Thích Thông Phương
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh 2017
7. PHẬT PHÁP ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY
I. ĐƯA NGƯỜI GIÁP MẶT SỰ THẬT, CHỨNG NGHIỆM CHÂN LÝ
Đề tài hôm nay là “Phật Pháp Đến Để Mà Thấy”. Đây là câu thường gặp trong Kinh A-hàm và Kinh Nikaya.
Ý nghĩa thứ nhất là đưa người giáp mặt với sự thật, chứng nghiệm chân lý. Phật pháp là pháp giác ngộ lẽ thật. Sự giác ngộ đó ở trong tâm người chứ không phải trong lý luận, chữ nghĩa.
Thiền sư Lâm Tế có lần nhắc: “Người học tin chẳng kịp cho nên mới hướng ra bên ngoài để tìm kiếm. Dù cho tìm kiếm được thì cũng là tướng thù thắng của văn tự chứ trọn không được ý Tổ sống”. Ý nghĩa chính không phải nằm trong văn tự. Ý của Phật hay Tổ sống nằm ngay trong tâm giác ngộ của mỗi người. Thiền sư nói thêm: “Các Đại đức! Ông chớ có nhận cái áo! Áo không biết cử động. Chính người mặc áo thì có cái áo Thanh tịnh, áo Vô sanh, áo Bồ-đề, áo Niết-bàn, áo Tổ, áo Phật v.v... “. Có nghĩa là Bồ-đề, Niết-bàn, Tổ, Phật hay Chân như, Phật tánh v.v... chỉ là những danh từ. Giống như chiếc áo mặc bên ngoài chứ không phải bản thân Bồ-đề, Niết-bàn. Chiếc áo mặc thì không biết cử động. Chính con người mới biết cử động. Đó mới là Pháp sống. Học Phật phải khéo thấu qua được những chiếc áo đó để giáp mặt sự thật chứ không chỉ dừng ở chiếc áo mà lý luận. Đó là khéo học.
Thí dụ như danh từ Bồ-đề, Niết-bàn v.v... thì đâu có biết giác ngộ, đâu có thắng được phiền não. Giác ngộ, Niết-bàn hay giải thoát v.v... cần phải ở ngay nơi mình. Học Phật pháp, ban đầu là nương văn tự nhưng sau phải vượt qua văn tự, ngôn ngữ để trực tiếp chứng nghiệm chân lý. Vậy mới cứu được mình, hợp với bản tính của Phật.
Quý vị đọc lịch sử Phật sẽ thấy khi Đức Phật mới thành đạo Ngài không muốn đi thuyết pháp, mà mục đích Ngài tu hành thành đạo là để giáo hóa chúng sinh. Rồi đợi Phạm thiên thưa thỉnh ba lần, Ngài mới hứa khả là có ý sâu. Bởi Ngài thấy chỗ chứng đạo của Ngài quá sâu xa, vượt ngoài trí hiểu biết suy luận tầm thường của thế gian, nên Ngài không muốn vội đi thuyết pháp. Trong kinh kể, khi đó Ngài nói: “Ta đã thấu được pháp thâm diệu khó nhận, khó hiểu, vắng lặng, tuyệt vời, không biện giải gì được. Nó cũng tinh tế chỉ có bậc Thánh nhân mới hiểu được”. Chỗ mà Ngài thấy, chứng ngộ đó vượt ngoài lý luận, biện giải nên phải là bậc Thánh, bậc chứng ngộ mới cảm thông được. Còn chưa cảm thông thì khi Ngài nói ra sợ sẽ có hiểu lầm, sai lệch ý của Phật.
Chính buổi đầu đó, Đức Phật đã ngầm nhắc cho hàng đệ tử học Phật sau này phải học vượt qua ngôn ngữ nói năng, văn tự ghi chép, mới cảm thông được chỗ Phật muốn chỉ, muốn nói. Có nói ra chỉ là phương tiện bất đắc dĩ của Phật mà thôi. Chân lý sống thì không ở trong phương tiện đó. Giống như chiếc xe đưa mình đi đến thành phố, chiếc xe không phải là thành phố, không phải là mục đích đến. Nếu mình cứ bám vào chiếc xe thì không đạt được mục đích mà chỉ tạm nương chiếc xe để đi đến nơi mục đích mình muốn. Trong Kinh Viên Giác, Phật có nói: “Những Kinh giáo mà Phật nói ra giống như ngón tay chỉ mặt trăng”, người khéo thì phải nương ngón tay để thấy mặt trăng, không thể bám vào ngón tay mà cho là mặt trăng. Cũng vậy, những ngôn giáo để chỉ chân lý nhưng chân lý không nằm trong ngôn giáo.
Trong Kinh Lăng-già nói, Phật thuyết pháp trên bốn mươi năm nhưng khoảng giữa đó Ngài chưa từng nói một chữ. Tức là ý của Phật vốn không ở trên danh từ hay những lời nói đó.
II. BA THỨ BÁT-NHÃ
Khi chúng ta học Bát-nhã, có chia ra thành ba loại: Văn tự Bát-nhã - Quán chiếu Bát-nhã - Thật tướng Bát-nhã. Chữ Bát-nhã dịch nghĩa là trí tuệ, nhưng trí tuệ ở đây không giống như trí tuệ ở thế gian thuộc về trí tuệ sanh diệt, đây là trí tuệ trong Phật pháp. Thường gọi là trí tuệ Bát-nhã để mọi người khỏi nhầm lẫn.
- Văn tự Bát-nhã: Người nghe, học, nghiên cứu kinh điển thì mở sáng được những điều hiểu biết về Phật pháp. Đó là cũng có trí tuệ nhưng là trí tuệ trên văn tự, trí tuệ của Phật của Tổ chúng ta học lại chứ chưa phải của chính mình. Thí dụ học nghe về lý vô thường thì hiểu lý vô thường, nhưng chưa thật sự cảm nhận được lý vô thường nơi chính mình. Tức là chưa có sức diệu dụng, chưa đến được những chỗ vi tế của vô thường. Bởi vậy, cần phải tiến thêm một bước nữa.
- Quán chiếu Bát-nhã: Nghe, hiểu rồi thì phải thường xuyên quán chiếu vào cuộc sống thực tế hàng ngày, đem chỗ mình học hiểu đó quán chiếu thẳng vào sự vật, các pháp để chứng nghiệm lẽ thật của nó. Trong Tâm Kinh Bát-nhã có câu “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Đây là thường phải quán chiếu năm uẩn của mình là không, quán tới, quán lui trong cả những lúc đi-đứng-nằm-ngồi để thấy rõ nó là không chứ không phải chỉ hiểu trên chữ nghĩa. Đem lý không đó vào ngay trong thực tế. Chứ hiểu năm uẩn là không mà gặp ai nói xúc phạm gì thì chúng ta liền thấy bực mình, khó chịu. Vậy thì nó không phải là không. Công phu quán chiếu này rất quan trọng, có quán chiếu được như vậy mới đưa chúng ta đến bờ Niết-bàn.
- Thật tướng Bát-nhã: Chúng ta quán chiếu thường xuyên đến khi thuần thục thì chính mình tự sáng tỏ ra. Tự mình mở sáng được trí tuệ, rõ lẽ thật đó ở ngay nơi chính bản thân mình. Nghĩa là chính mình là chân lý chứ không phải chia ra có ai quán, có cái gì để quán, như vậy nó thành cách biệt nhau. Đến đây, thật tướng đã hiện tiền, mình không cần phải quán nữa nhưng vẫn thấy nó là không. Đó là chỗ diệu dụng của Bát-nhã. Trực tiếp giáp mặt với chân lý mới thật sự qua được các khổ nạn. Chuyển “ngũ uẩn giai không” của Bồ-tát Quán Tự Tại trong Tâm Kinh thành của mình, ở ngay nơi chính mình. Chỗ này cần phải có công phu quán chiếu chứ không phải chỉ lý luận suông, phải là hành giả, phải thực hành sâu, miên mật, luôn luôn không gián đoạn. Không phải lúc rảnh mới quán, lúc bận thì thôi.
Cổ Đức có thí dụ: Người muốn qua sông phải bước lên thuyền, chèo thuyền sang bờ bên kia, khi tới bờ rồi thì bước lên bờ đi tự do. Bước lên thuyền là Văn tự Bát-nhã. Nhưng bước lên thuyền mà ngồi hoài thì cũng không thể tới bờ kia được, phải ra sức chèo qua bờ. Đó là Quán chiếu Bát-nhã. Tới bờ rồi mà ngồi trên thuyền thì cũng không đi đâu được, vì mắc kẹt trên thuyền, phải bước lên bờ, bỏ thuyền lại đi tự do. Đó là Thật tướng Bát-nhã.
Hoặc trường hợp chèo qua tới bờ mà tiếc chiếc thuyền, kéo theo lên bờ hay vác theo lên bờ thì cũng bị ngại. Hoặc nghĩ mình lên bờ rồi thì phá bỏ chiếc thuyền cũng không phải. Cần phải để lại cho những người chưa qua, họ cần chiếc thuyền đó để qua.
Ở đây, lỗi không phải ở chiếc thuyền. Cũng vậy, Pháp thì không có lỗi mà lỗi là do người dính kẹt vào đó. Nếu chúng ta khéo nương vào Pháp để tiến tu, thực chứng được chân lý thì Pháp là phương tiện đưa ta đến chân lý. Đó là điều tốt không có lỗi.
III. NHẤN MẠNH SỰ CHỨNG NGHIỆM
Phật Pháp nhấn mạnh việc chứng nghiệm chân lý. Người xưa nói: “Không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con”. Muốn dứt khổ phải dứt cái nhân tạo nên cái khổ, không thể đứng bên ngoài suy lý mà hết khổ được. Cũng vậy, “Muốn qua hết khổ ách” thì phải thực hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật từ đó mới “chiếu kiến” – thấu được năm uẩn đều không. Bát-nhã Ba-la-mật sâu xa đó không nằm trong chữ nghĩa, lý luận hay những trang giấy mực. Nếu chỉ ở trên lý luận, biện giải thì đâu có gọi là Bát-nhã sâu xa được. Tức là mình phải trực tiếp vào trong Bát-nhã, tự mình mở con mắt Bát-nhã. Lý luận, biện giải là bước đầu, dù lý luận, biện giải có hay đến mấy đi nữa thì cũng không thể biến năm uẩn thành “không” được.
Thiền sư Quảng Trí từng cảnh tỉnh những người học Phật hay lầm hiểu trên “cái không”, lo nói “không” mà chưa hiểu “không”. Ngài nói: “Không thể chấp rằng: ta đã ngộ xong, phiền não tánh nó là không, nếu khởi tâm tu lại là điên đảo. Thế nhưng, tánh phiền não dù là không mà nó hay khiến thọ nghiệp, cũng như nghiệp quả nó không tánh mà cũng tạo nên nhân khổ, khổ đau tuy là hư dối nhưng lại khó nhẫn là sao?”. Lẽ thật thì tánh phiền não là không nhưng không phải mình nói không là nó thành không, mà phải tu hành để chứng nghiệm nơi bản thân chính mình. Mình hiểu là không, nghe kinh nói là không rồi mình nói là không. Nhưng gặp khổ đau thì mình cũng khổ đau, khó nhẫn, khó chịu. Cho nên mình phải thực tu, thực chứng lẽ thật đó rồi cảm nhận thực sự chứ không phải mình hiểu không, nói không thì nó là không.
Trong Kinh A-hàm có bài kinh: Có lần Phật vào rừng, các vị Tỳ-kheo đi theo, Phật nắm một nắm lá trong tay rồi hỏi các vị Tỳ-kheo: “Lá trong tay Ta nhiều hay lá ngoài rừng nhiều?”. Các vị Tỳ-kheo đáp: “Lá trong tay Thế Tôn ít, lá ở ngoài rừng thì rất nhiều”. Phật nói “Cũng vậy, những điều Ta chứng được, hiểu được thì giống như lá cây trong rừng, còn những điều Ta nói ra cho các ông cũng như lá cây trong tay”.
Qua thí dụ này, ta thấy rằng dù ta học kinh điển mà Phật đã nói trong “Tam tạng Kinh Điển” cũng giống như nắm lá trong tay, còn những điều Phật hiểu, Phật chứng nghiệm, Phật chưa nói hết như lá trong rừng. Dù có học được năm, mười bộ kinh, năm, mười bộ luận cũng như nắm lá trong tay. Muốn thấu được lá trong rừng thì phải tu, phải thực hành, tỏ sáng trí tuệ, mới cảm thông được những điều Phật nói chưa hết. Ngôn ngữ còn trong giới hạn, còn lẽ thật, chân lý sống thì phải thực tu mới chứng nghiệm được. Các vị Thánh hiền hay các Thiền sư tu được chứng ngộ, các Ngài hay đánh thức đưa người học trực tiếp cảm nhận chân lý chứ không phải dừng trên ngôn ngữ.
Nhà Thiền có câu chuyện: Thượng tọa Định là đệ tử nối pháp của Thiền sư Lâm Tế. Một hôm trên đường đi thọ trai ở nhà thí chủ về, đi đến một cây cầu thì gặp ba vị tọa chủ là những vị trụ trì, giảng pháp. Một trong ba vị đó gặp Ngài hỏi: “Thế nào là tột đáy của sông thiền?”. Thượng tọa Định nghe xong liền chộp ngay ngực vị đó định ném xuống sông. Hai vị kia thấy vậy hoảng hốt xin tha. Thượng Tọa Định buông ra rồi nói: “Nếu không có hai vị tọa chủ đây thì tôi sẽ cho Ngài xuống để biết tột đáy sông thiền”.
Qua đó, thấy Thiền sư học Phật rất trọng lẽ thật, ông muốn rõ tột đáy sông thiền thì ông phải vào trong đó, chứ ông đứng bên ngoài hỏi đùa thì không thể biết được. Cũng vậy, chúng ta đứng đây cứ bàn về Niết-bàn, về Bồ-đề thì cũng không thấy Niết-bàn, Bồ-đề được. Nhiều khi bàn về Niết-bàn còn cãi nhau, có người nói Niết-bàn thế này, có người nói Niết-bàn thế kia. Cãi nhau rồi không thấy Niết-bàn đâu chỉ thấy sanh tử. Đúng lẽ thật, muốn thấy Niết-bàn thì phải thực hành, chứng nghiệm được Niết-bàn.
Bài Kinh “Có Pháp Môn Nào” trong Tương Ưng Bộ Kinh, Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, các ông mắt thấy sắc, trong nội tâm có tham, có sân..., có si v.v... thì biết rõ nội tâm của mình có tham..., có sân, có si, hoặc nội tâm không có tham..., sân..., si, thì cũng biết rõ nội tâm không có tham..., không có sân, không có si. Này các Tỳ-kheo! Biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm của vị ấy, thì có phải chúng là những pháp mà do lòng tin được hiểu biết hay do yêu thích được hiểu biết, do lắng nghe được hiểu biết, hoặc do suy tư về phương pháp, do kham nhẫn v.v... có phải vậy không?”. Các Tỳ-kheo thưa: “Bạch Thế Tôn, không”. Phật hỏi thêm: “Có phải các pháp này do thấy với trí tuệ nên được hiểu biết hay không?”. Các Tỳ-kheo thưa: “Phải, bạch Thế Tôn”.
Phật lại nói: “Đây chính là pháp môn, này các Tỳ-kheo, do pháp môn này ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú, biện luận, có thể xác chứng với chánh trí. Vị đó biết rõ sanh tử đã hết, việc làm đã xong”.
Phật xác chứng rõ ở trong nội tâm mình có tham, sân, si, biết có tham, sân, si. Trong nội tâm mình không có tham, sân, si cũng biết không có tham, sân, si. “Cái biết” này không phải do suy tư, biện luận hay do nghe ai nói lại, mà “cái này” mình phải xác chứng bằng chính trí tuệ của mình, hiện hữu nơi mình chứ không phải ở trong kinh điển, sách vở. Chính mình phải giáp mặt sự thật đó bằng chính trí của mình, không phải chỉ dừng ở sự học hiểu bên ngoài là đủ. Phải đến để mà thấy!
Học Phật là chính mình nương theo những lời Phật dạy, rồi chính mình thực hành, chính mình tiến đến sự thể nghiệm, cảm nhận được Phật pháp, trực tiếp giáp mặt với chân lý Phật đã dạy. Như vậy, chúng ta mới thật sự có sức để thắng được phiền não, đau khổ, nếu không ,thì chỉ học, hiểu mà chưa đủ sức thắng.
Quý Phật tử học Phật thì hiểu thân tâm là vô thường, tạm bợ, mỏng manh, không bền chắc. Nhưng có thật sự mình hiểu nó là vô thường không? Nếu thật sự hiểu như vậy thì ví dụ khi đi khám bác sĩ, biết mình bị bệnh ung thư v.v... thì mình có thấy nó vô thường không? Hay lúc đó mình đã trả cái vô thường đó lại cho Phật, cho Tổ. Đó là điều thực tế.
VI. TÓM KẾT
Phật pháp là pháp chân thật, ở ngay nơi chính mình, không thể ở đâu khác. Đức Phật ra đời tự giác ngộ, tự chứng nghiệm được nơi bản thân rồi mới chỉ lại cho chúng sinh để cùng được giác ngộ như Ngài. Là muốn đưa người trực tiếp giáp mặt với chân lý giác ngộ, không phải chỉ đứng bên ngoài.
Bài pháp đầu tiên Phật thuyết ở vườn Lộc Dã là Pháp Tứ đế - Bốn chân lý cao thượng. Lần chuyển Pháp luân này gọi là “Tam chuyển thập nhị hành” tức là ba lần chuyển thành mười hai hành. Ba lần chuyển là: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển. Thị là chỉ ra, Khuyến là khuyên tu, Chứng là chứng thật.
Thị chuyển:
Phật chỉ rõ ràng cho chúng ta thấy đây là Khổ đế (là cái quả mà chúng sinh đang chịu), đây là Tập đế (là những cái nhân phiền não, tham, sân, si gây nên khổ), muốn hết khổ, đạt an vui Niết-bàn thì phải dứt cái nhân. Đó chính là Diệt đế (là an vui, Niết-bàn). Muốn dứt được cái nhân đó thì phải có đường lối, phương pháp, không phải chỉ lý luận, nói suông mà được. Đường lối đó chính là Bát Chánh Đạo hay Ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đó là Đạo đế. Như vậy, tu đạo đế là dứt cái nhân đưa đến khổ, không có nhân thì không có quả khổ, thật sự chứng Niết-bàn, an vui là Diệt đế.
Khuyến chuyển:
Khi đã chỉ rõ cho chúng sinh thấy rồi thì Phật khuyên tu, tức là Khuyến chuyển. Phật nói: “Đây là khổ các ông cần phải biết; đây là Tập (tức là cái nhân đưa đến khổ) các ông cần phải đoạn dứt; đây là Diệt (dứt khổ) các ông cần phải chứng; đây là Đạo (là con đường để dứt khổ) các ông cần phải tu. Các ông không thể chỉ hiểu biết suông mà cần phải thực hành, phải tu để tiến thẳng vào lẽ thật”.
Chứng chuyển:
Phật xác định rõ những điều đó là những điều Ngài đã thực chứng, đã trải qua, rồi chỉ dạy lại cho chúng sinh, không phải Ngài nghe ai nói hay Ngài suy tư, phỏng đoán. Ngài nói như vậy để dứt lòng nghi hoặc trong chúng sinh, cho chúng sinh biết Ngài đã trải qua rồi, đã đạt rồi. Ngài nói: “Khổ Như Lai đã biết, Tập Như Lai đã đoạn, Diệt Như Lai đã chứng, Đạo Như Lai đã tu”. Tức là những điều đó là những điều Như Lai đã thực hành qua, đã thực chứng rõ ràng mới chỉ dạy cho các hàng đệ tử. Các hàng đệ tử của Phật thì cũng phải học theo cái gương đó, phải thực hành, phải chứng nghiệm, phải trải qua chứ không thể chỉ hiểu suông mà cho là đủ.
Ngài muốn nhắc cho hàng đệ tử học Phật phải thực đến với Phật pháp, nếm được pháp vị của Phật Pháp, chớ không dừng chết trên những ngôn ngữ, văn tự. Cần phải “đến để mà thấy”, đó là thông điệp cho tất cả những người học Phật từ đây cho đến mãi về sau. Học Phật đúng nghĩa là phải chứng nghiệm được thì mới thấy được giá trị cao quý của Phật Pháp, lợi ích thiết thực của Phật pháp ngay trong cuộc sống của chính mình, ngay lúc mình có mặt không phải đợi xa xôi, qua kiếp sau mới chứng nghiệm được. Hiểu, thấm sâu Phật pháp thì sẽ thấy Phật pháp giúp mình chuyển cái nhìn từ mê lầm sang giác ngộ, sáng suốt. Từ đó chuyển hóa được cuộc đời mình.