Đăng Ký Về Miền Cực Lạc

28 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 39577)

ĐĂNG KÝ VỀ MIỀN CỰC LẠC
Như Hùng

Khi chúng ta sinh ra, cha mẹ hoặc người thân phải đăng ký để chúng ta có được tấm giấy khai sinh, biết được ngày, nơi chốn mà mình ra đời. Khi lớn lên một chút ta đến trường đi học, rồi từng bưóc ta vào tiểu học trung học, đại học, dù đến đâu và làm gì, ta cũng đều ghi danh, nộp đơn, xin giấy tờ v.v... Ta lại phải đăng ký để có những giấy tờ cần thiết mà quốc gia xã hội đó yêu cầu. Khi đi làm ta cũng điền đơn, bằng cấp, giấy tờ, mới hy vọng có đưọc công việc vững vàng. Ngay cả hôn nhân của mình ta cũng phải hợp thức hoá bằng lễ nghi của tôn giáo hay truyền thống văn hoá của dân tộc mình. Nghĩa là mọi thứ ta đều tính toán, chuẩn bị, sắp đặt, nổ lực, đăng ký, hội nhập, xin xỏ, thì mới mang lại kết quả mong muốn. Khi biết suy tính, hoặc lúc có gia đình vợ con, ta xông pha lo lắng vất vả, để đổi lấy miếng ăn chổ ở cho mình và người thân, ta ngược xuôi đong đếm đo lường để được bằng hoặc hơn kẻ khác, chứ không bao giờ ta nhường bước chịu thua. Ta quyết chí vượt lên trên kẻ khác bằng mọi giá, vì lòng tham, sân, si hay bản năng cố hữu ở trong ta? Tất cả điều đó, thành công hay thất bại, được hay mất, gây khổ đau hay hạnh phúc cho kẻ khác, ta đều phán một câu xanh rờn " ta là vậy đó ". Khi ta già yếu, bệnh tật, tứ bề cô quạnh, sắp bước qua chặng đường của sanh ly tử biệt, ta có chuẩn bị từng bước như trước đó, để đi đâu, về đâu, tới đâu, hay ta vẫn mãi làm kẻ lang thang vô định?

Hình như tất cả mọi thứ trong cuộc đời nầy ta đều phải đăng ký, xin xỏ, vất vả , nổ lực mới có được. Nhưng có một thứ ta không cần làm những thủ tục, không cần nổ lực tranh giành, không cần mời gọi, nó vẫn lù lù xuất hiện, âm thầm đến lặng lẽ đi, nó chập chờn quanh quẩn đâu đây, chờ dịp là tác yêu tác quái. Đó là bốn nguyên lý trực diện của kiếp người " sinh, lão, bệnh, tử ".

Sinh: Trong chúng ta ai cũng biết mình sinh ra, với tinh cha huyết mẹ, nghiệp lực dẫn đưa ta mới có mặt ở thế giới nầy. Nhưng biết một cách rõ ràng minh bạch thì ta thường thờ ơ, lãnh đạm. Thât ra sống ra sao mới là điều đáng nói, đáng được tuyện dương hay đáng được phán xét. Sống là sự tác tạo và nhận lãnh, ta tập sống làm sao có ích lợi cho bản thân, gia đình, xã hội , con người, chúng sanh. Ta có được an lạc, hạnh phúc, biết hy sinh, san sẽ, biết dâng hiến cho đời, cho muôn loài, hay ta tìm cách đổ lỗi cho nghiệp dĩ, than thân trách phận. Ta bằng lòng dấn thân hay mặc cho con nước xoay vần đẩy đưa?

Lão: Trong chúng ta ai không già yếu héo tàn, không bị định luật vô thường chi phối. Sự già yếu đó, có phải là hệ quả tất nhiên của kiếp người. Nếu do vô thường nghiệp quả mà thân già lụm cụm đơn côi thì lại khác, vì đó là điều hẳn nhiên không một ai tránh được. Nếu vì o bế tấm thân, thoả mãn lòng tham, bản ngã, khiến tuổi già đến quá nhanh, thì ta càng không thể đổ lỗi cho kẻ khác, cũng đừng lấy số phận nghiệp quả ra làm bình phong chắn lối. Ta phải biết có những người già vẫn thong dong tự tại, mang niềm vui đến cho kẻ khác, san sẽ sớt chia, dù cảnh sống của họ khổ cực trăm bề. Ăn thua ở chổ, ta có nhận ra được và sống trọn vẹn với chân lý đó hay không?

Bệnh: Chặng đường thứ ba của kiếp người ta phải đối diện. Tùy theo nghiệp quả mà bệnh tật nhiều hay ít, sớm hay muộn, dù gì thì đều phải vượt qua mà sống mà cười, có như thế sự sống của chúng ta mới có giá trị. Bởi lẽ, nghiệp quả của ta có bao nhiêu, ta ráng trả hết bấy nhiêu. Cứ đến, đến hết, trả hết cho xong ở kiếp nầy, đừng lôi kéo dây dưa. Khổ đau bệnh tật chỉ làm đau khổ cho những ai chưa đương đầu tận diệt, và sẽ không làm hề hấn cho những ai quyết tâm vượt thoát, bằng lòng chấp nhận nghiệp quả trong sự hoan hỷ tuyệt cùng. Đàng nào cũng phải ra công giải quyết, tại sao ta không giải quyết một lần cho thoả đáng để không còn vướng bận? Chào mi ! Thôi nhé ta chào mi !

Tử: Hành trình cuối cùng mỗi chúng sanh đều phải bước qua. Chết trong đớn đau phủ ngập, hay chết trong an nhiên tự tại, thì đàng nào cũng phải chết. Tại sao ta không chọn cho mình một cái chết thật hiên ngang, thật đẹp. Vì khi sống ta sống cho đúng nghĩa, cho đáng sống. Sống ta đã không sợ thì làm sao ta sợ chết được. Cái chết không lưu lại nhân ngã, phủi sạch hồng trần, vượt thoát luân hồi hổn độn? Cái giây phút phân ly não nề đó, chỉ mình ta dấn bước, không người thân bạn bè sớt chia gánh chịu. Một mình ta đơn độc, lầm lũi, nhận lãnh, cưu mang. Nghiệp lực chỉ đi theo dẫn dắt những ai còn tác nghiệp, nó sẽ chấm dứt cho những ai không còn tạo ác nghiệp, chuyển nghiệp và quyết lòng hoá giải nghiệp.

Cảnh giới cực lạc ta thường dốc lòng để dành cho chặng cuối đó, hy vọng về được đến đưọc. Nhưng nếu ta chỉ lo cho chặng cuối đó thôi, lại hoá ra bất công với chính mình, và ăn nói làm sao với ba chặng kia ? Sự sống là chuổi dài liên kết, xuyên qua từng quá trình với bao biến động, cái nầy nối nhịp với cái kia, có khi thật ngắn ngủi, ta không làm chủ được. Tại sao ta không sống với sự an lạc ngay bây giờ ở đây, khỏi phải nhọc nhằn chờ đợi ? Quá khứ như dòng nước chảy không chịu dừng, còn ta cứ mãi miết trôi lăn giữa dòng đời biến hiện, thoạt nổi thoạt chìm, không thấy đâu là bến bờ. Khi nào ta biết trân trọng phút giây hiện tại, cái phút giây tỉnh thức tuyệt vời đang có mặt? Ta sống trọn vẹn trong sự an tịnh, thở nhịp cùng đất trời cây cỏ, tỉnh thức trong từng suy tư hành hoạt, thì bốn nguyên lý đó sẽ không gây hề hấn cho ta nữa. Sự có mặt của ta ở cuộc đời nầy chỉ là sự dừng chân thăm hỏi, đến lúc lại phải ra đi, ta rủ bỏ tất cả để nhẹ nhàng cất bước. Một sự chuyển tiếp, tự nguyện dấn thân, cho và vì hạnh nguyện phụng sự chúng sanh, không còn nghiệp lực dẫn dắt nữa.

Cực Lạc không những cảnh giới mà ta hết lòng hướng nguyện, và là sự chọn lựa tuyệt vời nhất trong thế giới thống khổ điêu linh, trong cõi tái tê đau đớn đến độ dư thừa. Ta quyết tâm tìm về, và đây có phải kiếp sau cùng của chúng ta còn sót lại? Ở đâu, bao giờ và lúc nào ta mới đến được? Tự mình đăng ký với chính mình, cho miền Cực Lạc của riêng mình. Tự mình nổ lực dốc lòng, tìm đuốc soi đường dẫn lối, ra công gắng sức, để thấy Cực Lạc là đây, bây giờ, ở đây, tại đây, không ở đâu xa. Đăng ký ! Làm ngay bây giờ kẻo trể.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 2016(Xem: 13229)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bi và trí tuệ. Năng lực của Phật có từ trường rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh Độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì còn bị phiền não che lấp tánh Di Đà, nay niệm Phật là phương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.
04 Tháng Mười Một 2015(Xem: 16889)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ. Từ này khá xa lạ đối với nhiều tín đồ theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền Theravāda. Theo quan niệm thông thường của truyền thống Theravāda thì ngoài những Đức Phật quá khứ đã nhập diệt và những Đức Phật tương lai chưa ra đời, thì trong thời điểm hiện tại không tồn tại một Đức Phật nào khác.
30 Tháng Mười 2015(Xem: 14727)
"A-di-đà kinh khắc trên đá ở Tương dương là do Trần Nhân Lăng đời Tùy viết, nét chữ thanh đẹp nên nhiều người hâm mộ. Đoạn từ câu 'nhất tâm bất loạn' trở xuống có thêm: Chuyên trì danh hiệu, dĩ xưng danh, cố chư tội tiêu diệt, tức thị đa thiện căn phước đức nhân duyên. Truyền bản ngày nay đã thoát mất hai mốt chữ này"
19 Tháng Mười 2015(Xem: 19181)
Trong thời gian qua, trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen đã xảy ra nhiều tranh luận khá gay gắt về vấn đề đức Phật A-di-đà, nay thầy Phước Nguyên gửi cho ban biên tập cuốn tiểu luận nghiên cứu từ Tạng Kinh Sanskrit và Tây Tạng để phổ biến đến quý độc giả quan tâm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 10765)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh độ hay Cực lạc (Phạn ngữ Sukhavatì) được mô tả là cảnh giới tuyệt vời với tất cả những sự thù thắng, trang nghiêm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 29245)
Hiện tại pháp môn niệm Phật đang rất phổ biến tại Việt Nam cũng như Trung Quốc và Đài Loan. Thượng tọa cũng đã giải thích, để được về Tây phương thì phải loại trừ tham, sân, si, còn đối với một người xuất gia muốn đạt được đến sự giải thoát chắc chắn phải tu tập giới-định-tuệ. Kinh A-di-đà có nói đến cảnh giới Tây phương cực lạc. Con muốn hỏi: Đức Phật A-di-đà có hay không, và khi niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì có được sanh về thế giới Tây phương hay không?
23 Tháng Chín 2015(Xem: 11858)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
13 Tháng Bảy 2015(Xem: 9316)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
27 Tháng Sáu 2015(Xem: 8551)
Bốn mươi sáu đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà; đó cũng chính là tông dụng của Kinh Duy Ma Cật: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh”.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 10780)
Khi thảo luận về nhu cầu tinh thần của người sắp chết dưới cái nhìn Phật giáo, trước hết chúng ta cần phải xem xét một số điểm quan trọng, thí dụ như: