Thư Trả Lời Hộ Niệm

29 Tháng Giêng 201505:11(Xem: 4987)
Bất Niệm Tự Niệm Chánh Hay Tà ?

Hỏi :
Tôi là một Phật tử tu theo pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam và cũng là người ngộ ra từ các đĩa CD Khuyên Người Niệm Phật của Cư Sĩ.
Hiện nay ở Việt Nam, đối với các Phật tử theo pháp môn Tịnh Độ đang dấy khởi mạnh mẽ phong trào niệm Phật Bất Niệm Tự Niệm. Chỉ trong vòng từ 1 cho đến 2 tuần là có thể đạt được Bất Niệm Tự Niệm.
Tôi rất băn khoăn không hiểu pháp môn này có phải là chánh đạo hay không vì rất nhiều đồng tu cũng đã rủ tôi tham dự.
Vậy kính bạch với Cư Sĩ hãy giảng giải cho tôi được rõ để tôi có thể lựa chọn con đường của mình. Tôi cầu xin Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Thế Chí, Chư Phật, Chư Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng Mười Phương gia trì cho tôi tìm được thiện tri thức để có thể giải đáp cho tôi cái mối băn khoăn trên.
Một lần nữa cúi mong Cư Sĩ chỉ bảo giúp cho tôi được rõ.
Trả lời:
Diệu Âm Thu Quang,
Câu hỏi của Thu-Quang mở ra những vấn đề khá tế nhị và nhạy cảm lắm, không dễ quyết đoán hời hợt đâu. Trong nhiều tọa đàm về hộ niệm Diệu-Âm có nói qua vấn đề này. Xin Thu-Quang tìm xem qua.
Đầu tiên xin bàn về vấn đề “Chánh-Đạo” hay “Tà-Đạo”. Thật tế khó có thể lên tiếng đánh giá một pháp tu là Chánh-Đạo hay Tà-Đạo được. Vấn đề này không phải đơn giản đâu. Tà hay Chánh ở tại tâm. Tâm Chánh là Phật, Tâm Tà là Ma. Ma hay Phật do nơi khởi tâm động niệm, chứ không phải ở hình thức phô diễn bên ngoài. Một người tu hành theo Phật Giáo mà vọng tâm khởi ra nhiều quá, thì hình thức thấy hình như là Chánh, nhưng coi chừng nội dung có thể là Tà. Một người hiền hòa chất phát thành tâm niệm Phật, hình thức thấy không ra gì, nhưng tâm hồn của họ hiền hòa, khiêm hạ, thành kính, biết y giáo phụng hành thì họ đang thực hiện Chánh-Đạo.
Chánh-Đạo, nói cho dễ hiểu, là con đường chánh, đường tắc, đường thẳng, đường ngắn nhất… dẫn tới mục đích mong muốn. Tà-Đạo là đường xéo, đường dài, đường lạc, đường lệch… thường không dẫn tới mục đích đã định. Ví dụ, muốn tới điểm B, từ điểm A ta đi thẳng tới B, đoạn đường AB là Chánh-Đạo. Nếu ta đi lệch ra một góc độ, hướng về điểm C chẳng hạn, thì đường AC không dẫn tới điểm B, càng đi khoảng cách càng mở rộng, càng xa đường chánh AB. Đối với mục tiêu B, thì đường AC gọi là Tà-Đạo. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ có danh từ Chánh-Định-Tụ và Tà-Định-Tụ để diễn tả Chánh-Đạo và Tà-Đạo. Còn người đi không có mục đích nào hết, nay đi theo hướng này mai theo hướng khác, gặp điều gì lạ lạ cùng chạy theo, theo một vài hôm thì nản lòng lo chạy tìm đường nào khác lạ để thử nghiệm. Họ không có một định hướng nào nhất định, đây gọi là Bất-Định-Tụ. Phật dạy chỉ có Chánh-Định-Tụ mới được vãng sanh.
Như vậy, Chánh-Đạo hay Tà-Đạo tùy theo mục đích của từng cá nhân. Mục đích chánh là điểm B thì đi theo hướng C là Tà. Mục đích chánh là điểm C thì đi theo hướng B là Tà. Như vậy Chánh-Tà cũng là một vấn đề tương đối để phân định. Nếu theo định nghĩa này mà xét, thì chúng ta dễ bàn luận hơn, tránh tranh cãi, tránh phiền não.
Để dễ hiểu hơn, trong mười pháp giới, nơi nào cũng có chỗ dung thân. Ta đưa ra vài pháp giới tu hành làm ví dụ:
- Người chủ trương tu hành để trở lại làm người, thì họ lo giữ ngũ giới và làm mười điều thiện đạt được trung phẩm là đủ. Làm người thì khổ nhiều hơn vui, thọ mạng ngắn ngủi, nhưng đây là duyên của chúng sanh. Pháp tu ngũ giới là Chánh của họ, những điều khác đều bị chê là không Chánh!
- Người thấy các cõi trời là tốt nhất, thì họ chuyên tu rốt ráo 10 điều thiện, cộng thêm tu Thiền-Định thì có thể sanh về các cảnh Trời. Thập-Thiện và Thiền-Định là Chánh của họ. Sanh về một cảnh giới Trời hưởng phước, nhưng vẫn còn trong sáu đường luân hồi. Họ thích như vậy, nên những cách tu khác họ không thèm để mắt tới.
- Người muốn vãng sanh Tịnh-Độ, thì trì giữ một câu A-Di-Đà Phật nguyện vãng sanh. Một đời này sau khi xả bỏ báo thân họ về Tây-Phương Cực-Lạc thành tựu đạo quả. Đây là Chánh-Đạo, nhất định họ không theo con đường nào khác. Pháp này được chư Phật khuyến khích và hộ niệm, được A-Di-Đà Phật phát nguyện tiếp độ.
Tất cả đều tùy duyên chúng sanh thôi. Vậy thì, tự mỗi người chúng ta hãy kiểm lại mục đích của mình là đâu, ta đi có thẳng đường không?
Hành theo pháp môn Niệm Phật thì phải lấy Tín-Nguyện-Hạnh làm tông chỉ. Đây là pháp môn Phật dạy cho chúng sanh trong thời mạt pháp tu trì để giải thoát. Thời mạt pháp căn tánh thấp kém, tự lực chứng đắc như các pháp môn khác của thời trước không dễ đâu. Nhưng nếu niệm Phật mà không dựa theo đúng tông chỉ này thì cũng dễ lạc ra khỏi quỹ đạo, dễ biến thành Tà-Đạo lắm! Đây là vì vọng tâm mạnh quá vậy.
Xin nhắc lại, chữ “Tà-Đạo” nói ở đây là chỉ cho người muốn vãng sanh về miền Cực-Lạc mà sơ ý thực hiện phương pháp sai lạc dẫn tới những nơi nào khác chứ không thể về Tây-Phương Cực-Lạc được. Người Niệm-Phật vãng sanh phải giữ tâm thanh tịnh mới được, phải định cái tâm vào tông chỉ của pháp môn. Tông chỉ chính là ba tư lương Tín-Nguyện-Hạnh. Lệch ra khỏi ba điểm này thì tâm “Bất-Định”. Bất định chính là “Vọng-Tâm”.
Tại sao bị vọng vậy? Vì căn tánh thấp kém! Người có căn tánh thấp kém thì khó tự phân giải Chánh-Tà. Nếu lại thiếu đức tính khiêm hạ, thiếu tính nhẫn nại nữa thì rất dễ bi cám dỗ bởi những miếng mồi hay lạ!... Thấy ba món tư lương Tín-Nguyện-Hạnh thấp kém quá, thường tình quá nên vừa thấy miếng mồi nào hay hay lạ lạ thì vội vàng chạy theo. Đụng đâu theo đó là người không có chỗ định. Niệm Phật mà rời lời Phật dạy, không theo lời Tổ dạy, hiếu kỳ tham điều cảm ứng, tham có thần thông, tham được sớm chứng đắc... rất dễ lạc vào đường Tà lắm vậy. Còn người thực thà, chí thành thì không dám nghi ngờ lời Phật dạy, không dám tự đi ngang về tắc đâu.
- Tín: Người Niệm Phật phải giữ niềm tin vững vào lời Thế-Tôn dạy, phải nương dựa vững vàng vào đại Nguyện độ sanh của A-Di-Đà Phật mới được. Phật dạy người niệm Phật phải tin tưởng vững vàng, chứ không dạy hiếu kỳ, không dạy tìm tòi điều mới lạ. Người thiếu niềm tin, thì tâm thường chao đảo. Chao đảo là Tà chứ không phải Chánh.
- Nguyện: Lời cầu nguyện tha thiết nhất là nguyện được Phật tiếp dẫn vãng sanh khi lâm chung, chứ không phải nguyện cầu chứng đắc. Nên nhớ, Niệm-Phật vãng sanh là pháp Nhị-Lực cầu Phật tiếp độ, hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Tu cho chứng đắc thuộc về pháp Tự-Lực, dành cho các vị thượng căn, hợp với các thời chánh pháp và tượng pháp. Người tu pháp niệm Phật là tu pháp vãng sanh, chứ không phải tu pháp chứng đắc tự giải thoát sanh tử luân hồi. Tu cầu chứng đắc gì đó là lệch ra khỏi quỹ đạo của pháp niệm Phật vãng sanh, hay gọi là Tà-Đạo đối với đường về Tây-Phương Cực-Lạc.
- Hạnh: là trì giữ câu Phật hiệu “A-Di-Đà Phật” mà niệm. Người niệm Phật mà không chuyên nhất, nghĩa là tu quá xen tạp thì thường vướng vào cảnh Bất-Định-Tụ chứ không là Chánh-Định-Tụ.
Đây là pháp hành trì “Đới Nghiệp Vãng sanh”, rộng độ khắp cả ba căn thượng-trung-hạ.
Là người Niệm Phật, xin chư vị hãy tự xét coi có đi đúng theo lời Phật dạy không, có theo đúng theo lời chư Tổ dạy hay không, để tự hiểu là Chánh hay Tà vậy?...
Hôm nay bàn sơ về Chánh-Đạo hay Tà-Đạo. Có dịp sẽ bàn đến chuyện chứng đắc sau nhé.
Diệu-Âm (Úc Châu)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
26 Tháng Tám 2014(Xem: 9689)
Trong cuộc sống hàng ngày của dân gian, chúng ta rất quen thuộc với nhóm từ “Nam mô A Di Đà Phật” Vậy nhóm từ đó có ý nghĩa là gì ? Muốn hiểu tường tận ý nghĩa nhóm từ đó, chúng ta phải có một trình độ khá cao về khoa học. Nam mô có nguồn gốc là từ Namah (tiếng Phạn) hoặc Namo (tiếng Pali) có nghĩa quy y, kính lạy, quy phục, đem mình về với.
02 Tháng Tám 2014(Xem: 8977)
Trong kinh luận chẳng có tâm tánh, trong kinh luận chẳng có Phật pháp, Phật pháp ở chỗ nào? Phật pháp ở ngay trong tâm quý vị, nhằm dạy quý vị hãy tự ngộ, tự độ. Nói “Phật chẳng độ chúng sanh” là do ý nghĩa này. Vì thế, kiến giải phải thanh tịnh. “Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm”, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng dấy lên một niệm. Dấy lên một niệm đều là vọng niệm. Chẳng dấy niệm, kiến giải sẽ thanh tịnh. Ba điều trên đây (giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh) đều thuộc về Tự Phần. Tự Phần là chính mình, tự tu!
12 Tháng Bảy 2014(Xem: 8083)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức. Đây là tiếng phạn, nếu như theo ý nghĩa của mặt chữ mà dịch thì A dịch thành Vô, Di Đà dịch thành Lượng, Phật dịch thành Giác hoặc dịch thành Trí. Dịch hoàn toàn qua ý nghĩa tiếng Trung Quốc là Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác.
06 Tháng Bảy 2014(Xem: 9947)
Niệm Phật là pháp môn tu khá phổ biến hiện nay. Pháp môn này được những người con Phật thực tập rất tinh chuyên từ thời Thế Tôn còn tại thế. Những cách tu niệm Phật như trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật… đã có từ thời Phật Thích Ca, do chính Ngài chỉ dạy.
05 Tháng Tư 2014(Xem: 17072)