưa cho đến ngày nay và mãi mãi về sau phát huy tinh thần bình đẳng như đạo Phật. Hãy lắng nghe Đức Phật nói với quốc vương Pasenadi (Ba-tư-nặc) của nước Kosala khi Ngài thu nhận Sunita, người làm nghề hốt phân vào tăng đoàn cách nay trên 2500 năm trong một xã hội có quá nhiều kỳ thị giai cấp:

Đại vương! Trong đạo lý giải thoát, không có sự phân biệt giai cấp và chủng tính. Trước con mắt người giác ngộ, tất cả mọi chúng sinh đều bình đẳng. Máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, tất cả chúng ta đều là con người. Ta phải tìm cách để mọi người có cơ hội đồng đều và vươn tới và thực hiện hoài bão của mình cũng như hoàn thành nhân phẩm của mình, vì vậy cho nên tôi đã đón nhận Sunita vào giáo đoàn khất sĩ”. 

Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng để san bằng mọi bất công và xóa tan mọi đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Chỉ có đạo Phật nâng cao nhân phẩm của con người và khuyến khích họ phát triển tiềm năng trí tuệ của mình đến chỗ tột cùng. Ngày nay, ở những quốc gia văn minh tiến bộ, có rất nhiều khoa học gia, bác sĩ, kỹ sư, học giả, triệu phú, tỷ phú…xuất thân từ những hoàn cảnh cơ hàn, thiếu thốn, nhưng với ý chí vươn lên cộng thêm sự nỗ lực tích cực phấn đấu và sau cùng với cánh cửa rộng mở rất bình đẳng của xã hội, họ đã thành công và đạt được những ước mơ to lớn trong cuộc đời của họ. Ở Hoa Kỳ, sau thời gian dài tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da màu, một thành quả lớn nhất là năm 2008, Barack Hussein Obama, người da màu đầu tiên trở thành Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ. Ngược lại, tôn giáo thần quyền, Thượng đế là tất cả, có quyền ban vui hay giáng họa cho con người. Con người phải khuất phục vâng lời chớ không được quyền cãi lại. Vì thế nếu nương vào Thượng đế hay các vị thần linh thì con người sẽ rơi vào chủ nghĩa định mệnh khiến họ trở thành thụ động, tiêu cực thiếu sức phấn đấu vươn lên trong cuộc sống và đặc biệt nhất là trái với luật nhân quả của thế gian vũ trụ. Nếu không thấu hiểu rõ ràng luật nhân quả, con người luôn sống trong lo sợ, mê tín mù mờ và dĩ nhiên họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên cũng như những biến đổi tâm linh qua sự mê tín dị đoan. Tin tưởng như thế Đức Phật gọi là tà kiến và tư duy như thế là tà tư duy. Thí dụ, một người có thể làm rất nhiều việc lành, nhưng họ luôn đón nhận những sự bất hạnh đắng cay cho cuộc sống hiện tại khiến họ đâm ra cay đắng với cuộc đời và không tin vào luật nhân quả. Thật ra luật nhân quả rất công bình, không thiên vị hay bỏ sót một ai. Những nỗi bất hạnh mà họ đang thọ nhận bây giờ chính là những hậu quả mà họ đã gieo trong quá khứ vì nhân nay đã trổ thành quả. Trong khi đó, những nhân thiện lành họ đang gieo cần thời gian để trở thành quả cho nên trong tương lai chính họ sẽ thọ lãnh những kết quả thiện lành đó bởi vì nhân cần thời gian để trổ thành quả mà nhà Phật gọi là dị thời, dị thục. Hãy quan sát khu vườn sau nhà: Những cây lê, cây xoài, cây mít bắt đầu đơm hoa kết trái vì nhân nay đã trổ thành quả trong khi đó những luống đất trồng ngò, trồng mướp, trồng bí, trồng bầu thì hạt giống vẫn chưa đâm chồi vì nhân chưa thành quả. Nhân quả áp dụng vào trong mọi lãnh vực của cuộc sống từ sinh lý đến tâm lý. Người thấu hiểu nhân quả là người biết thức tỉnh, biết phòng ngừa và cẩn trọng trong tất cả mọi tác động của thân, khẩu, ý. Nếu biết thay đổi cách sống cho thân, tâm được vui khỏe (nhân) thì chắc chắn sẽ ít bệnh tật (quả). Muốn giảm căng thẳng, lo lắng buồn phiền (quả) thì nên đơn giản cuộc sống và thực hành sống đời đạo đức, ăn ngay nói thẳng (nhân). Nói lời ái ngữ (nhân) thì người thương kẻ mến (quả). Khi tâm đang oán hận ai (nhân) thì làm sao có được nụ cười thân thiện (quả).

Khi thấu hiểu luật nhân quả thì vấn đề có định mệnh hay không là tùy nơi chúng ta. Nếu con người biết tu tập những phương pháp để mở rộng nhận thức tâm linh tức là có Chánh kiến để tự mình thay đổi cuộc đời của mình thì không có số mệnh hay định mệnh chi cả. Ngược lại, nếu con người thụ động đổ thừa cho số mạng hoặc ngồi chờ một phép lạ hay sự ban bố của Thượng đế thì lúc đó định mệnh có thật vì chúng ta không tận dụng khả năng thay đổi cuộc sống của chúng ta. Bây giờ, dựa theo tinh thần Phật giáo, con người tự mình làm chủ mạng sống của mình, chính mình ban vui hay giáng họa cho mình chớ Phật trời không can dự vào căn nghiệp của mình được. Vì thế, muốn có hạnh phúc, an vui, tự tại con người chỉ cần sống đời đạo đức nhân bản, luôn kiểm soát thân, khẩu, ý mà con đường thiện xảo nhất là thực hành đứng đắn Bát chánh đạo.

Ở phần trên, khi chúng ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài nghĩa là mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm và thân cảm xúc thì tất cả những cái thấy, nghe, hay, biết đó được đưa vào tâm. Thế giới bên ngoài rất phức tạp, có quá nhiều ảo ảnh của phù du nhân thế cho nên Đức Phật dạy chúng sinh trước hết phải thanh lọc bớt những tư tưởng, ý niệm mà tâm đang tiếp nhận. Vì thế thực hành Chánh kiến với mục đích kiểm soát để loại bỏ bớt những thấy, nghe, hay, biết sai lầm khiến tâm bất tịnh và chỉ tiếp nhận những thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh và đúng với sự thật khách quan. Giai đoạn thứ nhì là khi tư duy thì mọi tác ý của tâm không vướng mắc vào tư duy tham đắm, tư duy sát hại, tư duy sân hận và tư duy si mê bởi vì tất cả mọi phiền não khổ đau đều có gốc rễ trực tiếp từ bốn độc tố tham, sân, si và ái dục. Do đó, nếu nỗ lực để có thể giải phóng bốn tà tư duy đó thì gọi là Chánh tư duy. Vì thế Chánh tư duy không những giúp chúng ta có cuộc sống nhẹ nhàng, hạnh phúc thoát ly ra khỏi quỷ đạo đau khổ tham, sân, si mà nó là nền móng vững chắc nhất để có lời nói và hành động  phù hợp với đạo đức nhân bản và có giải thoát bởi vì lời nói và hành động đều phát xuất từ suy nghĩ trong tâm.

Cái tuyệt vời của Bát chánh đạo là có cái trước mới có cái sau, nhưng cái sau củng cố lại cho cái trước khiến cho hành giả càng thực hành thì càng thấu tỏ và thực hành càng thâm sâu. Ở đây Chánh kiến giúp hành giả thấy biết chân chính, đúng với đạo đức nhân bản, đúng với giáo lý Duyên khởi và phù hợp với con đường giải thoát. Sau đó Chánh tư duy suy nghĩ cũng đúng theo những cái thấy biết ở trên. Khi thực hành Chánh tư duy thuần thục nghĩa là tâm đã thực sự thấm thấu những điều thấy biết chân chính thì bây giờ cái nhìn sẽ sâu sắc và tinh tế hơn. Cứ thế mà tiếp tục tiến trình thanh lọc thân tâm cho đến khi đạt đến mục đích sau cùng là giải thoát, có trí tuệ. Các nhánh khác tác dụng cũng giống y như vậy.

Nếu muốn có một nhân cách cao thượng thì ngay bây giờ chúng ta hãy bồi dưỡng những tư tưởng thiện lành và loại trừ những tư tưởng thấp hèn, luôn trau dồi đạo đức cho bản thân. Luôn tư duy trước khi nói và hành động để không làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài vạn vật khác:

-Đánh đổ tư tưởng về dục lạc: hằng ngày những tư tưởng về dục lạc như  sắc, tài, danh, lợi dính liền với sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp làm cho tâm con người điên đảo. Đức Phật không phủ nhận sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm dịu có vị ngọt làm say đắm lòng người. Nhưng dục lạc lúc nào cũng có hai mặt nghĩa là ngoài vị ngọt hấp dẫn đắm say đó, dục lạc còn có bộ mặt thật thứ hai. Đó là nếu muốn thỏa mãn những dục vọng, hạnh phúc đam mê thì con người phải khổ công tạo dựng, cố gắng làm lụng vất vả, trải qua biết bao nhọc nhằn, nhưng khi có được hạnh phúc trong tay thì hạnh phúc vỗ cánh bay xa vì sự tạm bợ vô thường của tạo hóa. Thế thì hạnh phúc chẳng khác nào như một chiếc bóng không bao giờ nắm giữ bằng đôi tay. Hạnh phúc không bao giờ dừng lại vì khi nắm được cái gọi là hạnh phúc thì nó không còn là hạnh phúc nữa, trở thành nhàm chán và cứ thế chúng ta đi tìm hạnh phúc mới. Hạnh phúc mới thay thế hạnh phúc cũ cho nên cuộc tìm cầu hạnh phúc xem ra không bao giờ tận. Vì thế càng chạy theo dục lạc thì càng tự chuốc khổ vào thân.

Nếu nói rằng Tham là một trong những gốc của bất thiện thì làm sao con người có thể sống được nếu không còn ham muốn gì cả?  Ngày nay chúng ta sống trong một thế giới văn minh tiến bộ đầy đủ mọi thứ về vật chất thì chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa ham muốn và nhu cầu. Sống trên đời chúng ta cần có những nhu cầu cần yếu như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe di chuyển, máy vi tính…để cho đời sống được tiện nghi. Ngược lại ham muốn chỉ xuất hiện khi nào chúng ta muốn thỏa mãn những đòi hỏi quá đáng của thị dục, có nghĩa là vượt ra khỏi hàng rào tri túc. Đây là động lực chính làm cho con người đau khổ khi những ước muốn của mình không được thỏa mãn, hay phải nhắm mắt đi tìm những hạnh phúc mới. Khi nhìn thấy rõ như thế thì người tu Phật không hề bị bắt buộc phải xóa bỏ tất cả mọi tiện nghi vật chất. Họ có thể có tất cả những gì họ cần nhưng luôn luôn phải biết đâu là nhu cầu cần thiết và đâu là lòng ham muốn, tham lam.

             Bây giờ Chánh tư duy giúp chúng ta tư duy đến tính vô thường, tạm bợ, mau tan rã của tất cả các pháp thế gian. Chúng ta suy nghĩ lời Đức Phật ví sự tan hợp của pháp thế gian như là giấc mộng, như trò huyễn hóa, như bọt nước, như ảo ảnh, như sương mai, như ánh chớp trên không mà thôi. Khi tư duy như thế thì dần dần chúng ta tách ra khỏi sự trói buộc của dục lạc thế gian và cuộc sống sẽ trở thành an vui tự tại. Vì thế một triết gia Tây phương có câu:”Muốn có được những hạnh phúc cao thượng thì hãy lánh xa những lạc thú đê hèn”.

-Đánh đổ tư tưởng sân hận: Trong  Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy rằng:” Họ nhục mạ ta, đánh đập ta, chiến thắng ta và cướp đoạt của ta. Người nào hằng ôm ấp những tâm niệm như thế thì oán hận không bao giờ nguôi. Còn kẻ nào thoát ly được những tâm niệm ấy thì oán hận ắt phải tiêu tan”. Do đó muốn an vui thì đừng nuôi dưỡng trong tâm những tư tưởng sân hận. Phật lại dạy thêm: ”Phải dứt bỏ sân hận, phải tránh xa ngã mạn và đoạn lìa mọi ràng buộc thì phiền não không thể chi phối được”. Nói thế thì những người ôm ấp tư tưởng sân hận là tự họ đang đốt cháy lấy mình bằng chính những tư tưởng sân hận đó trước khi họ chuyển sang hành động để ám hại kẻ khác. Người sống trong hận thù luôn bị dày vò, đau khổ, lẻ loi và đơn độc. Đó là chưa kể hận thù, lòng sân giận, sự tranh giành, thắng thua, lòng ganh tỵ, ganh ghét, đố kỵ, tự ty, mặc cảm,...sẽ làm giảm nhân cách và biến cuộc sống nhiều sóng gió, đau thương. Muốn loại những tư tưởng sân hận thấp hèn nầy thì con người phải rèn luyện đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì chỉ có lòng từ bi mới xóa bỏ được hận thù. Có như thế thì tâm hồn của chúng ta sẽ cởi mở, trong lành và mát dịu.

"Lửa nào sánh lửa tham?

Ác nào bằng sân hận?

Khổ nào sánh khổ uẩn,

Lạc nào bằng tịnh lạc."  (Pháp Cú 202)

Thậm chí, nếu có người nói xấu Đức Phật, giáo Pháp của Ngài hay ngay cả giáo đoàn do Ngài sáng lập, Đức Phật hằng khuyên hàng môn đệ không nên giận dữ, bất mãn hay không vui lòng. Đức Phật dạy rằng: “Nếu các người giận dữ, bất mãn, hay không vui lòng, chẳng những các người tự đặt mình vào chỗ hiểm nguy có thể mất cả nền tảng đạo đức tinh thần mà các người còn không thể xét đoán đúng mức lời chỉ trích có giá trị hay không". Quả thật là sáng suốt. Tuy nhiên, để trả lời những lời chỉ trích bất công, vô căn cứ, Đức Phật lại dạy rằng: “Cũng như người kia ngửa mặt phun nước miếng lên trời. Nước miếng không hẳn làm dơ trời, mà chỉ rơi xuống người ấy".

-Đánh đổ tư tưởng hại người: Con người vì quá chấp ngã và ngã sở nên sẵn sàng tiêu diệt, hãm hại những kẻ nào đụng đến quyền lợi và danh dự của mình. Thế thì nếu mình biết tự ái, biết lo bảo vệ hạnh phúc và sự sống của mình thì tại sao không tôn trọng hạnh phúc và sự sinh tồn của kẻ khác? Do đó, nếu ta không muốn đau khổ thì đừng bao giờ tìm hạnh phúc trên sự đau khổ của người. Vì thế Đức Phật lại dạy rằng:”Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng đều sợ chết. Do đó không nên giết hại và cũng không nên bảo ai giết hại mà nên thực hành tâm hỷ xả, bao dung để diệt trừ tâm niệm hãm hại kẻ khác”.

Ngày nay thế giới truyền thông hiện đại như radio, truyền hình và đặc biệt là internet đang cao trào xâm chiếm vào trong đời sống của tất cả mọi gia đình. Nếu chúng ta mở tung sáu cánh cửa (lục căn) để tiếp nhận biết bao luồng tư tưởng thì chắc chắn tâm không yên ổn. Muốn nổi tiếng, ăn khách và hái nhiều tiền, các nhà sản xuất đã không ngần ngại tung ra thị trường rất nhiều phim ảnh, âm nhạc, kịch nghệ, các game giải trí…với nội dung đầy bạo lực, đâm chém, sát hại, tình dục, lời lẽ thô tục thiếu văn hóa…khiến cho người xem nó đang sống trong tà tư duy. Khi các hạt giống bất thiện đó đã ăn sâu vào trong tiềm thức thì một ngày nào đó khi đối diện với hoàn cảnh tương tự ở ngoài đời, những hạt giống bất thiện đó sẽ tác động khiến chúng ta có những lời nói hay hành động tương xứng nguy hại đến cho người và cho mình. Tệ hại hơn nữa, chúng ta đồng tình với cách sống đó khiến cho tâm chọn một hướng đi không sáng suốt có thể biến cuộc đời vào một khúc quanh đen tối. Vì thế tiến trình giải phóng tà tư duy để đưa tâm trở về trạng thái bình yên thoát khỏi mọi vướng mắc của tham, sân, si và ái dục thì gọi là Chánh tư duy. Tất cả mọi hiện tượng trong thế gian này luôn có hai mặt cho nên người thực hành Chánh tư duy luôn cẩn trọng trong tư duy của mình để thấy rõ bộ mặt thật của hai khía cạnh cuộc đời trước khi đi vào kết luận chớ không vội vàng tin vào phía này hay phía kia cho nên cuộc sống sẽ tránh rất nhiều sai lầm mà nguyên nhân chính vẫn là dựa vào chủ quan định kiến.

Tư tưởng thì vô cùng vô tận nhưng chính Đức Phật đã gom lại 10 tư tưởng chính để giúp chúng sinh dễ dàng tư duy quán chiếu. Đó là:

-Vô thường tưởng: Thế gian, vạn hữu là vô thường. Khi chúng ta suy nghĩ sự sinh diệt của thân và tâm là để giải phóng tư tưởng ra khỏi các vọng chấp.

-Khổ tưởng: Có thân là có khổ. Sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, chết khổ và bao nhiêu phiền muộn, bất lợi, uất ức, phiền não…làm cho con người không được an vui tự tại.

-Vô ngã tưởng: Không có vật thể nào trên thế gian nầy mà tự nó có thể sanh tồn và phát triển mà không cần nhân duyên hòa hợp kể cả cái Ta của chúng ta. Vì thế vạn hữu là vô ngã. Nhờ suy tưởng như thế mà dần dần chúng ta thoát ra khỏi chấp ngã và ngã sở để đi đến chỗ tự tại vô ngại.

-Yếm ly thực tưởng: tư tưởng không vướng bận trong việc mưu sinh. Chính Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo phải tiết độ trong việc ẩm thực, bởi vì “ăn để sống chớ không phải sống để ăn”. Suy nghĩ như thế là để chúng ta không còn lệ thuộc vào vật chất một cách quá đáng. Thật ra con người từ cổ chí kim, từ Đông qua Tây có chém giết lẫn nhau cũng vì miếng cơm manh áo, tức là tranh giành ảnh hưởng kinh tế. Như thế chúng ta phải xem ăn uống như là phương tiện chớ đừng đặt nó làm mục đích của cuộc sống bởi vì cứu cánh của đời sống phải là cái gì cao thượng hơn.

-Dục lạc tưởng: là Tham-Sân-Si mà đó là kết quả của vô minh và ái dục. Ngoài ra Đức Phật cũng dạy rằng:”chúng sinh bị chi phối bởi tám pháp thế gian là được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, được khen, bị chê, được vui, bị khổ. Người nào có thể tự mình giải phóng tư tưởng ra khỏi những căn bản bất thiện trên thì chắc chắn sẽ được tự do, giải thoát.”

Lửa tham ghê lắm ai ơi!

Hận sân cũng vậy, đốt người, đốt ta!

Lưới nào bằng lưới si mê,

Sông nào sánh được ái hà sông sâu?

(Pháp Cú 251)

-Tử tưởng: Có sanh tất có ngày chết. Vì đã thông hiểu ngũ uẩn là Không nên con người không tham sống hay sợ chết. Sống thì an vui tự tại, còn chết thì bình thản, nhẹ nhàng nghĩa là sinh thuận, tử an vậy.

-Đa quá tội tưởng: đây là nói về thân kiến, có nghĩa là quá quý trọng thân xác và bảo vệ nó với bất cứ giá nào. Chính Đức Phật dạy phải giữ gìn cho thân thể khỏe mạnh để dễ dàng tu niệm mà phát sanh trí tuệ chớ Đức Phật không bao giờ dạy chúng sanh phải quý trọng thân xác của mình bao giờ. Một người khỏe mạnh có thể hy sinh thân mình cho nghĩa cử vị tha cao đẹp, ngược lại người quá quý trọng xác thân có thể hãm hại kẻ khác để mình được vinh thân phì gia.

Nhìn kia! thể xác mê hồn

Một đống thịt thối, một hòm đớn đau!

Bận tâm tính chuyện đâu đâu

Có chi bền vững mà cầu trường sanh?

Thân này sẽ bị suy già

Thường hay tật bệnh, lại hòa uế nhơ.

Mỏng manh mạng sống từng giờ

Tử thần bên cửa, đợi chờ mang đi.

(Pháp Cú 147-148).

-Ly tưởng: là xuất ly tam giới để được giải thoát giác ngộ.

Trăm năm sống có ích gì

Buông lung, phóng dật, ác tri, ác tà!

Một ngày trong cõi người ta

Giới định, thiền tuệ - thật là tốt hơn.

(Pháp Cú 110).

-Diệt tưởng: là nuôi hoài bảo tâm niệm tận diệt mọi phiền não khổ đau.

Khéo thay! tu tập giác chi!

Lành thay! chánh hạnh, nhiếp trì bền tâm.

Người không ô nhiễm dục trần

Sống đời sáng chói, Niết-bàn ở đây.  (Pháp Cú 89).

-Vô ái tưởng: Cuối cùng là giải phóng tư tưởng ra khỏi ái dục. Phật lại dạy rằng: ”Ái dục sinh ra sầu muộn, ái dục sinh ra lo sợ. Người đã hoàn toàn dập tắt ái dục thì sẽ không còn sầu muộn và lo sợ”. Thật vậy, ngày nào tư tưởng của chúng ta còn bị ảnh hưởng ái dục thì ngày đó chúng ta chưa thể tự tại vô ngại được.

Người đắm say ái dục

Tự lao mình xuống dòng

Như nhện sa lưới dệt.

Người trí cắt trừ nó,

Bỏ mọi khổ, không màng. (Pháp Cú 347)

Bây giờ chúng ta hãy tự đặt cho mình một câu hỏi rằng: “Phải chăng thay đổi cách tư duy thì cuộc đời sẽ đổi thay?

Không cần biết trong tâm của chúng ta xuất hiện tư tưởng hay suy nghĩ gì, mắt thấy gì, tai nghe gì. Người thực hành Chánh tư duy luôn phải tư duy chuyển hóa tất cả những ý nghĩ xấu ác thành tốt và thiện, tiêu cực thành tích cực, người xấu ác thành người tốt thiện, bi quan thành lạc quan, nghi ngờ thành tin tưởng, sân giận thành thương yêu và tha thứ, khinh bỉ thành tôn trọng, buồn khổ thành an vui, thất bại thành những bài học kinh nghiệm sống,... Biết tư duy chuyển hóa là biết thay đổi cách nhìn, cách sống thì cuộc đời sẽ có nhiều hạnh phúc và nhiều an vui, tự tại hơn.

Cuộc đời là do chính chúng ta tự tạo dựng, hạnh phúc hay khổ đau cũng chính do tự chúng ta gieo. Tại sao chúng ta không phản quang tự kỷ để tự nhìn lại những điều có liên quan đến hành vi, ứng xử của mình và làm thế nào để chấp nhận những điều mà chúng ta đang phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày? Vì thế gian này là vô thường, vô ngã thì tại sao mình phải ôm giữ bên mình những điều làm chúng ta đau khổ? Hãy buông bỏ những điều không cần thiết mà chúng ta vẫn luôn cố níu giữ và cố gắng thay đổi và từ bỏ tất cả những thứ đang trói buộc chúng ta cũng như người đang bơi trút bỏ hết những tảng đá đè nặng trên lưng:

-Hãy từ bỏ lối suy nghĩ rằng bạn luôn luôn đúng: Vì cố chấp, xem nặng bản ngã cho nên có rất nhiều người không thể chấp nhận mình sai và luôn cho rằng mình đúng, ngay cả khi điều này có thể làm tan vỡ một mối quan hệ tuyệt vời, và gây ra nhiều căng thẳng cho bản thân và cho cả những người khác. Bất cứ khi nào bạn tranh luận về việc ai đúng, ai sai, bạn hãy tự hỏi: Mình muốn chứng minh là mình đúng hay mình muốn làm người tốt?  Mình được gì ở đây? Có phải là cái tôi của bạn quá lớn khi bạn không thể từ bỏ được?

-Hãy từ bỏ việc đổ lỗi cho người khác: Hãy từ bỏ việc đổ lỗi cho người khác về những gì bạn có hoặc không có, về những gì bạn cảm thấy hay không cảm thấy. Vì tâm luôn hướng ngoại nên con người chỉ nhìn thấy lỗi của người mà không bao giờ thấy lỗi của mình. Đừng lãng phí những phẩm chất của mình và hãy cố gắng chịu trách nhiệm đối với cuộc sống riêng của mình vì thế gian này không có ai toàn thiện hay toàn ác cả. Không thấy lỗi của người mà thấy lỗi của mình thì giá trị cuộc sống sẽ tăng lên, nâng cao nhân cách.

-Hãy từ bỏ những suy nghĩ tiêu cực: Làm thế nào khiến người khác không bị tổn thương vì những thái độ tiêu cực dai dẳng và lặp đi lặp lại? Đừng cho rằng tất cả mọi thứ đang nghĩ trong tâm là đen tối và tự hủy hoại mình. Bạn có thể làm tốt hơn nhiều chứ! Dầu cho một đêm có dài như thế nào thì sáng mai ánh bình minh sẽ đến! Bây giờ nếu thấu hiểu giáo lý Nghiệp thì bắt đầu chuyển cuộc sống từ tiêu cực sang tích cực nghĩa là chính ta phải tác động chống lại chớ không chịu chấp nhận an phận thủ thường. Nói thế có nghĩa là từ nay con người phải nhận thức sự tai hại và tốt đẹp của nghiệp và nghiệp quả để vun bồi, tác tạo thêm nhiều thiện duyên thì chắc chắn cuộc sống của mình sẽ thăng hoa, hạnh phúc. Nên nhớ, dựa theo thuyết nhân quả thì mỗi người chỉ nhận được từ cuộc đời những gì mà mình đã bỏ vào đó.

-Hãy từ bỏ sự tự ti: Hãy từ bỏ sự tự ti về những gì bạn có thể hoặc không thể làm được, về những gì có thể hoặc không thể. Bắt đầu từ bây giờ, đừng cho phép niềm tin của bạn giới hạn và cầm tù chính bạn. Hãy tự tin vào bản thân mình. Bất cứ sự thành công lớn nào cũng đều bắt đầu từ những bước khởi đầu nhỏ. Hãy làm những gì bạn muốn làm, mơ những gì bạn muốn mơ, tới đâu bạn muốn tới, trở thành những gì bạn muốn, bởi vì bạn chỉ có một cuộc sống và một cơ hội để làm tất cả những gì bạn muốn.

-Hãy từ bỏ những lời phàn nàn: Hãy từ bỏ việc liên tục phàn nàn về mọi thứ, về mọi người, về mọi hoàn cảnh hoặc về mọi sự kiện, những điều làm bạn không vui, buồn hay chán nản. Hãy nhớ rằng không ai có thể làm cho bạn không hạnh phúc, không có hoàn cảnh nào có thể làm cho bạn cảm thấy buồn trừ khi bạn muốn thế. Con người là chủ nhân duy nhất có đầy đủ quyền năng quyết định cuộc đời theo ý muốn của mình cho nên thiên đàng hay địa ngục, đau khổ trầm luân hay giải thoát an lạc tùy thuộc vào sự chọn lựa nghiệp nhân của mỗi người. Cuộc đời luôn là những thử thách vì thế hãy luôn nhìn về phía trước, để mỗi thất bại của bạn phải là một bước tiến dài trên con đường đi tới thành công.

-Hãy từ bỏ những lời chỉ trích: Hãy từ bỏ việc chỉ trích những thứ, những việc hay những người khác mình. Tất cả chúng ta đều khác nhau, nhưng tất cả cũng đều giống nhau. Tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc, được cảm thông và được thấu hiểu. Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm của người khác thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình!

-Hãy từ bỏ sự không muốn thay đổi: Thay đổi là tốt, nó giúp bạn đi từ A đến B. Thay đổi sẽ giúp bạn cải thiện cuộc sống của bạn và của những người xung quanh bạn. Hãy đi con đường của riêng bạn và chấp nhận thay đổi. Không biết đã bao lần người ta buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi là chạm tới thành công. Tuy nhiên, thành công không phải chìa khóa mở cửa hạnh phúc mà hạnh phúc mới là chìa khóa dẫn tới thành công cho nên trong cuộc sống nếu bạn thích thú điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.

-Hãy từ bỏ nỗi sợ hãi của bạn: Sợ hãi chỉ là một ảo ảnh, nó không tồn tại, chính bạn đã tạo ra nó vì nó phát xuất từ vọng tâm. Tất cả là từ trong tâm trí của bạn. Hãy thay đổi cách tư duy trong nội tâm thì thế giới bên ngoài sẽ bình yên trở lại. Hãy quán cuộc đời tạm bợ vô thường thì chẳng có gì để sợ cả. Không tham lam thì không sợ mất, không tham sống thì không sợ chết. Nên nhớ bạn chỉ sống một lần thôi, nhưng nếu bạn sống đúng thì một lần là đủ rồi, có gì phải sợ.

-Hãy từ bỏ việc viện cớ: Đóng gói những cái cớ và ném chúng đi. Bạn không cần đến chúng. Thường thì chúng ta chỉ giới hạn bản thân mình trong những gì chúng ta làm vì nhiều lý do. Thay vì lớn lên, nâng cao cuộc sống và tinh thần, chúng ta lại kẹt lại, tự dối bản thân, viện tới tất cả các loại lý do, mà trong 99,9%  trường hợp, không phải là có thật. Cuộc đời tạm bợ ngắn ngủi tại sao mình lại phải dối mình?

-Hãy từ bỏ quá khứ: Chúng ta biết điều đó là rất khó khăn, đặc biệt là khi quá khứ dường như tốt hơn nhiều so với hiện tại và tương lai lại có vẻ đáng sợ. Thế nhưng, hãy suy nghĩ, hiện tại là tất cả những gì mà bạn đang có và nó chỉ tồn tại duy nhất một lần. Bạn mơ ước khao khát quá khứ trong khi bỏ qua hiện tại của chính mình thì hiện tại biến thành quá khứ, vụt mất khỏi tầm tay của bạn. Bạn hãy ý thức được mọi việc mình đang làm và hãy tận hưởng cuộc sống, bởi vì cuộc sống là một hành trình mà không phải là một điểm đến. Sẽ rất tốt nếu bạn có một tầm nhìn rõ ràng về tương lai và bạn chuẩn bị sẵn sàng cho điều đó, nhưng luôn luôn hãy là chính mình ở đây và ngay bây giờ.

-Hãy từ bỏ sự quyến luyến: Đây là một quan niệm mà hầu hết chúng ta rất khó hiểu, nhưng thế gian này là do duyên sinh duyên diệt cho nên không có gì sẽ ở mãi với chúng ta. Khi bạn tách mình khỏi tất cả mọi thứ, bạn trở nên yên bình hơn, khoan dung, thân thiện và thanh thản hơn, như vậy bạn có thể đến một nơi mà bạn có thể hiểu tất cả mọi thứ mà không cần phải chịu đau khổ. Nó là một trạng thái vượt ra ngoài ngôn từ.

-Hãy từ bỏ việc sống theo mong đợi của người khác: Nhiều người sống cuộc sống của mình theo những gì người khác nghĩ là tốt nhất cho họ, mà bỏ qua những mong muốn thật sự của bản thân. Họ cố gắng sống theo sự mong đợi của người khác chỉ để làm hài lòng những người này, họ tự đánh mất bản thân mình và cũng không kiểm soát được cuộc sống của mình. Bạn có một cuộc đời, bạn phải sống cuộc đời của mình, đừng để cho những ý kiến của người khác lôi kéo bạn khỏi đường đời của mình.

Nói tóm lại, không có cuộc cách mạng nào khó khăn cho bằng cuộc cánh mạng để giải phóng tư tưởng ra khỏi mọi ràng buộc của ngoại cảnh cũng như những ô nhiễm từ trong nội tâm, vì tư tưởng đòi hỏi nhiều thử thách, cam go qua các giai đoạn phấn đấu để tìm tự do. Vì thế Chánh tư duy là tiến trình suy nghĩ về sự thoát ly các dục lạc, suy nghĩ không còn sân hận, suy nghĩ về không hại người. Từ sự suy nghĩ chân chính đó sẽ làm nền tảng vững chắc hướng tâm đi vào đạo lộ thánh thiện và thoát ly đau khổ.

Nhưng quan trọng nhất là suy nghĩ ra khỏi tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới) với quyết tâm đoạn diệt sinh tử luân hồi thì đây mới thật sự là Chánh tư duy.

3)Chánh ngữ (Perfected or Whole Speech or Right Speech):

Bây giờ, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng là ba yếu tố để kiến tạo một đời sống đạo đức nhân bản mà nhà Phật gọi là Giới. Giới (morality) trong Phật giáo không có nghĩa là giáo điều bắt tín đồ phải răm tắp tuân theo bằng không thì phải chịu hình phạt này hay hình phạt khác như những tôn giáo khác mà ý nghĩa của Giới là cách sống đạo đức, trao đồi đức hạnh, sống đúng với lương tâm. Thực hành đứng đắn Giới thì chắc chắn có cuộc sống an lành, hạnh phúc. Ngược lại cuộc sống sẽ nhiều điên đảo đau thương. Đức Phật đưa ra Giới nhằm mục đích khuyến khích chúng sinh sống đời trong sạch, đạo đức. Thực hành hay không là tùy ở chúng sinh chớ Đức Phật không có quyền năng trừng phạt hay ân thưởng cho ai hết. Tuy nhiên, dựa theo luật nhân quả nếu mình gieo nhân lành thì chính mình sẽ thọ lãnh kết quả tốt đẹp, có hạnh phúc. Ngược lại, gieo nhân bất thiện thì sẽ gánh chịu hậu quả đau thương.

Đức Phật giới thiệu căn nhà giác ngộ gồm có ba tầng:

-Tầng thứ nhất là nền móng: Muốn cho căn nhà giác ngộ được vững chắc thì hành giả phải xây nền móng cho thật kiên cố cho nên Giới chính là nền móng cho căn nhà giác ngộ. Vì thế nếu phá Giới thì căn nhà giác ngộ sẽ sụp đổ. Thực hành Giới viên mãn nghĩa là sống trong đạo đức nhân bản sẽ biến cuộc sống trở thành nhẹ nhàng, thanh thoát, không bao giờ còn lo lắng, buồn phiền. 

-Tầng thứ nhì là Định: Sau khi có đời sống trong sạch thì tâm mới thanh tịnh, từ đó hành giả mới có thể vào định và thực hành các tầng thiền định.

-Tầng thứ ba là Trí tuệ: Đây là tầng tối cao và cũng là cứu cánh tối thượng của đạo Phật tức là trí tuệ. Một khi tâm đã an định, hành giả tiếp tục dùng thiền quán Tuệ Minh Sát, sau cùng trí tuệ sẽ phát sinh để trực nhận chân lý.

Bát chánh đạo là tiến trình liên tục, có mối quan hệ khắn khít, tác động và hỗ tương lẫn nhau. Đức Phật trước nhất giới thiệu Chánh kiến để con người có cái thấy biết chính xác, vô tư về mình và về thế giới chung quanh mình. Sau đó Đức Phật mới giới thiệu Chánh tư duy, bởi vì có thấy biết đúng thì từ đó trong tâm mới tư duy những điều chân chính lợi ích cho mình và cho người. Ngược lại thấy biết sai lầm thì suy tư bất chánh nghiêng về thỏa mãn những dục vọng của bản ngã (tham, sân, si, ái dục). Sau Chánh tư duy thì bây giờ Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng mới được Đức Phật đưa vào bởi vì tư tưởng sẽ biến thành lời nói và hành động. Bộ ba “thân, khẩu, ý” là ba yếu tố chính giúp con người có cuộc sống bình yên, hạnh phúc và an lạc. Ngược lại, cũng “thân, khẩu, ý” lại là nguyên nhân đưa con người đọa lạc vào trong cảnh khổ biến cuộc sống nhiều sóng gió đau thương và dĩ nhiên tạo tác tội nghiệp để chịu quả khổ về sau. Tóm lại, thân gồm có Chánh nghiệp, Chánh mạng và Chánh tinh tấn, khẩu có Chánh ngữ và ý gồm có Chánh kiến và Chánh tư duy. Do đó toàn bộ giáo lý Phật Đà không ngoài mục đích giúp con người thanh tịnh hóa “thân, khẩu, ý” của mình để cải thiện cuộc sống trở thành thanh cao, nhẹ nhàng, hạnh phúc và an lạc.

Lời nói đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống vì nó phản ảnh trực tiếp sự quan hệ cuộc sống giữa con người. Nó là cánh cửa giao thông để hiểu nhau, thông cảm với nhau và dĩ nhiên nó cũng là tác động đưa con người chống đối,  hiềm khích và đố kỵ với nhau. Trong mọi sinh hoạt hằng ngày, từ gia đình đến xã hội, lời nói là chiếc cầu nối làm cho mọi người gần gũi, thân thiện với nhau hơn khiến cho cuộc sống thêm ý nghĩa và hạnh phúc. Ngược lại, cũng lời nói khiến anh em bất hòa, vợ chồng ly tán, cha mẹ giận hờn con cái, hàng xóm bạn bè không nhìn mặt nhau. Trong những hoàn cảnh bình thường, lời nói phản ảnh tư cách, hay nhân cách của con người ngoại trừ những người giả nhân giả nghĩa. Ngày nay ở những quốc gia văn minh tiến bộ, họ còn phát minh ra loại ngôn ngữ ra dấu (sign language) để mọi người có thể trò chuyện, trao đổi tư tưởng với nhau. Vì thế lời nói đưa con người gần gũi với nhau hơn, dễ cảm thông và chia xẻ bất cứ nỗi niềm trong tâm tư. Một khi nói ra được thì những ấm ức trong tâm được giải tỏa chẳng khác nào tháo đê để nước chảy xuống nhẹ nhàng.

Một hôm, Tô Đông Pha đến chùa Kim Sơn viếng thăm Thiền sư Phật Ấn. Hai người đàm đạo cả ngày, bấy giờ Tô Đông Pha mới hỏi:

-Bạch Đại Sư! Ngài ngồi đây nhìn tôi thấy giống cái gì?

Thiền sư Phật Ấn trả lời một cách trang nghiêm và trân trọng:

-Xem ông giống như một vị Phật.

Nghe xong, Tô Đông Pha hớn hở vui mừng. Thiền sư Phật Ấn mói hỏi lại ông ta:

-Ông thấy ta ra sao?

Tô Đông Pha nhìn Phật Ấn mập tròn bèn đáp:

-Tôi nhìn ngài giống như một đống phân trâu.

-Ủa vậy à!!!

Tô Đông Pha tự cao, tự đại, nhưng ngạc nhiên hỏi lại:

-Ngài tôn tôi là Phật, nhưng tôi nói ngài là một đống phân, ngài không giận sao?

Tôi vui mừng mới đúng, làm sao nổi giận được. Phật Ấn trả lời.

Tại sao? Đông Pha hỏi.

Phật Ấn trả lời:

-Mình là Phật nên nhìn người khác là Phật, chính mình là đống phân thì nhìn người khác là đống phân mà thôi.

 Trong cuộc sống gia đình, đấng cha mẹ nào cũng muốn con cái mình được hạnh phúc, tự tìm ra con đường đi của chính bản thân mình. Một đứa trẻ thông minh chưa chắc đã hạnh phúc. Nhưng một đứa trẻ được cảm nhận tình yêu thương là được nuôi dưỡng để biết tự lập, biết sống có ước mơ, có mục đích sống rõ ràng và sẽ luôn biết mình phải làm gì trong tương lai để được hạnh phúc. Và điều đó phụ thuộc vào cách cha mẹ yêu thương các em, cách cha mẹ nói chuyện, dạy dỗ với các em ngay từ lúc đầu đời. Cha mẹ muốn dạy con mình học chữ, muốn con phát huy khả năng trí tuệ, muốn uốn nắn con tự lập nhưng lại không thành công vì gặp phải sự phản kháng từ các em. Nguyên nhân chính là bởi vì trẻ em đã thiếu khả năng tự đánh giá bản thân để làm động lực cho ham muốn học tập và nghe theo lời cha mẹ. Muốn các em phát huy sự tự tin và khả năng tự đánh giá bản thân thì bước đầu tiên là hãy cho các em cảm thấy rằng các em là người quan trọng đối với cha mẹ, từ đó các em sẽ hiểu được ý nghĩ của cuộc sống.  Muốn cho các em thấy điều đó thì không gì khác ngoài những cử chỉ hay tác động hằng ngày như “thân thiết”, “trò chuyện”, “kiên nhẫn” và “khen ngợi”. Đây là những nhịp cầu nối các đấng cha mẹ gần với con em của họ nhiều hơn. Tuy nhiên, sự cưng chiều quá đáng, thỏa mãn đòi hỏi của các em khiến các em phát triển tinh thần ỷ lại, sống trong tiêu cực, không có sức phấn đấu vươn lên. Nhưng quan trọng nhất, trong bất cứ gia đình nào, cha mẹ lúc nào cũng là tấm gương ảnh hưởng trực tiếp đến con cái. Nếu cha mẹ sống đời trung thực, nhân ái, thân thiện thì con cái sẽ noi theo cách ứng xử đó.

Theo Đức Phật cha mẹ có năm nhiệm vụ đối với con cái:

- Nhiệm vụ thứ Nhất: Ngăn cản các con gây tội lỗi.

Nhà là trường học đầu tiên, cha mẹ là các thầy giáo đầu tiên. Trẻ con thường học những bài học vỡ lòng tốt và xấu nơi cha mẹ. Các bậc cha mẹ thiếu thận trọng trực tiếp hay gián tiếp tiêm nhiễm vào đầu các con cái những điều nói dối, gian lận, bất lương, vu oan, báo thù, không xấu hổ, không sợ hãi các tội lỗi, và các hành động vô luân trong thời thơ ấu của chúng. Hãy nhớ đến thói quen bắt chước. Cho nên cha mẹ phải làm gương, không nên tiêm nhiễm những tật xấu vào đầu óc ngây thơ của con cái. Nhưng quan trọng nhất là sự tiếp cận, học hỏi những thói hư tật xấu từ bạn bè vì thế cha mẹ nên theo dõi và khuyến khích con em của mình nên giao tiếp với những người hoặc gia đình có đạo đức bởi vì gần mực thì đen gần đèn thì sáng.  

Nhiêm vụ thứ Hai: Thuyết phục trẻ làm điều lành.

Cha mẹ là những thầy giáo ở nhà, và thầy giáo là cha mẹ ở trường. Cả hai cha mẹ lẫn thầy giáo đều chịu trách nhiệm về tương lai và hạnh phúc của con cái. Chúng có trở nên người tốt hay xấu là đều do cha mẹ và thầy giáo hun đúc. Gần gũi hay tiếp xúc với môi trường sinh hoạt hằng ngày ảnh hưởng rất lớn cho các em trở thành tốt xấu mai sau. Các em noi theo, bắt chước làm y như người lớn trong tuổi thơ ngây của chúng.  Chúng hấp thụ điều truyền đạt. Chúng theo dấu chân người lớn. Chúng bị ảnh hưởng về tư tưởng, lời nói và hành động của người lớn. Do vậy, nhiệm vụ của cha mẹ là tạo bầu không khí thích hợp cả tại nhà lẫn trường học. Giản dị, vâng lời, hợp tác, đoàn kết, hy sinh, chân thật, thẳng thắn, giúp đỡ tự tin, bằng lòng, cử chỉ tốt, nhiệt thành mộ đạo, những đức hạnh khác phải được in sâu vào tâm trí thanh xuân của chúng. Tạo môi trường để chia sẻ những mẩu chuyện đạo đức. Những hạt giống như vậy được đem trồng sẽ lớn lên thành cây nhiều trái.

Nhiệm vụ thứ Ba: Cho con cái một nền giáo dục tốt.

Một nền giáo dục đứng đắn là một di sản tốt nhất mà các bậc cha mẹ để lại cho con cái. Một kho tàng quý báu cũng không bằng. Giáo dục là phước báu tốt nhất mà cha mẹ để cho con cái. Giáo dục phải được truyền dạy cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ trong bầu không khí đạo đức nhân bản bằng cách huấn luyện chúng duy trì kỷ luật cao thượng và tính tốt của con người. Việc đó sẽ ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của chúng. Những đứa trẻ thành công trong cuộc sống lúc nào cũng thừa hưởng một di sản văn hóa tốt đẹp và có định hướng cho tương lai.

Nhiệm vụ thứ Tư: Lo cho con cái thành lập gia đình với người xứng đáng

Hôn nhân là một hành động trọng đại của một đời người; sự kết hôn không thể hủy bỏ dễ dàng. Cho nên hôn nhân cần được xét kỹ từ mỗi khía cạnh, tất cả mọi góc độ để hai họ vui lòng trước khi cưới. Việc cha mẹ quan tâm đến người hôn phối của con cái rất quan trọng cho đời sống lứa đôi tương lai của chúng. Bậc cha mẹ phải chấp nhận những lệ thường thời hiện đại như hẹn hò vân vân..., con cái phải hiểu rõ ràng là cha mẹ có quyền giám sát hoạt động của chúng, biết bạn của chúng là ai. Nhưng con cái cũng có quyền riêng tư và tự trọng. Trong hầu hết các trường hợp, những ai ngược đãi người khác thì chính họ sẽ là nạn nhân của sự ngược đãi.

Nhiệm vụ cuối cùng: Là nên giao lại tài sản cho con cái lúc thích hợp.

Cha mẹ không những chỉ thương yêu và săn sóc con cái khi còn sống trong sự nuôi dưỡng, che chở của mình mà còn phải lo liệu tương lai và hạnh phúc cho chúng. Cha mẹ đã phải khó nhọc tạo nên của cải nhưng không nuối tiếc khi cho các con cái thừa hưởng gia tài. Cha mẹ để lại của cải cho con cái nhưng không muốn chúng hoang phí mà chỉ muốn chúng dùng của cải này để nâng cao mức sống. Trong tất cả các việc này, điểm chủ yếu là tôn trọng lẫn nhau, và quan tâm đến hạnh phúc của cả cha mẹ lẫn con cái. Đức Phật nhấn mạnh rằng các bậc cha mẹ nên cẩn thận và tế nhị về vấn đề tài sản vì tác động của nó cũng như con dao hai lưỡi. Nếu con cái có định hướng, có tinh thần tự lập thì đối với chúng tài sản của cha mẹ không quan trọng vì tự chúng có thể tự tạo lấy. Ngược lại, nếu con cái không có tương lai, không thành công bằng nghề nghiệp vững chắc thì chúng tùy thuộc rất nhiều vào tài sản của cha mẹ. Tuy nhiên, cho dù tài sản có to lớn bao nhiêu thì một ngày nào đó cũng sẽ tiêu cạn và từ đó tương lai của chúng sẽ ra sao? Bill Gates là người giàu nhất thế giới tài sản lên đến 76 tỷ đô la thế mà ông chỉ để lại một số tiền nhỏ cho các con của ông, số tiền còn lại ông sẽ xung vào quỷ từ thiện. Lý do chính là ông muốn các con của ông phải có trách nhiệm, biết thử thách tài năng của mình vào trong cuộc sống, phát triển tiềm năng trí óc của mình để làm lợi ích cho đời, biết thương người nghèo khó, biết sống đời đạo hạnh, khiêm nhường.

Đức Phật dạy rằng những người nói lời dịu dàng, tử tế sẽ được người tin cậy và tôn trọng bởi vì phát xuất từ trạng thái nội tâm bình lặng và thanh tịnh cho nên lời nói luôn mang tính chất thân thiện. Trái lại, Đức Phật luôn nhắc nhở con người nên thận trọng với loại tà ngữ (thâm độc). Đó là lời nói cộc cằn, thô lỗ, lời nói cay độc, nói lời kiêu căng, nói lời chửi rủa thậm tệ. Nói chung đây thuộc về  loại khiếm nhã vừa gây bực bội, đau thương, tang tóc cho mình và cho người. Chẳng những thế, nó làm giảm nhân cách của mình là dĩ nhiên ác tâm và những khổ thọ mà ta tạo ra cho người sẽ dội trở lại và chính ta một ngày nào đó sẽ hứng chịu hậu quả mà mình đã gieo cho kẻ khác. Khi chúng ta nói những lời nguyền rủa, cay độc chẳng khác nào như miệng tung ra biết bao gươm đao với mục đích làm cho người đau khổ thì đây là tà ngữ (ác độc). Vì thế Đức Phật dạy rằng: “ Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời”.

Lời nói lúc nào cũng có tác động hai chiều thuận và nghịch cho nên người có Chánh niệm luôn suy nghĩ, cảnh tỉnh trước khi nói. Ngược lại, người thiếu ý thức thì phát ngôn bừa bãi, thiếu tế nhị, dễ chạm tự ái người. Đức Phật khuyên chúng sinh nên nói trong Chánh niệm nghĩa là mình biết mình sẽ nói gì và luôn nghĩ đến nhân quả của lời nói đó. Nói sau lưng thường đưa đến tranh cải và hiểu lầm, đôi khi làm cho tan vỡ nhiều mối quan hệ. Có những trường hợp nghiêm trọng, nó có thể đưa đến tố tụng trong tòa án vì đã mạ lỵ hay làm mất danh tiếng người khác. Thiền trong Phật giáo là để tư duy, nhìn lại chính mình. Nhưng tư duy cái gì? Hành giả nhìn lại mình đã nói gì, làm gì, nghĩ gì để có hạnh phúc, thanh tịnh hay an lạc hoặc  mình đã nói gì, làm gì hay nghĩ gì để khổ đau phát hiện.

Dựa theo tinh thần Phật giáo, Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không tạo nghiệp bất thiện trong lời nói, nghĩa là không được nói dối, không nói lời cộc cằn thô lỗ, không nói lời thâm độc nguyền rủa kẻ khác, không nói chuyện người khác thường dẫn đến tranh cải, hiểu lầm, làm mất thời gian và khiến tâm bất tự tại.

Tóm lại, Chánh ngữ không những là lời nói chân chánh, không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói mà Chánh ngữ còn là dùng lời nói để tạo các nghiệp lành. Vì thế:

-Tránh dùng lời phao vu để chia rẽ, hay gây bất hòa giữa người nầy với người khác. Trái lại chúng ta phải tìm cách đem lại hòa hợp và thông cảm giữa mọi người.  Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa thù thành bạn.

-Tránh dùng lời thô lỗ để hạ nhục kẻ khác mà trái lại phải nói lời thanh tao, lễ độ để an ủi, khuyến khích hay thuyết phục kẻ khác. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Bạn càng nguyền rủa họ, tâm bạn càng bị nhiễm ô, bạn hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của bạn.

-Tránh những câu chuyện phiếm vô bổ mà nên nói đúng lúc, hợp lý và hữu ích. Cũng có trường hợp, khi chúng ta nói chân thật và lễ độ mà vẫn chạm đến tự ái của kẻ khác khiến họ phật lòng.

Nhưng chúng ta có nói tốt, nói xấu là bởi tại vì tâm mình nghĩ tốt, nghĩ xấu về người ấy hay việc đó. Do đó ý là nhân mà thân khẩu là quả của nó. Vì thấy tầm quan trọng nầy cho nên Chánh ngữ phải đi sau Chánh tư duy. Nếu khen một người nào bởi vì chúng ta đã có ấn tượng tốt về người ấy. Ngược lại nếu muốn chửi người đó thì trong tâm chúng ta phải ghét họ trước. Do đó lời nói là sản phẩm phản ảnh những gì trong tâm khảm của chúng ta.

Muốn thực hành Chánh ngữ được rốt ráo, Đức Phật mô tả lời nói của bậc thiện tri thức như sau:

-Phát biểu đúng lúc:  Nếu lời nói chân thật mà không phát biểu đúng lúc thì thành ra vô ích do đó người thiện trí phải tế nhị áp dụng lời nói của mình cho đúng chỗ, đúng lúc.

-Hợp với sự thật: Bậc thiện trí thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện và không lừa dối. Đức Phật dạy rằng: “Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối”. Nên nhớ rằng lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, bạn dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình cho nên nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì phải khổ như vậy?

-Đem lại lợi ích: Lời nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó. Cho dù là lời nói thật nhưng không có mục đích đem lại lợi ích cho ai thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô ích mà thôi.

-Thích ứng với lý trí: là lời nói phải hợp với đạo lý thì dĩ nhiên sẽ hợp với lý trí.

-Hợp với đạo đức: Thông thường chúng ta thường hiểu chữ thiện là hữu ích, nhưng trên thực tế có lợi ích chưa hẳn đã là thiện. Vì vậy lời nói của bậc thiện trí phải có ích và hợp với đạo đức nữa.

Nhưng nói lời thế nào để thích ứng với lý trí và hợp với đạo đức?

-Nên nói về đức từ bi vì lòng từ bi giúp chúng ta có được tâm hồn vị tha, không tham lam, không ích kỷ và không bỏn xẻn.

-Nên nói về đức tính tri túc để giúp chúng ta bỏ những ước vọng thái quá và sống an vui trong bất cứ hoàn cảnh nào.

-Nên nói về đức thanh tịnh để giúp cho chúng ta có tâm hồn trầm tĩnh, trong sạch và tự tại.

-Nên nói về đức tính độc lập để giúp chúng ta không xu hướng phe đảng, không ỷ lại và phát triển đức tự tin.

-Nên nói về đức tinh tấn để giúp chúng ta từ bỏ tính biếng nhác, do dự và không nhất quyết.

-Nên nói về giới hạnh vì giới hạnh có khả năng loại bỏ những thói hư tật xấu mà đã kết tập từ vô lượng kiếp đến nay.

-Nên nói về thiền định vì thiền định có khả năng tiêu trừ dục vọng, oán thù và phát triển sức mạnh tinh thần.

-Nên nói về trí tuệ để giúp chúng ta rèn luyện một tâm hồn trong sáng và phát triển trí năng hầu thấu triệt chân lý.

-Nên nói về sự giải thoát giác ngộ vì đây là mục đích cuối cùng của người Phật tử trên đường tận diệt vô minh phiền não.

-Nên nói về giải thoát tri kiến có nghĩa là nói đến sự thật chứng của các chư Thánh hay Phật để giúp chúng ta trên đường tu tập vì tin rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được giải thoát tri kiến như thế.

Bản chất của lời nói tùy thuộc vào sự biến dạng của tâm thức. Nếu tâm đang ở trạng thái giận hờn, bực tức, nóng nảy thì lời nói sẽ mang sắc thái nặng nề, hung dữ. Ngược lại, nếu tâm đang ở trạng thái nhẹ nhàng, an ổn, bình thản thì lời nói sẽ dễ nghe, dịu dàng, hài hòa. Vì Chánh kiến và Chánh tư duy là mầm móng của Chánh ngữ cho nên khi lời nói gây ra đau khổ thì phải tự biết rằng cái thấy biết của mình chưa rõ ràng và việc tư duy chưa đúng.

 Đức Phật khuyên con người nên ái ngữ, nói những lời văn hóa và có nhân cách để thăng hoa cuộc đời mình và cho người. Và Đức Phật khuyên con người luôn sống trong tỉnh thức Chánh niệm để kiểm soát lời nói của mình với quyết tâm không nói điều gì gây tổn hại cho mình và cho người mà chỉ nói những lời nhẹ nhàng có thể mang lại sự hòa hợp, ích lợi cho mọi người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội.

Đối với người đắc đạo thì lời nói không quan trọng, nhưng quan trọng là lời nói kia phải đi đôi với sự thật và sau cùng Đức Phật dạy rằng: “Người có Chánh tư duy, Chánh ngữ sinh”.

4)Chánh nghiệp (Integral Action or Right Action) là hành động chân chính để sống đúng với chân lý, sống phù hợp với đạo đức, đó là những hành động thuộc về thân. Sau Chánh ngữ, Đức Phật mói nói Chánh nghiệp và Chánh mạng vì lời nói luôn đi đôi với hành động. Hành động chân chính là không sát hại, không trộm cắp dưới bất cứ hình thức nào và sau cùng là không tà hạnh trong dục lạc. Muốn chấm dứt hoàn cảnh khổ đau trong cuộc sống, vượt thoát cảnh tù tội của thế gian, hoặc những tai nạn hiểm nghèo, những bệnh tật khó trị, những xung đột tỵ hiềm, nhỏ mọn, ích kỷ... Đức Phật khuyên chúng sinh phải biết thực hành Chánh nghiệp. Đức Phật khuyến khích con người tránh xa tà hạnh nhằm mở rộng cho các hành động đạo đức cao hơn và thúc đẩy con người luôn hành động với đầy lòng từ bi đối với tất cả mọi chúng sinh.

Mọi người sợ hình phạt

Mọi người đều sợ chết

Lấy mình làm thí dụ

Không giết, không bảo giết”  (Pháp Cú 129).

Tuy không giết hay không bảo ai giết hại, nhưng bất cứ hành động nào gây tổn thương cho người khác dù hình thức này hay hình thức khác đều là những hành động thiếu đạo đức. Ngày xưa chính Đức Phật và hàng Tỳ kheo không phải là người ăn chay. Các Ngài cũng ăn thịt, cá khi được cúng dường, nhưng các Ngài chỉ ăn thịt chớ không bao giờ có ý sát hại. Kinh Jivata (Trung Bộ II, số 55) nói về Tam tịnh nhục hay Ngũ tịnh nhục nghĩa là ba thứ (hay năm thứ) thịt mà các Tỳ kheo được phép thọ dụng: “Này Jivaka, những ai nói như sau: Vì Sa môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình, được làm cho mình, những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng”. Ngoài ra, còn có thuyết Ngũ tịnh nhục, tức tam tịnh nhục vừa kể trên cùng với thịt của các con thú tự chết và thịt mà các loài thú khác ăn còn dư. Vì thế dựa theo lời dạy của Đức Phật thì không thấy, không nghe, không biết và dĩ nhiên không tự mình giết con vật đó cho mình ăn thì không phạm Giới nghĩa là hãy đi và tìm (mua) thịt đã được làm sẵn (bày bán ngoài thị trường).

Đức Phật dạy rằng:

- Người không tạo nghiệp sát hại chúng sanh, thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sanh, nên thọ mạng yễu. Do nghiệp ác làm cho người đau khổ, nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu.

Vấn đề ăn chay, ăn mặn là một đề tài (tranh luận) rất tế nhị, tuy nhiên ở Việt Nam vào thời nhà Trần, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung có em gái là Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Thượng sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn. Hoàng Thái hậu hỏi :

Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?”

Thượng sĩ cười đáp:

Phật là Phật, Anh là Anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành Anh. Em không nghe các bậc cổ đức nóí Văn Thù là Văn Thù, Giải thoát là giải thoát đó sao”.

Mạn đàm: Thượng sĩ nói: “Phật là Phật, Anh là Anh…” nghĩa là miệng là miệng còn tâm lúc nào vẫn là tâm. Vì thế miệng ăn thịt chớ tâm đâu có ăn thịt cho nên tâm không ăn thịt thì lấy gì làm ô nhiễm? Ở đây Thượng sĩ muốn phá cái chấp trong phương tiện tu hành và tầm quan trọng của tu tâm. Do đó đối với người giải thoát, cho dù miệng có nhai thịt thì tâm vẫn bình thản như miệng nhai đậu hũ vậy. Đây chính là biểu hiện câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là tuy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý có tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà tâm vẫn thản nhiên, vô tư, không dính mắc thì tâm kỳ diệu mới hiện ra tức là đang sống trong tự tại, thanh tịnh Niết bàn. Đây là câu chuyện của người giải thoát, còn chúng ta là phàm nhân thì nên cẩn trọng vì tâm chúng ta còn nhiều dính mắc.

Khoảng 500 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, Phật giáo Đại thừa ra đời và các vị luận sư Đại thừa giới thiệu 5 tư tưởng mới để có sự khác biệt so với Phật giáo Nguyên thủy. Đó là:

1)Chuyển lý tưởng Niết bàn của các vị A la hán thành ra lý tưởng Bồ-tát.

2)Giới thiệu Lục độ Ba-la-mật mà trong đó hạnh nguyện từ bi được xếp ngang hàng với trí tuệ.

3)Phật giáo vào thời Đức Phật còn tại thế chỉ xiển dương con đường tự giác, không tín ngưỡng. Vì thế trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy rằng: “Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người”. Ngược lại, Đại thừa bị ảnh hưởng đạo Bà la môn là một tôn giáo đa thần cho nên các luận sư Đại thừa đưa ra một loạt các vị Thánh, các vị Bồ Tát, các chư Phật có khả năng cứu rỗi chúng sinh biến Phật giáo trở thành tín ngưỡng và dĩ nhiên đức tin bây giờ là tất yếu.

4)Phương tiện thiện xảo trở thành thiết yếu vì thế những cảnh giới bất tư nghì, thế giới chư Phật hay chư Phật hiện ra như Phật Đa Bảo hay Đức Phật vận dụng thần thông làm cho thế giới rung chuyển như trong kinh Pháp Hoa hay Duy Ma Cật. Những cảnh giới đó không bao giờ có vào thời Đức Phật còn tại thế.

5)Để thích hợp với giáo lý bản thể của thế giới vô vi, Đại thừa giới thiệu tư tưởng tánh không và định nghĩa lại tất cả những lý thuyết về chữ “không” cho phù hợp với giáo lý mới để có sự khác biệt với Nguyên thủy.

Vì muốn xiển dương lý tưởng Bồ Tát cho nên Phật giáo Đại thừa chủ trương bất sát nghĩa là Bồ Tát sao lại nở ăn thịt chúng sinh cho nên có những trường phái Đại thừa chủ trương ăn chay. Tư tưởng này có thể tìm thấy trong Kinh Lăng Già, Lăng Nghiêm, Đại Bát Niết Bàn…Tuy nhiên cũng có những trường phái Đại thừa hay Mật tông không ăn chay chẳng hạn như nhiều trường phái Đại thừa Nhật bản, Phật giáo Tây Tạng (áo đỏ). Hãy lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 nói về vấn đề ăn chay: “Chính tôi cũng đã từng ăn toàn chay từ năm 1965 và giữ được cách ăn uống này được khoảng hai mươi hai hay hai mươi ba năm. Sau đó thì tôi trở nên èo uột và bác sĩ khuyên tôi nên thay đổi cách ăn uống. Đối với những người có thể chịu đựng được thì tốt hơn hết nên ăn toàn chay”. Vì vậy, ăn chay là một đức hạnh tốt, nhưng quan trọng hơn hết là phải thanh tịnh thân, khẩu, ý của mình.

Bây giờ nếu đứng về phương diện phát triển tâm linh thì ăn chay hay ăn mặn không phải là yếu tố chính đưa hành giả đến chổ giải thoát mà hành giả phải thực hành ly dục, ly bất thiện pháp thì tâm dần dần sẽ có thanh tịnh. Ly dục nghĩa là hoàn toàn thoát ly những đối tượng của dục tức là thân viễn ly. Còn ly bất thiện pháp là từ bỏ những cấu uế (dục vọng) của tâm tức tâm viễn ly. Nói cách khác ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Vì thế Đức Phật dạy rằng sự giải thoát không do nơi ăn uống (chay, mặn) mà cốt yếu là do nơi thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý.

Trong cuộc sống hiện nay, có rất nhiều thứ góp phần vào việc giết hại một cách gián tiếp mà đôi khi chúng ta không bao giờ để ý đến. Thí dụ khi làm vườn, cuốc đất chúng ta vô tình giết chết côn trùng. Khi bị bệnh nhiễm trùng, chúng ta  uống thuốc trụ sinh. Nhưng thuốc trụ sinh sẽ giết biết bao vi trùng (chúng sinh) trong người của chúng ta…Đối với những người ăn chay, ăn rau quả. Tuy chúng ta chỉ ăn toàn thực vật, nhưng trong tiến trình trồng trọt, vun xới phân bón, nhà nông (farmers) đã vô tình giết hại biết bao côn trùng nằm dưới lòng đất. Đó là chưa kể họ còn dùng thuốc xịt sâu bọ để bảo vệ mùa màng. Thế thì khi ăn những sản phẩm đó chúng ta cũng gián tiếp sát sinh rồi. Thậm chí khi nhổ một cộng rau thì chúng ta cũng đã giết đi một sự sống. Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng: ”Bất cứ hành động nào với chủ tâm thì hành động đó mới đáng kể, mới gọi là tạo nghiệp”. 

Trộm cướp không nhất thiết là cướp của ngân hàng, hay đánh cắp hàng hiệu bỏ vào túi…mà trộm cướp là lấy (lấy của) những gì không thuộc về mình. Đây là biểu hiện của lòng tham cho nên một khi lòng tham nổi dậy, che lấp nhân tính khiến con người mạnh dạn cầm nhầm bất chấp hậu quả gì sẽ xảy ra. Ngày nay có những quốc gia chậm tiến, nhân viên chính phủ từ trung ương đến hạ cấp bất chấp liêm sĩ, dùng quyền lực xâm chiếm tài sản và tiền bạc của quốc gia nghĩa là “dĩ công vi tư” cho nên họ đều là những kẻ trộm cắp. Tuy ngày nay, họ sống trong những dinh thự đồ sộ nguy nga, nhưng đó là xương máu của nhân dân chớ đâu phải tài sản riêng của họ. Trái lại, trên thế giới có những quốc gia như Nhật Bản hay Singapore đã chứng tỏ tinh thần đạo đức của họ đến cao độ khiến cho thế giới khâm phục. Ở Nhật Bản năm 2011, có trận động đất Tohuku rất lớn (9.0 Richter scale) kéo theo nhiều đợt sóng thần cao đến gần 40 thước, tàn phá rất nhiều nhà cửa và giết hại biết bao chúng sinh. Thế mà không bao giờ có ai trộm cắp bất cứ tài sản gì của ai. Hay hơn nữa, tiền bạc hay vật dụng rơi rớt đều được người dân trả lại hết cho chủ hoặc gởi trả lại cho chính quyền.

Có một ông giám đốc người Nhật Bản sang làm việc tại Việt Nam. Vì sợ cảnh lái xe hỗn tạp ở Sài Gòn nên ông ta thuê một tài xế người Việt. Trước khi về nước ông giám đốc nói với vị tài xế rằng: “Chúng tôi biết anh đã từng ăn (bán) bớt xăng trong rất nhiều năm và cứ đòi tăng lương mỗi năm. Chúng tôi chấp thuận là vì sự an toàn tính mạng do anh lái. Nhưng thật ra nếu anh không làm như vậy thì chúng tôi vẫn thưởng cho anh còn nhiều hơn thế nữa mà”.

Ngoài sát sanh, trộm cướp thì tà dâm cũng đóng vai trò không kém quan trọng trong cuộc sống gia đình. Đức Phật luôn khuyến khích chúng sinh nên một lòng chung thủy, không nên nhìn trước ngó sau người khác phái. Khi khởi ý nhìn ngó một đối tượng khác phái mà sinh lòng yêu thích thì biết ngay đây là tâm trạng tà dâm. Người có tâm trạng tà dâm thì tâm bất chính nghĩa là vương vấn những tư tưởng lang chạ, không đứng đắn. Tâm niệm bất chính đó trước sau sẽ làm đau khổ gia đình mình và gia đình người khác. Nó có thể đem đến cảnh nhà tan, cửa nát thậm chí nó còn tạo nên cảnh tượng đau thương, giết chóc vào tù ra khám khi tâm ghen tuông không dừng được khiến cho những đứa trẻ thơ vô tội phải sống bơ vơ mất cha, mất mẹ. Ngày nay chúng ta đang sống trong những quốc gia văn minh cho nên vấn đề ăn mặc hở hang được cho là đẹp và thích hợp với thời trang. Tuy nhiên, người có văn hóa và đạo đức thì đẹp và thời trang không nhất thiết phải là hở hang, trống chỗ này, thiếu chỗ kia để khiêu gợi mà là nét đẹp tự nhiên, kín đáo và duyên dáng. Các nhà tâm lý học nói rằng những người thích khoe khoang bày da hở thịt, bày ngực, bày mông… là những người thiếu tự tin, nhiều mặc cảm và dĩ nhiên thiếu văn hóa và kém đạo đức chỉ cốt thỏa mãn dục tính nhất thời. Do vậy, tà dâm là con đường đau khổ của kiếp người, phá vở hạnh phúc gia đình và biến cuộc đời yên ổn trở thành bẽ bàng ngang trái.

Dục tình là sự thu hút, lôi cuốn và quyến rũ của người đối tượng làm cho con người thiếu sáng suốt, sống trong ảo giác mê mờ. Vì sự nguy hại của dục tình, Đức Phật dạy rằng:

Này các Tỳ kheo, ta không thấy có một sắc (thanh, hương, vị, xúc ) nào khác do nó mà tâm người đàn bà trở nên rất nô lệ như là bị nô lệ bởi sắc (thanh, hương, vị, xúc) của người đàn ông. Này các Tỳ kheo, tâm người đàn bà bị ám ảnh bởi thứ đó”. Lịch sử nhân loại từ đông qua tây, từ cổ chí kim có biết bao chuyện anh hùng lụy với thuyền quyên tất cả cũng chỉ vì đắm say theo sắc dục.

Thực hành Chánh nghiệp không phải chỉ vì chúng ta muốn tránh phạm giới hoặc vì chúng ta sợ người trả thù hay luật pháp sẽ trừng phạt, nhưng quan trọng nhất chúng ta tránh những hành động tàn nhẫn, ác độc sẽ mang lại sự bất hạnh khôn lường chẳng những đến cho người mà còn cho chính mình ở hiện tại cũng như tương lai. Thấu hiểu luật Nghiệp quả giúp con người tăng thêm sức mạnh để từ bỏ những hành động bất thiện bởi vì ngày nay mình gây nhân thì ngày mai chính mình phải thọ lãnh quả nghiệp đó. Đức Phật khuyến khích chúng sinh luôn thực hành Chánh nghiệp trong cuộc sống bởi vì tà hạnh làm tâm bất tịnh, luôn sống trong phiền não, lo âu, sợ hải. Ngược lại, hành động chân chính có lợi ích cho mình và cho người khiến tâm nhẹ nhàng, thanh thoát và an lạc.

Tóm lại, thực hành Chánh nghiệp không nhất thiết chỉ là không làm các việc ác mà còn làm tất cả các việc lành nghĩa là “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành”. Nếu không được rèn luyện đạo đức thì con người sẽ trở thành ác nhân và cuộc đời sẽ là nạn nhân của nó. Con người sống, không ai dám tự xưng mình là người toàn thiện, nhưng nếu chúng ta có hành động chân chính, không sát hại, không trộm cắp, không tà hạnh trong dục lạc và thực hành sự yêu thương cứu giúp, tạo thiện nghiệp trong mọi hoàn cảnh thì con đường ta đi sẽ mát dịu, có muôn hoa đua nở.

Nhưng Chánh nghiệp cao nhất là tạo dựng phước đức cũng như công đức hướng về giải thoát giác ngộ. Đức Phật lại dạy rằng: “Người có Chánh ngữ, Chánh nghiệp sinh”.

5)Chánh mạng (Proper Livelihood or Right Livelihood) là phương tiện sinh sống chân chính bằng một nghề nghiệp lương thiện. Nhưng thế nào là một nghề nghiệp lương thiện? Trong bất cứ xã hội nào, có biết bao phương tiện sinh sống, phù hợp với khả năng và kiến thức phục vụ của mình. Tuy nhiên, có những nghề nghiệp gây tai họa hay khổ đau cho kẻ khác trong hiện tại cũng như trong tương lai. Ngược lại, có những nghề nghiệp sinh sống không lừa đảo, không gieo rắc đau thương, không bóc lột, không xâm phạm quyền tự do và bình đẳng kẻ khác, không phá hoại hay hủy diệt môi trường thiên nhiên. Một khi thấu hiểu luật nhân quả nghiệp báo, chúng ta nên sinh sống bằng những nghề nghiệp không bắt buộc phải sát hại các loài chúng sinh, tàn phá và nhiểm ô môi trường sinh sống của các loài ấy. Không làm và không đầu tư vào những doanh nghiệp làm hại đến sự sống của con người trong đó có chế tạo, buôn bán súng đạn, phát triển những vũ khí hóa học, tên lửa, buôn bán hay sản xuất những thuốc trừ sâu bọ…Buôn bán ma túy đem sa đọa và hủy hoại cuộc đời và gia đình của người tiêu thụ. Không sinh sống bằng nghề gieo rắc mê tín, xem tướng, bói quẻ, lên đồng, nhập cốt làm cho con người sống trong điên đảo, mất định hướng cuộc sống vì không tin và thực hành luật nhân quả. Và còn biết bao nghề khác. Nói chung, nghề nghiệp nào trong thế gian không làm chúng ta phạm năm giới: không trộm cắp, không giết hại, không nói dối, không tà dâm và không uống rượu thì những nghề nghiệp đó được xem như là nghề nghiệp lương thiện. Nếu sinh sống thẳng thắn như thế là có Chánh mạng. Theo cái nhìn của Đức Phật thì tất cả suy nghĩ và hành động của con người đều khởi nguồn từ tâm. Nếu con người có tâm tốt và biết lo lắng tới việc phát triển xã hội loài người, bằng hành động thực tế, thì kết quả sẽ có ích cho nhân loại nghĩa là họ có lối sống trong lành, không sinh sống trên sự đau khổ của người khác. Thế thì nếu mình biết lo bảo vệ hạnh phúc và sự sống của mình thì tại sao không tôn trọng hạnh phúc và sự sinh tồn của kẻ khác? Do đó, nếu ta không muốn đau khổ thì đừng bao giờ tìm hạnh phúc trên sự đau khổ của người.

Nhưng nghề thường đi đôi với nghiệp cho nên bất cứ sinh sống bằng nghề gì thì bắt buộc phải tạo nghiệp. Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa". Như vậy, điều này cho thấy sự có mặt của con người, cũng là sự hiện diện của Thiện và Ác, và mỗi người phải đối diện với  nghiệp do mình tạo ra. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thế giới tương đối nghĩa là một việc đúng đối với người này có thể sai đối với người khác. Vấn đề thiện, ác và tốt, xấu cũng thế. Tháng 8 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ  Harry S. Truman ra lệnh thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki để chấm dứt đệ nhị thế chiến. Đối với Nhật bản thì đây là hành động cực kỳ tàn ác đã man, nhưng phía Hoa Kỳ thì cho đó là quyết định chánh đáng bởi vì nếu không thì chiến tranh còn tiếp diễn và sẽ có không biết bao nhiêu binh sĩ và thường dân hai bên sẽ thiệt mạng. Tuy nhiên, Phật giáo quan niệm rằng: “Thiện” thường được xem như là ánh sáng tượng trưng cho sự an lành, thánh thiện, hạnh phúc, trí tuệ…và “Ác” được coi như là bóng tối biểu trưng cho sự tội lỗi, bất hạnh, buồn rầu, đau khổ, vô minh...cho nên thiện hay ác nghiệp không dựa theo định kiến hay chủ kiến của con người.

Vì thế tuy cùng sinh sống, nhưng hằng ngày có người tạo rất nhiều phước báu và cũng có người gây ra biết bao tội nghiệp. Nhưng xét cho cùng, nghề nghiệp cũng là do phước đức của đời trước đưa đến. Kẻ có phước thì có việc làm dễ dàng, dư ăn dư để và có cơ hội để tạo thêm phước đức cho mai sau. Còn kẻ thiếu phước đức thì có việc làm khó khăn, không giàu có và dĩ nhiên nghề nghiệp không tạo thêm phước đức cho họ về sau. Nếu nhìn kỹ thì cơ hội để tạo thiện nghiệp trong Chánh nghiệp không nhiều, nhưng trong Chánh mạng con người có nhiều cơ hội để tăng trưởng phước đức của họ hàng ngày. Nhiều nghề càng làm thì phước đức càng lớn cho nên về sau những phước đức nầy sẽ mang lại sự giàu có thịnh vượng cho họ. Vì thế nghề nghiệp tốt cũng là phương cách tu phước hữu hiệu nhất. Nên nhớ rằng phước đức mà chúng ta nhận ở đời nầy là quả mà do thiện nghiệp chúng ta tạo ra ở đời trước. Tất cả sự bố thí, cúng dường và cứu giúp người hoạn nạn sẽ đem lại sự giàu có, thông minh và trường thọ trong đời nầy cho chúng ta. Nói thế thì không ai có thể phủ nhận rằng đạo Phật là con đường chân chính luôn hướng dẫn con người thực hành theo chánh đạo để có cuộc sống an vui tự tại.

Hằng ngày chúng ta tu phước, làm thiện, nhưng phước đức thật sự có đem lại hạnh phúc cho chúng ta không?

Nên nhớ phước là do bố thí, cúng dường hay làm việc tốt cho chúng sinh mà có. Còn đức là cái tốt của tự tâm nghĩa là con người có tâm hồn trong sáng, vô ngã vị tha. Một người rất giàu có mà thiếu đạo đức, nhân cách có nghĩa là họ có rất nhiều phước mà thiếu đức thì sự giàu có nầy sẽ là những phương tiện để đưa họ đi mau vào con đường sa đọa, tội lỗi. Phước đức ví cũng như là một cái ly và nước ở trong đó. Cái ly là đức còn nước chính là phước. Nếu đức tròn và phước đủ thì cuộc sống sẽ rất an vui tự tại ví cũng như nước chỉ nằm trong cái ly và không tràn ra ngoài, có nghĩa là cho dù có nhiều tiền bạc nhưng họ vẫn sống cuộc đời thanh cao đạo hạnh, dùng phước cũ để tạo thêm phước mới là người trí, là người tu Phật. Người có đức độ thì nhìn sự giàu có chỉ là phương tiện của cuộc sống chớ không chạy theo dục vọng làm cho họ dễ bị sa ngã. Ngược lại nếu phước to mà đức kém thì cuộc sống sẽ điên đảo đau thương ví cũng như nước nhiều quá sẽ tràn ra ngoài cái ly, có nghĩa là phước có dư đủ mà đức không tăng làm cho cuộc sống thiếu thăng bằng. Thí dụ hiện nay ở Việt Nam có nhiều người vì thời thế  trở thành rất giàu có. Tiền thì càng ngày càng giàu có, nhưng nhân cách và đạo đức không tăng trưởng khiến họ sa đọa vào những chỗ trụy lạc làm cho gia đình mất hạnh phúc, dễ tan vỡ. Như thế, phước không thật sự đem lại hạnh phúc, an vui cho con người nếu đạo đức của họ không tăng trưởng.

Sống trong thế gian này, không ai dám tự xưng mình là người toàn thiện, nhưng muốn hướng về con đường thiện, chúng ta nên rèn luyện bản thân sống trong khuôn khổ đạo đức nhân bản nghĩa là phải cố gắng tu tâm dưỡng tánh, tu nhân tích đức và dừng tạo nghiệp bất thiện. Ngược lại, nếu không sống trong tinh thần đạo đức, thì chúng ta sẽ trở thành ác nhân và cuộc đời sẽ là nạn nhân của chính chúng ta.

Tóm lại, người sống đúng Chánh mạng có một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Nghề nghiệp đem lại cuộc sống vừa lợi mình, lợi người và quan trọng nhất là tạo nhiều phước đức cho bây giờ và cho mai sau. Nhưng ý nghĩa thâm sâu của Chánh mạng là sự trong sạch để hướng tâm về giải thoát Niết bàn.

Đứng về phương diện thực hành, người nào sống đúng với Chánh mạng thì mới có cơ hội thành tựu những nhánh Chánh đạo còn lại. Trái lại, người không có Chánh mạng thì sẽ không có Chánh kiến (và ngược lại). Còn người sống trong tà hạnh thì chỉ có tà tư duy bởi vì tư duy đó dựa trên cơ sở của tham, sân, si, ái dục.

Thiền trong Phật giáo không nhất thiết phải là ngồi kiết già hay vào định để có giải thoát, nhưng thiền trong cuộc sống là phản quang tự kỷ nghĩa là hằng ngày chúng ta cần những giây phút yên lặng để tĩnh tâm và nhìn lại về mình. Nhìn lại thân, khẩu, ý đã làm những gì khiến cho chúng ta có hạnh phúc, an lạc và nhìn lại thân, khẩu, ý đã làm những gì biến cuộc sống nhiều phiền não, lo âu. Từ đó chúng ta có định hướng sáng suốt và thiết thực hơn cho cuộc sống chính mình. Vì thế chìa khóa để có hạnh phúc hay khổ đau nằm gọn trong bàn tay của chúng ta. Do đó học Phật là biết cách sống, biết cách mở cánh cửa thiên đàng hạnh phúc. Ngược lại, sống trong vô minh bất giác sẽ đưa con người đọa lạc vào chốn khổ não trầm luân.  

Chánh ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh mạng được xem là nền tảng đạo đức nhân bản của con người mà nhà Phật gọi là Giới (morality). Thực hành Giới đứng đắn chắc chắn sẽ mang lại hạnh phúc ấm êm cho bạn và cho gia đình của bạn. Nên nhớ Giới của đạo Phật chỉ là lời kêu gọi (lời khuyên nhủ) của Đức Phật với mục đích khuyến khích con người làm lành lánh dữ, tu tâm dưỡng tánh để tự mình có kết quả tốt đẹp cho cuộc sống của mình chớ Đức Phật không có quyền năng để trừng phạt kẻ phạm giới hay ban thưởng cho ai cả. Nhưng dựa theo luật nhân quả, mình gieo nhân thì một ngày nào đó, chính mình sẽ thọ báo kết quả thiện, ác đó khiến cho cuộc sống có hạnh phúc hay khổ đau. Đối với tiến trình giải thoát tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ thì Giới là nền tảng để kiến tạo căn nhà Bát chánh đạo. Bởi vì người thực hành đứng đắn Giới thì tâm mới có thể vào định. Tâm an trú trong định thì trí tuệ sẽ phát sinh mà trực nhận chân lý, có giải thoát. Ngược lại, kẻ phá Giới thì chỉ có tà định và dĩ nhiên cuộc sống sẽ có nhiều sóng gió, đau thương.

6)Chánh tinh tấn ( Complete or Full Effort or Right Effort) là yếu tố quan trọng tạo ra mối liên hệ mật thiết về nhân quả hành trì với bảy yếu tố khác. Nếu bất cứ nhánh nào trong tám nhánh không có Chánh tinh tấn thì nhánh đó khó lòng đạt đến kết quả. Vì thế Chánh tinh tấn là động lực thôi thúc, động viên  giúp các nhánh khác hoàn thành mỹ mãn.

Đức Phật dạy rằng: “Và này các Tỳ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn? Ở đây, này các Tỳ-kheo:

-Với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm.

-Với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm.

-Với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm.

-Với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn”.

Chánh tinh tấn nhắm thẳng vào ba mục đích bỏ ác, làm thiện và thanh tịnh tâm được Đức Phật mô tả qua bài kệ như sau:

“Không làm mọi điều ác

Thành tựu các hạnh lành

Tâm ý giữ trong sạch

Chính lời chư Phật dạy”.   (Pháp Cú 183).

Do đó, thực hành Chánh tinh tấn là để phát triển lòng từ bi, tâm Bồ-đề.

7)Chánh niệm (Complete or Thorough Awareness or Right Mindfulness) là ghi nhớ những đạo lý chân chính. Chánh niệm thanh tịnh hóa bản tâm bằng cách ngăn chận và diệt trừ tâm Tà và phát triển cũng như vun bồi tâm Chánh. Vì thế chánh niệm có nghĩa là sửa cái tâm cho nó đi theo con đường Chánh mà còn được gọi là thiền quán. Chánh niệm chính là chìa khóa của giây phút hiện tại. Nếu không có nó con người không thể nào nhìn thấy thế giới mình đang sống một cách đơn giản, rõ ràng mà chúng ta sẽ lạc bước vào thế giới quay cuồng của ý thức hay vô thức. Có thể nói Chánh niệm được xem như là một người canh cửa, một người bảo vệ luôn trông chừng cho chúng ta khỏi bị lôi cuốn vào tà niệm. Chúng ta không nên để tâm dong ruổi bất cứ nơi nào, không gởi tâm vào thế giới mộng tưởng, cũng không đưa tâm về quá khứ hay tương lai. Đức Phật đã ví thời gian như sau:

Quá khứ như giấc mộng

Tương lai như ảo ảnh

Hiện tại như đám mây”.

Nói như thế thì trong khi tâm chạy qua chạy lại giữa các giấc mộng, ảo ảnh và các đám mây, chúng ta có thể thực tập Chánh niệm để đem tâm trở về và làm cho tâm ra khỏi những rối ren trong đời sống hằng ngày. Ý thức luôn thôi thúc con người thỏa mãn những dục vọng lôi kéo từ bên ngoài. Thí dụ đang đọc sách, chợt một ý nghĩ  lóe lên rằng: “Bây giờ hãy đi kiếm món gì để ăn mặc dù mình không đói”. Thế là mình bỏ đọc sách, mở tủ lạnh, lục lọi để tìm kiếm từ món này đến món khác. Cái gì thúc đẩy chúng ta hành động như thế? Tất cả chỉ bắt đầu bằng một ý nghĩ. Trong cuộc sống, chúng ta đã bị các ý nghĩ  (ý thức) điều khiển gần như cho tất cả mọi hành động mà chúng ta không hề để ý đến. Vì thế thực hành Chánh niệm giúp hành giả nhận thức được bộ mặt thật của ý thức, không cho nó lôi cuốn, nhận chìm vào trong quỹ đạo của thế giới vô minh. Khi nhìn rõ những gì đang diễn ra ở giây phút hiện tại thì tuệ giác sẽ hướng dẫn chúng ta chọn lựa và hành động đúng với thiện pháp thay vì chạy theo thỏa mãn những dục tính của bản ngã. Chỉ khi nào chúng ta thấy được dục vọng thiêu đốt người đắm say nó như thế nào thì chúng ta mới thấy dục vọng là đáng từ bỏ. Chánh niệm cũng có trách nhiệm cảnh giác chúng ta trong lúc giận dữ để quay tâm sang những ý niệm chân chính khác. Chính chánh niệm báo trước cho chúng ta một tình trạng  giận dữ sắp sinh khởi để có thể chuyển hóa khiến cho tâm được an lành. Do đó Phật giáo luôn luôn kêu gọi con người hãy đạt cho được sự thanh bình trong tâm của chính mình trước thì sau đó tự nhiên thanh bình của thế giới sẽ đến theo, nghĩa là “tâm an thì thế giới an và tâm bình thì thế giới bình”. Con người hằng ngày luôn chạy theo vọng tưởng vì chúng ta quên chánh niệm. Lục dục, thất tình lôi cuốn tâm của chúng ta chạy theo nó. Vì thế chánh niệm lúc nào cũng có thể đưa con người trở về với chánh đạo.

Với sự giảng dạy về sự tu tập Định học và Tuệ học, trong Kinh Đại Niệm Xứ, Đức Phật đã giảng về Bốn Niệm Xứ:

-Này các Tỳ kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết-bànĐó là Bốn niệm xứ.

Thế nào là bốn? Này các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.

Như vậy, con đường độc nhất đi đến giải thoát là phải thực hành viên mãn cả Bốn Niệm Xứ bao gồm thân, thọ, tâm, pháp. Với tầm quan trọng của Tứ Niệm Xứ, Đức Phật đã khẳng định rằng hành giả chỉ chuyên cần thực hành viên mãn thì chỉ Tứ Niệm Xứ thôi cũng có thể đưa hành giả thoát khỏi sầu khổ, tham ưu ở đời và sau cùng chứng ngộ Niết bàn.

Thực hành chánh niệm tức là thực hành Tứ Niệm Xứ để biết thật rõ ràng những biến hành của thân, thọ, tâm, pháp đang xảy ra trong hiện tại một cách vô tư như một tấm gương soi chỉ phản chiếu những gì diễn ra trước mặt để hành giả thấy nó thật sự là (as is) và từ đó mới có thể làm chủ thân, khẩu, ý của mình để điều phục mọi tham ưu ở đời. Thí dụ khi tâm khởi tham, ta biết tâm đang khởi tham. Tâm không khởi tham thì ta cũng biết tâm không khởi tham. Sân và si cũng thế. Do đó, khi biết tâm có tham hay tâm không có tham thì chỉ biết mà không cần tác ý làm gì cả bởi vì khi duyên diệt thì tâm tham hay tâm không tham tự nó biến mất. Vì thế thấy biết “như thật” là thấy biết bản chất thật đang là của tất cả hiện tượng ngay vào thời điểm đó từ tâm lý đến sinh lý mà không phê phán, không phán xét hay cộng thêm ngã kiến vào. Thí dụ ngay bây giờ vì mắt thấy tiền nhiều nên tâm tham phát khởi. Bây giờ dựa theo giáo lý Duyên Khởi nghĩa là khi cái nầy có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia sẽ diệt nghĩa là vì mắt thấy tiền (có cái nầy) nên tâm tham phát khởi (cái kia có). Bây giờ Chánh niệm tỉnh thức để biết tâm đang ở trạng thái tham, rồi buông xả ý niệm tham (cái này diệt) thì tâm tham cũng biến mất (cái kia diệt). Sân và si cũng như vậy. Vì thế Chánh niệm là cẩm nang đời sống tâm linh, là phương pháp thực tập hữu dụng hằng ngày của tất cả hành giả muốn diệt khỏi tham, sân, si. Người có Chánh niệm thì ăn biết mình đang ăn, đi biết mình đang đi, nói biết mình đang nói, làm biết đang làm. Người có Chánh niệm dù làm bất cứ một việc gì cũng thong thả, chủ động, ý tứ, ngăn nắp và luôn dựa theo tinh thần chân chánh lợi tha. Do đó họ có một phong cách nhẹ nhàng, tế nhị, thanh thoát. Khi nói năng tiếp xử, họ nói một cách từ tốn thành thật, không làm thương tổn đến danh dự của người khác. Ngược lại, một nguời sống thiếu Chánh niệm mà đầy vọng tưởng Tà niệm thì việc làm của họ sơ suất, cẩu thả mà cầu cao. Lời nói của họ huênh hoang tự đắc, ngạo mạn mà thiếu trung thực hay thiên lệch làm cho người khác chán ghét lánh xa. Vì lời nói, hành động, suy nghĩ của họ được phát xuất bởi lòng tham dục, tính tự cao và thiếu ý thức chân chánh. Thế thì Chánh niệm giúp chúng ta chọn lựa một cách sáng suốt những gì nên vun trồng và phát triển và dĩ nhiên những gì cần từ bỏ. Chánh niệm cho ta thấy thật chất của mọi hiện tượng. Người thực hành Chánh niệm luôn hành động một cách sáng suốt thay vì phản ứng trong vô minh cho nên cuộc sống trở nên bớt căng thẳng và dĩ nhiên có nhiều an lạc. Chánh niệm thường đi đôi với tỉnh giác nghĩa là hành giả luôn thức tỉnh để quan sát và hiểu biết chuyện gì đang xảy ra ngay vào thời điểm hiện tại đó. Tỉnh thức Chánh niệm nhắc nhở con người luôn cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng trong mọi suy nghĩ, lời nói và hành động để khỏi gây phương hại đến  cho mình và cho người.

Ngày xưa có một vị Tỳ kheo sống trong một cái am bên một bờ ao. Vào một đêm nọ trời trong trăng tỏ, vị Tỳ kheo thấy một con rùa từ dưới ao bò lên. Bỗng đâu có một con chó rừng xuất hiện. Thấy mồi, chó vội vàng chạy lại cắn vào chân rùa, rùa liền thụt chân vào, chó cắn vào đầu, rùa vội thụt đầu vào. Cả đầu, bốn chân và đuôi là sáu phần đều thụt vào mai một cách an toàn. Con chó rừng cắn mãi vào thân rùa rồi lật qua lật lại mà con rùa vẫn không hề hấn gì cả. Cuối cùng chó mệt nhoài và đành bỏ đi. Thấy vậy, vị Tỳ kheo liền giác tỉnh bảo rằng việc tu hành của mình cũng như rùa thụt đầu vậy nghĩa là mình phải biết làm chủ, kiểm soát và cẩn trọng mỗi khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Nhờ an trú trong Chánh niệm và tinh tấn tu hành chẳng bao lâu vị Tỳ kheo đắc quả A la hán.

Dựa theo Kinh Trung Bộ (bài kinh số 10) thì Pháp Tứ Niệm Xứ thường được hiểu là “Con đường duy nhất “ để tiến đến giải thoát giác ngộ, nhưng thật ra “Con đường duy nhất” đã được Đức Phật nhắc đến không phải là Tứ Niệm Xứ mà chính là Bát Chánh Đạo. Trong kinh Pháp Cú (273-274), Đức Phật dạy rằng:

Trong tất cả các con đường

Con Đường Tám Chánh là thù thắng nhất

Đây là con đường duy nhất

Không có con đường nào khác

Để đi đến tri kiến thanh tịnh

Vì thế con đường duy nhất để đi đến giải thoát giác ngộ là Bát Chánh Đạo mà Tứ Niệm Xứ với bốn nền tảng của Chánh niệm chỉ là một phần của con đường đó.

Tóm lại, mặc dầu ngày nay các cuộc hành trình để đưa con người ra ngoài không gian và đến mặt trăng hay những hành tinh xa xôi khác được thực hiện một cách dễ dàng, nhưng con đường đi đến thanh tịnh Niết Bàn vẫn còn xa xôi và cần rất nhiều nỗ lực. Nhưng nếu con đường chúng ta đi có khi buồn tẻ thì chánh niệm sẽ là ánh sáng êm dịu hướng dẫn tốt nhất để giúp con người sống an vui tự tại trong đời nầy vậy.

8)Chánh định ( Full, Integral or Holistic Samadhi or Right Concentration) là nhánh cuối cùng của con đường tám nhánh. Tại sao lại cuối cùng? Bởi vì trước khi thực hành chánh định, hành giả đã trải qua 7 nhánh đầu để thanh lọc thân, tâm sống đời đạo đức nhân bản tức là có Giới. Từ đó hành giả thực tập buông xả, luôn giữ tâm ở giây phút hiện tại và duy trì chánh niệm mà có an định. Hoặc là hành giả có thể thực tập trong tư thế ngồi thiền, tâm cột chặt vào một đối tượng trong một thời gian dài, không tán loạn thì sẽ có định. Bát Chánh đạo là tám sợi dây luôn quyện tròn lại với nhau, bổ túc cho nhau giúp hành giả đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát. Chánh định là cái mầm của chánh kiến vì nếu không có định thì sẽ không có tuệ. Nhưng khi trí tuệ phát sinh thì định sẽ vững chắc hơn. Trong khi đó chánh định là hoa trái của chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn bởi vì nếu không có Giới, có đời sống trong sạch đạo đức nhân bản thì không bao giờ có định. Nhưng một khi tâm đã an định, hành giả sẽ dễ dàng buông xả và sống đời đạo đức hơn. Nói cách khác, tám nhánh luôn luân chuyển từ nhân thành quả rồi từ quả thành ra nhân, nhân này quả nọ, bổ túc cho nhau khiến cho hành giả có được năng lực sâu mạnh để phát sinh trí tuệ, và trực nhận chân lý. Thực hành Chánh định giúp hành giả nhận chân bản chất vô thường, khổ và vô ngã của tất cả nhân sinh vũ trụ trong thế gian này. Đây là cái biết trực nhận từ bản tâm chớ không còn qua sách vở nữa. Từ đó, hành giả sẽ nhận thức rất rõ ràng rằng niềm vui, nỗi khổ không phải là Tôi mà chỉ là sự vận hành của ngũ uẩn. Khi vui thì chỉ biết là vui chớ không phải là Tôi vui. Nỗi đau đớn có đến thì biết hiện giờ thân đang đau chớ không phải là Tôi đau. Sự biến hoại vô thường cũng không phải là Tôi hay là tự ngã của Tôi. Đối với người đời, vô thường dẫn đến khổ. Nhưng một khi tâm đã an định, trí tuệ phát sinh thì hành giả sẽ thấy biết rõ ràng rằng thế gian là vô thường, vô ngã chớ không có chi là chân thật cả. Vì thế nếu còn chấp vào ngã nghĩa là chấp thân, tâm này là Ta, là của Ta và tất cả những vật sở hữu là của Ta thì người đó không bao giờ có được Chánh định.

Trong Kinh Định, Đức Phật đã giảng làm thế nào để như thật rõ biết Bốn Thánh đế (Tứ Diệu Đế) như sau:

- Này các T-kheo, hãy tu tập định. Này các T-kheo, T-kheo có định, như thật rõ biết (pajānāti). Và như thật rõ biết gì?

Như thật rõ biết: “Đây là Khổ”. Như thật rõ biết: “Đây là Khổ tập”. Như thật rõ biết: “Đây là Khổ diệt”. Như thật rõ biết: “Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt”. Đường đưa đến Khổ diệt”.

Như vậy, nếu không có Chánh Định, chúng ta sẽ không thể viên mãn được Bát chánh đạo cũng như không thể như thật rõ biết Khổ Đế, Khổ Tập Đế và càng không thể chứng ngộ Niết-bàn. Vai trò quyết định của Chánh Định đối với sự giải thoát lại được Đức Phật chỉ dạy một lần nữa trong Kinh Đại-Bát-Niết-bàn, trước khi Ngài nhập Vô Dư Niết-bàn như sau:

Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỳ-kheo,chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Định mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh giải thoát mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử.

Khi mở toang sáu cánh cửa thì gió bên ngoài thổi vào làm giao động ngọn đèn trên bàn và một khi ngọn đèn bị giao động thì ánh đèn không tỏ, lu mờ. Con người thì cũng thế, nếu chúng ta để cho lục căn tha hồ tiếp xúc với lục trần thì vọng tưởng tự do tràn vào xâm chiếm và quậy phá thanh tâm của chúng ta. Khi tâm chứa đầy vọng tưởng thì Tham-Sân-Si dấy lên và đây là nguyên nhân làm con người đau khổ. Đèn tâm bị lu mờ có nghĩa là tâm bị giao động thì chúng ta không thể thấy rõ được bản chất chân thật của đối tượng. Vì thế muốn đánh tan vọng tưởng để tâm được ổn định, tức là an tâm, thì chánh định sẽ giúp chúng ta rèn  luyện tâm định để thấy rõ được bản chất thực của đối tượng mà đào thải nó. Vì thế chánh định còn được gọi là thiền Chỉ, có nghĩa là dừng. Ngày xưa Đức Phật nhờ thiền định mà được giác ngộ. Vì thế thiền định là cốt nhìn lại, tức là phản quang tự kỷ để tìm cho ra con người thật của chính mình một khi đã lắng hết tâm tư để thấy con người thật ấy. Con người vì lăn lộn trong sinh hoạt hằng ngày làm cho hao tổn tinh thần. Nếu bây giờ ngồi lại cho tinh thần sáng suốt thì mới nhìn thấy mọi hiện tượng một cách chính xác. Có thiền định mới mong trí tuệ được phát sinh để tiến đến giải thoát.

Đối với những ai muốn đạt đến cứu cánh tối thượng giải thoát giác ngộ, Chánh định là chứng và an trú tứ thiền để có giải thoát trở thành Thánh giả:

 -Sơ thiền: Còn được gọi là tầng thiền thứ nhất. Hành giả sau khi tìm được một nơi vắng vẻ, ngồi xuống và giữ cơ thể cho được thẳng trong tư thế thoải mái tự nhiên. Sau đó bắt đầu quán sát hơi thở. Trong khi bám sát hơi thở, hành giả phải tác ý trong tâm là phải ly tất cả những tham muốn dục vọng ngay cả dục vọng trở thành giải thoát giác ngộ cũng phải bỏ luôn. Rồi sau đó hành giả phải ly tất cả các bất thiện pháp cho nên kinh nói rằng “ly dục ly bất thiện pháp” là vậy.  Ly dục nghĩa là hoàn toàn thoát ly những đối tượng của dục tức là thân viễn ly. Còn “ly bất thiện pháp” là từ bỏ những cấu uế (dục vọng) của tâm tức tâm viễn ly. Nói cách khác ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Sau đó hành giả phải tìm cho mình một đề mục và phải bám sát để mục đó. Nếu tâm không còn vọng tưởng, chỉ còn một đề mục thì lúc ấy hành giả có tầm, có tứ nghĩa là không còn vọng tâm xen tạp. Lúc đó hành giả sẽ chứng và an trú sơ thiền, có được một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh và phải có tầm, có tứ. Nói cách khác một khi hành giả đã từ bỏ tất cả dục vọng, tham muốn cuộc đời thì tâm sẽ phát sinh một trạng thái hỷ lạc nhưng với điều kiện là phải bám sát một đề mục hành thiền của mình, đừng để cho vọng tâm xen tạp trong bất cứ giây phút nào.

-Nhị thiền: Sau khi chứng và an trú sơ thiền, bây giờ hành giả tiếp tục hành trì bằng cách diệt tầm diệt tứ. Hành giả lúc đó sẽ chìm vào trong trạng thái định và tâm rất an bình mà không cần bám víu vào bất cứ đề mục nào nữa. Lúc ấy hành giả chứng và an trú vào tầng thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh và dĩ nhiên không tầm, không tứ nghĩa là lúc đó hành giả sẽ không còn bất cứ điều gì suy nghĩ trong đầu cả tức là ý thức bị diệt, buông xả tất cả. Đến đây hành giả sẽ đạt được trạng thái nội tỉnh nhất tâm.

-Tam thiền: Ở tầng thiền thứ hai, hành giả có hỷ (niềm vui) là do định sanh,  nhưng bây giờ nếu muốn đi sâu thì hành giả phải bỏ luôn hỷ (không còn bám vào niềm vui nữa). Hành giả quán vào thân để biết toàn thân có sự an lạc do định sanh. Sau khi ly hỷ (gạt bỏ niềm vui trong tâm, đừng có thích thú nữa), trú xả (không chấp bất cứ ý niệm nào, chỉ biết những biến hành trong thân của mình một cách trung thực chẳng hạn như trạng thái lạc thì biết rằng thân mình có lạc hoặc trạng thái khổ thì biết rằng thân mình có khổ, nhưng đến tầng thiền này thì trạng thái khổ sẽ không còn nữa mà chỉ có lạc), chánh niệm tỉnh giác (luôn luôn thức tỉnh để quan sát và hiểu biết chuyện gì đang xảy ra trong cơ thể của mình. Tỉnh giác cần phải có chánh niệm bởi vì nếu niệm bây giờ nghiêng về tà niệm thì lúc đó chánh định sẽ biến mất mà trở thành tà định vì thế tỉnh giác cần đi đôi với chánh niệm), thân của hành giả sẽ có sự lạc thọ phát sinh (ở tầng thiền thứ ba này cơ thể của hành giả sẽ không còn đau đớn, không còn bực bội, không còn mỏi mệt mà cơ thể hoàn toàn ở trạng thái thoải mái, khinh an, thanh thoát). Kinh điển gọi trạng thái này là xả niệm (bỏ hết ý niệm), lạc trú (trú trong an lạc) và hành giả lúc ấy chứng và an trú tầng thiền thứ ba.

-Tứ thiền: Ở tầng thiền thứ nhì hành giả có hỷ, lạc rồi đến tầng thiền thứ ba hành giả bỏ hỷ mà chỉ có lạc. Đến tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ luôn lạc, bỏ luôn khổ nghĩa là phải bỏ hết, đừng cảm thú những lạc thọ của thân nữa và ngay cả những cảm giác khổ nào ở trong thân thì cũng bỏ đi, diệt hỷ, diệt ưu (tuy niềm vui, hay đau buồn đã được bỏ ở tầng thiền thứ nhì, nhưng nếu hành giả không chú ý thì nó sẽ trở lại cho nên ở tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ hết) do vậy hành giả sau khi xả lạc, xả khổ rồi còn phải diệt cả hỷ, diệt cả ưu để cho hết các cảm thọ của thân, tâm. Nói cách khác hành giả phải bỏ hết, không bám víu vào hạnh phúc, không đau khổ bực tức vì nghịch cảnh, không còn cảm thọ của thân và cảm thọ của tâm. Đến đây hành giả không khổ, không lạc, không hỷ, không ưu, xả niệm thanh tịnh (buông bỏ hoàn toàn tất cả ý niệm nghĩa là nếu có lạc đến thì hành giả cứ bình thản, nếu có khổ, có hỷ hay có ưu đến thì hành giả vẫn bình thản lúc nào cũng ở trạng thái xả) thì hành giả chứng và an trú tầng thiền thứ tư. Ở đây thân, tâm của hành giả hoàn toàn trong sáng, không lạc, không khổ, không hỷ, không ưu, nhưng hành giả vẫn biết với tâm rất thanh tịnh, thanh thoát, nhẹ nhàng.

Khi đã đắc thiền, hành giả phải quan sát thật kỹ phương thức nào đã đem lại sự đắc thiền. Như một nhà thiện xạ bắn tên chẻ một sợi tóc. Người đó phải chăm chú, quan sát và nhớ rõ từng giai đoạn từ cách giữ chân sao cho được thăng bằng, vị trí dây cung, cây cung và mũi tên…để về sau làm lại giống y như vậy và sẽ chẻ được sợi tóc. Thiền giả cũng thế, cần quan sát kỹ những yếu tố đưa đến đắc thiền. Khi định tướng bị mất, hành giả sẽ lập lại những tiến trình cũ và cố quen thuộc với định tướng ấy thì sẽ đắc định trở lại như ý muốn. Hành giả chứng một tầng thiền sau khi đã hoàn toàn thanh lọc cho hết những chướng ngại và vị ấy sẽ an trú trong định ấy suốt cả ngày như một vị vua đi vào một khu vườn đã được dọn sạch hoàn toàn.

Hành giả sau khi đắc tứ thiền, tâm hoàn toàn trong sáng, hoàn toàn thanh tịnh tức là có Định. Nhưng đối với Phật giáo, Định không phải là mục đích sau cùng bởi vì cứu cánh tối thượng của Phật giáo vẫn là trí tuệ (wisdom). Tiến trình Giới - Định - Tuệ thì Định đóng vai trò cũng quan trọng, nhưng việc đạt được Định không đưa lại sự giải thoát vì Định chỉ có thể thanh lọc tâm ở những trạng thái bình thường chớ không thể phá vỡ những tập khí, hành động hay phiền não ăn sâu thẳm trong tâm. Vì thế, vào thời Đức Phật còn tại thế, ngoài Phật giáo ra còn nhiều tôn giáo khác có thể đưa hành giả vào định, xa hơn nữa có rất nhiều ngoại đạo cũng luyện được ngũ đại thần thông, nhưng họ đâu có giải thoát. Chỉ có thiền quán đưa hành giả đi sâu vào tâm thức, tìm đến cội nguồn của phiền não, ô uế bất tịnh ngay cả những phiền não vi tế núp sâu thẳm trong tâm để quán sát sự thật, hóa giải chúng và sau cùng đưa đến trí tuệ viên mãn và giải thoát. Chính tuệ giải thoát đã tạo ra sự giác ngộ chớ tuyệt đối không phải do sự nương tựa từ tha lực của bất cứ một vị Phật nào và dĩ nhiên không phải là do ngẫu nhiên mà hốt nhiên đại ngộ. Do đó, một khi tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, hành giả bắt đầu thiền quán (Minh Sát Tuệ) cho đến khi trí tuệ bừng sáng và khám phá ra chân lý tối thượng Tứ Diệu Đế mà trong đó Bát chánh đạo là độc lộ để có giải thoát giúp hành giả thấy biết như thật về vô thường, vô ngã, về nhân duyên, về Niết bàn và về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường thoát khổ.

Tuệ quán là một tiến trình tu tập rất phức tạp cho nên Tôn giả Xá Lợi Phất diễn tả trong Tiểu Bộ Kinh rất chi tiết về 73 loại trí vì thế sự giác ngộ vào thời Đức Phật còn tại thế là sự tu tập viên mãn các loại trí đó. Trí có thể được hiểu như là khi tuệ đã hoàn mãn. Dựa theo pháp tu Thiền Quán (Thiền Minh Sát)(Thiền Trí Tuệ) (Vipassana) muốn phát triển trí, có 16 Tuệ Minh Sát cần phải tu tập để đạt đến tứ quả Thánh bởi vì Trí tuệ là yếu tố trực tiếp đưa đến giải thoát giác ngộ sau cùng trong khi đó Giới và Định chỉ đóng vai trò gián tiếp. 16 tuệ đó là:

1)Tuệ phân tích Danh Sắc: quán chiếu thân và tâm đều vô ngã, không có cái Ta.

2)Tuệ phân tích nhân quả: quán rằng mình muốn đi. Tâm muốn đi là nhân, chân bước đi là quả nghĩa là Tâm muốn là Danh, chân đi là sắc cho nên Danh là nhân và Sắc là quả.

3)Tuệ suy xét thấy danh sắc vô thường, khổ, vô ngã: Ở tầng tuệ này là do sự suy xét mà thấy chớ không phải thấy bằng trí tuệ. Suy xét thấy thân ngày nào tráng kiện mà giờ đây lưng mỏi gối mòn da nhăn má hóp. Khi còn trẻ thấy đâu nhớ đó, bây giờ nhớ trước quên sau thế thì thân và tâm đều vô thường, hoại diệt. Bất cứ ai sống trền đời cũng đều phải đối diện với biết bao nỗi khổ của sinh, già, bệnh, chết. Cuộc đời thì mơ ước mong đợi từ tất cả mọi lãnh vực. Có khi mơ ước thành sự thật thì hạnh phúc quá mong manh, chợt đến chợt đi rốt cuộc rồi lo lắng, buồn phiền. Còn ước mơ mà không được thì dĩ nhiên quá khổ. Đó là chưa kể cái khổ này chưa hết nỗi khổ khác lại đến…Thế gian, nhân sinh vũ trụ đều là sự cấu hợp của biết bao nhân duyên cho nên vạn vật không có tự thể tức là vô ngã. Nếu tuệ này mạnh thì có mười vi tế phiền não phát sinh làm cho Thiền Minh Sát ô nhiễm hay lu mờ khiến cho hành giả không biết đó là phiền não mà ôm lấy nó cho là vật cao quý, dính ở đó, không tiến tới được. Do tâm ái dục, ngã mạn, tà kiến, cho mình đã đắc đạo quả nên không tiến tới và bị kẹt ở tẩng tuệ thứ 3 này thì gọi là phiền não vi tế. Có 10 vi tế phiền não: Ánh sáng, Phỉ lạc, Sự an vui, Tịnh, Đức tin, Tinh tấn, Trí nhớ, Tuệ, Xả, Vọng.

-Ánh sáng: Khi ngồi tham thiền hay đi kinh hành, ánh sáng phát sinh, có khi yếu ớt như đom đóm, có khi sáng lòa như đèn pha, xẹt qua xẹt lại khiến cho hành giả lầm tưởng rằng mình đắc quả.

-Phỉ lạc: hành giả có thể thấy màu đỏ, ánh sáng bình minh, ngứa ngáy, thân mình lúc lắc, nghiêng qua, nghiêng lại, hất tay, hất chân…Phải niệm “ngứa ngáy…” cho mất phỉ lạc nếu không thì hành giả sẽ dính mắc ở đó.

-Sự an vui: Đây là sự an vui của chư Thiên. Vì chưa từng thấy, hành giả lầm tưởng cho đây là Niết bàn rồi dính kẹt ở đó.

-Tịnh: Lúc niệm thiền quán, hành giả thấy từ từ nhẹ nhẹ, rồi mất, như mê vậy. Hành giả lầm tưởng mê là tịnh, là chứng Niết bàn. Tịnh là thiện pháp, nhưng bởi do hành giả còn tham dục, ngã mạn, tà kiến…cho nên gọi là vi tế phiền não.

-Đức tin: Lúc hành giả đang hành tầng tuệ thứ 3, đức tin phát sinh khiến tâm lo lắng quá nhiều cho tương lai hay quan tâm cho quá khứ mà quên đi giây phút hiện tại cho nên hành tuệ không đến nơi đến chốn. Vì thế đức tin biến thành vi tế phiền não.

-Tinh tấn: Quá sức tinh tấn, không biết mệt mỏi, không nghỉ ngơi, quá sức lại ít ngủ khiến cho hành giả kém trí nhớ, có hại cho sức khỏe thì cũng là vi tế phiền não.

-Trí nhớ: Hành tầng tuệ thứ 3 làm cho trí nhớ phát sinh khiến hành giả thấy mình sáng suốt, hiểu biết nhiều. Rồi từ đó nhớ những chuyện viễn vông ở quá khứ, lơ là không tiếp tục thiền quán cho đến nơi đến chốn thì cũng là vi tế phiền não.

-Tuệ: Trong lúc thiền quán thì trí tuệ phát sinh để biết rằng Danh Sắc đều trống không, không phải là Ta hay là của Ta. Hành giả nghĩ rằng sau này mình sẽ thông thái, biện tài vô ngại mà quên đi hành thiền. Đó cũng là vi tế phiền não.

-Xả: Khi thực hành xả, hành giả thấy mình có tâm  bình thản, không buồn, không vui. Thấy thế sự dửng dưng, không thỏa thích cũng không giận hờn khiến hành giả nghĩ mình đã đắc đạo vì không còn phiền não khuấy động. Nghĩ như vậy là không đúng vì hành giả chưa đắc gì cả.

-Vọng: Trong khi thực hành thiền quán, hành giả muốn thấy lại những hình ảnh. Thí dụ người có tâm tham, thường thấy cảnh đẹp đẽ. Người có tánh si thường thấy những cảnh lu mờ, không sáng tỏ. Hoặc những người có tánh sân thường thấy thú dữ, hay những cảnh đáng ghê sợ. Những hình ảnh đó đều là vi tế phiền não chớ không phải đắc đạo.

Nói chung, trong 10 loại vi tế phiền não trên, hành giả có khi chỉ có 1 hay vài, ít khi có đủ 10 loại.

4)Tuệ thấy về sinh và diệt của Danh, Sắc: Thân thì càng ngày càng cỗi rồi sau cùng hoại diệt. Còn tâm thì không thật cho nên tâm luôn sinh diệt trong ta. Ý niệm, cảm thọ, hành tác luôn biến đổi sinh diệt. Vì sự vô thường hoại diệt của Danh Sắc cho nên Đức Phật dạy rằng: "Người thấy Pháp Sanh-Diệt của Danh Sắc, dù là có sanh mạng chỉ trong một ngày, cũng quí báu hơn kẻ không thấy pháp Sanh Diệt của Danh Sắc, sống đến trăm tuổi". (Kinh Pháp Cú).

5)Tuệ quán sự hoại diệt: quán về sự hoại diệt của thế gian, vạn vật.

6)Tuệ sợ hãi: quán thâm sâu những nỗi lo sợ, tận gốc rễ.

7)Tuệ bất toại nguyện: Thế gian này không có gì thật sự là của Ta cho nên càng có nhiều thì càng lo nhiều, giữ dùm cho thế gian cho nên đến khi nhắm mắt của cải thế gian phải trả lại hết cho thế gian. Ngũ uẩn thì sinh diệt cho nên có thân thì phải chịu các bệnh tật, khổ não, không bao giờ hài lòng, thỏa nguyện.

8)Tuệ chán ghét: quán Danh Sắc vô thường vô ngã cho nên cuộc đời luôn bất toại ý.

9)Tuệ ham muốn giải thoát: quán thế gian là vô thường vô ngã cho nên khổ nhiều hơn vui, hạnh phúc có đó rồi mất đó cho nên hành giả muốn hướng về giải thoát, không còn phiền não khổ đau.

10)Tuệ suy tư: tuệ này ôn lại các tuệ trước cho đến khi thấy biết rõ ràng rốt ráo.

11)Tuệ hành xả: quán chiếu sự buông xả để không buồn, không vui, không đam mê ngũ uẩn mà cũng không còn sợ ngũ uẩn. Nếu thiếu tuệ này, không thể đi đến Niết bàn. 

12)Tuệ thuận thứ: tuệ này còn có tên là tuệ “Hướng về Niết bàn”. Tuệ hành xả và tuệ thuận thứ quan hệ và giúp đở cho nhau. Đến đây hành giả phải cân bằng ngũ căn là Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn. 

Tín căn phải đi đôi với tuệ căn bởi vì nếu Đức tin phát sinh nhiều hơn Trí tuệ thì sinh ra tà kiến. Còn Tuệ căn nhiều mà Tín căn ít thì sinh ra hoài nghi.

Tấn căn phải đi đôi với Định căn bởi vì nếu Tinh tấn nhiều hơn Định thì sinh ra phóng tâm. Còn Định nhiều mà Tinh tấn kém thì sinh ra ngủ gục. Tuệ này còn được gọi là tuệ “Ôn lại” từ tuệ thứ 4 đến tuệ thứ 11. Đến đây tâm hành giả phát sinh 37 Pháp chứng quả Bồ đề (Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo). Tam tướng phát sinh: đến đây hành giả thấy tam pháp ấn “Vô thường, khổ, Vô ngã” cùng phát sinh một lúc. Đức Phật dạy rằng khi hành giả thấy vô thường thì cũng thấy khổ não, vô ngã. Khi thấy khổ não thì cũng thấy vô thường và vô ngã. Khi thấy vô ngã thì cũng thấy vô thường và khổ não. Nhưng tùy duyên, tùy nghiệp khiến cho hành giả chú ý cái nào nhiều hơn thì thấy cái đó rõ rệt hơn hai cái kia. 

13)Tuệ cắt đứt dòng phàm còn gọi là tuệ chuyển tộc: Sau khi quán chiếu từ tuệ thứ 1 đến đây thì hành giả chỉ biết Niết bàn một chút thôi mà nhà Phật gọi là chuyển tánh. Cũng như người đu dây muốn nhảy từ bờ bên này sang bờ bên kia. Khi chân vừa chạm đất của bờ bên kia là cảm biết Niết bàn, nhưng chưa hoàn toàn đạt được cảnh giới đó bởi vì tay vẫn còn nắm dây đu nghĩa là tâm chưa hoàn toàn lìa phàm giới.

Từ tuệ thứ 1 đến tuệ thứ 12 là phàm tuệ.

Từ tuệ thứ 13 đến tuệ thứ 16 là Thánh tuệ.

14)Tuệ đạo: Đến đây mọi phiền não bị cắt đứt. Trong 8 cái tham diệt được 4 còn 4. Trong 2 cái Si diệt 1 còn 1. Trong 2 cái Sân còn nguyên chưa diệt được cái nào. Đến tầng tuệ thứ 14 này thì mọi hoài nghi mới thật sự chấm dứt cho nên hành giả sẽ không còn hoài nghi về tội phước, về thiên đường, địa ngục hay về luân hồi nhân quả.

15)Tuệ quả: Đến đây hành giả đắc quả Tu Đà hoàn hay Nhập lưu. Khi chết sẽ không còn sợ phải đi vào 4 đường ác đạo.

16)Tuệ phản kháng hay xem xét lại còn được gọi là Tuệ “quay nhìn lại” hay “ôn lại” tức là Tuệ kiểm soát phiền não và Tuệ Niết bàn. Đến đây hành giả xem xét lại trong tất cả 12 loại phiền não gồm có 8 tham, 2 sân và 2 si thì cái nào diệt cái nào còn.

Đây là tiến trình liên tục và thứ tự bắt đầu từ tuệ Danh Sắc cho đến khi hành giả trực nhận tuệ Thuận thứ (tuệ thứ 12) và tuệ chuyển tộc (tuệ thứ 13) thì hành giả nhận biết Niết bàn và trở thành bậc thánh thứ nhất Nhập lưu.

Bây giờ hành giả lập lại từ tuệ thứ 1 cho đến tuệ thứ 15 trừ tuệ thứ 12 là Tuệ chuyển tánh để loại thêm phiền não thì lúc đó hành giả đắc quả Tư đà hàm.

Sau đó hành giả quán trở lại từ tuệ thứ 1 cho đến tuệ thứ 15 để tiếp tục loại bỏ thêm phiền não, hành giả sẽ đắc quả A na hàm.

Sau cùng, hành giả thực hành trở lại một lần nữa từ tuệ thứ 1 cho đến tuệ thứ 15, loại hết hoàn toàn phiền não thì chứng quả A la hán. Đến đây chấm dứt 16 Tuệ Minh Sát đưa hành giả đến giải thoát giác ngộ.

Đây là đạo lộ duy nhất do chính Đức Phật đã vạch ra tức là tam vô lậu học Giới – Định – Tuệ, dẫn đến sự giải thoát bằng tứ Thánh quả. Nói cách khác nếu đạo lộ tu tập nào dẫn đến bốn quả Thánh (Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai, A la hán) thì  đạo lộ đó đúng là giáo pháp của đạo Phật vào thời Đức Phật còn tại thế (thực sự Nguyên thủy, truly original). Đức Phật đã vạch ra một con đường tu tập rất chính xác và rõ ràng như là một khoa học về tâm linh. Mỗi bậc thiền chứng đắc đều có tiêu chuẩn xác định và mỗi tầng thiền tuệ đều có diễn tả và hướng dẫn rõ ràng để giúp hành giả thấu rõ từng bước trên con đường giải thoát. Đạo Phật tuyệt đối không có gì là bí mật cả, Đức Phật không dấu chúng sinh bất cứ những gì Ngài chứng đắc vì thế khi giảng pháp hai bàn tay Đức Phật lúc nào cũng buông xả vì thế vào thời Đức Phật còn tại thế, không chỉ Đức Phật chứng Thánh quả mà còn có trên 1250 vị A la hán và biết bao Thánh giả khác trong ba tầng Thánh còn lại.

Ngày xưa Đức Phật dùng phương pháp Quán Niệm Hơi Thở để có thể nhập  và xuất định. Nhờ phương pháp Quán Niệm Hơi Thở, Đức Phật chứng ngộ Niết Bàn và sau khi thành đạo, Ngài đã giảng dạy phương pháp này cho tất cả mọi người cho đến khi Ngài nhập diệt. Lý do thực hành Quán Niệm Hơi Thở là vì chúng ta muốn chứng nghiệm thực tại tối hậu. Khi chú tâm vào hơi thở, chúng ta khám phá những gì mà chúng ta chưa biết về mình nghĩa là tìm ra ý thức những gì hãy còn trong vô thức. Nói cách khác, pháp môn Quán Niệm Hơi Thở có thể như là cây cầu nối tâm ý thức và tâm vô thức bởi vì hoạt động của hơi thở vừa có tính cách ý thức và vừa có tính cách vô thức. Khi vào định, chúng ta có thể kiểm soát hơi thở hoặc điều khiển hơi thở theo ý muốn của mình. Cao hơn nữa, hành giả có thể ngừng thở một thời gian. Nhờ duy trì ý thức về hơi thở, tự nhiên chúng ta bắt đầu ý thức được các chức năng hoạt động của thân thể mà trước đây chúng ta không hề hay biết (vô thức). Nhờ đó, chúng ta thật sự thâm hiểu sự vận hành trong ta (danh, sắc) nhằm giải thoát khỏi tham sân si bằng cách ý thức chúng rất rõ ràng. Do đó, hơi thở phản ánh tâm trạng của con người. Khi tâm bình yên, thanh thoát, hơi thở đều và nhẹ. Ngược lại, khi tâm bị các trạng thái tiêu cực xâm chiếm, hơi thở nặng nề, thô tháo. Vì thế khi tâm bất an, lo lắng, buồn phiền chỉ cần ngồi yên lặng, hít thở thật mạnh vài lần rồi sau đó thở đều và nhẹ thì mọi buồn phiền sẽ lắng diệu ngay.

Tóm lại, trong Bát chánh đạo, Đức Phật trước tiên giới thiệu Chánh kiến để con người có cái thấy biết đúng về mình và nhân sinh vũ trụ. Có thấy biết đúng, con người không nghiêng theo những ảo ảnh về ngã. Sau đó Đức Phật giới thiệu Chánh tư duy để chúng sinh tránh xa những tư duy liên quan đến tham, sân si, ái dục. Hai phần đầu là thực hành để tâm tránh xa tham ái, dục vọng. Sau đó về phần thực hành, Đức Phật giới thiệu Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng để chúng sinh trở về sống đời trong sạch, đạo đức nhân bản. Có sống đời trong sạch, tâm nhẹ nhàng thanh thoát thì hành giả mới có định và từ đó có giải thoát, trực nhận chân lý. Ngược lại, nếu sống theo tà hạnh thì chỉ cò tà định và dĩ nhiên không bao giờ có giải thoát cũng như Đề Bà Đạt Đa ngày xưa vậy.

Thiền tông Trung Hoa có câu chuyện như sau: Hương Nghiêm thông hiểu thiên kinh vạn quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm Quy Sơn đến và nói: "Anh thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôi biết, anh từ đâu mà có?". Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi đến cùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có. Không tự trả lời được ông tìm đến Quy Sơn và cầu khẩn: "Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời nói này". Quy Sơn bảo: "Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này ngươi sẽ oán ta". Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất. Một ngày kia sau mười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành và nhặt lấy quăng vào một bụi trúc. Miểng sành chạm phải một cây trúc khô và ngân lên một tiếng ngân đặc biệt. Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu được ông từ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà có. Ông quỳ xuống, lạy về phía Quy Sơn và bảo: "Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếu ngày ấy thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu này".

Ngược lại, giáo lý Phật Đà không bao giờ bí mật cả, rất rõ ràng, từng bước một để giúp hành giả thực hành từng giai đoạn tùy theo khả năng và năng lực của mình. Tuy nhiên, nếu muốn đạt đến cứu cánh tối thượng giải thoát giác ngộ thì không dễ, đòi hỏi hành giả thật tâm viễn ly tất cả những dục vọng từ thân và tâm. Từ đó ứng dụng Bát Chánh Đạo thì đạo quả viên thành dựa theo tiến trình giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới khiến chúng sinh sống đời trong sạch, đạo hạnh trong khuôn khổ đạo đức nhân bản thì có Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng. Sau khi thực hành Giới viên mãn, hành giả tiếp tục hành trì Định gồm có Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh Định. Sau cùng phát triển Tuệ Minh Sát bằng cách thực hành rốt ráo Chánh kiến và Chánh tư duy. Thực hành viên mãn Bát chánh đạo đưa hành giả chứng ngộ toàn vẹn Bốn Thánh Đế và thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Kết quả của việc thực hành Bát chánh đạo tỷ lệ thuận với việc hành trì nghĩa là nếu hành giả thực hành được 20% thì có hạnh phúc, an lạc 20%. Thực hành đến 50% thì có hạnh phúc, an lạc 50% cho đến khi hành giả thực hành rốt ráo 100% thì bây giờ hành giả có giải thoát giác ngộ trở thành Thánh giả.

Chính Bát chánh đạo là con đường giải thoát duy nhất ra khỏi vòng sinh tử cho nên Đức Phật lại dạy rằng:

“Con đường cao thượng nhất là Bát chánh đạo. Chân lý cao thượng nhất là Tứ Diệu Đế…Đó là con đường duy nhất, không còn con đường nào khác dẫn đến kiến tịnh. Hãy đi theo con đường ấy để sớm thoát khỏi mọi điên đảo của phiền não khổ đau”.

Vì tầm quan trọng của Bát Chánh Đạo cho nên Đức Phật đã nói cho Tu-Bạt-Đà-La, người đệ tử cuối cùng, trước khi Ngài nhập diệt:

"Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhất Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong pháp luật này có Bát Thánh Đạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỳ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán." (Trường Bộ, Kinh Đại Bát Niết Bàn).

          Thực hành Bát chánh đạo là con đường hiệu quả nhất tăng thêm phước đức hữu lậu cho tất cả mọi người. Nhưng nếu thực hành rốt ráo, Bát chánh đạo có thể đưa hành giả đến giải thoát, trở thành bậc Thánh giả. Vì tầm quan trọng của nó, Đức Phật đã khẳng định Bát chánh đạo là độc lộ nghĩa là con đường duy nhất chớ không có con đường thứ hai hay thứ ba nào trên thế gian này để giúp chúng sinh thoát khổ và đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát Niết bàn. Đức Phật đã lấy cuộc đời của mình làm trung tâm điểm để tu tập và dựa vào kinh nghiệm bản thân qua sự nhìn thấy, hiểu biết một cách tường tận. Ngài đã thấy biết tính năng của Bát chánh đạo vượt lên trên hai cách sống: Một bên là hưởng thụ các khoái lạc của thế gian rồi đắm mê vào đó và một bên là khổ hạnh, ép chế cơ thể làm cho nó mất đi tính năng động của các giác quan mà ngộ nhận cho rằng đó là con đường của giải thoát. Vì Tứ Diệu Đế là bốn sự thật, là chân lý chớ không phải là một nền triết học cho nên Bát chánh đạo là một công trình tu tập để tự mình nghiệm biết và nếu thực hành rốt ráo chắc chắn sẽ mang lại biết bao lợi ích thiết thực cho con người và xã hội hiện đại. Trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã giải thích rằng: "Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ có bậc thiện trí mới thấu hiểu.". Do đó, chân lý thì không thể diễn giải bằng ngôn ngữ hạn hẹp của con người, mà chỉ bằng sự thực nghiệm cho nên Đức Phật không truyền dạy tất cả những điều mà Ngài biết. Ngày kia, trong cụm rừng nọ, Đức Phật bốc lên một nắm lá và dạy: "Nầy các Tỳ Khưu, những điều mà Như Lai dạy các ông có thể sánh với nắm lá này, còn những điều mà Như Lai không dạy cũng như tất cả lá trong rừng." (Tương Ưng, tập 5)(Samyutta Nikaya). Đức Phật chỉ dạy những điều mà Ngài xét là cần thiết để chúng sinh có đủ phương tiện mà tự mình thể nghiệm chân lý thì lúc đó trí tuệ sẽ bừng sáng, thấu biết tất cả cũng như tất cả lá trong rừng. Vì thế giáo pháp của Như Lai chỉ là phương tiện, là ngón tay chỉ mặt trăng. Nhưng phương tiện không phải là cứu cánh. Phương tiện là nhân mà cứu cánh mới là quả. Phương tiện là giả mà cứu cánh là thật. Cái vô minh lớn nhất của con người là chấp phương tiện với cứu cánh. Vì thế người tu Phật chỉ nương theo phương tiện để đạt cứu cánh, nương theo ngón tay để thấy mặt trăng. Nhưng đừng lầm phương tiện là cứu cánh, đừng nhìn ngón tay mà quên đi mặt trăng và đừng chấp kinh điển là Chân lý. Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng ánh sáng tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Do đó khi đạt được cứu cánh thì phải bỏ phương tiện, hết bệnh thì bỏ thuốc, tới bờ thì phải bỏ chiếc bè để lên bờ giác ngộ chớ đừng vác bè lên vai mà thêm nặng nhọc khổ đau.

Một người thực hành Bát chánh đạo thì người đó có biết bao lợi lạc. Cả gia đình thực hành Bát chánh đạo thì toàn gia đình sống trong đạo đức nhân bản, trên thuận dưới hòa, hạnh phúc ấm êm. Xã hội thực hành Bát chánh đạo thì xã hội đó bình yên, không còn tội ác, người người tương thân tương kính, thanh bình và hạnh phúc. Ngày nay, Nhật Bản và Singapore là những quốc gia có tinh thần đạo đức rất cao. Người dân biết tự trọng, tôn tri trật tự, không dối trá, không trộm cắp, không gây tội ác. Họ thừa hưởng và tiếp tục thực hành một nền giáo dục rất thực tế từ lúc còn bé cho nên mọi người lớn lên trong khuôn khổ đạo đức và trách nhiệm.

Chúng tôi trích một mẫu chuyện nói về Đại Hàn ngày nay:

Thập niên 60, Hàn Quốc là một trong những nước nghèo đói nhất châu Á. Năm 1968, người Hàn quyết định thay đổi giáo dục bằng cách bê nguyên sách giáo khoa của người Nhật về dịch sang tiếng Hàn và giảng dạy, ngoại trừ các môn xã hội như địa lý, lịch sử và văn học. Lúc đó cũng có nhiều người chỉ trích vì tính sĩ diện của người Hàn Quốc rất cao, lẽ nào lại không tự soạn được một bộ sách giáo khoa. Nhưng họ vẫn quyết tâm thực hiện, vì để có chương trình giáo dục đó, người Nhật đã mất cả trăm năm cải biên từ cách đào tạo của giáo dục phương Tây phù hợp với đặc trưng châu Á, bắt đầu từ thời Minh Trị Thiên Hoàng. Để rút ngắn thời gian, chẳng có cách nào ngoài việc lấy kinh nghiệm của người khác, để còn lo việc khác nữa. Vì Hàn Quốc muốn trở thành một bản sao mới của Nhật, nền kinh tế dựa trên lòng tự hào dân tộc, tính kỷ luật và đạo đức của toàn thể xã hội. 

Đúng 20 năm, đến 1988, Hàn Quốc đăng cai Olympic Seoul, cả thế giới không ai tin vào mắt mình khi thấy kỳ tích bên bờ sông Hàn lại khủng khiếp như thế. Ô-tô, xe máy, dệt nhuộm, hoá chất, đóng tàu, điện tử, bánh kẹo…bên Nhật có cái gì thì bên này có cái đó, dù dân số chỉ bằng 1/3. Không ai biết trong 20 năm đó, cả dân tộc Hàn Quốc đã nắm chặt tay với quyết tâm thoát nghèo như thế nào. Trên tivi chỉ có 2 chương trình là “dạy làm người” và “dạy làm ăn”, từ cái văn minh nhỏ xíu như nụ cười của một nhân viên bán hàng, đến cách quản lý chi phí của một quán cà phê, đến cách tạo dựng một nhà máy. Từ một dân tộc “xin việc”, tức các doanh nghiệp nước ngoài đến đặt nhà máy tại Hàn và thuê lao động Hàn, Hàn Quốc bắt đầu khan hiếm lao động và trở thành dân tộc đi “cho việc”, tức xây dựng các nhà máy ở nước ngoài và hàng triệu người Trung Quốc, Thái Lan, Philippines đứng xếp hàng xin các ông chủ Hàn Quốc cho họ việc làm. Hàn Quốc đã thành công trong việc tiếp nối Nhật Bản thành dân tộc đi cho việc người khác. 

Năm 1988, pháo hoa thắp sáng 2 bờ sông Hàn, người Hàn Quốc ôm nhau và cười trong nước mắt, hơn 100 quốc gia giàu có nhất trên thế giới miễn visa cho họ, Hàn Quốc giờ đây đã bước chân vào nhóm 24 quốc gia thịnh vượng nhất loài người. 

Phần lớn hệ thống giáo dục của con người là nhằm để nâng cao trí thông minh. Mặc dù có những hạn chế, chỉ số IQ vẫn là cách cơ bản để đánh giá trí tuệ và con người đã chi tiêu biết bao triệu đô la để rèn luyện trí thông minh với mục đích cải thiện chỉ số IQ. Nhưng có khi nào việc cải thiện trí thông minh lại là việc làm vô ích nếu không biết cải thiện đạo đức nhân bản cho cuộc sống.

Thế giới hiện nay đang trên đà phát triển về mọi phương diện. Nhiều học thuyết, đạo học, lý thuyết triết học đông tây có lẽ không còn mấy thích hợp vào trong xã hội của thời đại văn minh hiện đại. Tuy nhiên, Bát chánh đạo dù trải qua trên 2500 năm vẫn đứng vững và tiếp tục đóng vai trò chính yếu vào trong cuộc sống của con người trên khắp hoàn cầu. Trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya) Đức Phật dạy rằng: "Như Lai chỉ dạy một điều: đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ" cho nên hễ con người còn khổ, Bát chánh đạo vẫn còn là kim chỉ nam hướng dẫn mọi người sống đúng, sống phù hợp với chân lý để trau dồi thân, khẩu ý của mình, biến cuộc sống từ khổ đau trở thành hạnh phúc và an lạc. Thực hành Bát chánh đạo không những đem lại biết bao lợi lạc cho mỗi cá nhân mà nó có thể mang đến sự hòa hợp, tương kính, trật tự, an ổn và thanh bình cho quốc gia xã hội. Học Bát chánh đạo không thể dừng lại ở mức độ khảo sát hay tìm hiểu bởi vì Bát chánh đạo không phải là một nền triết học mà là phương pháp tu tập. Chúng cần được thể nghiệm trong cuộc sống để đào tạo đạo đức nhân bản cho mỗi người và biến cuộc sống thế gian này thành hạnh phúc, an vui và tự tại. Nhưng cứu cánh tối thượng của Bát chánh đạo vẫn là đưa con người đến giải thoát, có thanh tịnh tự tại Niết bàn và vĩnh viễn sẽ không còn tái sinh nữa.

Sống không giận không hờn không oán trách

Sống mỉm cười với thử thách chông gai

Sống vươn lên cho kịp ánh ban mai

Sống chan hòa với những người chung sống

Sống là động mà không xao động

Sống là thương mà chẳng vấn vương

Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường

Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.

          Để kết luận bài viết này, chúng tôi mượn lời của Tiến sĩ Oldenburg, một học giả người Đức, đã phát biểu về Đức Phật như sau:

          “Đức Phật không thể giải thoát cho ai cả. Ngài dạy con người phải tự mình giải thoát mình cũng như chính Ngài đã tự giải thoát Ngài. 
Con người chấp nhận giáo lý của Ngài không phải vì giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân được thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy. Chân lý trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ nơi chính mình”.

Phần Đọc thêm: Nếu quý độc giả có thích thú muốn tìm hiểu thêm những phương pháp mà Đức Phật thực hành khổ hạnh trước khi Ngài chuyển qua thiền định và thiền quán để có giải thoát, xin mời đọc thêm toàn bộ đó tiếp theo: Đại kinh Saccaka 36 (Trung Bộ Kinh):

“Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta hãy nghiến răng, dán chặt lên lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm!" Này Aggivessana, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta. Này Aggivessana, như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại người ấy. Này Aggivessana, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta, này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thì một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, ví như tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của người thợ rèn. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thời một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị kích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Aggivessana, ví như một người lực sĩ chém đầu một người khác với một thanh kiếm sắc, cũng vậy, này Aggivessana, khi ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau : "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu, một cách kinh khủng. Này Aggivessana, ví như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết mạnh; cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu một cách kinh khủng. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Aggivessana, ví như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dẫu cho niệm được an trú, không dao động nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại, nhưng không chi phối tâm Ta.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân Ta. Này Aggivessana, ví như hai người lực sĩ sau khi nắm cánh tay một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú, không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Lại nữa, này Aggivessana, chư Thiên thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gotama đã chết rồi". Một số chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết, nhưng Sa-môn Gotama sắp sửa chết". Một số chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết. Sa-môn Gotama, cũng không phải sắp chết. Sa-môn Gotama là bậc A-la-hán, đời sống của một A-la-hán là như vậy".

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn