5. Vạn Thiện Đồng Quy (Quyển Trung)

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10706)


VẠN THIỆN ĐỒNG QUY TẬP

Quyển Trung
THIỀN SƯ VĨNH MINH - Thích Minh Thành dịch

Do Pháp tánh sanh khởi Bồ đề, từ Chân như thành tựu vạn hạnh. Trọn ngày làm việc mà thật ra không có làm gì, tuy không có làm mà làm tất cả. Nếu nói rằng có làm thì đồng với việc ma, nếu chấp là không làm lại về nơi đoạn diệt.
 

Thế nên biết, ngoài tự tâm không có pháp gì để kiến lập. Mười thân Phật đầy đủ nơi tự tâm, bốn cõi đều thâu nhiếp trọn vẹn tâm mình. 
 

Tuy nhất tâm bao hàm tất cả nhưng chẳng phá hoại sự đối lập trong và ngoài, đều xứng với Pháp tánh, đâu cách ngại Có và Không. Ở nơi Không mà đầy đủ trí huệ phương tiện nên không dính mắc vào Có; ở nơi Có vận dụng hạnh thù thắng nên chẳng rơi vào Không.
 

Thế nên, Sự ở ngay nơi Lý thì hạnh được thành tựu vô ngại, Lý ở ngay nơi Sự thì hạnh thuận với Chân như. Tác dụng và sự tướng không thiếu, tánh thể ở ngay nơi đó.
 

Hạnh vi diệu giáo hóa chúng sanh không ngoài pháp Lục độ và Tứ nhiếp; chân tu lợi mình không gì hơn Thất giác chi và Bát chánh đạo. Thu nhiếp Tứ niệm về nơi Nhất thật, đúc kết Tứ cần chẳng ra ngoài Nhất tâm, nghiêm tịnh Ngũ căn thành tựu Ngũ lực.
 

* Nói đến bố thí thì trong ngoài xả bỏ.

* Nói đến trì giới thì giữ gìn cả giới luật của Đại và Tiểu thừa.

* Nói đến tu tiến thì thân tâm đồng thời thực hành.

* Nói đến nhẫn nhục thì Chúng sanh nhẫn và Vô sanh nhẫn đều đầy đủ.

* Nói đến Bát Nhã thì cảnh và trí không hai.

* Nói đến thiền định thì động và tĩnh đều bình đẳng.

* Nói đến phương tiện thì soi sáng khắp trần lao.

* Nói đến phát nguyện thì cùng khắp pháp giới.

* Nói đến lực dụng thì tinh thông mười loại trí lực của Phật.

* Nói đến trí huệ thì thành tựu trọn vẹn Nhất thiết Chủng trí.

* Nói đến ái ngữ thì thuận theo thích ứng căn cơ.

* Nói đến đồng sự thì có thể tùy theo hành vi và tâm niệm của chúng sanh.

* Nói đến vận dụng lòng từ thì kẻ oán, người thân đều cứu độ.

* Nói đến thuyết pháp thì đồng thời thâu nhiếp cả căn cơ bén nhạy, chậm lụt.

* Nói đến Thất giác chi thì hôn trầm và trạo cử không sanh khởi.

* Nói đến Bát chánh đạo thì tà kiến và điên đảo chẳng phát sinh.
 

Ngoài ra còn phải tu tập đầy đủ hạnh vi diệu để đạt được Ba thứ kiên cố, đầy đủ Thất thánh tài, giữ gìn Tam tụ tịnh giới, viên mãn chỗ chân thật cốt yếu của bảy đức thanh tịnh, giác ngộ lý Thiên nhiên Thật tướng thì phù hợp với lẽ tự nhiên.
 

Tu phạm hạnh đoạn dứt cội gốc trần lao tập khí; hiện bày hạnh cứu độ cho Thanh Văn dừng nghỉ nơi Hóa thành; thị hiện hành vi ngây thơ như trẻ con để dẫn đường phàm phu tiến lên cõi trời. Trải qua đạo Bồ đề ngũ vị, vào thành Niết Bàn tam đức, luyện tam nghiệp thành tam luân, lìa tam thọ tròn tam niệm.
 

Do từ Tam quán huân tu phát khởi quả đầy đủ Ngũ nhãn tròn sáng, mới có thể du hí thần thông, ra vào trăm ngàn chánh định, trang nghiêm thanh tịnh cõi nước Phật, bước lên đạo tràng vô ngại. Sau đó, ứng hợp khắp các phương, thị hiện mười thân tướng hảo chiếu soi khắp pháp giới, thắp ngọn đèn sáng Tứ trí, đạo cảm ứng qua lại, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà hóa độ, chẳng động Bản tế mà dấu vết ứng hiện vuông tròn, hễ ai thấy nghe đều lợi ích.
 

Như thế là do tự chúng sanh thấy còn ta thật ra chẳng làm gì. Đó đều là từ sự huân tập tích lũy điều lành nên thành tựu sự giáo hóa rộng lớn tự nhiên này.
 

Hoàn Nguyên Quán nói:
 

“Tác dụng như biển cả ba đào, toàn chân thể vận hành. Bản thể như gương trong nước lặng, đều tùy duyên mà quy hội về nơi lặng lẽ”.
 

Pháp sư Tăng Triệu nói:
 

“Thống nhiếp vạn hạnh lấy Quyền trí làm chủ yếu; dựng lập cội đức lấy Lục độ làm căn bản; tế độ mê lầm lấy Từ bi làm đầu; nói đến chỗ cùng tột lấy Bất nhị làm tông chỉ. Đó là cội gốc của sự Chẳng Thể Nghĩ Bàn.
 

Còn như mượn tòa của Phật Tu Di Đăng Vương, xin cơm ở cõi Hương Tích, tịnh thất bao gồm càn khôn, dùng cánh tay tiếp lấy Đại thiên thế giới, đó đều là cành ngọn của sự Chẳng Thể Nghĩ Bàn. Song, cánh cửa sâu kín tuy mở ra nhưng sự ứng hóa của bậc Thánh không đồng.
 

Không có cội gốc thì chẳng thể biểu hiện ra cành ngọn, không có cành ngọn thì chẳng thể hiển bày cội gốc. Cội gốc và cành ngọn tuy khác nhau, nhưng sự Chẳng Thể Nghĩ Bàn vốn là một”.
 

Hỏi:
 

Thân là cội gốc của đạo, trói buộc là nhân của giải thoát. Sao lại đốt tay, thiêu thân thể, tu hành trái với đạo?
 

Trong Cao Tăng Truyện và giới luật Tiểu thừa chê trách rõ ràng, làm thế đâu phù hợp với lời Phật dạy?
 

Đáp:
 

Xả bỏ thân mạng, vì pháp mà đền đáp ân sâu, rất phù hợp với kinh điển Đại thừa và Chánh pháp.
 

Kinh Phạm Võng nói:
 

“Nếu là Phật tử nên thực hành tâm tốt, trước học tập kinh luật nói về uy nghi của Đại thừa, khai mở tâm tánh hiểu rộng nghĩa lý.
 

Nếu thấy có người mới tu tập hạnh Bồ Tát, từ trăm ngàn dặm đến cầu học kinh luật Đại thừa nên đúng như pháp mà nói về tất cả khổ hạnh, hoặc đốt thân, đốt cánh tay, đốt ngón tay.
 

Nếu không đốt thân, cánh tay, ngón tay cúng dường chư Phật thì chẳng phải Bồ Tát xuất gia. Thậm chí đối với cọp, sói, sư tử đói khát và tất cả ngạ quỷ còn nên xả bỏ thân thể, tay chân cho chúng ăn. Sau đó, lần lượt vì tất cả mà nói chánh pháp, khiến cho chúng đều được khai mở tâm ý hiểu rõ Phật Pháp. Nếu không làm như thế thì phạm tội khinh cấu”,
 

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói:
 

“Đức Phật bảo ông A Nan:
 

Sau khi ta diệt độ, nếu có Tỳ kheo phát tâm quyết định tu tập chánh định, có thể ở trước hình tượng của Như lai dùng thân làm đèn, đốt một ngón tay, một lóng tay, cho đến đốt một liều hương trên người, ta nói người ấy nếu có nợ nần xa xưa nhất thời hoàn trả xong xuôi, xa lìa thế gian, thoát hẳn mọi phiền não. Tuy chưa rõ ngay con đường Giác ngộ vô thượng nhưng người ấy đã có quyết tâm quyết định với chánh pháp.
 

Nếu không gây nhân nhỏ xả bỏ thân thì dù thành tựu vô vi cũng vẫn phải sanh trở lại làm người để đền trả nợ cũ, giống như ta bị nạn phải dùng lúa ngựa”.
 

Cho nên Tiểu thừa chấp tướng chế định mà không khai mở. Đại thừa viên thông không có pháp cố định.
 

Kinh Bồ Tát Thiện Giới nói:
 

“Giới của Thanh Văn cấp thiết, còn giới của Bồ Tát thì thư thả; giới của Thanh Văn bít lấp, giới của Bồ Tát thì khai mở”.
 

Kinh còn nói: “Sự trì giới của Thanh Văn là điều phá giới của Bồ Tát”.
 

Đó là nói về việc này.
 

Nếu y theo kinh liễu nghĩa, chư Phật đều hoan hỷ, còn chấp vào lời nói tùy nghi thì các bậc Thánh đều buồn bã. Chỉ nên tán thán Đại thừa, khen ngợi Viên giáo, mình và người đều được lợi ích, đâu nên chấp vào sự quyền biến, ngưng trệ nơi nhỏ nhặt mà cội gốc và cành ngọn đều mê mờ không rõ.
 

Hỏi:
 

Thiêu đốt thân thể, gieo mình xuống vực, lao thân vào lửa đỏ. Những việc làm ấy giống như chín mươi sáu loại ngoại đạo, các bậc Thánh đều quở trách. Nay may mắn có được chánh pháp, tại sao lại đi theo con đường tà vạy?
 

Đáp:
 

Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Phật Pháp có hai thứ đạo:
 

* Một là đạo rốt ráo không.

* Hai là đạo phân biệt tốt xấu.
 

Nếu nói về đạo rốt ráo không thì phàm phu Như tức là lậu tận giải thoát Như. Lời nói của Như Lai là lời nói của Đề Bà Đạt Đa, không hai không khác, một đạo một nguồn”.
 

Thế nên, ở nơi địa ngục phát khởi tâm Diệu Giác, nơi quả vị Phật hiện bày cõi Nê Lê.
 

Nếu bỏ tà về chánh, thì tà và chánh đều sai quấy; bỏ ác chấp thiện thì thiện ác đều trở thành lầm lỗi.
 

Nói về đạo phân biệt tốt xấu thì ngu si và trí tuệ khác nhau, chân và tục rõ ràng, ngọc và đá nên phân biệt, vàng và thau cần phải phân biệt rõ.
 

Hơn nữa, căn cứ vào trong môn tu hành, địa vị lên xuống, tự có tông đồ trong ngoài, nhân quả tà chánh, phải khéo phân biệt kỹ, không thể tùy tiện cho là như nhau. Vả lại, trong giáo lý có những lời hủy báng và tán thán, xác thực có khen ngợi và chê bai. Nếu chấp thì trở thành ngưng trệ, hiểu rõ thì đều thông suốt.
 

Nếu từ Tứ tất đàn <!--[if !supportFootnotes]-->[15]<!--[endif]--> đối trị, buông xả hoặc đoạt lấy nên xét nét rõ. Nếu nói đều là phải, Ni Kiền Tử thành tựu đạo chân chánh, chư Phật đã quở trách sai lầm; nếu nói đều sai, Bồ Tát Dược Vương rơi vào lỗi lầm điên đảo, chư Phật đã khen ngợi không đúng.
 

Thế nên, hưng khởi tà vạy thì trở thành hạnh vô ích; phế bỏ chân chánh thì đoạn dứt môn phương tiện. Cần phải hiểu rõ sự khai mở và ngăn chặn, há không có sự lấy bỏ.
 

Vả lại, người trong giáo pháp và người ngoài lúc bỏ thân mạng mình đều có hai ý.
 

Hai ý của người trong giáo pháp là:
 

1. Hiểu rõ mình và người khác đều là tánh không, không chấp ngã và chấp pháp, chẳng thấy có cảnh cúng dường, cũng không có tâm cho rằng ta thiêu đốt thân.

2. Chỉ vì cúng dường Tam Bảo, báo đáp bốn ân để hỗ trợ đạo Giác ngộ Vô thượng chẳng mong quả báo trời người.
 

Hai ý của người ngoài giáo pháp:
 

1. Chấp thân chưa hết, tăng thêm ngã mạn, mê mờ trí tuệ vô tác, sanh khởi tâm hữu đắc.

2. Chỉ tham danh tiếng hiện tại, mong phước báo và lợi ích ở đời sau. Hoặc nguyện làm vua, hoặc cầu sanh về cõi trời Quảng Quả.
 

Cho nên, giáo lý của Tông Thiên Thai giải thích phẩm Dược Vương đốt thân rằng:
 

“Cảnh trí không hai, năng sở đều không, dùng sự quán sát không hai mà quán sát về cảnh bất nhị, thành tựu hạnh bất nhị, thể hội Tánh-không bất nhị. Khi thực hành phép quán này, mọi người thấy nghe trong khắp pháp giới đều được lợi ích, nên gọi là Thừa thừa”.
 

Do vậy, gieo mình xuống vực không bị cho là hạnh ngoại đạo, lao vào lửa đỏ mà chẳng bị người trong giáo pháp chê bai. Bởi vì, bên trong có lý quán, bên ngoài tỏ rõ tâm mong muốn. Cho nên Bà La Môn Thắng Nhiệt dứt trừ sự nghi ngờ của Đồng Tử Thiện Tài, Ni Kiền Tử làm cho vua Nghiêm Xí phát tâm tin hiểu Phật Pháp.
 

Bàn luận tận tường về đạo, khi thực hành mới thấy sự thành công. Tâm chánh thì hạnh chánh, trí tà thì việc tà. Hạnh không thể bỏ, trí không thể quên thì những người hậu học không mất sự lợi ích của giáo pháp.
 

Kinh Văn Thù nói:
 

“Bồ Tát xả bỏ thân không phải là vô ký, chỉ được phước đức. Thân phiền não này diệt nên được thân thanh tịnh, ví như áo dơ dùng nước tro để giặt giũ, dơ hết nhưng áo vẫn còn”.
 

Nếu được ý chỉ viên mãn thì quyết đoán rõ ràng. Xin xem những lời văn này, lấy đó làm gương soi xét.
 

Hỏi:
 

Bố thí trụ chấp tướng kết quả chỉ là vô thường, tăng thêm tâm hữu vi trái với đạo vô vi, đâu bằng y cứ vào lý thể mà quán xét thì phước đức ấy rộng lớn như hư không.
 

Cho nên trong kinh nói:
 

“Đức Phật bảo: Chỉ có đạt đến vô ngã mới có thể thuận với lý”.
 

Tại sao lại chấp chặt vào sự tướng, vin theo ngoại vật, không quán sát tâm để đạt đạo?
 

Đáp:
 

Nếu từ phương diện quán xét tâm mà nói thì chạm mắt đều là đạo. Đã bảo đạt đạo thì dơ tay cất bước đều hợp đạo.
 

Bồ Tát thực hành vạn hạnh đầy đủ Tứ nhiếp pháp không nên chấp chặt vào Không mà dẹp trừ Có, cố giữ đối với “một” mà kỵ ở nơi “nhiều”.
 

Kinh Hoa Ngiêm nói: “Thọ trì một pháp mà phủ định các pháp khác, đó là hành vi của ma”.
 

Thế nên, dù cho bỏ Biên kiến thú hướng Trung đạo cũng vẫn rơi vào tà kiến. Do đó không nên y cứ vào chủ trương mà mình tôn sùng, tự cho là diệu huyền mầu nhiệm. Đó đều là do ý thức và tư tưởng thi vi, ngũ ấm và thập bát giới tạo tác. Cần phải tùy cơ phá dẹp hay chiếu soi, trí Bát Nhã mở ra thâu vào tự tại.
 

Đối với hai môn Có và Không đã chẳng ra ngoài chúng cũng chẳng ở lại trong đó; đối với hai chân lý Chân và Tục đã chẳng ở ngay trong đó cũng chẳng tách rời; hoạt động và dừng nghỉ chẳng trái ngược đều viên dung vô ngại.
 

Thông thường trong pháp môn tu tập của chư Phật và Bồ Tát có chánh hạnh và trợ hạnh, có chân thật và quyền biến. Lý và Sự đồng thời tu tập, trí huệ và giới luật xem trọng như nhau, từ bi và Bát Nhã thực hành song song, trong và ngoài hỗ trợ lẫn nhau.
 

Nếu nhất định kiến lập một Tông, đó chính là dòng dõi ma vương; hoặc diệt trừ tất cả thì trở thành sự ngu muội sai lầm của riêng mình.
 

Thế nên trong kinh Đại Tập nói:
 

“Có hai hạnh tu hành:
 

- Nương tánh không mà tiến thẳng vào, đó gọi là tuệ hạnh.

- Không phế bỏ sự tướng mà tu hành, đó gọi là hành hạnh.
 

Luận Bồ Đề nói, có hai con đường: Một là con đường phương tiện, tức biết rõ các pháp lành. Hai là con đường trí tuệ, là thấy rõ các pháp không thật.
 

Trong kinh còn nói, có hai loại Chân như: Một là Chân như trong nhân, nó như như vô nhiễm. Hai là Chân như trong quả, nó như như vô cấu, nó như hoa vô cấu.
 

Lại có hai loại tâm: Một là tâm thanh tịnh tự tánh, tâm này xưa nay vốn có. Hai là tâm thanh tịnh lìa cấu nhiễm, tâm này là từ ý nghĩa rốt ráo mà có.
 

Luận Đại Thừa Khởi Tín lập hai loại tướng trạng: Một là tướng đồng, từ ý nghĩa thể tánh bình đẳng mà nói. Hai là tướng dị, từ ý nghĩa sai biệt trên sự huyễn hóa mà nói.
 

Tông Thiên Thai nói có hai loại thiện: Thấu suốt năng sở đều rỗng không gọi là “chỉ thiện”. Dùng phương tiện khuyên bảo mọi người tu hành gọi là “hành thiện”.
 

Hỏi:
 

Yếu chỉ giáo pháp của Phật Tổ duy thiết lập Nhất thừa, do đó trong kinh nói: “Chư Phật trong mười phương chỉ do một con đường mà đi đến Niết Bàn”. Trong kinh còn nói, tất cả người thông đạt vô ngại đều từ một con đường mà ra khỏi sanh tử.
 

Tại sao lại trình bày nhiều sự tướng sai biệt, kiến lập hai loại pháp môn, làm lầm loạn Chánh tông, sanh khởi tà kiến?
 

Đáp:
 

Pháp của chư Phật, nói về tông thể chỉ có một. Nhưng từ trên tác dụng phân thành hai, mà thể tánh thường đồng nhau. Như Luận Khởi Tín ở nơi Nhất tâm mà kiến lập Chân như môn và Sanh diệt môn, đây là đạo Nhị đế Nhất thừa, xưa nay thường như vậy không thêm bớt. Thế nên Tổng tướng và Biệt tướng hiển bày lẫn nhau, gốc và ngọn hỗ trợ nhau. Không có Tổng tướng thì không thể sinh ra Biệt tướng. Không có Biệt tướng thì không thể trở thành Tổng tướng. Không có cội gốc thì không thể phát sinh cành ngọn, không có cành ngọn thì không thể hiển bày cội gốc. 
 

Do đó đủ biết, chim chỉ có một cánh ắt khó bay lên trời cao, xe chỉ có một bánh thì không sao vận hành được, chỉ có chân thì không thể kiến lập, một mình vọng ắt không thể thành tựu. Đứng về mặt Thể, tuy có sai biệt nhưng không sai biệt; đứng về mặt Dụng, tuy không sai biệt mà có sai biệt. Một và hai vô ngại mới được vào môn Bất nhị; Không và Có chẳng trái nhau mới đạt đến cảnh giới Chân không.
 

Hỏi:
 

Trên phương diện Sự, có sai biệt về thời gian và vị trí; đứng về Lý thể mà nói thì duy nhất không hai, lặng yên chẳng động.
 

Lý thể và sự tướng đã bất đồng như thế, tại sao bảo rằng vô ngại?
 

Đáp:
 

Sự tướng do Lý thể mà thành tựu. Lý thể từ Sự tướng mà hiển bày. Như muôn ngàn lượn sóng chẳng ngại nhau vì cùng một tánh ướt, giống như các loại trang sức không cách trở nhau vì cùng một chất vàng. Bản thể và tác dụng thâu nhiếp lẫn nhau, mở ra và thâu lại bình đẳng nhất trí.
 

Nếu như từ ý nghĩa viên dung mà nói thì không chỉ Lý và Sự tương tức, mà ngay cả muốn Lý và Lý tương tức cũng được, Sự và Sự tương tức cũng được, Sự và Lý không tương tức cũng được, cho nên gọi là pháp môn Tùy Duyên Tự Tại Vô Ngại.
 

Ngoài ra, trong pháp môn giáo hóa của chư Phật, còn có một pháp Bố thí đứng đầu Thập độ, là pháp trước tiên trong muôn hạnh, là nhân ban đầu để vào đạo, và nhân tố then chốt để thâu nhiếp chúng sanh.
 

Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Pháp Bố thí là kho báu thường đi theo người: Bố thí là hóa giải đau khổ, ban cho mọi người niềm vui.
 

Bố thí là chỉ cho người con đường dẫn đến cõi trời. Bố thí là tòa nhà tốt đẹp thâu nhận các người lành. Bố thí là sự an ổn, khi sắp mạng chung tâm không sợ hãi. Bố thí là tướng của từ bi hay cứu giúp tất cả. Bố thí là sự tập hợp những điều vui, có thể phá trừ giặc đau khổ. Bố thí là viên đại tướng hay hàng phục quân địch xan tham. Bố thí là đạo thanh tịnh, các bậc Hiền Thánh đều từ đó mà thành tựu. Bố thí là môn tích lũy phước đức lành. Bố thí hay đạt được quả phước lạc toàn vẹn.
 

Bố thí là duyên ban đầu của Niết Bàn, là pháp chủ yếu để dự vào hàng thiện nhân, là nơi phát nguồn những sự tán thán khen ngợi, là công đức khi ở trong chúng không gặp khó khăn, là cội gốc khiến cho tâm không hối hận, là căn bản của đạo hạnh pháp lành, là khu rừng đủ mọi điều vui vẻ, là ruộng phước giàu sang an ổn, là con đò đưa đến bờ Niết Bàn”,
 

Trong Lục Hạnh Tập nói:
 

“Khi phàm phu bố thí, nếu khởi tâm ngạo mạn thì gây ra tội lỗi, khởi tâm cung kính trở thành phước đức.
 

Khi hàng Nhị thừa bố thí, chỉ quán xét pháp trần dời đổi vô thường.
 

Khi Bồ Tát nhỏ bố thí, nghĩ rằng bản thể của vật thí là rỗng không.
 

Khi Bồ Tát lớn bố thí thì biết tâm vọng thấy.
 

Khi Phật bố thí thì chứng Duy tâm, lìa niệm thường thanh tịnh.
 

Nên biết một môn bố thí mà sáu hạnh trở thành khác biệt, đâu thể đồng loạt nêu ra một cách tùy tiện.
 

Cũng có sự bố thí bên trong và sự bố thí bên ngoài, bố thí về mặt Lý, bố thí về mặt Sự, Thể và Dụng hỗ trợ nhau, gốc và ngọn hiển bày lẫn nhau. Theo Lý thì chìm trong đoạn diệt, chấp Sự ắt rơi vào thường kiến. Lý-Sự dung thông mới vượt qua hai điều lầm lỗi ấy. Vả lại, ý chỉ của chư Phật so sánh trong việc bố thí thì bố thí về mặt Lý là trước tiên, thế nên chú trọng bố thí bên trong”.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Đức Phật bảo rằng:
 

Nếu có người phát tâm muốn đạt được đạo Giác ngộ Chân chánh Vô thượng, có thể đốt một ngón tay một ngón chân cúng dường tháp Phật, còn hơn đem quốc gia thành trì vợ con và núi rừng, sông ao, các vật quí giá trong khắp ba ngàn Đại thiên thế giới để cúng dường”.
 

Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Nếu có người xả bỏ thân mạng để cúng dường thì phước báo còn nhiều hơn người đem vật báu đầy cả cõi Diêm Phù Đề mà bố thí cúng dường”.
 

Thế nên biết, lời nhẹ nhàng lợi khẩu dễ trình bày, toàn thân quí báu khó mà buông bỏ, tâm bảo tồn tánh mạng sâu sắc, ý ưa thích sự sống thiết tha, dù cho rõ được mình, người và vật bố thí thể tánh đều rỗng lặng nhưng vẫn thuộc về Thông giáo. Huống chi tâm còn lấy bỏ thì sao được thành tựu pháp Bố thí thanh tịnh?
 

Vả lại, môn Bố thí trong Viên giáo cùng khắp pháp giới thì có Sự gì không đầy đủ; có Lý nào chẳng viên dung. Bồ Tát chiếu soi Lý chẳng bỏ Sự, xét rõ Sự chẳng tổn hại Lý. Hoằng đạo là do người, sao lại vướng mắc nơi pháp?
 

Nếu tách rời Lý mà có Sự, Sự đó trở thành sự ngu mê của hàng Định tánh; nếu tách rời Sự mà có Lý, Lý ấy trở thành kiến chấp đoạn diệt. Nếu vướng mắc nơi Sự mà mê muội Lý thì bị quả báo ở trong vòng luân hồi; nếu thể hội Lý mà thành đạt Sự thì thành tựu quả báo cứu cánh.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Lại thấy có Bồ Tát, đầu mắt và thân thể, đều ưa vui thí cho, để cầu trí tuệ Phật”.
 

Nếu việc xả bỏ thân là tà thì sao thành tựu trí tuệ Phật được? Do đó nên biết, việc thiện nhỏ nhưng dẫn đến kết quả rộng sâu; đem pháp này làm nhân để tu hành, thật chẳng mất. Như khi Phật Thích Ca bỏ thân mạng, mỗi lần đều chứng đắc pháp môn, hoặc được Nhu Thuận Nhẫn, hoặc vào Vô Sanh Pháp Nhẫn.
 

Nói chung, Bồ Tát làm mọi việc đều thấu rõ vô ngã không có tự tánh, hành Sự Thấy rõ Lý, gặp cảnh thấu suốt là không, chẳng đồng với kẻ phàm phu tạo tội phước, chẳng hiểu nhân quả thiện ác không có tự tánh. Đó là mê muội nơi Sự mà chấp Lý nên thường bị ràng buộc trong ba cõi.
 

Hỏi:
 

Trong kinh nói:
 

“Đem thân mạng nhiều như ba lần số cát sông Hằng để bố thí cũng không bằng thọ trì bốn câu kệ”. 
 

Nên biết công đức của Bát Nhã sâu xa, lực của bố thí nhỏ hẹp. Tại sao lại trái với tông chỉ, vượt qua lẽ thật, tiêu hao uổng phí lực tinh thần? Như thế có thể gọi là mong ngộ lại mê, muốn vượt lên mà rơi trở xuống.
 

Đáp:
 

Thấu đạt Lý vạn hạnh mới thành tựu, biết rõ tông chỉ thì ngàn đường không ngưng trệ. Không nên bỏ kia lấy đây; chấp chặt vào phải, bài xích điều trái; cần phải thực hành môn vô ngại, khéo đi vào hạnh rộng khắp. Thế nên, chư Phật quá khứ, Bổn Sư Thích Ca từ vô lượng kiếp đến nay xả bỏ vô số thân mạng; hoặc vì cầu pháp, lấy xương tủy, khoét thịt nơi thân mình; hoặc vì thực hành hạnh từ bi, dùng thịt mình bố thí cho chim ưng cọp đói.
 

Luận Bát Nhã nói:
 

“Như Lai từ vô lượng kiếp đến nay, thí xả thân mạng tài vật vì thực hành chánh pháp. Chánh pháp không có bờ mé, là nhân vô cùng tận nên được quả báo vô cùng tận, quả báo chính là ba thân Phật”.
 

Cho đến các vị Bồ Tát và Cao tăng Ấn Hoa từ xưa đến nay thí xả thân mạng cũng không ít. Các Ngài đều tuân theo kinh giáo của Phật Thích Ca, noi theo gương thiêu thân đốt tay của Bồ Tát Dược Vương ngày xưa truyền lại.
 

Trong Cao Tăng Truyện có ghi, Pháp sư Tĩnh Ái vào núi Chung Nam cắt thịt thân mình đặt trên tảng đá, rồi luồn tay vào kéo ruột ra treo trên cành cây, sau cùng bưng tim tạng mà chết. Ngài viết bài kệ để trên vách rằng:
 

“Nguyện bỏ thân này rồi

Khiến thân sớm tự tại

Pháp thân tự tại rồi

Luôn ở trong các cõi

Tùy chỗ có lợi ích

Hộ pháp cứu chúng sanh

Vả lại nghiệp phải hết

Pháp hữu vi đều vậy

Ba cõi đều vô thường

Thời đến chẳng tự tại

Người giết và tự chết

Chung qui cũng thế thôi

Người trí chẳng ưu thích

Nghiệp hết trong hôm nay”.
 

Bồ Tát Tăng Nhai cũng thiêu thân và nói rằng:
 

- Ta vì thay thế tất cả chúng sanh mà chịu khổ.
 

Ngài đốt ngón tay trước, mọi người hỏi:
 

- Tội nghiệp của chúng sanh chín mùi thì tự mỗi người chịu khổ, chẳng liên quan với nhau, làm sao có thể thay thế được mà Ngài tự thiêu?
 

Ngài nói:
 

- Vừa phát khởi một niệm căn lành liền có thể diệt trừ tội ác, điều đó lẽ nào không thể thay thế hay sao?
 

Ngài còn bảo mọi người rằng:
 

- Sau khi ta diệt độ, những người ưa thích cúng dường người bệnh, nên biết nguồn gốc của những người ấy khó mà lường xét. Họ đa số đều là chư Phật, Thánh nhân tùy nghi ứng hiện biến hóa mà đến. Nếu chẳng phải là tâm bình đẳng rộng lớn, sao có thể cung kính mọi người? Đó là hạnh chân thật.
 

Thiền sư Mãn-Tông Thiên Thai, cả đời giảng và tụng kinh Pháp Hoa, đến nỗi cảm ứng thần nhân hóa hiện thân hình. Do đó, Ngài chuyên tâm thiền định, tụng niệm kinh chú, sau cùng đốt thân cúng dường kinh Pháp Hoa.
 

Lại có Thiền sư Tịnh Biện, học trò của Đại sư Trí Khải, ở trước sám đường đốt thân cúng dường Bồ Tát Phổ Hiền.
 

Truyền Đại Sĩ ở Song Lâm muốn đốt thân để cứu độ nỗi khổ của chúng sanh. Đệ tử của Ngài trước sau bốn mươi tám người sẵn lòng thay thế sư phụ đốt thân, thỉnh thầy thường trụ ở đời giáo hóa chúng sanh.
 

Những sự thật như thế, trong truyện ký đều có ghi rõ, ở đây không thể nêu ra đầy đủ. Nếu nói rằng đó là các cảnh giới của những bậc Thánh thị hiện thì các Ngài có lỗi lầm lừa dối phàm phu. Phàm phu không có phần trở thành Hiền Thánh thì giáo pháp chỉ lập bày phương tiện suông.
 

Vốn vì tiếp dẫn người sau, hợp theo người trước, khiến cho phàm phu thật chứng Bồ đề nên thị hiện lập bày quyền biến, cũng là giúp cho người sau noi theo. Không nên đem pháp tà vạy lừa dối người khác bảo họ thực hành.
 

Đức Phật là bậc đại từ bi hoàn toàn không lừa dối chúng sanh. Thế nên tám vạn pháp môn đều đưa đến giải thoát; một niệm lành nhỏ cũng dẫn đến Chân như. Trong Phật Pháp có sơ tâm hậu tâm, Sanh nhẫn Pháp nhẫn, không cần đem cao chê thấp, hoặc lấy thấp lấn cao. Nên khéo biết thời cơ, tự xét căn lực của chính mình, chớ nên phê bình việc tốt xấu của người khác, gượng lập thị phi. Ngôn ngữ là căn nguyên của tai họa, nó sẽ chuốc lấy khẩu nghiệp.
 

Vả lại, như hàng Bồ Tát đã đưọc Pháp Nhẫn, tuy đã chứng đắc Nhân không Pháp không, nhưng vì lợi ích mọi người nên phá trừ tâm tham lam keo kiệt mà còn phải đốt tay thiêu thân, như Bồ Tát Dược Vương, Hòa thượng Tăng Nhai.
 

Nếu chưa đầy đủ Pháp nhẫn, tuy biết dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não, thấu suốt Nhân-Pháp đều không, không còn sanh khởi chấp ngã, nhưng nếu họ bị sự chướng ngại nặng nề của phiền não hiện tại vẫn chưa được tương ưng. Cần phải phát khởi tâm mạnh mẽ, vận dụng hạnh chân thật, đền đáp ân sâu của Phật, thay thế đau khổ cho chúng sanh, làm nhiều hạnh từ bi.
 

Muốn thành tựu pháp môn trợ đạo, không nên sanh khởi tư tưởng mong cầu. Nếu chẳng dối trá thì sự việc chẳng luống mất. Nếu mắt trí tuệ chưa sáng tỏ, vẫn còn phát khởi chấp ngã, chỉ mong cầu nhơn quả, ý chí cầu đạo không kiên định, mà lại tính bắt chước theo việc làm của người xưa, đối với hạng người này ở đây không nói đến.
 

Căn cơ chúng sanh không đồng, cho nên chỗ ưa chuộng đều khác nhau. Do đó trong kinh nói: “Đức Phật bảo: Nếu chúng sanh cần sự giả dối mới độ được thì ta cũng nói dối để giáo hóa họ”.
 

Thế nên biết, Sự có muôn ngàn, Lý chỉ về một nguồn. Đó đều là phương tiện khéo léo của lòng từ bi rộng lớn. Có người do xả bỏ thân mạng, nhanh chóng ngộ nhập Pháp nhẫn; cũng có người do chuyên tâm tu tập thiền định tỏ ngộ Vô sanh; có người do rõ biết tự tâm vốn thanh tịnh mà chứng đắc Thật tướng; cũng có người do tu tập quán bất tịnh mà đạt đến cảnh giới xa lìa cấu nhiễm; có người do ở nơi nhà cửa được trang sức bằng bảy báu mà tiến lên quả vị Thánh; cũng có người ở dưới gốc cây, bên gò mả mà đạt được Niết Bàn.
 

Vì thế vô lượng vô số môn hóa độ đều dẫn đến giải thoát; vô biên giáo pháp, nếu rõ thì liền trở về Chân như.
 

Lời nói của Đức Phật hoàn toàn chẳng phải là sự lập bày giả dối. Ví như đi bộ đường xa, lấy điểm đến làm mục đích, chẳng quan tâm đến con đường như thế nào, cũng chẳng gượng bàn khó dễ chi cả.
 

Nên biết trị bệnh không thể chuyên dùng thuốc tán, như bầu trời chẳng quang đãng mãi mãi. Cần phải dùng thuốc hoàn và thuốc tán dung hòa lẫn nhau, âm dương đồng thời trợ giúp thì các thứ bệnh đều khỏi, muôn vật trong thiên hạ được sinh trưởng tốt tươi.
 

Ở đây nói rõ mọi giáo pháp đều là sự lập bày thích ứng tạm thời, thật không có một phương pháp cố định, chỉ tùy theo lòng ưa thích của đối tượng để thích nghi giáo hóa, chỉ lấy việc chứng đạo làm trọng tâm, chẳng so sánh việc thô tế lúc nhập môn. Nếu chấp trước vào Tứ môn* của Viên giáo <!--[if !supportFootnotes]-->[16]<!--[endif]--> còn bị Sơ môn của Tạng giáo đối trị*.
 

Thế nên, pháp môn Bố thí mà Bồ Tát tu hành giống như người tù nhờ lỗ nhà xí mà trốn thoát, giống như người bệnh uống nước nhơ uế mà được lành . Không có quán xét tất chẳng thể nhổ hết căn bệnh tam độc, không có tu hành thì khó vượt khỏi ngục tù trong ba cõi.
 

Sách xưa nói:
 

“Bắt được chim có thể từ một mắc lưới, nhưng không thể lấy một mắc đó cho là toàn lưới. Sửa trị nước nhà có thể qui công về một người, nhưng một người ấy không thể thành một quốc gia được”.
 

Thế nên, cần phải đầy đủ các hạnh, tu tập muôn việc lành. Một hạnh trở về nguồn, ngàn pháp môn tự nhiên chân chánh. Trong kinh nói rõ, mười hai nhân duyên là một pháp, nhưng từ bốn phương diện: từ, bi, hỷ, xả mà quán sát thì đạt được bốn loại Bồ đề*.
 

Nếu chỉ thu nhận người căn cơ bậc thượng thì kẻ trung hạ không có phần. Thế nên, hoằng dương Bán tự giáo vẫn có công lao làm thành Mãn tự giáo <!--[if !supportFootnotes]-->[17]<!--[endif]-->; đạt đến Bảo sở là dựa vào sự trợ lực của Hóa thành.
 

Sao có thể bỏ đây lấy kia, chấp vào chỗ chân thật mà chê bai sự quyền biến, dứt bỏ cơ duyên của chúng sanh, diệt mất phương tiện của chư Phật?
 

Do vậy, nói từ chỗ chân thật mà phân ra sự quyền biến, sự quyền biến này là quyền biến nơi chân thật; khai mở quyền biến hiển bày chân thật, chỗ chân thật này là chân thật nơi quyền biến. Nếu đối với hai môn quyền biến và chân thật mê mờ không rõ thì trí tuệ chẳng được tự tại.
 

Trong Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Chúng sanh do mọi thứ nhân duyên nên được độ thoát chẳng đồng nhau. Có người do thiền định, được giải thoát. Có người do trì giới, thuyết pháp, được giải thoát. Có người nhờ ánh sáng của Phật chiếu soi đến nơi thân mà được giải thoát. Giống như thành trì có nhiều cửa, chỗ vào tuy khác nhau nhưng chỗ đến không khác”.
 

Nói rằng, công đức của Bát Nhã sâu xa là vì từ nơi Bát Nhã mà có ra các bậc Thánh Hiền.
 

Muôn loài đều có sẵn tánh mầu nhiệm này. Nêu lên thì là tông chỉ, là đứng đầu, là người dẫn đường, là chỗ nương tựa; dung thông thì chạm cảnh đều thấu suốt là không, không có gì chẳng phải là Bát Nhã.
 

Thế nên kinh nói:
 

“Sắc vô biên nên Bát Nhã vô biên”.
 

Triệu Luận nói: “Ba độc và bốn sự điên đảo thảy đều thanh tịnh”.
 

Tại sao chỉ tôn sùng Bát Nhã thanh tịnh? Nay sao lại lấy bỏ, muốn trốn hư không tránh bóng mình?
 

Ý chỉ sâu kín của chư Phật khó lường xét, giống như nắm tay không dùng để lường gạt trẻ thơ. Các Ngài khéo khuyến dụ hóa độ tất cả không có pháp cố định, cho nên gọi là trí tuệ rộng lớn. Chẳng biết Bát Nhã có công năng phá chấp, trong giáo lý chú trọng tán thán mà lại theo ngôn ngữ phát sinh kiến chấp.
 

Thế nên y theo phương hướng mà mê lầm. Bát nhã hay dẫn đường vạn hạnh, nếu không có Bát Nhã dùng vạn hạnh để làm gì?
 

Thích ăn tương mà lại uống muối quá mặn gây ra bệnh, chỉ ôm lấy không mà chấp đoạn, tiêu mất trí tuệ, tạo thành lỗi lầm.
 

Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Đế Thích suy nghĩ rằng:
 

- Nếu Bát Nhã là pháp rốt ráo, người tu hành chỉ thực hành Bát Nhã, cần gì những pháp khác?
 

Đức Phật đáp:
 

- Bồ Tát tu Sáu pháp Ba La mật, lấy Bát Nhã Ba La mật dùng pháp vô sở đắc hòa hợp, đó tức là Bát Nhã Ba La Mật.
 

Nếu thực hành Bát Nhã không thực hành những pháp khác thì công đức không đầy đủ, chẳng được tốt đẹp vi diệu. Ví như người ngu chẳng biết về gia vị, nghe nói nước tương là chủ mọi gia vị, bèn chỉ uống nước tương, vì quá mặn nên gây ra bệnh. Hành giả cũng vậy, muốn trừ tâm chấp trước nên chỉ thực hành Bát Nhã, trái lại rơi vào tà kiến không thể tăng tiến pháp lành. Nếu hòa hợp với năm pháp Ba La Mật kia thì công đức đầy đủ, nghĩa vị điều hòa”.
 

Kinh Lăng Già Sơn Đảnh nói:
 

“Bồ Tát có hai con đường nhanh chóng:
 

- Một là con đường Phương tiện, hay làm nhân duyên.

- Hai là con đường Bát Nhã, hay dẫn đến vắng lặng”.
 

Thế nên, Bát Nhã không có Phương tiện thì chìm đắm trong hố vô vi, Phương tiện không có Bát Nhã tất rơi vào mạng lưới huyễn hóa. Hai bên không ngưng trệ, một đạo đầy đủ. Quyền biến và chân thật song hành, Chánh tông mới hiển lộ. Trụ ở chỗ không trụ nên Phật sự đều gồm tu; được mà không được chi cả vì thế tâm trí hằng lặng lẽ. 
 

Hỏi:
 

Trong giáo lý chỉ dạy quán xét tự thân vô ngã, thấu rõ vô sanh. Đã thông đạt tánh không sao lại còn chấp ngã, muốn vọng tưởng làm mọi việc thí xả?
 

Đáp:
 

Từ nơi Lý mà nhìn thì chẳng có, từ nơi Sự mà xét thì chẳng phải là không. Thân này do nhân duyên hòa hợp huyễn hóa sanh ra, tuy không có chủ thể tạo tác, thiện ác cũng không có thật thể nhưng nghiệp quả lại rõ ràng. Từ vô thỉ đến nay mất vô số thân, chỉ nối tiếp Câu sanh phiền não chết một cách vô ích. Nay xả bỏ thân thể cha mẹ ban cho, đâu phải là thân mình.
 

Nếu một niệm tu tập viên mãn giới định tuệ, tâm lành vi diệu, mới là thân thể chân thật của chính mình.
 

Hiện nay thí xả chính là thân thể do nhân duyên hòa hợp sanh ra. Song, sự xả bỏ thân này, từ nơi sự tướng mà nói là chết vì lợi ích chúng sanh. Huống chi, chúng sanh đang bị vô minh phiền não và ba thứ chướng ngại, hai loại sanh tử ràng buộc, chỉ luận bàn suông về Không thì ai tin nhận?
 

Thế nên, Phật Pháp quí ở chỗ hành trì, không phải ở nơi biện luận hay khéo. Ví như mối mọt ăn gỗ ngẫu nhiên trở thành văn tự, lại giống như chim hót không ngừng thật ra không có nghĩa lý chi cả.
 

Nếu phiền não không giảm, ngã mạn lại tăng, đó tức là chấp chặt vào cái Không tà vạy, chẳng phải khéo thông đạt chánh pháp. Cần phải tự thân thấy đạo, lời nói và hành động phù hợp nhau.
 

Nếu buông thả những tư tưởng và lời nói sai lầm dối trá thì làm sao quán sét được sự tu hành thâm trầm và công dụng sâu kín?
 

Bậc cao đức ngày xưa nói:
 

“Tu hành cần phải ngàn thước muôn thước, lời nói chỉ cần nửa tấc một tấc”.
 

Trong kinh còn nói:
 

“Trên ngôn ngữ tuy nói là “không”, nhưng tu hành phải thực hiện ở trong “có”.
 

Kinh Bảo Tích nói:
 

“Đức Phật bảo rằng:
 

Nếu không tu hành mà có thể đạt được Bồ đề thì chỉ dùng âm thanh ngôn ngữ cũng chứng đắc đạo Giác ngộ Vô thượng.
 

Mọi người chỉ cần nói thế này: Tôi sẽ thành Phật! Tôi sẽ thành Phật. Do lời nói ấy nên vô số chúng sanh lẽ ra phải thành tựu Chánh giác”.
 

Nên biết, sự tu hành so với lời nói càng quan trọng hơn, đạo chẳng ở ngoài tâm.
 

Trong kinh còn nói:
 

“Đức Phật bảo: Người học tập giáo pháp của ta, chỉ có chứng ngộ mới biết”.
 

Thế nên, đem hành vi cực ác mà bàn suông về Phật lý, chẳng bằng một hạnh lành nhỏ bé; nhiều giả dối chẳng bằng ít mà chân thật. Chỉ cần có thể tu hành, không nên chê bỏ tâm lành nhỏ bé. Phóng túng lời nói về Không, chỉ nêu suông tâm nguyện to lớn. Chưa khế hợp với tác dụng của Chân như, chưa thuận Pháp tánh mà tu hành, chỉ được tâm tăng thượng mạn, tự chuốc lấy lỗi lầm lừa dối vu khống. Vì thế, kinh Nhân Vương nêu hạnh vị Ngũ nhẫn, Ngài Trí Giả đầy đủ văn Lục tức Phật, hạnh vị rõ ràng đâu thể tùy ý xáo trộn. Sao chẳng có cái nhìn bình đẳng, khởi tâm tùy hỷ, tích lũy các căn lành, thành tựu chủng tánh đại từ bi?
 

Kinh nói:
 

“Đốt một ngón tay, dâng một nén hương, còn có thể diệt trừ vô số tội lỗi trong nhiều kiếp; hoặc rải một đóa hoa, hoặc tạm thời xưng niệm một danh hiệu Phật, cuối cùng sẽ đạt được quả vị cứu cánh”.
 

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói:
 

“Bồ Tát đồng sự với chúng sanh còn làm kẻ gian xảo, trộm cắp, đồ tể, buôn bán, dâm nữ, quả phụ, không việc gì chẳng làm”.
 

Trong Vô Sanh Nghĩa nói:
 

“Người tu hành ly tướng vô trụ, không trụ nơi Niết Bàn; hay hiện sắc thân khắp nơi ở trong hữu vi, có thể làm kẻ sang người hèn, có thể làm Hiền Thánh phàm phu, thực hành đạo nhân nghĩa, từ bi cứu giúp chúng sanh khắp mười phương cùng tận bờ mé vị lai”.
 

Còn nói: “Địa vị phàm phu tu tập Thánh hạnh, địa vị nơi quả tu tập nhân phàm, chưa đầy đủ Phật Pháp cũng không diệt cảm thọ để chứng đắc”.
 

Thế nên biết rõ, Chân là Chân trong Tục, Tục là Tục trong Chân, chấp trước là trần lao, thông suốt là Phật sự. Vào Pháp Tánh Tam Muội không một pháp nào đáng chán, chứng vô biên định môn thì chẳng một pháp nào đáng bỏ. Hơn thua đã sai lầm, lấy và bỏ cũng đều trái ngược, không nên làm chướng ngại sự giác ngộ của người khác, tiêu diệt cội lành chính mình.
 

Vả lại, dù hiểu rõ thân không thật, thâm nhập Thật tướng, không vướng mắc nơi tâm cảnh, quyết định không nghi ngờ; tuy biết tất cả hữu vi giống như vết chim trong hư không, nhưng vẫn phải quán xét tu luyện đối trị trong từng địa vị. Tập khí chẳng phải là không, huống chi chấp chặt vào sự ngu si của bốn thứ điên đảo, vướng sâu trong mạng lưới bát tà, giữ gìn thân nhơ uế này làm nhiều việc tham dâm, bị lưới huyễn hóa bao phủ, bị tình sắc làm say mê, đắm chìm trong vòng sanh tử luân hồi khốn khổ.
 

Cho nên bậc Đại giác rất xót thương, dùng nhiều lời chê bai hoặc vứt bỏ. Khi các bậc Thánh xả thân, đều quở trách việc này trước nhất:
 

Chúng sanh chấp thân này là thật, giống như lấy độc dược đổi lấy hồ, lấy ngói gạch đổi lấy châu báu.
 

Kinh Đại Bửu Tích nói:
 

“Quán xét thân, có bốn mươi điều lầm lỗi, hoặc bảo rằng thân này là ngục tham dục thường bị phiền não trói buộc, hầm nhơ nhớp thường bị dòi tửa gậm nhấm.
 

Giống như nhà xí có năm thứ bất tịnh.
 

Giống như túi thủng chín lỗ thường chảy ra, độc xà sân hận thường phát khởi tâm gây hại, thương tổn huệ mạng, La sát ngu si bám vào ngã chấp nuốt mất trí tuệ.
 

Giống như kẻ giặc ác thiên hạ đều chán ghét.
 

Giống như chó chết các bậc Hiền đều vứt bỏ.
 

Giống như cây chuối, bọt nước chẳng bền chắc, vô thường dường như ánh chớp, sóng nắng. Tuy cho ăn uống mà trở thành kẻ thù oán, thường nuôi dưỡng mà chẳng biết báo ân”.
 

Các Ngài chê trách thân này rất nhiều, khó nói cho đầy đủ. Nếu không xét rõ lỗi lầm sâu sắc bèn làm nhiều việc ác, mê muội nơi những điều trên cho đó là phải, chẳng lo tiến tu thì trí và hạnh đều thiếu sót, Lý và Sự cả hai đều mất.
 

Trước nên chán nản lỗi lầm, tha thiết khắc khổ đối trị. Biết sai lầm, lần lần lửa dục tắt lịm; thấu rõ cội gốc, nguồn chân tự nhiên hiển bày.
 

Thế nên kinh Pháp Hoa nói:
 

“Giống như nhà lửa tam giới thiêu đốt làm sao có thể hiểu trí tuệ Phật được”.
 

Hỏi:
 

Thân tuy giả dối, mọi sự lo lắng buộc ràng, nhưng nhờ thân huyễn này có thể thành tựu đạo quả.
 

Trong kinh nói: “Không vào biển cả phiền não thì không được bảo châu vô giá”. Nếu muốn xả bỏ thân này, e rằng về sau hối hận.
 

Đáp:
 

Phàm có sanh tất có diệt, mọi cái có hình tướng đều rỗng không. Nếu đối với Tam Bảo chí thành hướng về, khởi một tâm niệm xả bỏ còn hơn sự sống say chết mộng ở thế gian. Bởi lẽ có thể dùng thân vô thường mà đạt được thể kim cang, đem thân không bền chắc mà đổi lấy thân kiên cố. Hai đường lấy và bỏ cần phải tựa vào trí tuệ soi xét.
 

Hỏi:
 

An tâm vào đạo phải thuận Chân không; khởi hạnh độ sanh, toàn trở về nơi Thế đế. Chỉ tỏ ngộ Pháp tánh mới thấu rõ Chánh tông, sao lại bài xích chân thật mà dựa vào giả dối, bỏ gốc theo ngọn, hữu vi nhiễu động tạo tác lăng xăng, hoặc loạn cuồng nguồn chơn vẩn đục nước tâm?
 

Đáp:
 

Trong Đệ nhất nghĩa, chân cũng không lập; nơi Pháp giới bình đẳng, không có Phật và chúng sanh; trong môn Tục đế, chẳng bỏ một pháp.
 

Phàm có làm điều gì cũng đều là Phật sự, thế nên chư Phật thường y nơi Nhị đế mà thuyết pháp. Nếu không hiểu Thế đế thì cũng chẳng đạt đến Đệ nhất nghĩa đế.
 

Luận Duy Thức nói:
 

“Bác rằng không có Nhị đế là kẻ chấp Không bừa bãi, dù chư Phật có dạy cũng không thể chữa trị cho họ”.
 

Kinh Kim Cang nói:
 

“Người phát tâm cầu đạo Giác ngộ, chẳng nói tướng đoạn diệt của các pháp”.
 

Quốc Sư Hiền Thủ nói:
 

“Chân không chẳng hoại nghiệp quả duyên khởi thế nên tôn ti rõ ràng”.
 

Luận Kim Cang Tam Muội nói:
 

“Chân và Tục không hai mà cũng chẳng chấp là một, vì không hai nên tức là nhất tâm, không chấp vào một nên toàn thể là hai”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Ví như hư không trong mười phương, hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai tìm cầu không thể được, nhưng chẳng phải không có hư không.
 

Bồ Tát cũng vậy, quán sát tất cả các pháp đều không thật nhưng chẳng phải không có tất cả pháp. Như thật không khác, chẳng bỏ mất các việc làm, thị hiện tu hành những hạnh Bồ Tát cùng khắp, chẳng bỏ đại nguyện, điều phục chúng sanh, xoay chuyển bánh xe chánh pháp, chẳng phá hoại nhân quả”.
 

Còn nói, Đại Bồ Tát hiểu rõ tự thân cùng với chúng sanh xưa nay vắng lặng, chẳng kinh hãi, chẳng sợ sệt, siêng năng tu tập phước đức trí tuệ không thấy chán nản và đầy đủ.
 

Tuy biết tất cả pháp không có tạo tác mà chẳng bỏ tự tướng của tất cả pháp.
 

Tuy đối với các cảnh giới lìa hẳn tham dục mà thường ưa thích chiêm ngưỡng kính lễ sắc thân chư Phật.
 

Tuy biết không do người khác mà được ngộ nhập vào pháp, nhưng tìm nhiều phương tiện để cầu Nhất thiết trí.
 

Tuy biết cõi nước chư Phật đều như hư không nhưng vẫn thường ưa trang nghiêm tất cả các cõi Phật.
 

Tuy hằng quán sát vô nhân vô ngã nhưng giáo hóa chúng sanh không biết mỏi mệt.
 

Tuy nơi pháp giới xưa nay chẳng động mà dùng sức thần thông trí tuệ thị hiện mọi sự biến hóa.
 

Tuy đã thành tựu Nhất thiết trí mà tu hạnh Bồ Tát không ngừng nghỉ.
 

Tuy biết các pháp chẳng thể nói năng mà xoay chuyển bánh xe giáo pháp thanh tịnh, khiến cho chúng sanh hoan hỷ.
 

Tuy có thể thị hiện thần lực của chư Phật mà chẳng chán nản thân Bồ Tát.
 

Tuy đã vào nơi Đại Niết Bàn nhưng vẫn ở khắp mọi nơi thị hiện thọ sanh”.
 

Có thể thực hành hai pháp quyền biến và chân thật song song, như thế tức là việc làm của Phật. Thế nên, bài bác nhân quả tức là hạng ngoại đạo chấp Không, nếu dựa vào lý thể mà dứt tuyệt công dụng là hàng Thanh Văn thú hướng đến chỗ tịch diệt.
 

Vả lại, nếu lập Chánh tông thì pháp gì chẳng phải là tông, đã luận về Pháp tánh thì vật gì chẳng phải là tánh. Từ mặt mê vọng mà phá chấp thì quyền biến thiết lập phải quấy; từ mặt giác ngộ mà thấu rõ đồng nhất thì thật không lấy bỏ.
 

Điều hiện nay muốn nói là, đã không đồng với việc chấp trước sự tướng của phàm phu, cũng chẳng phải sự nghiêng về giả mà rời chân của Bồ Tát Tam Tạng, cũng không phải sự chuyên nhất cầu tịch diệt của hàng Thanh Văn Thông giáo.
 

Nếu nói về Có mà rời Không là nhân của vọng sắc, nếu nói về Không mà rời Có thì trở về quả đoạn diệt.
 

Nay muốn chỉ ra là, tánh tức là tánh nơi tướng nên chẳng ngại vạn vật sanh khởi; tướng là tướng nơi tánh nên chẳng trở ngại bản thể vắng lặng. Cảnh là cảnh chẳng thể nghĩ bàn, Không là Tánh không Đệ nhất nghĩa. Mở ra và thâu lại đồng thời, ngay nơi Không mà thường Có, tồn tại và diệt mất chẳng hoại, ngay nơi Có mà vẫn thường Không.
 

Do đó, giáo lý của Tông Thiên Thai nói:
 

“Giống như gương mới hiện các hình tượng, còn ngói gạch thì không thể nào ảnh hiện. Trong gương tuy có đủ mọi hình tướng nhưng rỗng không, không có gì. Vì vậy Pháp thân thanh tịnh vi diệu đầy đủ ba mươi hai tướng”.
 

Quốc Sư Thanh Lương nói:
 

“Phàm Thánh thông suốt nhau, ngay nơi tâm phàm mà thấy tâm Phật. Sự-Lý song tu, dựa vào trí phàm mà cầu được trí Phật”.
 

Bậc Cao đức thuở xưa giải thích rằng:
 

“Những người không rõ ý chỉ trong Thiền Tông thường chấp Lý không rõ Sự, nói rằng tâm tánh vốn đầy đủ cần gì phải tu hành tìm cầu, chỉ cần dứt bỏ tình chấp thì Phật chân thật tự nhiên hiển hiện.
 

Những người học giáo pháp lại chấp Sự không rõ Lý, nói rằng cần gì phải chăm chăm tu tập lý pháp. Nếu cả hai hợp lại thì tốt đẹp, tách ra thì đôi bên tổn thương.
 

Thế nên, Lý-Sự song tu để tỏ bày ý chỉ viên dung vi diệu. Dừng tâm dứt niệm gọi là Lý hạnh; ra công trên sự tướng gọi là Sự hạnh. Y nơi Bản trí là trí bản giác, đây là trí nhân. Tánh rỗng rang sáng suốt này gọi là trí. Thành tựu Lý hạnh ở trước, dứt tình chấp hiển bày Lý. Cầu trí Phật, tức là Trí giải thoát vô chướng ngại, đây là trí quả.
 

Đứng về mặt tròn sáng, quyết đoán là trí thì thành tựu Sự hạnh ở trước, do khởi hạnh thành tựu quả. Ở đây là thể tánh đồng cho nên y theo đây; tướng dụng khác nhau vì vậy mà tìm cầu, chỉ cầu tướng dụng chẳng cầu thể tánh.
 

Lý hạnh dứt tình chấp ở trước tức là duyên khởi trừ nhiễm, vì hiển bày thể tánh. Sự hạnh ra công tức là duyên khởi hiển tịnh, vì thành tựu tướng dụng”.
 

Vô Tướng Tông nói, những lời nói trên tướng dụng rõ ràng. Chỉ cần y theo Bản trí, tình chấp dứt sạch thì tướng dụng tự nhiên hiển bày. Vì vốn đầy đủ, cần gì phải phát khởi nơi Sự hạnh?
 

Viên Tông nói, tánh vốn đầy đủ nên khi dứt tình chấp chỉ cần dẹp trừ tướng dụng phần nhiễm, tự nhiên hiển bày thể chân thật.
 

Nếu không có Sự hạnh, không do đâu sanh khởi được tướng dụng phần tịnh. Như vàng tuy có thể làm ra các đồ trang sức, nhưng trừ bỏ tạp chất thì chỉ có thể hiển bày vàng, nếu không ra công tạo tác tất không sao được thành đồ trang sức. Lẽ nào khi vàng ra khỏi khoáng rồi, chẳng nhờ tạo tác tự nhiên trở thành đồ trang sức sao?
 

Nếu dứt tình chấp chấp chẳng phải nhờ vào Sự hạnh, vậy thì Đức Phật dạy tu tập đầy đủ há chẳng phải là khiến cho người học nhọc nhằn luống uổng hay sao? Thế nên, Bồ Tát Bát Địa đã có thể lìa niệm, Đức Phật còn khuyên bảo phát khởi Sự hạnh, nên biết vì lìa niệm chưa phải là xong. Cho nên văn nói:
 

“Pháp tánh chân thường lìa tâm niệm

Nhị thừa ở đây cũng đạt được

Chẳng do nơi đó thành Thế Tôn

Chỉ bởi trí sâu xa vô ngại”.
 

Thất Khuyến<!--[if !supportFootnotes]-->[18]<!--[endif]--> đều là Sự hạnh. Thế nên biết, quả Phật tánh tướng phải đầy đủ, nhân hạnh Sự-Lý phải song tu.
 

Dựa vào Bản trí giống như được vàng, tu tập Lý hạnh giống như trừ khoáng, tu Sự hạnh giống như tạo tác, cầu trí Phật giống như làm thành những đồ trang sức.
 

Từ Mẫn Tam Tạng Lục nói:
 

“Nếu bảo rằng Thế Tôn nói các pháp hữu vi nhất định giống như hoa đốm trong hư không hoàn toàn không có một vật, như thế gọi là giả dối”.
 

Đã giả dối không có hình tướng thì chẳng phải là nhân giải thoát, tại sao Thế Tôn lại dạy các đệ tử siêng năng tu nhân vi diệu Lục độ vạn hạnh để chứng quả Bồ đề Niết Bàn? Lẽ nào người trí lại khen ngợi lầu sò chợ bể là chân thật bền chắc cao đẹp, lại khuyên mọi người dùng sừng thỏ làm bậc thang để đi lên đó?
 

Do lý này nên tuy là phàm phu cũng có thể phát tâm Bồ đề, thực hành đạo Bồ Tát. Tuy họ tu tập trong hữu lậu nhưng đó cũng là sự tu tập chân thật và chính xác. Mọi vật hiện hữu tuy đều giả dối nhưng chẳng đồng với lông rùa không có gì cả. Ở đây nói giả dối là vì sự vật đều dựa vào nhân duyên sanh khởi huyễn có, chẳng đồng với vọng chấp cho là không ngơ.
 

Nếu người hiểu như thế, thường thực hành nơi sự tướng thì sự tướng không thể chướng ngại, nhanh chóng đạt được giải thoát. Mê mờ chấp chặt hạn cuộc, không thông suốt giáo nghĩa, tuy mong cầu lìa tướng mà thường bị tướng ràng buộc không thể giải thoát.
 

Lại nói, nếu chấp rằng sự tu hành của chư Phật trong ba đời là vọng tưởng thì dựa vào sự tu học gì mới đạt được giải thoát? Chẳng nương vào hạnh của Phật, y cứ vào nơi nào khác đều là hành vi của ngoại đạo.
 

Bậc Cao đức ngày xưa nói:
 

“Nếu một bề khoanh tay không làm, tự mình an ổn chẳng thực hành đạo nhân nghĩa tức là khiếm khuyết sự trang nghiêm, cho dù tu hành nhiều kiếp cũng không thành tựu. Chỉ cần chỗ chân thật chẳng nhận mảy trần, nơi Phật sự không bỏ một pháp là được”.
 

Hoàn Nguyên Quán nói:
 

“Chân thật bao hàm mọi cành ngọn hư vọng, không có hạnh gì mà chẳng tu hành; vọng thấu suốt nguồn chân, không có tướng gì chẳng lặng lẽ”.
 

Lại nói, Tánh chân như vốn tùy duyên một cách tự nhiên như thế. Vạn vật đồng phát sanh cũng trở về tánh thể một cách tự nhiên như vậy.
 

Kệ truyền pháp của Tổ sư nói:
 

“Tâm địa tùy thời nói

Bồ đề cũng như thế

Sự-Lý đều vô ngại

Đương sanh tức chẳng sanh”.
 

Nên biết, Chân như không giữ tự tánh, thuận theo rỗng lặng mà vạn vật hằng sanh khởi; nhân duyên chẳng mất tự thể, mặc cho mọi sự hoạt động, tánh không vẫn thường lặng lẽ.
 

Hỏi:
 

Kinh Tư Ích nói:
 

“Người vào Chánh vị không trải qua từ Sơ địa đến Thập địa”.
 

Kinh Lăng Già nói:
 

“Chân như lặng lẽ sao có thứ bậc?”.
 

Bậc Cao đức ngày xưa nói:
 

“Thà muôn kiếp trầm luân, hoàn toàn chẳng cầu giải thoát của các bậc Thánh”.
 

Lại nói: “Mặc cho ngàn Thánh hiện, ta có Phật thiên chân”. Tại sao lại ấn mắt phát sanh hoa đốm, gượng phân chia thứ bậc tu hành?
 

Đáp:
 

Nếu tâm thầm hợp với tánh Phật, lý bao quát nguồn chân, cần gì phải nhờ duyên khác mà quên mất chính mình.
 

Nếu như dựa vào trí tuệ phân chia thì ở trong chỗ không thứ bậc mà thiết lập thứ bậc. Tuy dường như có lên xuống thật sự, bản vị vốn không biến động. Phật Pháp gọi là “vị”, nếu không có hạnh vị tu hành, tức là thiên ma ngoại đạo.
 

Nếu từ môn “Viên dung” mà nói thì thuận theo Pháp giới tánh vốn tự thanh tịnh. Nếu từ môn “Hành bố” mà nói, tùy theo tướng Thế đế trước sau có sự phân chia sâu cạn.
 

Hiện nay Viên dung chẳng trở ngại Hành bố nhanh chóng thành tựu các hạnh, bởi một địa tức là tất cả địa. Nếu Hành bố chẳng trở ngại Viên dung thì thành tựu khắp cả các hạnh, bởi vì tu hành tăng tiến công đức của các vị thứ tâm vẫn thường rỗng lặng nên ở nơi Trung đạo. Không có mà có vị thứ rõ ràng; có mà không có rỗng rang lặng lẽ.
 

Do đó, kinh Bát Nhã nói:
 

“Tu Bồ Đề hỏi Đức Phật:
 

- Nếu các pháp rốt ráo không có gì, tại sao lại nói có Sơ địa cho đến Thập địa?
 

Đức Phật đáp:
 

- Vì các pháp rốt ráo không có gì nên có Sơ địa cho đến Thập địa của Bồ Tát. Nếu các pháp có tánh quyết định thì không có Sơ địa cho đến Thập địa”.
 

Vì thế Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là pháp môn Bồ Tát thực hành, Năm mươi hai vị thứ là con đường tu học của chư Phật thuở xưa.
 

Từ chỗ tâm niệm ban đầu, một niệm tu tập trọn vẹn, cho đến đạt được Mười tám pháp Bất cộng, mài dũa ba nghiệp, cuối cùng sẽ đạt đến chỗ thanh tịnh rốt ráo.
 

Hỏi:
 

Tự tánh chân thật của chúng sanh vốn tự thành tựu trọn vẹn, tại sao phải nhờ vào tu hành làm nhiều việc thiện?
 

Trong kinh nói:
 

“Biết tất cả đều khổ, đoạn diệt nguyên nhân đau khổ, chứng đắc quả tịch diệt, tu tập đạo Niết Bàn. Đó đều là những luận bàn vô ích”.
 

Nếu phát khởi sự tu hành hư vọng, làm sao khế hợp với bản tánh?
 

Đáp:
 

Luận Đại Thừa Khởi Tín nói:
 

“Bởi vì chúng sanh có tâm vọng tưởng nên hay biết danh nghĩa, do vậy mà nói về tánh giác chân thật, cũng bởi Chân như có công năng huân tập bên trong nên khiến vô minh này có dụng thanh tịnh.
 

Ngoài ra lại nhờ sức mạnh nơi lời dạy của chư Phật ở bên ngoài, phối hợp với sức mạnh huân tập ở bên trong của Chân như, trợ giúp lẫn nhau, do đó khiến vọng tâm này tin chính mình có Tánh chân như, có thể sanh khởi mọi phương tiện tu hành các môn đối trị. Sự tu hành này là tin có Chân như, nhưng vì chưa chứng ngộ Chân như nên chẳng gọi là vô lậu. Nếu vọng niệm thanh tịnh thì Chân tánh tự hiển bày”.
 

Vả lại, tuy tu tập không tự tánh nhưng chẳng trở ngại sự chân tu. Từ vọng mà hiển bày chân, nhân thức mà thành trí, giống như hình bóng của sự vật có thể bày tỏ sự trong sáng của mặt gương. Nếu không có phiền não trần lao cũng không cần kiến lập Phật đạo.
 

Bậc Cao đức ngày xưa nói:
 

“Hai pháp chân vọng đồng là nhất tâm, nắm lấy vọng mà thành tựu chân, vì ngoài chân không có vọng nào khác. Chân thuận theo vọng hiện bày, vì ngoài vọng không có chân nào khác. Hơn nữa, nếu ngoài chân mà có vọng thì lý thể không cùng khắp. Nếu ngoài vọng mà có chân thì sự tướng không có chỗ nương tựa.
 

Vả lại, nếu chấp bản tánh vốn thanh tịnh, đó là thuộc về tự tánh ngu si. Nếu chấp rằng nhờ sự tu tập bên ngoài, đó là tha tánh ngu si. Nếu chấp vào sự kết hợp trong và ngoài, đó là thuộc về cộng tánh ngu si. Nếu dẹp trừ gốc và ngọn, đó là thuộc về vô nhân ngu si”.
 

Trưởng Giả Luận nói:
 

“Nếu nhất loạt đều bình đẳng thì không có tâm ý tu đạo. Cần phải khích lệ tu hành cho đến chỗ vô tu mới biết vạn pháp vốn không có sự tu hành chi cả”.
 

Kinh Bảo Tích nói:
 

“Nếu không cần có sự tu hành chân chánh thì các loại động vật mèo thỏ cũng nên thành Phật”.
 

Trong giáo lý của Tông Thiên Thai nói :
 

“Hạnh hay thành tựu trí, hạnh đầy thì trí tròn; trí hay hiển lý, lý tận cùng thì trí lặng lẽ. Đạo lý quan hệ lẫn nhau, không phải là không có sự hưng phế.
 

Do quyền biến mà hiển bày chân thật, chân thật được xác lập, quyền biến không còn. Từ vọng tỏ rõ chân, chân được thành tựu thì vọng cũng sẽ tiêu diệt. Quyền biến và hư vọng đã lặng lẽ, chân thật cũng rỗng không, chẳng phải hư vọng chẳng phải quyền biến thì cái gì chân, cái gì thật?”.
 

Đại sư Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu nói: “Nếu nói do tu hành mà được, đó chính là tạo tác chẳng phải chân thật. Nếu nói tánh Phật vốn có thì vạn hạnh chỉ là sự lập bày suông mà thôi”.
 

Hỏi:
 

Tất cả phàm phu thường ở nơi định, cần gì thực hành quán Sổ tức, không dây mà tự trói?
 

Đáp:
 

Nếu nói về Pháp Tánh Tam Muội thì ai mà chẳng đầy đủ. Nếu bàn về môn định cứu cánh, chỉ có Phật mới đạt đến rốt ráo. Bậc Bồ Tát Đẳng Giác còn không biết, kẻ phàm phu tâm tán loạn sao có thể dò xét?
 

Thế nên, Bồ Tát Văn Thù nói:
 

“Ví như người học bắn tên, từ thô đến tế, về sau bắn đâu trúng đó. Ta cũng như vậy, ban đầu thực tập chánh định chuyên nhất một cảnh, về sau vào chánh định vô tâm mới được thường ở nơi định trong tất cả thời”.
 

Cho nên các pháp quán Bất tịnh, quán Giả, Sổ tức diệu môn đều là bến bờ đưa đến nơi cam lồ, con đường thẳng tắt ra khỏi sanh tử.
 

Tổ sư Long Thọ nói:
 

“Quán xét trong Thập lực của Phật có hai lực lớn nhất:
 

- Do nghiệp lực nên vào trong sanh tử.

- Do định lực nên ra khỏi sanh tử.
 

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói:
 

“Cứu mạng cho tất cả mọi người trong tứ thiên hạ, chẳng bằng đoan chánh tâm ý trong khoảng một bữa ăn”.
 

Vì vậy, Chân như còn ở trong ràng buộc, hôn trầm tán loạn đều đầy đủ; Chân như ra khỏi sự ràng buộc, định và tuệ mới tỏa sáng.
 

Chung và riêng rõ ràng, trước sau không lẫn lộn, tại sao lại cho Lý là phải, chẳng lẽ chỉ trích Sự là sai?
 

Hỏi:
 

Sự nghiệp lớn của Bồ Tát lấy việc nhiếp hóa chúng sanh làm nền tảng. Tại sao lại ở một mình trên đỉnh núi, vào sâu nơi vắng vẻ, đã trái với bản nguyện làm sao thành tựu sự lợi ích cho mọi người?
 

Đáp:
 

Bồ Tát vốn vì hóa độ mọi người, do đó trước tu định tuệ. Ở chỗ vắng vẻ yên tĩnh thì dễ thành tựu Thiền Quán; thực hành hạnh Đầu Đà ít muốn, có thể bước vào Thánh đạo.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Lại thấy có Bồ Tát

Dõng mãnh và tinh tấn

Vào ở trong non sâu

Suy xét mối Phật đạo”.
 

Hỏi:
 

Học rộng nghe nhiều, học tập ghi nhớ, theo nghĩa lý mà cứu xét tận cùng văn tự thì làm sao thấy tánh?
 

Đáp:
 

Nếu thuận theo ngôn ngữ văn tự mà phát sanh hiểu biết, chấp trước vào lời nói, bỏ quên tông chỉ, chỉ lo tìm cầu kinh giáo mê mờ nơi tâm tánh, không phân biệt được ngón tay và mặt trăng thì đương nhiên khó mà thấy tánh.
 

Nếu nhân lời nói ngộ đạo, nhờ kinh giáo để thấu rõ tông chỉ, thâm nhập nghĩa lý viên mãn, cứu xét sâu xa ý chỉ Đức Phật, thế thì nghe nhiều cũng có thể thành tựu Phật Pháp, tích lũy sự học Phật mà thành biển trí tuệ.
 

Từ phàm phu bước lên bậc Thánh đều do công phu học đạo; ở nơi nguy hiểm được an ổn, hoàn toàn nhờ công lao của trí tuệ nhiệm mầu. Ngôn ngữ là thềm thang để bước vào đạo, kinh giáo là tiêu chuẩn để biện biệt rõ tà chánh.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Muốn độ chúng sanh khiến cho trụ nơi Niết Bàn thì chẳng rời Trí giải thoát vô chướng ngại. Trí giải thoát vô chướng ngại chẳng rời cái biết như thật về tất cả pháp. Cái biết như thật về tất cả pháp chẳng rời ánh sáng trí tuệ Vô hạnh, Vô sanh hạnh. Ánh sáng trí tuệ Vô hạnh, Vô sanh hạnh chẳng rời Trí quán sát quyết định Thiền thiện xảo. Trí quán sát quyết định Thiền thiện Xảo chẳng rời sự khéo léo nghe nhiều.
 

Bồ Tát quán sát như thế, biết rõ rồi, đối với chánh pháp càng thêm siêng năng cầu học tu tập ngày đêm chỉ nguyện nghe pháp, ưa thích pháp, vui với pháp, nương tựa pháp, tùy thuận pháp, hiểu rõ pháp, đạt đến pháp, an trụ pháp, thực hành pháp.
 

Bồ Tát siêng năng cầu Phật Pháp như thế, đối với tất cả tiền của đều không tiếc nuối, chẳng thấy có vật gì đáng quí trọng, chỉ nghĩ người có thể nói Phật Pháp thật khó gặp”.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Nếu có người lợi căn trí tuệ sáng suốt nghe nhiều nhớ giỏi mới có thể vì họ mà nói”.
 

Trong Luận nói:
 

“Có tuệ không đa văn

Thì chẳng biết Thật tướng

Ví như trong chỗ tối

Có mắt chẳng thấy gì

Đa văn không trí tuệ

Cũng chẳng biết Thật tướng

Ví như ở chỗ sáng

Có đèn mà không mắt.

Đa văn trí tuệ bén

Nên thực hành cả hai.

Không nghe không trí tuệ

Gọi là người như trâu”.
 

Cho nên nhị phẩm của Viên giáo mới chấp nhận đồng thời đọc tụng kinh điển; ở bậc Bất thối mới nghe pháp không chán nản.
 

Nghe Pháp có sức hỗ trợ cho sự quán chiếu; học Phật có công năng thành tựu Chủng trí. Do đó không nên để mắt mình giống như mắt của loài trâu dê, chẳng thể phân biệt rõ phương hướng ranh giới, cũng không nên để cho tâm mình ngu muội đến nỗi không phân biệt được đen hay trắng.
 

Hỏi:
 

Linh tri chẳng mờ tối, diệu tánh thường viên mãn, đâu nhờ tham vấn kiếm tìm cầu học khắp các bậc tri thức?
 

Đáp:
 

Tất cả chúng sanh ở trong ngộ mà sanh mê, ở trong chân mà khởi vọng, chỉ vì bất giác nên cần phải nhờ đánh thức.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Đức Phật đã từng gần gũi trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, thực hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dõng mãnh tinh tấn nên danh xưng vang khắp”.
 

Lại nói:
 

“Bậc thiện tri thức là nhân duyên lớn. Nghĩa là khiến cho mọi người được thấy Phật, phát tâm cầu đạo Giác ngộ Chân chánh Vô thượng”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Như vật báu trong tối

Không đèn chẳng thể thấy

Phật Pháp không người nói

Dù trí chẳng thể rõ”.
 

Còn nói rằng:
 

“Chẳng cần của báu đầy khắp ba ngàn Đại thiên thế giới, chỉ nguyện ưa nghe một câu Phật Pháp chưa từng nghe”.
 

Lại nói:
 

“Tuy biết các pháp chẳng do người khác mà được tỏ ngộ, nhưng lại thường tôn kính các bậc thiện tri thức”.
 

Luận Khởi Tín nói:
 

“Phật Pháp có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu. Như tánh lửa ở trong cây là chánh nhân của lửa. Nếu không có người biết, chẳng nhờ phương tiện có thể tự thiêu đốt cây thì thật không có điều đó.
 

Chúng sanh cũng thế, tuy có sức huân tập của chánh nhân nhưng nếu chẳng gặp chư Phật, Bồ Tát, thiện tri thức để làm duyên mà có thể tự mình đoạn dứt phiền não vào nơi Niết Bàn thì thật không có điều đó”.
 

Kinh Pháp Cú nói:
 

“Như giấy gói hương, dây xâu cá.
 

Đức Phật bảo các Tỳ kheo:
 

- Phàm vật vốn thanh tịnh nhưng đều do nhân duyên mà gây nên tội phước. Gần bậc hiền minh thì đạo nghĩa tăng trưởng, kết bạn với kẻ ngu muội thì tai họa tích tụ. Ví như giấy và sợi dây, gần hương thì thơm, xâu cá thì tanh, dần dần tiêm nhiễm thành thói quen mà không tự biết.
 

Đức Phật nói bài kệ:
 

“Kẻ thấp hèn nhiễm người

Như gần vật hôi tanh

Dần mê tập thói quấy

Bất giác trở thành ác.

Người hiền đức nhiễm người

Như gần hương xông ướp

Tăng trí làm việc lành

Thành tựu hạnh thanh khiết”.
 

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói:
 

“Phật bảo A Nan:
 

Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay do mọi thứ điên đảo nên tự nhiên gieo trồng nghiệp chướng giống như chùm ác xoa. Các người tu hành không thể thành tựu Giác ngộ Vô thượng mà chỉ thành Thanh Văn, Duyên Giác, trở thành ngoại đạo, chư Thiên, Ma vương, quyến thuộc của ma. Đó đều là do chẳng biết hai loại căn bản nên tu hành lầm lạc, cũng như nấu cát muốn thành cơm ngon thì dù trải qua số kiếp nhiều như cát bụi rốt cuộc cũng không thành được”.
 

Thế nên biết, người mới phát tâm tu cần gần gũi bạn đạo, phân biệt rõ tà chánh mới phù hợp với sự chân tu. Nếu thực hành những pháp môn quyền biến thì cách xa như ngày với kiếp. Nếu rõ được ý chỉ viên mãn, chẳng uổng công trình, tiến thẳng đến đạo tràng mãi không còn nghi ngờ hối hận; và đến khi tự tỏ ngộ, chỉ chứng Trí vô sư tự nhiên, quyết định chẳng từ người khác mà được.
 

Hỏi:
 

Người thuyết pháp tuy là thành tựu sự nghiệp lớn nhưng chưa bước lên địa vị cùng tột, e tổn hại sự tu hành của chính mình.
 

Bồ Tát đăng địa còn bị Phật quở, kẻ phàm phu chưa chứng ngộ làm sao khai diễn?
 

Đáp:
 

Sơ phẩm trong giáo lý Tông Thiên Thai tức là phàm phu. Nếu tin nhận bước vào môn Viên giáo thì có thể thuyết pháp, vì tâm phàm phu đồng với cái biết của Phật, tuy dùng con mắt thường mà bằng với cái thấy của Như Lai.
 

Trong kinh Bát Nhã so sánh phước của sự chánh niệm tự tu hành về Bát Nhã, chẳng bằng khéo léo nói rộng về ví dụ cho trời người, khiến họ dễ dàng hiểu được Bát Nhã, phước ấy rất thù thắng.
 

Trong kinh nói, người ấy tuy giới yếu kém nhưng hay thuyết pháp làm lợi ích cho nhiều người. Nếu có người cúng dường cho người ấy tức là cúng dường chư Phật trong mười phương.
 

Kinh Vị Tằng Hữu nói:
 

“Thuyết pháp có hai nhân duyên lớn: Một là vì khai mở giáo hóa trời người, phước đức vô lượng. Hai là vì báo ân đàn na thí chủ”.
 

Vậy thì sao không thuyết pháp?
 

Vả lại, bố thí tiền của như ngọn đèn chỉ soi sáng ngôi nhà nhỏ, bố thí giáo pháp như mặt trời soi sáng khắp thiên hạ.
 

Kinh Đại Phương Quảng Tổng Trì nói:
 

“Đức Phật bảo rằng:
 

Thiện nam tử! Sau khi ta diệt độ, nếu có Pháp sư khéo tùy theo sự thích của người mà thuyết pháp, có thể khiến cho Bồ Tát học Đại thừa và các đại chúng phát tâm hoan hỷ dù chỉ mảy may cho đến tạm thời rơi một giọt lệ, nên biết đều do thần lực của Đức Phật”.
 

Chỉ cần kiến giải không sai lầm, phù hợp tâm Phật. Tuy vì mọi người mà công giáo hóa cũng về chính mình, đã hỗ trợ đạo lại báo đáp ân đức của Phật. Nếu chẳng cầu danh tiếng, thật chẳng nên bỏ cơ hội thuyết pháp dù chỉ mảy may.
 

Còn như việc truyền trì pháp bảo, diễn thuyết Đại thừa, soạn luận giải kinh, viết văn giảng nghĩa, nhổ mũi tên nghi ngờ không tin, soi ánh sáng trí tuệ nơi người ngu si tăm tối, xây dựng bức tường cho ngôi nhà chánh pháp, tiếp nối thọ mạng của Đức Phật, hoặc đi thỉnh kinh ở Thiên Trúc, cầu pháp nơi phương xa, hoặc phiên dịch kinh Đại thừa, nhuận văn trong giáo lý, hoặc thực hành tụng kinh niệm chú một cách rộng rãi, giúp cho mọi người thọ trì, mở cánh cửa pháp thí, nối tiếp ánh sáng trao đèn mồi đuốc, hay đem cam lồ rưới vào tâm khô khan của chúng sanh, khéo làm cho người mù tỏ sáng, đó đều là việc người học Phật nhất định phải làm.
 

Trong kinh nói:
 

“Giả sử đầu đội trải muôn kiếp

Thân làm giường tòa khắp Tam thiên

Nếu không truyền pháp độ chúng sanh

Quyết định không thể báo ân Phật”.
 

Hỏi:
 

Sao không đốn ngộ ở nơi một pháp, vạn hạnh tự viên mãn, lại lẩn quẫn trong con đường tiến tu, nhọc nhằn nơi hạnh lành nhỏ bé?
 

Thiền Tông cho rằng một niệm không sanh khởi, chẳng hiện mảy trần. Nếu tranh nhau đuổi theo sóng nắng, chấp chặt hoa đốm trong hư không, dùng huyễn để tu huyễn, rốt cuộc không đạt được lý thể.
 

Đáp:
 

Chư Phật biết rõ hư huyễn mới có thể độ chúng sanh mê huyễn. Bồ Tát thấu suốt tánh không, do đó từ tánh không mà kiến lập giáo hóa.
 

Kinh Niết Bàn nói:
 

“Đức Phật bảo rằng:
 

Hết thảy các pháp đều là tướng như huyễn, Như Lai ở trong đó dùng sức phương tiện không nhiễm trước gì cả. Tại sao? Vì pháp chư Phật vốn như thế”.
 

Trung Luận nói: “Do có nghĩa Không nên tất cả pháp được thành lập”.
 

Vì vậy, “Đốn” giống như hạt giống gom chứa tất cả. “Tiệm” giống như mầm cành phát sanh theo sau. Lại ví như đài cao chín tầng có thể nhanh chóng thấy được, nhưng muốn lên đỉnh cần theo nấc thang mà lên.
 

Đốn ngộ tâm tánh thì ngay nơi tâm là Phật. Người người đầy đủ tánh Phật nhưng cần phải tích lũy công đức, tu tập khắp cả vạn hạnh.
 

Lại giống như lau gương một lúc lau hết nhưng dần dần sẽ trong sáng. Vạn hạnh thì nhanh chóng tu hành, còn ngộ thì dần dần thù thắng. Đó gọi là viên mãn dần dần, chẳng phải dần dần viên mãn; cũng là vị thứ trong chỗ không có vị thứ, hạnh ở trong chỗ không hạnh.
 

Thế nên, thấu suốt quả bao quát nhân; từ nơi sâu kín mà đến chỗ hiển bày đều cần phải nhờ sự trợ giúp của căn lực từ thiện mới có thể lợi mình lợi người.
 

Đài cao chín tầng được thành từ một sọt đất đầu tiên. Hành trình ngàn dặm ắt nhờ vào một bước ban đầu. Sông nước cuồn cuộn phát khởi từ đầu nguồn hẹp nhỏ. Cây to sum xuê được sinh trưởng từ mầm chồi nhỏ bé. Đạo chẳng bỏ sót những hạnh nhỏ, tối tăm hoàn toàn không cự tuyệt một tia sáng.
 

Do đó, một câu kinh ngấm vào lòng trải qua nhiều kiếp vẫn không tiêu mất. Một điều lành nhập tâm muôn đời cũng chẳng quên.
 

Trong kinh Niết Bàn Đức Phật nói rằng:
 

“Tu một tâm niệm lành có thể phá trừ trăm điều ác, như mảnh kim cương rất nhỏ có thể phá vỡ núi Tu di to lớn, cũng như một đốm lửa có thể thiêu cháy tất cả, lại giống như một giọt thuốc độc có thể hại chúng sanh. Việc lành nhỏ bé cũng vậy, có thể phá trừ sự tà ác cực lớn”.
 

Trong kinh Nhật Ma Ni Bảo có nói:
 

“Đức Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp: Ta quán xét chúng sanh tuy họ trải qua mấy ngàn muôn ức kiếp vẫn ở trong ái dục, bị tội ác che đậy. Nếu nghe kinh Phật, vừa xoay đầu lại phát khởi niệm lành thì tất cả tội ác đều tiêu diệt”.
 

Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Khi Như Lai thành đạo có mười cách mỉm cười mà quán xét thế gian. Có nhân nhỏ quả lớn, duyên nhỏ báo lớn: như cầu Phật đạo, tán thán một bài kệ, xưng một câu Nam mô Phật, dâng một nén hương, ắt đều được thành Phật.
 

Huống gì nghe biết Thật tướng của các pháp không sanh diệt, chẳng phải không sanh chẳng phải không diệt mà nhân duyên hạnh nghiệp cũng không thiếu. Vì thế nên Đức Phật mỉm cười”.
 

Bậc Cao đức ngày xưa hỏi:
 

Lương Võ Đế cất chùa, độ Tăng vô số mà Tổ Đạt Ma lại bảo là không có công đức. Bồ Tát xả bỏ đất nước thành trì, xây dựng chùa tháp, lẽ nào là việc làm suông hay sao?
 

Đáp:
 

Lời nói ấy của Tổ sư chẳng hủy hoại nhân quả phước đức. Võ Đế không thông suốt, công đức hữu vi có giới hạn, còn phước của Không Vô tướng chẳng thể nghĩ lường được. Tổ sư phá trừ tham trước của ông ấy, nếu không tham trước thì đều là vô vi.
 

Bồ Tát cũng làm Vua Chuyển Luân, phước báo như thế nhân quả rõ ràng, đâu thể là không.
 

Nếu thấu suốt Lý thì sử dụng nó đồng lượng với pháp giới không bao giờ cạn hết. Nếu không thông đạt Lý thì trở thành quả báo hữu vi luân hồi, chẳng nên tham trước.
 

Quốc Sư Huệ Trung nói:
 

“Chư Phật Bồ Tát đều đầy đủ hai loại phước trí trang nghiêm, lẽ nào lại bác không có nhân quả? Chỉ cần đừng đem Lý ngưng trệ Sự, dùng Sự chướng ngại Lý, thì trọn ngày hành mà không trái với vô hành”.
 

Pháp Sư Sanh hỏi: “Tại sao khảy móng tay, chắp tay đều là nhân để thành Phật?”.
 

Đáp:
 

“Tất cả pháp đều không có tánh cố định mà theo chỗ thích ứng tùy duyên. Nếu lấy tham làm duyên thì thích ứng với quả báo trời người. Nếu hướng về Bồ đề làm duyên thì thành tựu quả Phật.
 

Chân như còn không giữ tự tánh, huống gì việc lành nhỏ bé này. Lại nói: muôn điều lành, về mặt Lý đều đồng với vô lậu”.
 

Muôn việc lành vốn có, đều nhờ Lý phát khởi; Lý đã không khác thì việc lành đâu có hai. Như Lai Tạng Tánh vốn là chánh nhân, từ nơi tánh ấy mà phát sanh muôn điều lành.
 

Giáo lý Tông Thiên Thai nói:
 

“Nếu xem thường việc thiện nhỏ, chẳng thể thành Phật, đó là tiêu diệt giống Phật ở thế gian”.
 

Còn nói: “Cơ thiện có hai:
 

- Một là cảm hoa báo của trời người.

- Hai là cảm quả báo Phật đạo.
 

Nếu dùng mắt Phật soi sáng trọn vẹn thì muôn việc lành của chúng sanh rốt cuộc đều được đến chỗ thành Phật. Đây là ý chính của việc lớn mà Đức Phật ra đời”.
 

Tôn giả Kinh Khê nói, một điều lành nhỏ cũng giúp tiến đến Bồ đề, như cầm dao cầm đuốc mà nắm ngay cán. Nếu làm lành mà chỉ theo hình tướng bên ngoài thì như cầm vào lưỡi dao, chụp vào ngọn lửa.
 

Trong kinh Pháp Hoa nói rõ, người tâm tán loạn mà niệm Phật, khen ngợi vài lời, dùng tay vẽ tượng, nhóm cát thành tháp, dần dần tích lũy công đức đều thành tựu Phật đạo.
 

Kinh Đại Bi nói:
 

“Đức Phật bảo A Nan:
 

Nếu có chúng sanh ở nơi chỗ chư Phật vừa phát lòng tin, gieo trồng chút ít căn lành, rốt cuộc chẳng tiêu mất. Dù cho trải qua trăm ngàn muôn ức Na do tha kiếp lâu xa, nhưng căn lành nhỏ ấy ắt trợ giúp đạt được Niết Bàn. Như một giọt nước gieo vào biển cả, dù trải qua thời gian lâu dài, rốt cuộc chẳng hao tổn”.
 

Thế nên, bậc Đại Thánh thuận theo căn cơ uyển chuyển để thích ứng, Đại thừa và Tiểu thừa chẳng mất, tiếp dẫn kẻ sau thích ứng người trước. Bán giáo và Mãn giáo chẳng phế bỏ hoặc tán thán Tiểu thừa để dẫn về chỗ sâu xa cùng tột, hoặc quở trách Bán giáo sợ bị ngưng trệ nơi pháp môn ban đầu.
 

Lá vàng chẳng phải vàng ròng, nắm tay không lẽ nào lại là chân thật? Đó đều là ý chỉ của giáo lý khen ngợi và chê trách; đều là sự thi thiết quyền biến dẫn dụ để hóa độ.
 

Song, người không đạt được ý chỉ chấp vào lời nói phương tiện, tranh phải quấy lẫn nhau, xác định lấy và bỏ. Hoặc chấp vào Tiểu thừa mà ngưng trệ nơi Đại thừa, trái ngược đánh mất tông chỉ; hoặc căn cứ vào Đại thừa mà làm trở ngại Tiểu thừa, tổn hại trí tuệ quyền biến.
 

Hơn nữa, tuy là tôn sùng Đại thừa nhưng chẳng hiểu rõ ý chỉ Đại thừa, chỉ lo bài xích Tiểu thừa mà hạnh Tiểu thừa cũng chẳng làm được, khởi ý thì dựa vào hư giả, phát ngôn thì vượt quá phận mình, đoạn dứt bánh xe chánh pháp, chê bai phỉ báng Bát Nhã. Lỗi lầm sâu xa cùng cực chẳng gì hơn điều này, do đó mãi chìm đắm trong địa ngục Vô gián muôn kiếp chưa ra khỏi.
 

Kinh Tịnh Danh nói:
 

“Không có trí tuệ phương tiện thì bị trói buộc, có trí tuệ phương tiện là cởi mở, không có phương tiện trí tuệ thì bị trói buộc, có phương tiện trí tuệ là cởi mở”.
 

Đâu nên chấp vào quyền biến phỉ báng chân thật, tổn hại Có bài bác Không. Chỉ cần Đại Tiểu thừa đồng thời hoằng truyền, vận hành cả Có lẫn Không. Nhất tâm Tam Quán thì không lỗi lầm vậy.
 

Thế nên thuận Pháp thể, mảy may chẳng lập; tùy theo trí dụng, sự nghiệp lớn hằng hưng khởi. Thể chẳng lìa Dụng nên lặng lẽ mà thường chiếu soi; Dụng chẳng lìa Thể nên chiếu soi mà hằng lặng lẽ.
 

Do đó, thường ở nơi Thể mà vẫn thường khởi Dụng, hằng chiếu soi hằng lặng lẽ. Nếu trở về tông chỉ thì Thể và Dụng đều lìa, nào có chiếu soi, nào có lặng lẽ. Đâu nên theo Thể mà chướng ngại Dụng, chấp vào bản tánh, hủy hoại nhân duyên. Lý Sự chẳng dung thông, Chân và Tục trở thành ngăn cách. Vậy thì tâm bi đồng thể không được vận hành, lòng từ vô duyên chẳng thể thành tựu.
 

Đã xem thiện ác là khác nhau, làm sao có thể cứu độ khắp cả người oán kẻ thân? Đó là điều rất sai lầm, lỗi ấy thật to lớn!
 

Bậc Cao đức thuở xưa nói:
 

“Bậc thiện tri thức tuy thấy rõ tánh Phật vốn bình đẳng với Phật, nhưng nếu luận về công phu thì chưa bằng các bậc Thánh. Cần phải từ hôm nay luôn luôn huân tu”.
 

Cổ đức nói: “Tỳ kheo đọa làm nấm trả nợ tuy không thấu đạt lý nhưng vẫn có hạnh. Thời nay có nhiều người học mà lý-hạnh đều mất”.
 

Nên biết, thấy tánh nhưng chưa thấu triệt, chỉ là sự hiểu biết nương tựa theo ngôn ngữ, đến khi kiểm điểm lại thì chánh hạnh và trợ hạnh đều mất. Do đó, các bậc Thánh thuở trước hoàn toàn chẳng xem thường thứ lớp. Tự xét lại lòng đâu thể dễ dàng.
 

Vì vậy, Lục tức Phật<!--[if !supportFootnotes]-->[19]<!--[endif]--> phân biệt để khỏi lẫn lộn, Thập địa biện biệt rõ công phu. Nếu đứng về mặt “tức” thì Phật nào có phàm thánh; nếu bàn về “lục” (sáu bậc) phàm thánh cách nhau như trời với đất.
 

Vả lại, nếu luận về Lý, Sơ địa đầy đủ tất cả địa; nếu nói về hạnh thì địa sau vượt hơn địa trước rất xa. Chỉ như vừa bước lên Bát địa, một niệm làm lợi ích chúng sanh, các địa vị thấp hơn dù trải qua nhiều kiếp cũng không bằng được.
 

Hỏi:
 

Thiện ác vốn đồng nguồn, phải quấy cùng một ý chỉ. Tại sao bỏ ác theo thiện mà trái với Pháp tánh?
 

Đáp:
 

Nếu từ nơi tánh thiện tánh ác mà nói thì phàm phu chẳng đổi dời. Chư Phật không đoạn dứt tánh ác nên có thể hiện thân nơi địa ngục; Xiển đề không đoạn dứt tánh thiện nên thường đầy đủ lý thể Phật quả. 
 

Nếu từ nơi việc tu thiện tu ác mà nói, trên sự tướng là khác nhau, nhân quả không đồng, ngu trí sai biệt. Tu một tâm niệm thiện có thể lần lần đạt đến ngôi vị Giác, khởi một tâm niệm ác sẽ mãi mãi chìm trong biển khổ luân hồi.
 

Nếu đem tánh theo duyên, bản tánh tuy đồng mà thiện ác lại khác. Nếu dứt duyên theo tánh, thiện ác tuy khác mà bản tánh vốn đồng.
 

Trong kinh Thiền Môn Bí Yếu, Đức Phật nói:
 

“Nghiệp duyên thiện ác vốn không khác, tuy không khác mà cũng không thể đồng thời ngăn dừng”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Giống như tướng và vô tướng, sanh tử và Niết Bàn phân biệt đều chẳng đồng. Trí tuệ và vô trí cũng như thế”.
 

Tông chỉ của kinh giáo như gương sáng, còn hoài nghi gì nữa?
 

Hỏi:
 

Nếu phân chia việc tu tập thiện ác và bản tánh thiện ác thì đã có hai rồi, trái với lòng từ bình đẳng, mất đi công đức của hạnh phổ biến?
 

Đáp:
 

Sự tu hành nơi tự thân không nên chấp trước, vì các pháp đều rỗng không. Nhưng từ mặt giáo hóa mọi người, tất cả đều không khác biệt. Thế nên, đối với người mới phát tâm cầu lợi ích cho chính mình, nên trình bày rõ sự tổn hại và lợi ích của thiện ác, nhưng để lợi tha rốt ráo thì thiện hay ác cũng đều giáo hóa. Ví như ban đêm đi trên con đường nguy hiểm, thấy có kẻ ác cầm đuốc ở phía trước, lẽ nào lại vì họ là người ác mà không đi theo ánh sáng của cây đuốc ấy? Bồ Tát được ánh sáng trí tuệ Bát Nhã, hoàn toàn chẳng dứt bỏ người ác.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Dứt bỏ kẻ tánh ác, rời xa người lười biếng, khinh mạn người loạn ý, chê ghét kẻ hiểu biết sai lầm. Những tư tưởng hành vi như thế đều là việc làm của ma”.
 

Giáo lý của Tông Thiên Thai cho rằng, ác là điều bồi đắp cho thiện, không có ác thì cũng không có thiện.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Ác ma nhập người kia, mắng chửi hủy nhục con, do vì con niệm Phật, nên sẽ nhẫn việc ấy”.
 

Nếu tà ác không đến thì sẽ không niệm Phật. Niệm Phật là do tà ác đến.
 

Trong thời Phật Oai Âm Vương những chúng sanh chấp trước nơi pháp, nghe lời nói của Bồ Tát Thường Bất Khinh, mắng chửi đánh đâp Ngài. Do nghiệp ác nên gặp lại Bồ Tát Bất Khinh, Bồ Tát giáo hóa họ đều được Bất thối chuyển. Hơn nữa, Đức Phật nói Đề Bà Đạt Đa chính là bậc thiện tri thức.
 

Sách xưa nói: “Người lành làm thầy của người ác. Người ác là chỗ bồi đắp cho người lành”.
 

Nên biết ác có thể trợ giúp thiện nhưng chẳng phải đồng với chân chánh. Lẽ nào lại có một pháp đáng vất bỏ hay sao?
 

Hỏi:
 

Người không có duyên chẳng miễn cưỡng giáo hóa, cơ duyên chín mùi tự nhiên tương ưng. Kẻ ngu ác không tin, làm sao khuyến dụ hóa độ?
 

Đáp:
 

Bỏ ngu theo trí trái ngược với lý bình đẳng, bỏ ác theo thiện tổn mất lòng từ bi đồng thể.
 

Tánh huyền diệu của chúng sanh thật chẳng thể lường xét, bỗng gặp nhân duyên thì cơ phát chẳng định trước được. Dù chưa được độ, cũng làm nhân duyên để được độ. Lấy đó mà xét, cần phải giáo hóa một cách bình đẳng.
 

Hỏi:
 

Nếu tu tập các điều lành, phải phát khởi tâm niệm ưa muốn. Hai nỗi khổ yêu ghét hay chướng ngại Bồ đề tịch diệt, hai tâm lấy bỏ lẽ nào lại trở thành vô ngại giải thoát?
 

Đáp:
 

Kinh Niết Bàn nói:
 

“Tất cả chúng sanh có hai loại ưa thích: Một là ưa thích điều thiện, hai là ưa thích điều bất thiện.
 

Ưa thích điều bất thiện, chỉ kẻ ngu mới tìm cầu. Ưa thích điều thiện là sự mong cầu của các Bồ Tát”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Bậc Đại trí tuệ nói:

Dục là gốc các pháp

Nên mong cầu thù thắng

Chỉ cầu Vô thượng giác”.
 

Lại nói: “Đoạn dứt tâm mong muốn thực hành các pháp lành, đối với Bồ Tát là việc ma”.
 

Thế nên, bước đầu vào đạo, tâm ưa muốn là cội gốc, nhưng đến địa vị cùng tột thì phải quên pháp ái. Trên dưới rõ ràng trước sau không lẫn lộn.
 

Hỏi:
 

Nhân và Pháp vốn không, thân tâm tự lìa. Đã không có người hay tạo tác thì ai thực hành các điều lành?
 

Đáp:
 

Kinh Niết Bàn nói:
 

“Tuy vốn tự Không nhưng cũng do Bồ Tát tu tập về Tánh không mới thấy là Không”.
 

Bồ Tát Sư Tử Hống hỏi:
 

- Thưa Thế Tôn! Ngũ uẩn của chúng sanh rỗng không, không có gì, vậy ai thọ giáo tu tập đạo pháp?
 

Đức Phật đáp:
 

- Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều có tâm niệm, tâm tuệ, tâm phát khởi, tâm tinh tấn, tâm tin tưởng, tâm định. Những pháp như thế tuy sanh diệt trong từng niệm nhưng vẫn giống như tiếp nối không dứt nên gọi là tu đạo. Cho đến giống như ngọn đèn tuy sanh diệt trong từng khoảnh khắc mà lại có ánh sáng xua tan tăm tối.
 

Các pháp niệm v.v… cũng như thế. Giống như sự ăn uống của chúng sanh, tuy sanh diệt trong từng niệm nhưng giúp cho người đói được no đủ. Ví như uống thuốc, tuy sanh diệt trong từng niệm, nhưng có thể lành bệnh, ánh sáng của mặt trời mặt trăng tuy sanh diệt trong từng niệm nhưng cũng có thể giúp cho cỏ cây rừng rậm tăng trưởng.
 

Thiện nam tử! Ông hỏi sanh diệt trong từng niệm làm sao tăng trưởng? Vì tâm không đoạn dứt nên gọi là tăng trưởng.
 

Hỏi:
 

Thực hành các việc lành, phước đức rốt cuộc về chỗ nào?
 

Nếu nói tự độ, lại đồng với tâm Nhị thừa. Nếu nói độ người thì thiết lập tướng chúng sanh?
 

Đáp:
 

Phước đức mà Bồ Tát làm đều vì giúp chúng sanh thành thục, Có và Không viên dung, mình người không trệ ngại.
 

Quán xét cuộc đời như huyễn thì đâu trái ngược với môn Thật tướng; độ chúng sanh đồng với không thì đâu tổn hại tới đạo phương tiện.
 

Kinh Bát Nhã nói “Bồ Tát thành tựu hai pháp chẳng thể phá hoại:
 

1. Quán xét các pháp không.

2. Chẳng bỏ tất cả chúng sanh”.
 

Luận giải thích rằng:
 

“Do nhờ mặt trời mặt trăng nên vạn vật sanh trưởng. Nếu chỉ có mặt trăng không có mặt trời thì vạn vật bị ẩm thấp hư hoại, nếu chỉ có mặt trời không có mặt trăng thì vạn vật cháy tiêu. Mặt trời và mặt trăng hòa hợp nên vạn vật thành tựu.
 

Bồ Tát cũng như vậy, có hai đạo:
 

- Một là từ bi.

- Hai là không.
 

Đức Phật nói sử dụng cả hai:
 

Tuy quán xét tất cả đều rỗng không mà chẳng bỏ chúng sanh.
 

Tuy thương xót chúng sanh mà chẳng bỏ trí tuệ thấy tất cả đều rỗng không. Quán xét tất cả pháp đều không, vì không cũng không nên không vướng mắc vào không, do đó chẳng ngại việc thương xót chúng sanh.
 

Tuy thương xót chúng sanh nhưng cũng không dính mắc nơi chúng sanh, cũng không chấp vào tướng chúng sanh. Chỉ vì thương xót chúng sanh, mà dẫn dắt họ đi vào Chân không”.
 

Hỏi:
 

Kinh nói: “Phật chẳng thành tựu Phật đạo, cũng chẳng độ chúng sanh”.
 

Nếu thấy chúng sanh khổ tức là người chịu khổ. Tại sao lại tu tập phước đức để độ chúng sanh?
 

Đáp:
 

Từ nơi Chân thì không, tùy theo Tục thì có.
 

Trong Luận nói:
 

“Đức Phật đáp với Tu Bồ Đề:
 

Nếu tất cả chúng sanh tự biết các pháp tự tánh không thì Bồ Tát chẳng phát tâm cầu đạo Giác ngộ Chân chánh Vô thượng, cũng không ở trong sáu đường để cứu thoát chúng sanh. Tại sao?
 

Vì chúng sanh tự biết các pháp tánh không thì không có độ chi nữa. Ví như không bệnh chẳng cần thuốc, không tối chẳng cần đèn.
 

Nay chúng sanh thật chẳng biết tự tướng các pháp là không, nên theo tâm chấp tướng phát sanh sự dính mắc, do dính mắc nên nhiễm, bởi nhiễm nên chạy theo ngũ dục, do chạy theo ngũ dục nên bị tham che đậy, vì tham nên dẫn đến tạo nghiệp sanh tử không cùng tận.
 

Thế nên biết, nhân phàm mà lập Thánh, phàm Thánh đều rỗng không; từ ác mà được thiện, thiện ác không tự tánh. Vì không có tự tánh nên thường hưng khởi muôn điều lành, bởi thường rỗng không nên Nhất chân hằng lặng lẽ.
 

Hỏi:
 

Thế giới chúng sanh như huyễn hóa, nếu thấy có hóa độ thật thì đâu khác gì mò trăng đáy nước, bắt bóng trong gương, cạo dấu chim bay, trồng mầm bị cháy. Chưa rõ rốt cuộc lấy gì làm chúng sanh để hóa độ?
 

Đáp:
 

Chúng sanh tức là vô lượng tâm vọng niệm sanh khởi suốt ngày đêm nơi thân mình.
 

Kinh Đại Tập nói:
 

“Ngày đêm trong mỗi niệm mỗi niệm thường sanh khởi vô lượng trăm ngàn chúng sanh”.
 

Kinh Tịnh Độ Tam Muội nói:
 

“Một niệm thọ một thân. Niệm thiện thọ thân trên cõi trời, trong loài người. Niệm ác thọ thân trong ba đường ác. Trăm niệm thọ trăm thân. Ngàn niệm thọ ngàn thân.
 

Một ngày một đêm gieo trồng cội gốc sanh tử. Về sau sẽ thọ tám ức năm ngàn vạn thân tạp loại, cho đến trong trăm năm gieo trồng thân ở đời sau mang lông đội sừng khắp nơi trên mặt đất cõi nước Đại thiên”.
 

Nếu một niệm không sanh, điềm nhiên trở về bản tánh. Nên nói, độ chúng sanh hư vọng, rõ niệm là không, không có chỗ khởi. Lại nói, chẳng thấy có chúng sanh để độ. Còn bảo rằng, độ hết tất cả chúng sanh mới thành Chánh Giác, đó tức là ý chỉ này.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Thân là kho chánh pháp

Tâm là đèn vô ngại

Chiếu soi các pháp không

Gọi là độ chúng sanh”.
 

Hạnh mình đã lập, lại nói để chỉ dạy người, giúp cho ai nấy đều quán xét tâm tánh trở về nương tựa pháp này. Đó là lòng từ bi chơn thật, sự hóa độ rốt ráo.
 

Từ phàm vào Thánh do môn vạn thiện, trước phát tâm Bồ đề rất là bậc nhất. Đây chính là hạnh đứng đầu các hạnh, là chỗ ban đầu để tiến vào đạo, bao quát trước sau không thể tạm thời bỏ phế.
 

Kinh Phạm Võng nói:
 

“Nếu là Phật tử nên thường khởi lòng đại bi, cho đến nếu thấy trâu ngựa heo dê tất cả súc sanh thì tâm nghĩ miệng nói: Các ngươi là súc sanh nên phát tâm Bồ đề!
 

Bồ Tát vào khắp mọi nơi núi rừng, đồng bằng, sông ngòi, khiến cho tất cả chúng sanh đều phát tâm Bồ đề. Nếu Bồ Tát không phát tâm giáo hóa chúng, phạm tội khinh cấu”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Muốn thấy tất cả chư Phật trong mười phương, muốn bố thí kho tàng công đức vô tận, muốn diệt trừ khổ não cho chúng sanh thì nên nhanh chóng phát tâm Bồ đề”.
 

Lại nói, tâm Bồ đề giống như hạt giống có thể làm tăng trưởng pháp bạch tịnh cho chúng sanh. Tâm Bồ đề giống như mặt đất, vì có thể giữ gìn tất cả thế gian. Tâm Bồ đề giống như nước trong, vì có thể rửa sạch tất cả sự nhơ bợn của phiền não. Tâm Bồ đề giống như ngọn lửa lớn, vì có thể thiêu đốt tất cả củi kiến chấp.
 

Hỏi:
 

Lý Bồ đề bản tánh tự tròn vẹn đâu nhờ phát tâm, cố tình phát khởi vọng niệm?
 

Đáp:
 

Kinh Bát Nhã nói:
 

“Nếu biết tâm tánh tức là Bồ đề mà có thể phát khởi tâm đại Bồ đề, đó gọi là Bồ Tát”.
 

Bồ Tát Thượng Thủ nói:
 

“Ta ở trong chỗ không mong cầu mà cố mong cầu tâm Bồ đề nhưng lại không phát tâm gì cả”.
 

Bồ Tát nói:
 

“Biết tất cả pháp đều không phát khởi nhưng vẫn phát tâm Bồ đề”.
 

Song, nơi Chân như được chứng đắc, ngoài Như không có Trí nên hay phát khởi Trí vi diệu; ngoài Trí không có Như nên đồng thời chiếu soi, đồng thời phá dẹp, chẳng còn chẳng mất, không hai mà hai. Lý và Trí tự phân chia, hai mà không hai, năng và sở đều lặng lẽ.
 

Kế đến về nương Tam Bảo ruộng phước vô thượng, khởi tâm kiên cố đầy đủ niềm tin bất hoại, rời năm điều sợ hãi*, thành tựu ba loại Bồ đề*. Nhân duyên ban đầu thâu nhiếp tất cả pháp lành.
 

Kinh Đại Báo Ân nói:
 

“Như vua A Xà Thế tuy có tội nghịch đáng lẽ phải vào ngục A tỳ, do thành tâm hướng về Phật nên tiêu diệt tội lỗi. Đó là sức cứu hộ của Tam bảo”.
 

Lại như ở nơi sợ hãi, trong núi rừng đồng trống nếu nghĩ nhớ về công đức Phật, sự sợ hãi liền tiêu diệt, thế nên trở về nương tựa Tam Bảo, được sự cứu hộ không sai.
 

Bậc Cao đức ngày xưa nói:
 

“Núi có ngọc cây cỏ tốt tươi. Suối có rồng nước không khô kiệt. Trụ xứ có Tam Bảo thì căn lành tăng trưởng”.
 

Đó là cách nói về sức cứu hộ của Tam Bảo.
 

Kinh Pháp Cú nói:
 

“Đế Thích mạng chung đọa vào thai lừa, nhân quy hướng Tam Bảo nên lừa mẹ làm sứt dây cương bỏ chạy đụng vào đồ gốm. Người chủ bèn đánh lừa mẹ, khi ấy bào thai bị tổn thương, thần thức của Đế Thích được khôi phục lại thân trời.
 

Đức Phật nói bài kệ cho Đế Thích nghe. Kệ rằng:
 

“Rõ sự biến đổi của tội phước

Hiểu cội gốc của việc hưng suy

Cho nên thuận theo hạnh tịch diệt

Do đó được đạo Tu Đà Hoàn”.
 

Kinh Mộc Hoạn Tử nói:
 

Khi ấy có vị vua mắc nạn tên là Bà Kim Ly bạch Đức Phật rằng:
 

- Nước con nhỏ bé, mỗi năm thường bị giặc cướp, ngũ cốc khan hiếm, tật bệnh, tai nạn hoành hành, nhân dân khốn khổ. Con thường bất an, đối với Phật Pháp sâu rộng chẳng được tu hành. Cúi mong Đức Phật thương xót dạy cho con pháp yếu!.
 

Đức Phật bảo nhà vua:
 

- Nếu muốn diệt trừ sự chướng ngại của phiền não, nên xâu một trăm lẻ tám hạt Bồ đề, thường mang theo bên mình, chí tâm xưng niệm:
 

Nam mô Phật Đà.

Nam mô Đạt Ma.

Nam mô Tăng Già.
 

Cho đến có thể xưng niệm mãn trăm vạn lần thì sẽ dứt trừ một trăm lẻ tám kiết nghiệp, đạt được quả Vô thượng”.
 

Nhà vua nghe rồi hoan hỷ, thưa rằng:
 

- Con sẽ vâng làm!
 

Đức Phật bảo nhà vua:
 

- Có Tỳ kheo Sa Đẩu tụng tên Tam Bảo, trải qua mười năm được thành tựu quả Tư Đà Hàm. Tỳ kheo ấy tuần tự tu hành, nay là Phật Bích Chi ở thế giới Phổ Hương.
 

Nhà vua nghe rồi nơi tâm càng muốn cố gắng tu hành thêm nữa.
 

Hỏi:
 

Ngài Chí Công nói:
 

“Đau khổ thay! Bi ai thay!

Vứt bỏ Phật thật oan uổng

Tạo tượng cúng dường hương hoa cầu phước

Chẳng khỏi Lục tặc trói trăn”.
 

Ý này làm sao khế hợp với những lời nói ở đây?
 

Đáp:
 

Đó là cách nói dùng để phá chấp của người xưa.
 

Phàm phu không biết Phật chân thật của mình, một bề hướng ngoại tìm cầu, chấp chặt vào sự tướng chẳng rõ chỗ chân thật, lo phân biệt cảnh giới bên ngoài, chẳng vì để trợ giúp cho đạo, chỉ lo mong cầu phước báo. Giống như bắn mũi tên vào hư không, như người đi vào chỗ tối tăm, do đó chuốc lấy quả báo sanh diệt, chẳng vượt khỏi tâm trần.
 

Nếu thấu suốt Duy tâm thì thấy tất cả đều là tướng phần của tâm, hoàn toàn không chấp là vật ở bên ngoài. Song, chẳng phá hoại nhân duyên, Sự-Lý vô ngại.
 

Hòa thượng Thần Giai nói:
 

“Thấu rõ chúng sanh vốn rỗng không chẳng bỏ tâm đại bi, quán xét Như Lai vốn lặng lẽ mà chẳng sơ thất đối với việc cung kính cúng dường. Bàn về Thật tướng chẳng hủy hoại giả danh, luận về sai biệt mà chẳng phá trừ bình đẳng”.
 

Vả lại trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Bát Địa thân chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, vào chỗ vô công dung đạo, thấu rõ tất cả pháp như tánh hư không, cho đến tâm Niết Bàn vẫn chẳng hiện tiền, mới thấy vô lượng Phật, tận tâm thành kính cúng dường.
 

Lại nói, nếu người kia thường cung kính cúng dường nơi Tam Bảo, không biết mỏi mệt chán nản, có thể vượt khỏi bốn cảnh ma, nhanh chóng thành tựu Giác ngộ Vô thượng.
 

Kinh Hiền Ngu nói:
 

“Nước Xá Vệ có một Trưởng giả sanh một nam tử. Ngay lúc sanh ra, trời mưa xuống bảy loại báu, do đó bé ấy có tên Bảo Thiên. Về sau gặp Đức Phật xuất gia đắc đạo.
 

Phật bảo:
 

- Lúc Đức Phật Tỳ Bà Thi xuất hiện ở đời, có một người nghèo, tuy lòng hoan hỷ mến thích Đức Phật, nhưng không có phẩm vật để cúng dường. Người ấy lấy một mảnh đá trắng nghĩ là ngọc dùng cúng dường chúng Tăng, người ấy nay chính là Tỳ kheo Bảo Thiên. Nhờ vậy ông được hưởng vô lượng phước, y phục và thức ăn đều tự nhiên có. Nay lại gặp ta, được đạo chứng quả”.
 

Đại sư Chơn Giác nói:
 

“Tin sâu chánh pháp, siêng thực hành Lục độ, đọc tụng Đại thừa, hành đạo lễ bái, dùng vị ngon, hương hoa, âm thanh tán thán tụng chú, đèn đuốc, đền đài, chùa chiền, núi non, biển cả, rừng suối, hư không, đất đai, tất cả từ vi trần trở lên ở thế gian thảy đều cúng dường, tập hợp công đức hồi hướng để hỗ trợ Bồ đề”.
 

Do đó nên biết, chỉ là phá trừ sự chấp trước “các pháp ở ngoài tâm” của phàm phu mà thôi.
 

Ngoài ra, hoặc là tham lợi để cúng dường, trì giới bằng tâm nóng giận; làm phước mà kiêu mạn, bố thí để tỏ ra hơn người; không có tâm ân trọng, chẳng phải ý rộng lớn, nếu thực hành như thế khó mà chiêu vời tịnh nghiệp.
 

Không nên hiểu lầm ý của bậc Thánh, phán đoán theo phàm tình, sanh khởi tâm cho là đoạn diệt, làm hư hạt giống Bồ đề.
 

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói:
 

“Nếu ở trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu diệt, thọ ấm rõ ràng, tự cho là đã được đầy đủ, bỗng nhiên vô cớ sanh tâm đại ngã mạn như thế cho đến tâm mạn<!--[if !supportFootnotes]-->[20]<!--[endif]--> và quá mạn<!--[if !supportFootnotes]-->[21]<!--[endif]-->, mạn quá mạn<!--[if !supportFootnotes]-->[22]<!--[endif]--> hoặc tăng thượng mạn, hoặc ty liệt mạn nhất thời đều phát khởi. Người này trong lòng còn xem thường các Đức Như Lai khắp mười phương, huống gì là các bậc thấp như Thanh Văn, Duyên Giác. Đó gọi là kiến chấp hơn người, không có trí tuệ tự cứu mình, nếu tỏ ngộ thì không có lỗi lầm, chẳng phải là chứng quả Thánh. Nếu cho là chứng Thánh thì có một phần ma đại ngã mạn nhập vào tâm. Người này chẳng lễ bái chùa tháp, hủy hoại kinh tượng, họ nói với Đàn việt:
 

“Đó là đồng, vàng hoặc là gỗ đất; kinh là lá cây hoặc là điệp hoa, nhục thân này là chân thật thường còn mà không cung kính, lại tôn sùng gỗ đất”.
 

Thật là điên đảo! Những người tin theo họ, hủy hoại kinh tượng, chôn vùi xuống đất, khiến cho chúng sanh nghi ngờ lầm lạc rơi vào địa ngục Vô gián, khi mất chánh định sẽ đọa vào trầm luân”.
 

Chỉ cần khi thực hành các việc lành, tất cả đều không vướng mắc, hoan hỷ vui vẻ, tận lực chân thành hướng về đạo Giác ngộ Vô thượng. Ban cho khắp cả chúng sanh trong pháp giới thì một mảy may thiện đều là nhân viên mãn, hoàn toàn chẳng rơi vào nhân quả của trời người.
 

Vả lại, phước nghiệp rộng sâu, trợ giúp cả phàm lẫn Thánh. Phước là cội gốc của an lạc, trí là cánh cửa dẫn đến giải thoát. Do đó, hai pháp này không thể tạm thời sơ thất. Chúng chính là con đường chân chánh đưa đến thành Phật, thật là nhân sâu xa để giải trừ đau khổ. Ngưỡng trông Vô thượng Bảo vương, bậc cha lành trong mười phương làm vô lượng phước lành, đầy đủ thân công đức. Ngài còn đích thân đảnh lễ đống xương khô, tự mình vì đệ tử mà xỏ kim. Huống chi kẻ phàm phu thấp kém, phước ít đức mỏng.
 

Hàng Xiển đề không tin ngã mạn cống cao, lại hổ thẹn cam chịu làm kẻ thấp hèn, dứt bỏ những việc lành nhỏ hay sao?
 

Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi Đức Phật bảo rằng:
 

“Nếu có người thấy có người khác tu phước và bố thí cho kẻ bần cùng, chê bai hủy báng rằng:
 

Người tà mạn kia vì tìm cầu danh lợi, kẻ xuất gia cần gì bố thí, chỉ cần tu thiền định và trí tuệ. Cần gì lăng xăng làm những việc vô ích.
 

Người suy nghĩ như thế là quyến thuộc của ma, người ấy lúc mạng chung sẽ đọa vào đại địa ngục thọ khổ lâu dài. Khi ở địa ngục ra lại rơi vào ngã quỷ, trong năm trăm đời đọa thân chó. Khi thoát khỏi thân chó, trong năm trăm đời thường sanh vào hạng nghèo hèn chịu mọi thứ khổ. Vì ở đời trước thấy người khác bố thí mà không tùy hỷ”.
 

Trong Luận nói:
 

“Phước đức là cội gốc của Đại Bồ Tát, nó hay làm mãn nguyện. Tất cả các bậc Thánh đều khen ngợi, kẻ vô trí lại chê bai. Người trí thì thực hành, kẻ vô trí lại rời xa.
 

Do nhân duyên phước đức mà làm Đế Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, Thiên Vương, A La Hán, Độc Giác, các pháp Đại từ Đại bi, Thập lực, Tứ vô sở úy, Nhất thiết Chủng trí, tự tại vô ngại của chư Phật, Thế Tôn đều nơi phước đức sanh ra”.
 

Còn nói:
 

Tu Bồ Đề hỏi:
 

“Trong tánh không rốt ráo không có phước và chẳng phước. Tại sao chỉ do phước đức mà được thành Phật?”.
 

Đáp: “Từ mặt Thế đế mà nói, có phước nên được thành Phật”.
 

Tu Bồ Đề vì chúng sanh chấp trước vào chỗ không có gì nên hỏi, Đức Phật vì người không chấp trước vào có mà đáp. Bảo rằng tinh tấn tu phước còn không thể được, huống gì không tu phước đức. Như đạo nhân khất thực đi vào trong xóm làng, từ nhà này đến nhà khác mà khất thực không được. Đạo nhân thấy một con chó đói nằm, bèn lấy gậy đánh nó. Nói rằng:
 

“Ngươi là súc sanh vô trí, ta dùng nhiều nhân duyên tìm cầu thức ăn nơi mọi nhà còn không được, huống gì ngươi nằm nơi đây mà mong được thức ăn hay sao?”.
 

Đến như việc luôn thắp sáng đèn đuốc quý báu cúng dường Phật nên thường được tăng trưởng trí tuệ, nơi thân thường tỏa sáng. Nhân chân chánh, quả ắt viên mãn; hạnh trọn vẹn thì nghiệp thành tựu. Thế nên kẻ cướp ngẫu nhiên khêu ngọn lửa sắp tàn mà được thiên nhãn thường sáng tỏ; cô gái nghèo do cúng dường ngọn đèn nhỏ, được thọ ký về sau thành Phật.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Lại phóng ánh sáng tên là Chiếu Diệu át cả ánh sáng của hết thảy chư Thiên, dứt trừ tất cả sự tối tăm và chướng ngại, làm lợi ích khắp chúng sanh. Ánh sáng này giác ngộ tất cả mọi người. Bảo cầm đèn sáng cúng dường Phật sẽ được thành tựu ngọn đèn trí tuệ vô thượng. Thắp các ngọn đèn dầu, đèn quí, cũng thắp các loại đuốc sáng, các thứ hương, diệu dược, đuốc quí báu, dùng những sự cúng dường ấy mà được ánh sáng này”.
 

Kinh Phổ Quảng nói:
 

“Đốt đèn cúng dường soi sáng nơi U Minh, nhưng chúng sanh đau khổ nhờ ánh sáng này, được nhìn thấy lẫn nhau. Do phước đức này cứu giúp chúng sanh kia được dừng nghỉ sự đau khổ”.
 

Kinh Thí Đăng Công Đức nói:
 

“Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:
 

Nếu người cúng dường đèn sáng nơi chùa tháp, lúc lâm chung được thấy bốn loại ánh sáng.
 

1. Thấy mặt trời tròn đầy nhô lên.

2. Thấy mặt trăng tròn đầy sáng tỏ nhô lên.

3. Thấy chư Thiên ngồi chung một nơi.

4. Thấy Như Lai Chánh Biến Tri ngồi nơi cội Bồ đề thành tựu đạo quả.
 

Tự thấy thân mình đứng chắp tay cung kính tôn trọng Như Lai; hoặc rải hoa cúng dường, làm trang nghiêm đạo tràng, làm hết những nhân duyên Bồ đề, thành tựu hạnh chân chánh của Phật”.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Nếu người tâm tán loạn, cho đến đem một hoa, cúng dường nơi tượng vẽ, lần thấy vô số Phật”.
 

Kinh Đại Tư Duy nói:
 

“Nếu không rải hoa dâng Phật, dù được vãng sanh nhưng y báo không đầy đủ”.
 

Kinh Hiền Ngu nói:
 

“Trong nước Xá Vệ có Trưởng giả giàu có, sanh một nam nhi diện mạo đoan chánh. Khi sanh, trời mưa các loại hoa đầy cả nhà. Cha mẹ liền đặt tên là Hoa Thiên. Về sau nam nhi ấy xuất gia đắc quả A La Hán.
 

Ngài A Nan bạch Phật:
 

- Hoa Thiên có phước gì được như thế?
 

Đức Phật nói:
 

- Vào thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, thuở quá khứ có một người nghèo thấy chư Tăng thì rất hoan hỷ. Người ấy liền hái những hoa cỏ nơi đồng nội để rải cúng dường đại chúng. Người nghèo lúc đó nay chính là Tỳ kheo Hoa Thiên. Do công đức của việc tán hoa mà trong chín mươi mốt kiếp được thân thể đoan chánh, mong muốn việc gì đều được như ý”.
 

Trong kinh nói:
 

“Nếu dùng một đóa hoa rải trong hư không cúng dường chư Phật mười phương, sẽ được dứt trừ đau khổ, phước báo vô tận”.
 

Luận nói:
 

“A La Hán Ức Nhĩ xưa dùng một cành hoa cúng dường tháp Phật, được thọ hưởng niềm vui trong cõi trời người trải qua chín mươi mốt kiếp, do sức mạnh của phước báo ấy mà được thành tựu quả A La Hán”.
 

Hoặc dùng hương đốt, hương xoa trang nghiêm Phật sự; dâng một nén hương, về sau vẫn có thể được quả vị Diệu Giác; thoa hương lên một ngôi tháp cũ mà thân thoảng thơm mùi Chiên đàn.
 

Thuở xưa lúc Đức Phật còn ở đời, có một Trưởng giả tên là Chiên Đàn Hương, thời quá khứ ông đã từng dùng hương thoa lên ngôi tháp cũ, từ đó trải qua chín mươi mốt kiếp các lỗ chân lông trên người đều tỏa mùi thơm Chiên Đàn, từ miệng thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh.
 

Hoặc treo phan nơi chùa tháp, treo bảo cái nơi Thánh tượng bày tỏ lòng thành, tuy vì giúp người khác được phước nhưng đều trở thành quả báo nơi chính mình.
 

Do đó khi Đức Phật còn tại thế, có một người tên là Bà Đa Ca, thời quá khứ từng làm một lá phan dài treo trên tháp Phật Tỳ Bà Thi. Từ đó về sau trải qua chín mươi mốt kiếp, ở trong cõi trời hay loài người thường có lá phan lớn treo ở phía trên, hưởng phước vui vẻ, về sau xuất gia đắc đạo.
 

Trong kinh còn nói, nếu có người treo phan, mỗi lần gió thổi lay động là mỗi lần được quả vị Luân Vương, cho đến khi lá phan tan nát thành bụi, mỗi hạt bụi đều là ngôi vị Tiểu Vương.
 

Kinh Bách Duyên nói:
 

“Có một Trưởng giả tên là Bảo Cái, thời quá khứ từng đem một viên bảo châu Ma Ni đặt trên đỉnh tháp xá lợi của Phật Tỳ Bà Thi. Từ đó về sau trải qua chín mươi mốt kiếp, ở trên cõi trời hay trong loài người tự nhiên luôn có bảo cái che trên đầu, cho đến khi gặp Phật xuất gia, thành tựu quả Phật”.
 

Hoặc xưng dương đức hạnh của Phật, tán thán Đại thừa được quả báo thù thắng vô biên. Đó là nhân lành vi diệu rất lớn. Tán thán một bài kệ còn có công năng vượt qua kiếp số mà thành Phật; tụng một lời kinh được quả báo tướng lưỡi phát diệu âm.
 

Kinh Quán Phật Tam Muội nói:
 

Thời quá khứ xa xưa vô lượng kiếp về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Bảo Oai Đức Thượng Vương.
 

Lúc ấy có vị Tỳ kheo và chín mươi đệ tử đi đến tháp Phật lễ bái tượng Phật, thấy một bảo tượng nghiêm trang rất đẹp. Các vị này lễ bái rồi nhìn kỹ nói kệ tán thán, về sau mạng chung đều sanh về cõi Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương ở phương Đông, bỗng nhiên hóa sanh trong sen lớn. Từ đó về sau hằng được gặp Phật, thành tựu Niệm Phật Tam Muội, được Phật thọ ký, đều thành Phật ở khắp mười phương”.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Ví như hoa Ưu Đàm tất cả mọi người đều ưa thích, là loài hoa hiếm có trong cõi trời người, đúng thời mới xuất hiện một lần.
 

Nghe pháp hoan hỷ tán thán, cho đến phát một lời khen ngợi là đã cúng dường khắp cả chư Phật trong mười phương ba đời. Người ấy rất là hiếm có, còn hơn cả hoa Ưu Đàm”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Lại phóng ánh sáng tên là Diệu Âm. Ánh sáng này khai ngộ các vị Bồ Tát, có thể làm cho người nghe tất cả âm thanh trong ba cõi đều là âm thanh của Như Lai.
 

Dùng âm thanh lớn xưng tán Phật và bố thí linh mỏ các loại âm nhạc khiến cho khắp thế gian được nghe âm thanh của Phật, do đó thành tựu ánh sáng này”.
 

Còn như dùng Phạm âm vi diệu ca dương phúng tụng, vịnh xướng, chúc tụng thì thuở xưa Bà Đề chúc tụng tiếng vang thấu đến tận trời Tịnh Cư. Thích Tôn nhập định, tiếng đàn lời ca xưng tán vang dội cả thạch thất.
 

Vườn rừng, lầu các đều vào trong môn pháp giới, âm thanh ngôn ngữ trở thành Phật sự trợ giúp giác ngộ.
 

Kinh Tỳ Ni Mẫu nói:
 

“Đức Phật bảo các Tỳ kheo: Cho phép các ông chúc tụng. Chúc tụng tức là từ ngữ ngôn thuyết”.
 

Luận Thập Tụng nói:
 

“Vì chư Thiên nghe chúc tụng thì tâm hoan hỷ; hoặc dùng âm nhạc, ca múa, loa, nao bạc, tiêu, thiều, phát tâm hoan hỷ dùng mọi cách cúng dường”.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Nếu bảo người ca hát

Đánh trống thổi sừng ốc

Tiêu, địch, cầm không hầu

Tỳ bà, chập chả đồng

Các tiếng hay như thế

Đều đem cúng dường Phật.

Hoặc dùng tâm hoan hỷ

Ca tụng công đức Phật

Cho đến một tiếng nhỏ

Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc khuyến thỉnh chư Phật

Chuyển bánh xe giáo pháp

Chẳng vào nơi Niết Bàn

Từ bi độ chúng sanh”.
 

Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Pháp của Bồ Tát vốn như vậy, sáu thời khuyến thỉnh chư Phật khắp mười phương. Nếu chư Phật ở trước mắt thì có thể thỉnh. Nay vô lượng Phật ở mười phương không thể tận mắt thấy, làm sao thỉnh được?
 

Đáp:
 

Cũng như tâm từ bi nghĩ khiến cho chúng sanh được vui vẻ, tuy chúng sanh không được gì nhưng người nghĩ như thế được phước rất lớn. Việc thỉnh Phật thuyết pháp cũng vậy. Vả lại tuy chúng sanh không tận mắt thỉnh Phật nhưng Phật thường thấy tâm họ và cũng nghe lời thỉnh mời, hoặc tùy hỷ tán thán điều lành, hỗ trợ duyên thù thắng cho người. Giống như người đứng bên cạnh kẻ mua hương được xông mùi hương, dù không đích thân làm nhưng đồng được căn lành”.
 

Luận nói rằng:
 

“Nếu có người làm công đức, người khác thấy tâm vui theo, khen rằng: Lành thay! Ở trong thế giới vô thường bị si mê tăm tối che đậy có thể mở tâm rộng lớn kiến lập phước đức này”.
 

Bồ Tát chỉ dùng tâm tùy hỷ còn vượt trên hàng Nhị thừa, huống chi tự thân thực hành.
 

Vả lại, Bồ Tát ngày đêm sáu thời thường thực hành ba việc:
 

1. Lễ lạy chư Phật khắp mười phương, sám hối tội lỗi trong ba đời.

2. Tùy hỷ công đức mà chư Phật trong ba đời mười phương đã làm.

3. Khuyến thỉnh chư Phật xoay chuyển bánh xe giáo pháp lần đầu và ở nơi thế gian lâu dài.
 

Thực hành ba điều ấy công đức vô lượng, càng gần với quả vị Phật hơn. Nếu làm các việc lành thảy đều hồi hướng thành tựu Bồ đề để khỏi rơi vào sanh diệt. Như âm thanh nhỏ dội vào tường vách bèn vang xa, tợ giọt nước gieo xuống lòng sông liền tan hòa cùng khắp. Dùng việc lành nhỏ mà đưa đến quả vị cùng tột, vận dụng ý niệm thiện nhỏ mà thành tựu tâm rộng lớn.
 

Hoặc phát đại nguyện, đó là nhân của vạn hạnh hay trưởng dưỡng từ bi, chẳng đoạn mất hạt giống Phật. Đại sự thành tựu, việc làm trọn nên, thành đạo làm lợi ích chúng sanh đều do nguyện lớn.
 

Thế nên, có hạnh mà không có nguyện, hạnh ấy ắt trơ trọi; có nguyện mà không có hạnh, nguyện ấy trở thành nguyện suông. Hạnh nguyện theo nhau, mình và người đều lợi ích.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Chẳng phát đại nguyện là việc làm của ma; ưa ở nơi lặng lẽ đoạn trừ phiền não là việc làm của ma, dứt hẳn sanh tử là việc làm của ma; bỏ hạnh Bồ Tát là việc làm của ma; chẳng giáo hóa chúng sanh là việc làm của ma”.
 

Luận Đại Trí Độ nói:
 

“Làm phước mà không có nguyện, không thể dựng lập được gì. Nguyện là thầy dẫn đường, có thể đạt được thành tựu. Ví như việc lọc vàng trong quặng, tùy theo cách làm của người thợ mà vàng không nhất định.
 

Bồ Tát cũng vậy, tu tập về nguyện của Tịnh độ, rồi sau đó mới được thành. Vì thế nên biết, do nguyện mà đạt được kết quả”.
 

Lại nói, nếu có thể phát tâm một lần nói rằng:
 

“Nguyện tôi sẽ thành Phật, diệt trừ đau khổ của tất cả chúng sanh. Dù chưa dứt phiền não, chưa làm được việc khó nhưng do tâm miệng mạnh mẽ nên hơn tất cả chúng sanh”.
 

Luận Đại Trang Nghiêm nói:
 

“Thanh tịnh cõi Phật là việc lớn, thực hành công đức của một hạnh không thể thành tựu, cần phải có nguyện lực. Ví như trâu có sức kéo xe nhưng cần phải có người đánh xe mới có thể đi đến nơi. Làm thanh tịnh cõi Phật do nguyện dẫn đến thành tựu, bởi nguyện lực nên phước đức tăng trưởng, vì chẳng mất chẳng hoại nên thường thấy Phật”.
 

Hoặc tu sửa tạo lập hình tượng Phật, xây dựng già lam trang nghiêm đất phước.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Nếu có người vì Phật

Tạo lập các hình tượng

Điêu khắc thành các tướng

Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc dùng bảy báu làm

Thau, đồng bạch, đồng đỏ

Chất nhôm cùng chì kẽm

Sắt gỗ cùng với bùn, 

Hoặc dùng keo sơn vải

Nghiêm sức làm tượng Phật

Những người như thế ấy

Đều đã thành Phật đạo.

Vẽ vời làm tượng Phật

Trăm phước tướng trang nghiêm

Tự làm hoặc bảo người

Đều đã thành Phật đạo”.
 

Kinh Tạo Hình Tượng Phật nói:
 

“Vua Ưu Trấn đến chỗ Đức Phật bạch rằng:
 

- Thưa Thế Tôn! Nếu sau khi Phật diệt độ, có chúng sanh tạo tượng Phật sẽ được phước gì?
 

Đức Phật bảo nhà vua rằng:
 

- Nếu có người tạo hình tượng Phật thì công đức vô lượng. Người ấy ở trên cõi trời, trong loài người hưởng thọ các điều vui thích, thân thể thường có màu sắc vàng. Nếu ở trong loài người, thường sanh trong gia đình Đế vương, Trưởng giả hiền thiện, cho đến hoặc làm Đế vương thì là bậc tôn quí trong hàng vua chúa, hoặc làm Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh tứ thiên hạ, tự nhiên có bảy loại báu, đầy đủ ngàn người con. Cho đến hoặc sanh lên cõi trời thì làm Thiên chủ sáu cõi trời Dục, hoặc sanh lên cõi Phạm Thiên thì làm Phạm Vương.
 

Về sau, đều được sanh lên cõi Vô Lượng Thọ, làm Đại Bồ Tát, rốt cuộc sẽ thành Phật được đạo Niết Bàn. Nếu có người tạo hình tượng Phật sẽ được phước như thế”.
 

Kinh Hoa Thủ nói:
 

“Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:
 

- Bồ Tát có bốn pháp hoàn toàn chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề. Bốn pháp ấy là:
 

1. Nếu thấy chùa tháp hư hoại thì sẽ tu sửa, hoặc dùng bùn đất cho đến một viên gạch.

2. Hoặc ở nơi ngã tư đường, chỗ nhiều người qua lại dựng tháp tạo tượng làm duyên phước thiện niệm Phật.

3. Nếu thấy hai bộ Tỳ kheo Tăng tranh cãi, cố gắng tìm phương tiện làm cho hòa hợp.

4. Nếu thấy Phật Pháp sắp hoại thì có thể đọc tụng, giải thích cho đến một bài kệ, khiến cho chẳng đoạn dứt. Vì hộ pháp nên cung kính cúng dường Pháp sư, chuyên tâm hộ pháp chẳng tiếc thân mạng.
 

Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp này, đời đời sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương được thân đại lực sĩ như Na La Diên, bỏ tứ thiên hạ mà xuất gia, có thể tùy ý tu bốn phạm hạnh, lúc mạng chung sanh lên cõi trời làm Đại Phạm Vương, cho đến rốt ráo thành tựu đạo Vô thượng”.
 

Khỉ vượn đùa giỡn chồng lên nhau làm tháp còn được sanh lên cõi trời; tiều phu xưng niệm sai danh hiệu Phật còn được hóa độ, huống chi chí thành lẽ nào không có quả báo thù thắng hay sao?
 

Hoặc xây dựng bảo tháp, đúc hồng chung, cho đến việc lành nhỏ như ngón tay vẫn được phước sanh lên Thiên giới; hoặc tạm thời đánh một tiếng chuông mà cõi U Minh dứt khổ.
 

Kinh Vô Thượng Y nói:
 

“Đức Phật bảo A Nan: Như trụ xứ thiên cung của Đế Thích, có lầu Đại Phi tên là Điện Thường Thắng dùng tám vạn bốn ngàn vật báu trang nghiêm.
 

Nếu có thanh tín nam tử, nữ nhân xây dựng cung điện quí báu thù thắng như thế, trăm ngàn câu chi cúng dường cho chúng Tăng khắp bốn phương.
 

Nếu lại có người sau khi Như Lai nhập Niết Bàn lấy viên xá lợi nhỏ như hạt cải, tạo tháp nhỏ như trái A Ma La, nâng cây phướng nhỏ như kim, làm bánh xe pháp luân nhỏ như lá táo, tạo hình tượng Phật nhỏ như hạt lúa. Công đức này hơn công đức của người trước trăm phần chẳng bằng, ngàn muôn ức phần, cho đến A tăng kỳ số phần chẳng bằng một phần. Tại sao? Vì Như Lai có vô lượng công đức”.
 

Kinh Niết Bàn nói:
 

“Khéo giữ đồ vật của Phật và chư Tăng lau quét đất của Phật và chư Tăng, tạo tháp nhỏ như ngón tay, thường sanh tâm hoan hỷ cũng được sanh về cõi Bất Động. Đó tức là Tịnh độ thường trang nghiêm chẳng bị tam tai làm loạn động”.
 

Hoặc biên chép Đại tạng kinh, khải phát chơn lý, hoặc khắc kinh trên đá, hoặc dùng vàng làm chữ, hoặc lột da chích máu khiến cho mọi người nghe thấy đều tùy hỷ. Dùng mười loại hoằng truyền* lưu thông Phật Pháp, thệ nguyện báo đáp bốn ân, tuân theo lời dạy từ bi của Đức Thế Tôn.
 

Thế nên, trí Phật tán thán không hết, phước báo cõi trời vô cùng, sánh bằng với công đức của Thiện Thệ, làm sứ giả của Đức Như Lai.
 

Kinh Pháp Hoa nói:
 

“Nếu người nghe kinh này, hoặc tự chép hoặc bảo người chép thì được công đức. Nếu dùng trí tuệ Phật lường xét nhiều ít cũng không biết được bờ mé”.
 

Hoặc sùng hưng Tam Bảo, thổi ngọn gió từ bi rộng khắp; hoặc làm tường vách cho ngôi nhà Phật Pháp; dùng oai lực ủng hộ bên ngoài khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài, Phật đạo mãi hưng thịnh. Chiêu cảm bên ngoài, mưa thuận gió hòa, nước nhà an vui; quả báo bên trong cấu nhiễm diệt trừ, đạo hạnh thành tựu, nhân quả tròn đầy. Có thể tuân theo ân đức phó chúc thì chẳng mất lời thọ ký về Bồ đề.
 

Hoặc cởi mở cho người bị ràng buộc, thả cho xuất gia; hoặc trợ giúp để người được làm Tăng Ni tiếp nối hưng thịnh dòng dõi Phật, khai mở đạo xuất ly, ban cho môn tiếp dẫn. Lường xét nhân thù thắng, các kinh điển đều khen ngợi.
 

Kinh Xuất Gia Công Đức nói: “Nếu phóng thích nam nữ nô tỳ, nhân dân xuất gia công đức vô lượng”.
 

Kinh Bản Duyên nói: “Xuất gia trong một ngày đêm, hai mươi kiếp không rơi vào ba đường ác”.
 

Luật Tăng Kỳ nói:
 

“Xuất gia tu phạm hạnh trong một ngày một đêm được lìa ba đường khổ trong sáu trăm sáu ngàn sáu mươi năm”.
 

Cho đến cạo tóc lúc say, khoác y khi đùa giỡn, trong khoảng thời gian rất ngắn nhưng cũng sẽ được đạo quả; huống gì cắt ái từ thân, đầy đủ chánh nhân trở thành Bồ Tát Tăng, phước báo chẳng có bờ mé.
 

Hoặc quên thân vì pháp, dứt tuyệt thầy tà, dựng ngọn cờ chánh pháp, cắt đứt lưới ma, soi sáng mặt trời trí tuệ trong căn nhà vô minh tăm tối, che phủ mây từ bi trong rừng rậm phiền não, khiến cho người tin theo tà tiến vào Tam giải thoát môn, giúp cho kẻ kiến chấp phá nát mạng lưới bát điên đảo<!--[if !supportFootnotes]-->[23]<!--[endif]-->.
 

Hoặc làm nên sự nghiệp lớn cho người, trợ giúp phát tâm Bồ đề, tạo nhân duyên tăng thượng, làm người bạn không đợi mời thỉnh.
 

Kinh Niết Bàn nói: “Trợ giúp người phát tâm Bồ đề thì cho phá năm giới”.
 

Thế nên biết tổn hại mình mà vì người khác, đó là hạnh của bậc Đại Sĩ.
 

Hoặc dâng cúng trai phạn cho chư Tăng, trợ giúp đầy đủ phương tiện để các Ngài tu hành, mở cửa bố thí rộng lớn, thiết lập đại hội Vô Giá. Thế nên giảm một muỗng cơm được sanh lên cõi trời bảy lần; bố thí một miếng lương khô hiện đời bước lên vương vị.
 

Hoặc tạo phòng kinh, thiền thất, hoặc cúng hoa trái vườn rừng, cung cấp vật cần dùng trợ giúp thành đạo nghiệp. Thuở xưa trợ giúp những vị tu thiền mà tự nhiên được niềm vui cõi trời. Mỗi ngày cung cấp thức ăn cho vị Sa di tụng kinh mà được Tổng trì bậc nhất.
 

Kinh Đại Báo Ân nói:
 

“Nếu đem cơm và ngọc anh lạc bố thí cho người trừ bỏ tâm sân hận, nhờ nhân duyên ấy mà được hai tướng tốt:
 

1. Thân tướng sắc vàng.

2. Thường có ánh sáng”.
 

Cho đến quét tháp, lau chùa, phụng sự chúng Tăng, khởi tâm cung kính thành khẩn quí trọng, phát một tâm lành nhỏ nhiệm, thành nhân duyên thanh tịnh vô biên.
 

Kinh Bồ Tát Bản Hạnh nói:
 

“Thuở xưa lúc Đức Phật còn ở đời, có vị A La Hán tên là Bà Đa Kiệt Lê quán xét nhân địa thấy từng quét dọn cổ tháp của Phật Định Quang, làm cỏ đốn cây sạch sẽ rồi vô cùng hoan hỷ, đi kinh hành tám vòng, làm lễ rồi đi. Sau khi mạng chung sanh lên cõi trời Quang Âm, hưởng hết tuổi thọ cõi trời cho đến trở lại nhân gian làm Chuyển Luân Thánh Vương một trăm lần, dung mạo đoan chánh, người thấy đều hoan hỷ. Khi muốn đi, đường sá tự nhiên sạch sẽ. Trong chín mươi kiếp ở cõi trời hay nhân gian đều được giàu sang vui sướng, tôn quí vinh hiển khôn cùng. Nay thân rốt sau gặp Phật Thích Ca, bỏ sự giàu sang, xuất gia đắc quả A La Hán”.
 

Nay có người có thể làm việc lành nhỏ chừng bằng mảy tơ ở nơi Phật Pháp Tăng thì sanh ra được hưởng thọ quả báo rộng lớn không cùng tận.
 

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói:
 

“Nếu chúng sanh dùng tâm thanh tịnh cúng dường chúng Tăng, quét tháp Như Lai, lúc mạng chung sanh về cõi trời Ý Lạc. Thân không có xương thịt cũng không cấu uế, mùi hương có thể xông đến một trăm do tuần. Thân người ấy thanh khiết giống như gương sáng”.
 

Phó Pháp Truyện nói:
 

“Có một Tỳ kheo tên là Cầu Đa quán xét người kia không có phước nên không thể được đạo, bảo rằng phải giáo hóa, cúng dường chư Tăng. Người ấy thực hành theo bèn chứng quả A La Hán.
 

Lại có một vị La Hán tên là Kỳ Dạ Đa đầy đủ Tam minh Lục thông, quán xét thấy đời trước từng làm thân chó, chưa hề tạm thời có một bữa no, thường chịu đựng đói khát. Vị A La Hán ấy bèn tự thân thường nấu nướng cung cấp cho chúng Tăng”.
 

Kinh Đại Báo Ân nói:
 

“Tư duy nghĩa lý sâu xa của các pháp, ưa thích tu tập pháp lành, cúng dường cha mẹ, hòa thượng, sư trưởng, những bậc có đức hạnh. Nếu đi trên đường gặp tháp Phật phòng Tăng nhơ uế, sỏi đá, gai góc ngổn ngang thì liền dọn dẹp. Do nhân duyên ấy mà được một tướng lông xoay về bên phải trong ba mươi hai tướng tốt”.
 

Cho đến thăm bệnh, cúng dường phương tiện cho chư Tăng tắm rửa, đào giếng, dựng nhà xí công cộng, giúp nguy cứu gấp, cứu tế kịp thời, đều là tâm Đại Bồ Tát, trở thành hạnh chẳng thể nghĩ bàn, đã làm lợi ích rộng rãi mọi người thì được quả báo rộng lớn. Hoặc mãi thọ thân hình kiên cố bất hoại, hoặc thường được thân thể tướng hảo thanh tịnh, hoặc vãng sanh thế giới Cam Lộ Phật Quốc, hoặc chóng được thân an nhàn tự tại.
 

Những việc làm trên đều là nhân thù thắng của ba mươi hai tướng tốt, quả vi diệu của tám mươi vẻ đẹp.
 

Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân nói:
 

“Ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, xem bệnh cho thuốc, diệt kiêu mạn, ăn uống biết đủ. Vì nhân duyên đó mà được tướng bàn chân bằng phẳng trong ba mươi hai tướng”.
 

Kinh Phước Điền nói:
 

“Đức Phật bảo Thiên Đế:
 

Thuở xưa ta ở nước Ba La Nại dựng lập nhà xí công cộng, do công đức đó nên đời đời thanh tịnh, hành đạo trải qua nhiều kiếp không nhiễm sự cấu uế, sắc vàng rạng rỡ, bụi nhơ không dính; khi ăn tự tiêu hóa, không có sự lo lắng về đại tiểu tiện”.
 

Kinh Bách Duyên nói:
 

“Tỳ kheo Tôn Đà Lợi, trong thời quá khứ làm Trưởng giả. Do dâng cúng nước thơm cho chúng tăng tắm rửa, lại đem trân bảo bỏ vào trong nước. Vì vậy đời này khi sanh ra trong nhà tự nhiên có dòng suối vọt lên, nước thơm ngọt ngào mát mẻ, có các trân bảo dẫy đầy trong đó, thân hình đoan chánh, đẹp đẽ trang nghiêm. Về sau xuất gia, tu hành đắc đạo”.
 

Kinh Hiền Ngu nói:
 

“Thuở xưa có năm trăm khách thương buôn vào biển tìm châu báu, thỉnh một vị Ưu Bà Tắc ngũ giới làm thầy dẫn đường.
 

Thần biển lấy một vóc nước hỏi Ưu Bà Tắc rằng:
 

- Nước trong vóc tay nhiều hay nước biển nhiều?
 

Ưu Bà Tắc đáp:
 

- Nước trong vóc tay nhiều. Nước biển tuy nhiều nhưng đến khi kiếp sắp tận ắt sẽ khô kiệt. Nếu người có thể lấy một vóc nước cúng dường Tam Bảo, hoặc phụng dưỡng cha mẹ, hoặc cho kẻ xin ăn bần cùng, cầm thú. Công đức ấy trải qua nhiều kiếp cũng không hết. Do đó mà biết, nước biển là ít còn nước trong vóc tay thì nhiều.
 

Thần biển hoan hỷ liền đem trân bảo tặng cho Ưu Bà Tắc”.
 

Thế nên biết, tất cả vạn vật chỉ có lợi ích khi cứu giúp lúc cấp bách. Nếu như lúc không cần dù có nhiều cũng vô ích.
 

Trong Kinh nói:
 

“Nếu như gieo trồng cây vườn rừng, đào giếng, dựng nhà xí công cộng, bắc cầu, phước báo mà người đó làm ngày đêm thường tăng trưởng”.
 

Cao Tăng Truyện nói:
 

“Pháp sư Đạo An trong mộng cảm ứng một vị Thánh tăng nói với Ngài rằng:
 

- Ông đối với sự hiểu biết và tu hành hơn người, nhưng lại ít phước. Nếu ông có thể phụng sự chúng Tăng, sở nguyện ắt được thành tựu”.
 

Hoặc lấp bằng hầm hố, khai thông đường lộ, tu sửa cầu, đóng thuyền làm bè; hoặc như xây dựng nhà mát nơi nghỉ chân; hoặc trồng cây hoa trái ven đường dùng để tiếp tế mọi người mỏi mệt khi đi lại; cung cấp đầy đủ những phương tiện trên đường đi cho người và súc vật.
 

Trong môn Lục độ phát khởi chí nguyện hoằng dương sâu xa; trong mảnh ruộng tám loại phước, vận dụng tâm từ bi tế độ rộng lớn. Một niệm nhân lành có thể dẫn đến hai loại quả báo:
 

1. Hoa báo: thọ hưởng niềm vui của người và trời.

2. Quả báo: chứng ngộ nguồn chân của Phật Tổ.
 

Hoặc như cung cấp thức ăn cho người đói khát, phát thuốc cho người bệnh tật. Phàm cơm áo chỗ ở mà mọi người cần thiết đều dốc sức cung cấp đầy đủ, làm an lạc loài hữu tình.
 

Những điều đó là gia nghiệp của chư Phật, an ủi người chìm đắm là việc làm thường ngày của bậc Đại Sĩ. Nếu làm được như thế, giả sử có phát cho người bệnh một ít thuốc cũng sẽ được phước lạc lâu dài trong chín mươi kiếp, cung cấp một bữa ăn cho người đói khát cũng sẽ được quả báo nhiều của cải gấp ngàn lần.
 

Trong kinh nói:
 

Bố thí thức ăn được năm điều lợi ích:
 

1. Sống lâu.

2. Sắc đẹp.

3. Sức mạnh.

4. An ổn.

5. Tài hùng biện.
 

Luận Đại Trí Độ nói: “Quỷ thần được một bữa ăn của loài người thì biến hóa ra gấp ngàn vạn lần”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Lại phóng ánh sáng tên An ổn

Ánh sáng này soi người tàn tật

Khiến trừ tất cả các đau khổ

Đều được vui chánh định Tam Muội

Bố thí lương dược cứu các bệnh

Dầu tô, sữa mật, thức ăn uống

Do đó được thành ánh sáng này”.
 

Hoặc bố thí sự vô úy, khéo điều hòa tranh cãi, thương xót kẻ nghèo hèn cô độc, cứu giúp nguy nan. Làm những việc này được phước báo sanh về cõi Phạm Thiên, hạnh sánh bằng bậc Đại Giác. Nhân mạnh mẽ thì quả thù thắng; đức cao dày ắt quả sâu rộng.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Lại phóng ánh sáng tên Vô úy

Ánh sáng này chạm người sợ hãi

Phi nhân đem các thứ độc hại

Khiến tất cả đều mau trừ diệt.

Hay thí Vô úy cho chúng sanh

Gặp sự não hại đều khuyên dừng

Cứu giúp kẻ nguy nan cùng khốn

Do đó được thành ánh sáng này.
 

Vả lại, thực hành từ bi hỷ xả, các việc lợi ích giúp người nghèo, thay thế chịu đau khổ, dũ lòng thương xót và bố thí một ít thức ăn cho súc sanh. Những điều đó đều là việc làm của Phật, đều là nhân của lòng từ bi không điều kiện.
 

Kinh Pháp Cú nói: Thực hành từ bi có mười một điều lợi. Đức Phật nói kệ rằng:
 

“Thực hành nhân từ, bác ái giúp người

Mười một điều khen, phước thường theo mình

Nằm an ngủ yên, không thấy ác mộng

Trời hộ người mến, độc binh chẳng hại

Nước lửa không chết, hiện tại được lợi

Chết sanh Phạm Thiên, đó là mười một”.
 

Thế nên trong kinh nói, mọi căn lành của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật đều lấy từ bi làm gốc.
 

Luận Tỳ Bà Sa nói:
 

“Nếu người tu tập từ bi, lửa không thể thiêu đốt, đao không thể làm tổn thương, độc không thể hại, nước không thể cuốn trôi, người khác không thể sát hại. Sở dĩ được vậy là vì Định Tâm Từ, là pháp bất hại nên có uy thế lớn, chư Thiên ủng hộ không gì hại được”.
 

Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi, Đức Phật bảo rằng:
 

“Nếu người ở trong A tăng kỳ kiếp dùng thân cúng dường chư Phật, chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn trong khắp mười phương, chẳng bằng có người thí cho súc sanh một bữa ăn, phước ấy còn hơn người kia gấp trăm ngàn muôn lần vô lượng vô biên”.
 

Luận Đại Trượng Phu nói:
 

“Dùng tâm từ bi bố thí cho một người, công đức rộng lớn như mặt đất. Vì mình mà bố thí tất cả, được quả báo nhỏ như hạt cải. Cứu giúp một người mắc nạn nguy cấp hơn tất cả sự bố thí khác. Các vì sao tuy có ánh sáng, chẳng bằng ánh sáng của một mặt trăng”.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Bồ Tát thí cho súc sanh một vắt cơm, hoặc một hạt gạo, đều phát nguyện thế này:
 

Sẽ khiến cho chúng thoát khỏi đường súc sanh, được lợi ích an vui, giải thoát rốt ráo, qua hẳn biển khổ, diệt hẳn khổ thọ, trừ hẳn khổ uẩn, đoạn hẳn khổ giác, khổ tụ, khổ hạnh, khổ bổn và các chỗ thống khổ. Nguyện các chúng sanh kia đều được lìa bỏ mọi sự đau khổ.
 

Bồ Tát chuyên tâm buộc niệm như thế đối với tất cả chúng sanh, do căn lành ấy mà từ bi được gọi bậc nhất. Vì nó mà hướng về Nhất thiết Chủng trí”.
 

Kinh Đại Niết Bàn nói:
 

“Đức Phật thuở quá khứ chỉ tu một hạnh từ bi mà trải qua bảy lần thế giới này thành hoại đều chẳng sanh trở lại. Khi thế giới này hoại thì sanh lên cõi trời Quang Âm; lúc thế giới này thành, sanh vào cõi Phạm Thiên làm Đại Phạm vương; ba mươi sáu lần trở lại làm Thiên Đế Thích; vô lượng trăm ngàn đời làm Chuyển Luân Thánh Vương, cho đến thành Phật”.
 

Vả lại, vua A Xà Thế thả voi say định dẵm nát Đức Phật. Bầy voi thấy trong tay Phật hiện ra năm con sư tử, chúng đều quỳ lễ dưới chân Ngài. Những việc như hiền gặp con, người mù được sáng, thành trì biến thành vàng bạc lưu ly, Thế Tôn nâng tảng đá, Thích Nữ được lành vết thương, Đề Bà Đạt Đa bệnh tình thuyên giảm, đều là do sức mạnh huân tu căn lực từ thiện trong nhiều kiếp nên có thể khiến cho những người đau khổ thấy các việc như thế.
 

Nay đã noi theo Đức Phật, nên đi trên con đường huyền diệu này. Cho đến phóng sanh chuộc mạng, ngăn chặn sát hại, dứt trừ việc nấu nướng chúng sanh, phóng thích kẻ bị giam cầm, nối tiếp sanh mạng dài lâu, tạo thành nhân huệ mạng. Khiến cho chúng được toàn vẹn thân hình, trên đất bằng dưới nước chấm dứt nỗi khổ rơi vào lưới bẩy, lưỡi câu, mặc tình bay lượn lội bơi, thoát khỏi nỗi lo lắng cháy rừng khô đầm, tránh khỏi nạn thai mới bị hư, trong tổ không có trứng cũ, chẳng còn sự đau khổ do cắt thịt nấu nung trong dầu sôi lửa bỏng.
 

Kinh Phạm Võng nói:
 

“Nếu là Phật tử do lòng từ bi nên thực hành phóng sanh. Vì tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ ta. Ta đời đời từ họ mà thọ sanh. Cho nên chúng sanh trong sáu nẽo đều là cha mẹ của ta. Nếu giết hại và ăn thịt chúng tức là giết hại cha mẹ, cũng là giết hại thân cũ của ta.
 

Tất cả đất nước là thân trước kia của ta, tất cả gió lửa là bản thể của ta. Vì vậy thường thật hành phóng sanh, cho đến nếu không như thế thì phạm tội khinh cấu”.
 

Nên biết hữu tình và vô tình chúng sanh đều không thể tổn hại chúng.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Phật tử Đại Bồ Tát làm Đại quốc vương, đối với pháp luật tự tại, ra lệnh thực hành phổ biến khiến cho trừ bỏ nghiệp sát. Trong cõi Diêm Phù Đề nơi thành ấp, xóm làng, tất cả lò sát sanh, quốc vương đều ra lệnh ngăn cấm. Bố thí rộng rãi sự không sợ hãi cho các loại chúng sanh không chân, hai chân, chẳng có tâm dối lừa chiếm đoạt, tu rộng rãi tất cả hạnh. Nhân từ đến mọi vật, chẳng làm việc tổn hại đau buồn; phát tâm cao quý làm an ổn chúng sanh.
 

Ở chỗ chư Phật lập chí nguyện ưa thích sâu xa, tự mình thường an trụ nơi ba loại tịnh giới, cũng khiến chúng sanh đều an trụ như thế. Đại Bồ Tát khiến chúng sanh thực hành năm giới, dứt hẳn nghiệp sát, dùng căn lành này hồi hướng như thế. Gọi là nguyện tất cả chúng sanh phát tâm Bồ Tát đầy đủ trí tuệ, giữ gìn mãi mạng sống không cùng tận. Cho đến thấy chúng sanh ôm lòng tàn nhẫn làm tổn hại người vật khiến thân thể chúng khuyết giảm chịu những sự khổ sở và độc hại, thấy việc đó rồi khởi tâm đại từ bi thương xót cứu độ, khiến tất cả người dân trong cõi Diêm Phù Đề đều bỏ nghiệp sát”.
 

Kinh Niết Bàn nói:
 

“Ai cũng tiếc thân mạng

Mọi người sợ dao gậy

Từ mình mà suy người

Chớ giết chớ đánh đập”.
 

Xưa có Thiền tăng tên Đặng Ẩn Phong. Khi chưa xuất gia làm nghề thợ săn, từng bắn một con vượn. Vượn ấy rơi xuống đất mà chết. Giây lát, vượn mẹ cũng rơi xuống đất mà chết. Nhân đó Đặng Ẩn Phong mổ bụng vượn mẹ mới thấy ruột gan đã đứt từng đoan. Do vậy ông bèn bỏ nghề thợ săn mà xuất gia.
 

Thế nên biết thân người, thân thú chịu quả báo ngàn sai muôn khác, nhưng cội gốc tình ái giống nhau như một. Cho nên cọp mất rừng cùng đường mới gởi mạng sống trong chuồng, chim lông vũ xác xơ hoảng kinh mới gieo mình bên áng.
 

Đến như Vương Sanh nuôi chim én đâu có ý mong vòng ngọc, Khổng Thị thả rùa đâu có tâm cầu kim ấn. Sanh mạng đã không phân biệt lớn nhỏ, lẽ nào tội lại ngăn cách nơi trí ngu?
 

Hành vi của ba nghiệp cần phải thận trọng, làm tổn thương hoặc lầm giết còn đền trả tai ương; cố ý gây tạo thì làm sao tránh khỏi nghiệp báo?
 

Hoặc thọ giới một ngày, hoặc trì bát quan trai, hoặc không ăn thịt chúng sanh, hoặc dứt hẳn máu huyết, hành tỏi, thì tránh khỏi vùng đất có tam tai, được sanh lên sáu cõi trời Dục. Như thế, đã làm nhân duyên trường thọ mà còn tích lũy hạt giống đại từ bi.
 

Trong kinh nói:
 

“Thuở xưa có một người tên Ca La Việt thiết lập trai đàn lớn thỉnh Phật và chúng Tăng. Lúc ấy có một người bán tô lạc đi đến. Ca La Việt mời ông ấy ở lại dùng cơm và khuyên trì trai nghe kinh đến tối mới về. Về tới nhà, người vợ nói rằng:
 

- Tôi từ sáng đến giờ chưa ăn để đợi ông đến giờ này.
 

Ông ta bèn phạm giới trai. Về sau lúc lâm chung nhờ phước ấy nên được sanh cõi trời. Lúc phước hết sanh xuống nhân gian, bảy đời thường được cơm áo tự nhiên đầy đủ”.
 

Phước của nửa ngày trai còn được sanh về Thiên giới. Một ngày trì trai tự nhiên sáu mươi vạn năm lương thực dư thừa. Lại có năm điều phước:
 

1. Ít bệnh.

2. Thân tâm an ổn.

3. Ít dâm dục.

4. Ít ngủ nghỉ.

5. Sau khi mạng chung thần thức được sanh lên cõi trời, biết được việc trong những đời trước.
 

Hoặc ôm lòng hổ thẹn, thường sanh tâm vui mừng, biết phận mình tri ân, luôn khởi ý tưởng báo đáp.
 

Kinh Tạp A Hàm nói:
 

“Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: Có hai pháp thanh tịnh có thể bảo hộ thế gian. Hai pháp ấy là hổ và thẹn. Giả sử thế gian không có hai pháp thanh tịnh này thì mọi người cũng không biết có cha mẹ, anh chị em, vợ con, tôn nhân, sư trưởng, tôn ti lộn lạo hỗn loạn giống loài cầm thú.
 

Đức Phật bèn nói lời kệ:
 

“Nếu thế gian không có

Hai pháp hổ và thẹn

Trái ngược đạo thanh tịnh

Tới sanh, già, bệnh, chết.

Nếu thế gian thành tựu

Hai pháp hổ và thẹn

Tăng trưởng đạo thanh tịnh

Mãi đóng cửa sanh tử”.
 

Hoặc thay thế hình phạt tru diệt cho người, gánh lấy tội lỗi của kẻ khác, xả thân cứu giúp. Hoặc phóng thích kẻ lao tù, xá tội hình phạt. Hoặc quy tụ kẻ lang thang, trợ giúp những người trốn nợ. Hoặc ngăn chặn cửa ải nơi biên giới, xóa bỏ thuế má cho những người buôn bán. Hoặc chu cấp giúp đỡ những người bần cùng bệnh tật, cứu trợ những kẻ cô độc. Thường ôm lòng nhân từ, thương người như thương thân mình; thường tâm niệm thương yêu và ban bố ân huệ đến mọi người. Hoặc thức hoặc mộng chẳng quên lòng từ, thậm chí đến các loài bọ bay máy cựa cũng đều chở che bảo hộ.
 

Kinh Hoa Nghiêm nói:
 

“Này Phật tử! Đại Bồ Tát thấy có người bị giam cầm, trói buộc tay chân, chịu những sự đau khổ độc hại. Những kẻ canh gác áp bức người kia cận kề cái chết mạng sống sắp đoạn dứt. Thậm chí Bồ Tát còn tự bỏ thân mạng, thay thế người kia chịu mọi sự đau khổ độc hại. Khi ấy Bồ Tát nói với người chủ rằng:
 

- Tôi nguyện xả thân để thế mạng cho người kia. Những điều đau khổ ấy, tôi xin nhận lấy, tùy ý ông hành hạ. Dù hơn người kia gấp muôn vạn lần, tôi cũng sẽ chịu được, để cho họ giải thoát. Nếu tôi thấy người kia sắp bị sát hại mà không xả thân mạng để cứu giúp sự đau khổ cho họ thì chẳng gọi là trụ ở nơi tâm Bồ Tát. Tại sao? Tôi vì cứu hộ tất cả chúng sanh nên phát tâm Bồ đề Nhất thiết trí”.
 

Kinh Chánh Pháp Niệm xứ nói: “Dựng một ngôi chùa chẳng bằng cứu một mạng người”.
 

Trong kinh Đọa Lam Bản so sánh các loại phước báo đều chẳng bằng tâm từ bi. Thương xót tất loại bò bay máy cựa, phước ấy là hơn hết.
 

Hơn tận trung trọn hiếu, giúp nước trị nhà, thực hành nếp sống khiêm nhường, thi hành đạo ôn hòa cung kính, phụng dưỡng cha mẹ thành tựu phước điền bậc nhất, phụng sự những bậc tôn đức hiền tài, khai mở con đường trong sáng dẫn đến cõi trời.
 

Kinh Hiền Ngu nói:
 

“Đức Phật bảo A Nan: Người xuất gia và tại gia thực hành từ tâm hiếu thuận cúng dường cha mẹ, công đức thù thắng ấy khó mà lường xét được.
 

Tại sao?
 

Nhớ lại thời quá khứ, ta thực hành từ tâm hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ, cho đến dùng thịt nơi thân mình cứu sống cha mẹ lúc nguy cấp. Do công đức ấy nên sanh lên cõi trời thì làm Thiên Đế, sanh xuống nhân gian thì làm Thánh Vương, cho đến thành Phật. Làm bậc tôn quí trong ba cõi đều do phước báo này”.
 

Hoặc khen ngợi đức hạnh của người khác, nêu cao việc thiện. Hoặc tán thán danh tiếng của người, mở đường tiến cử hiền tài. Ưa thích làm nên việc tốt đẹp cho người, giúp đỡ họ phát tâm mạnh mẽ; vui mừng khi người khác được vinh dự, cùng giúp nhau làm việc tốt. Như thế có thể dẹp trừ lòng tật đố, giúp bỏ thân phẫn hận, đồng thời lại phát khởi bốn tâm vô lượng, xem muôn vật như mình, thành tựu bốn hạnh an lạc, làm lợi ích tất cả hữu tình.
 

Thế nên, chư vị Bồ Tát thường nghĩ nhớ về đời quá khứ. Ở trong biển khổ mênh mông mà làm những việc không lợi ích, phí tổn công sức, chỉ tăng trưởng thêm mầm nhân nghiệp chướng. Nay tỉnh xét lại sự sai lầm trước kia, nhanh chóng thực hành Phật đạo, khoác áo giáp tinh tấn, phát tâm kim cang, thực hành mọi việc lành, đem giáo pháp làm lợi ích chúng sanh.
 

Ở giữa thế gian mà thường an trụ trong chánh định, thị hiện thần thông khéo léo, hòa quang đồng trần, âm thầm tu hành tác dụng sâu kín. Dập tắt ngọn lửa vô minh, bẻ gãy ngọn cờ kiêu mạn; uyển chuyển tùy thuận thích nghi căn cơ, dáng vẻ hài hòa khéo léo dạy bảo. Dùng ái ngữ thâu nhiếp, đem ánh mắt từ bi mà nhìn mọi người; khai thị cho kẻ ngu mê, an ủi cho người đang sợ hãi. Treo mặt trời soi sáng thế gian, thắp ngọn đèn xua tan tăm tối; mở cánh cửa ngục tù ba cõi, rưới nước dập tắt ngôi nhà lửa. Làm mãn nguyện những người mong cầu, giống như ngọc Như Ý; giải trừ cội gốc của bệnh tật, cũng như thuốc Thiện Kiến. Làm khô biển dục trở thành biển từ bi, nghiền nát bánh xe đau khổ tạo thành bánh xe trí giác, cứu giúp những kẻ bần cùng làm thành bến bờ phước đức, chuyển đổi cánh đồng sanh tử trở thành con đường Bồ đề.
 

Trong pháp của chư Phật thực hành tất cả. Trong cõi chúng sanh cứu độ không sót một ai. Giống như đất chuyên chở, như chiếc cầu đưa người, như sức gió duy trì, như nước thấm nhuần, như lửa làm chín, như mùa xuân giúp muôn vật sinh trưởng, như hư không dung nạp, như mây che phủ.
 

Được vậy mới khiến cho người nghe danh thoát khổ, người thấy bóng được an, chạm đến ánh sáng thì trần cấu nơi thân được thanh tịnh, nghĩ nhớ thì tâm vượn được điều phục. Như thế đều là từ nơi nhỏ nhiệm mà đến chỗ rõ ràng, lần lần tích lũy căn lành, công hạnh viên mãn thành tựu đại sự.
 

Tạo sao lại hủy báng con đường nghiệp lành, mở ra cánh cửa trong nẻo ác, gây tạo nghiệp ma đoạn diệt hạt giống Phật?
 

 

HẾT QUYỂN TRUNG

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn