7 Câu Hỏi Tìm Hiểu Về Pháp Môn Tịnh Độ

02 Tháng Tư 201200:00(Xem: 40281)

7 CÂU HỎI TÌM HIỂU VỀ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

Thích Giác Khang

---- O ----

 1- Đi tu Phật thất, tu pháp môn niệm Phật hay niệm Phật A-Di-Đà mục đích để làm gì ?

 Tu Phật thất, tu pháp môn niệm Phật hay niệm Phật A-Di-Đà mục đích để cầu vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà.

 2- Xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà ở đâu ?

 Xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà ở hướng Tây, hướng mặt trời lặn, cách đây mười muôn ức cõi. Theo ’sự’, xác định hướng Tây là nhằm giúp cho hành giả có một niềm tin để tu thiền và tịnh được nhất niệm. Vì có được nhất niệm và phát nguyện thì mới cảm ứng đạo giao với Phật A-Di-Đà và sẽ được vãng sanh.

 3- Lấy gì để vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà ?

 Lấy thần thức để vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Thần thức còn gọi là linh hồn.

 Khi chúng ta còn sống thì thần thức thể hiện qua 6 căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, óc. Khi chết thì xác thân trở về tứ đại, chỉ còn lại thần thức nó bàng bạc khắp mọi nơi trong không gian. Thần thức tỏa ra xa hay gần tùy theo định lực mạnh hay yếu.

 4- Muốn vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà có mấy điều kiện ?

 Muốn vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà cần phải có 3 điều kiện : Tín - Hạnh - Nguyện.

 *Tín: là lòng tin, tin phải sâu. Tin có 6 :

1/ Tin tự : tin chính mình niệm Phật đạt nhất niệm thì chắc chắn được vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà.

2/ Tin tha : tin chắc chắn rằng Đức Phật A-Di-Đà sẽ tiếp dẫn những chúng sanh nào niệm Phật được nhất niệm và có phát nguyện về xứ Cực lạc.

3 + 4/ Tin nhânTin quả : hiện nay ta đã gieo nhân niệm Phật đạt nhất niệm thì sẽ được hưởng cái quả vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà.

5/ Tin sự : tin có thế giới Cực lạc thật sự ở phương Tây, cách đây mười muôn ức cõi, có Đức Phật A-Di-Đà và chư Thánh chúng. Đức Phật A-Di-Đà và chư Thánh chúng là Chánh báo, còn thế giới Cực lạc là Y báo.

 6/ Tin lý : tức là Chánh báo và Y báo cũng phát hiện từ Chân tâm Phật tánh mà ra.

 * Hạnh: là hành chuyên. Hành có 4 điều kiện : rành rõ, tương ưng, chí thành, nhiếp tâm

1/ Rành rõ : rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo ; rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm Phật rõ ràng không trại, không mờ.

2/ Tương ưng : là tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng, tâm và tiếng hiệp khắn khít nhau.

3/ Chí thành : một lòng tha thiết luôn tưởng nhớ đến Phật, như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.

4/ Nhiếp tâm : là để tâm vào tiếng niệm Phật, không để tạp niệm xen vào, nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ tiếng niệm Phật của mình.

 * Nguyện : là phải mong mõi về Cực lạc, chí thành tha thiết như viễn khách nhớ cố hương, lúc nào cũng nhớ Phật, tưởng Phật như con thơ nhớ từ mẫu.

5- Tín – Hạnh – Nguyện cái nào có trước, cái nào có sau ?

 * Nói về sự: Tín - Hạnh - Nguyện là cái vòng lẩn quẩn, nó cũng giống như cái kiềng ba chân không thể thiếu một. Nhưng tùy theo nhân duyên, hoàn cảnh và trình độ của mỗi người đến với pháp môn Tịnh độ : tín trước hoặc hạnh trước hay nguyện trước.

 Thường thì người sơ cơ đến với pháp môn Tịnh độ bằng tín trước. Tức tin rằng thế giới Cực lạc thật sự ở phương Tây, cách đây mười muôn ức cõi, có Đức Phật A-Di-Đà và chư Thánh chúng. Rồi sau đó mới nhàm chán cõi Ta bà mong mõi về Cức lạc. Mà muốn về Cực lạc phải hành câu niệm Phật cho được nhất niệm.

 * Nói về lý: thì Tín - Hạnh - Nguyện có cùng một lúc, không thể nói cái có trước, cái có sau. Vì trong tín có hạnh và nguyện, trong hạnh có tín và nguyện, trong nguyện có tín và hạnh. Tức là ba phương diện của một thực thể.

 6- Tín – Hạnh – Nguyện cái nào quan trọng ?

 Nguyện quyết định cho sự vãng sanh.

 *Tín: nói về phẩm, có bốn :

1/ Tin sự: của người, trời. Vãng sanh về cõi Phàm Thánh đồng cư Tịnh độ thuộc Hạ phẩm.

2/ Tin lý: của 4 bậc Thánh. Vãng sanh về cõi Phương tiện hữu dư Tịnh độ thuộc Trung phẩm.

3/ Tin sự- lý vô ngại pháp giới: của chư Bồ tát. Vãng sanh về cõi Thật báo trang nghiêm Tịnh độ thuộc Thượng phẩm.

4/ Tin sự - sự vô ngại pháp giới: của Như lai. Vãng sanh về cõi Thường tịch quang Tịnh độ thuộc Thượng phẩm.

 * Hạnh: nói về sanh, có ba: nếu hành được: 8/24 là Hạ sanh, 16/24 là Trung sanh – 24/24 là Thượng phẩm.

- Người- trời: niệm Phật được nhất niệm: .8/24 là Hạ phẩm- Hạ sanh.

 .16/24 là Hạ phẩm- Trung sanh.

 .24/24 là Hạ phẩm- Thượng sanh.

 - Bốn bậc Thánh: vừa niệm Phật vừa nhận lại Phật tánh. Vô niệm.

 .8/24 là Trung phẩm- Hạ sanh.

 .16/24 là Trung phẩm- Trung sanh.

 .24/24 là Trung phẩm- Thượng sanh.

- Bồ tát: vừa niệm Phật vừa tùy thuận giáo hóa chúng sanh. Vô niệm-niệm, niệm-vô niệm: .8/24 là Thượng phẩm- Hạ sanh.

 .16/24 là Thượng phẩm- Trung sanh.

 .24/24 là Thượng phẩm- Thượng sanh.

 * Nguyện: có nguyện thì mới được vãng sanh và phải nguyện chí thành tha thiết.

 Tóm lại: Tín- Hạnh- Nguyện nếu nói về sự thì nguyện quan trọng hơn hết. Vì nó quyết định cho sự vãng sanh. Còn nói về lý thì Tín- Hạnh- Nguyện đều quan trọng như nhau.

 7/ Tu Tịnh độ có chắc chắn vãng sanh không ?

 - Đối với những vị tu đắc Tứ thiền, Tứ không và ba quả Thánh đầu thì câu hỏi này là thừa. Vì định lực của những vị này rất mạnh, nếu muốn vãng sanh sẽ được vãng sanh. Những vị tu đắc Tứ thiền, Tứ không định lực của họ rất mạnh, sau khi chết lập tức sanh về cõi trời ngay. Và trường hợp của những người tạo tội ngũ nghịch, vì quá ác mất hết cái biết nên khi chết bị đọa địa ngục ngay, nên không mang thân trung ấm.

 - Đối với 4 đường ác đạo, cõi người, cõi trời dục giới thì câu hỏi này không trả lời được, vì hiện tượng giới rất là phức tạp, thuộc về nhân quả ba đời mà chỉ có Như lai mới hiểu rõ thôi. Cho nên câu hỏi này phải nên sửa lại là “chúng ta tu Tịnh độ có đầy đủ tín - hạnh - nguyện chưa? Và nhất là nguyện lực có chí thành khẩn thiết không?”.

 Nếu mà chấp nhận câu hỏi này thì trả lời rằng: chúng ta tu Tịnh độ có đầy đủ tín - hạnh - nguyện và nguyện lực có chí thành tha thiết thì chắc chắn sẽ được vãng sanh 100%. Nhưng nếu lỡ lâm chung do cận tử nghiệp nào đó làm trở ngại cho sự vãng sanh phải đọa vào ác đạo, đó là trường hợp ngoài ý muốn. Và do thường ngày chúng ta có huân tập sẵn những chủng tử niệm Phật vào trong alaya thức, thì khi đó chúng ta nhớ lại, liền niệm Phật với một lòng chí thành tha thiết nhớ tưởng Phật, nguyện về Cực lạc. Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc” và chúng ta sẽ được vãng sanh. Vì “Tất cả cảnh giới đều do tâm tạo”, chỉ cần chuyển đổi cái tâm thì cảnh giới sẽ được chuyển đổi.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Chín 2014(Xem: 11930)
Có một hiện tượng buồn: trong giới tu hành vẫn nhiều người cho kinh Đại thừa không phải Phật thuyết mà do người đời sau thêm vào. Trong nhà Phật, chữ Tín quan trọng nhất. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức, có thể sanh ra hết thảy các thiện căn”. Luận Đại trí độ cũng viết: "Đại tín là đại trí"; "Phật pháp như kho báu, người không có tín cũng như không có tay, sẽ chẳng lấy được gì".
26 Tháng Tám 2014(Xem: 9753)
Trong cuộc sống hàng ngày của dân gian, chúng ta rất quen thuộc với nhóm từ “Nam mô A Di Đà Phật” Vậy nhóm từ đó có ý nghĩa là gì ? Muốn hiểu tường tận ý nghĩa nhóm từ đó, chúng ta phải có một trình độ khá cao về khoa học. Nam mô có nguồn gốc là từ Namah (tiếng Phạn) hoặc Namo (tiếng Pali) có nghĩa quy y, kính lạy, quy phục, đem mình về với.
02 Tháng Tám 2014(Xem: 9015)
Trong kinh luận chẳng có tâm tánh, trong kinh luận chẳng có Phật pháp, Phật pháp ở chỗ nào? Phật pháp ở ngay trong tâm quý vị, nhằm dạy quý vị hãy tự ngộ, tự độ. Nói “Phật chẳng độ chúng sanh” là do ý nghĩa này. Vì thế, kiến giải phải thanh tịnh. “Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm”, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng dấy lên một niệm. Dấy lên một niệm đều là vọng niệm. Chẳng dấy niệm, kiến giải sẽ thanh tịnh. Ba điều trên đây (giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh) đều thuộc về Tự Phần. Tự Phần là chính mình, tự tu!
12 Tháng Bảy 2014(Xem: 8126)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức. Đây là tiếng phạn, nếu như theo ý nghĩa của mặt chữ mà dịch thì A dịch thành Vô, Di Đà dịch thành Lượng, Phật dịch thành Giác hoặc dịch thành Trí. Dịch hoàn toàn qua ý nghĩa tiếng Trung Quốc là Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác.
06 Tháng Bảy 2014(Xem: 10004)
Niệm Phật là pháp môn tu khá phổ biến hiện nay. Pháp môn này được những người con Phật thực tập rất tinh chuyên từ thời Thế Tôn còn tại thế. Những cách tu niệm Phật như trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật… đã có từ thời Phật Thích Ca, do chính Ngài chỉ dạy.
05 Tháng Tư 2014(Xem: 17191)