Nghi Vấn Sau Cùng Của Đức Phật

18 Tháng Tám 201300:00(Xem: 6776)

Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã
Thích Tâm Hạnh
DỤNG TÂM TU THIỀN
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh 2013

NGHI VẤN SAU CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT

Cách đây hơn 2500 năm, tại đất nước Ấn Độ từ cõi người cho đến cõi trời đều hân hoan vui mừng bởi sự ra đời của đấng giác ngộ, đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Hôm nay cũng là ngày trăng tròn tháng Tư, tất cả chúng ta, những người con Phật thêm một lần nữa đón mừng ngày kỷ niệm ra đời của Ngài để mở con mắt trí tuệ, phá tan mê lầm nhiều đời cho tất cả chúng sanh. Cuộc đời Đức Phật từ lúc ra đời cho đến khi xuất gia, thành đạo, giáo hoá độ sanh và nhập Niết Bàn, luôn là những bài học quý báu cho tất cả những ai muốn thoát khổ, muốn tìm về nghiên cứu và học đạo giác ngộ, giải thoát mình ra khỏi lầm mê.
Hôm nay, nhân ngày lễ Đức Phật đản sanh, hoà chung trong niềm vui đó, quý Thầy sẽ nói chuyện với quý Phật tử đề tài “Nghi vấn sau cùng của Đức Phật”.

Quý vị nghe có lạ không? Trong đây có ai biết được nghi vấn sau cùng của Đức Phật là nghi vấn gì không? Có hai cái lạ, một là nghi vấn sau cùng của Đức Phật mình chưa từng nghe, hai là tại sao Đức Phật mà lại còn nghi? Đúng ra phải nói là nghi vấn sau cùng của Thái tử Sĩ Đạt Ta, nhưng tại sao lại nói là nghi vấn sau cùng của Đức Phật? Bởi vì cái nghi vấn này nó có một ý nghĩa rất lớn. Đây là yếu tố cuối cùng và là một yếu tố trọng yếu mà khi phát minh ra thì thái tử Sĩ-đạt-ta trở thành một vị Phật. Khi thành đạo rồi, Đức Phật đi giáo hoá cũng không ngoài một mục đích chính là dẫn dắt chúng sanh trở về được chỗ mà Ngài đã phát minh ra từ nghi vấn này. Cho đến lúc cuối cuộc đời, trước khi sắp vào Niết Bàn, Đức Phật cũng đem chỗ này để truyền lại cho người sau. Và chính Ngài Ca Diếp cũng nhận ngay chỗ này cho nên được Đức Phật truyền tâm ấn. Vì muốn nhấn mạnh để nói lên được tầm vóc quan trọng của vấn đề nên quý Thầy muốn đặt cho đúng mức của nó, bởi vậy mà nói đó là “Nghi vấn sau cùng của Đức Phật” chứ không nói là nghi vấn của Thái tử Sĩ-đạt-ta. Vậy nghi vấn đó là gì?

Lễ kỷ niệm mừng Đức Phật đản sanh thì chúng ta thường hay ôn lại cuộc đời của Đức Phật, hoặc nói lên những đặc điểm của Ngài để mình học theo. Nhưng quý vị là những người đã từng nghe nhiều rồi, chắc hẳn ai cũng thuộc lòng nên giờ chỉ điểm sơ qua thôi.

Xét lại, trong khi còn là Thái tử Sĩ-đạt-ta, Thái tử có rất nhiều nghi vấn. Bởi vì Ngài có một điểm đặc biệt hơn người thường đó là thấy bất cứ một cảnh gì xảy ra, Ngài cũng đều có thắc mắc trong lòng: vấn đề đó là gì? Tại sao có vấn đề đó? Và có cách nào để giải quyết vấn đề đó hay không? Trong khi chúng ta nhìn cái gì cũng cho qua. Cụ thể khi Thái tử Sĩ-đạt-ta đi xem lễ hạ điền thấy cảnh cày ruộng, khi cày đất thì cày luôn cả những con côn trùng dưới đất lên, con chim từ trên sà xuống ăn những con côn trùng. Như mình thì nhìn cảnh đó có khi cũng là thường thôi, nhưng với Ngài thì đó là một sự đánh động sâu tận trong tâm khảm của Ngài. Ngài thấy rằng sự sống quả là một sự đau khổ. Sự sống của con này có nghĩa là sự đau khổ của con khác. Và kiểm lại, không những con bị hại đã khổ, mà chính cái con được sống đó cũng chẳng sung sướng gì. Con người ta sanh ra trong sự mịt mùng của ân oán trả vay xoay vần liên tục, kiến ăn cá rồi cá lại ăn kiến, con này sát phạt con kia. Cho đến khi đi ra bốn cửa thành chứng kiến cảnh người già, bệnh, chết, Ngài nghĩ: “Chính ta rồi cũng sẽ phải chịu cảnh già, bệnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn mải mê chạy theo những điều mà bản chất của nó cũng còn như vậy?”. Đó là một thắc mắc lớn đối với Ngài. Khi những tư duy đó lên đến cao độ, tuy sống trong cảnh nhung lụa mà lòng Ngài không cảm thấy an lòng sống mãi trong những thứ mà bản chất của nó chưa thoát ra khỏi sự vô thường. Và Ngài quyết định xuất gia. Như vậy, những nghi vấn đó là những điều mà quý vị đã từng nghe qua, nhưng nghi vấn sau cùng của Ngài là gì?

Đó là trên con đường tầm đạo, Ngài đã đến gặp và học hỏi với các vị tiên nhân, hễ đến với bất kỳ vị nào, trong một thời gian không lâu, Ngài đều chứng đạt được những gì mà những vị đó chứng đạt được. Qua hết vị này đến vị khác mà Ngài vẫn chưa thoả mãn. Đến vị tiên nhân cuối cùng là Uất-đầu-lam-phất. Vị này đã đạt được định phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây là định tối cao của các tiên nhân ở Ấn Độ thời bấy giờ. Và không bao lâu, Thái tử Sĩ-đạt-ta cũng chứng đạt được định như vị tiên nhân này vậy. Khi ấy, vị tiên nhân này mời Ngài ở lại và nhường quyền lãnh đạo đồ chúng cho Ngài. Nhưng lúc đó, Ngài cũng không chịu ở lại. Vì chưa đáp ứng thỏa mãn được chỗ khắc khoải tột cùng thoát khổ cho mình và người, mà Ngài còn có sự thắc mắc. Cuối cùng Ngài quyết định từ giả vị tiên nhơn này để lên đường tìm đạo, giải quyết những khắc khoải, thắc mắc còn lại trong lòng. Ngài quyết định thiền tọa 49 ngày đêm. Khi vỡ tung sự thắc mắc này thì Ngài đạt đến giác ngộ viên mãn. Và phạm vi buổi nói chuyện hôm nay là xoay quanh cái thắc mắc sau cùng đó, để thấy rõ Ngài đã khám phá cái thắc mắc này như thế nào.

Đó là chỗ Thái tử Sĩ-đạt-ta đã từng nghị luận với tiên nhơn Uất-đầu-lam-phất: “Cõi trời phi tưởng phi phi tưởng là hữu ngã hay vô ngã? Nếu là vô ngã thì không thể nói là phi tưởng phi phi tưởng. Nếu nói là hữu ngã thì ngã đó là hữu tri hay vô tri? Nếu nói vô tri là đồng với cây cỏ? Còn nếu nói ngã là hữu tri (có biết) thì có phan duyên. Có phan duyên là có nhiễm trước, mà còn nhiễm trước thì chưa được giải thoát sanh tử?”. Ông Uất-đầu-lam-phất không giải đáp được. Đạt được định này mà tâm còn lẩn quẩn dính mắc trong sanh tử, chưa giải thoát được. Đó là lý do Thái tử quyết định ra đi tìm một pháp tối thắng hơn.

Giờ chúng ta biện rõ nghi vấn này để nhận ra cái gút chỗ nào mà mình chưa thoát được. Quý vị nghe thì thấy hơi rối, nhưng cứ bình tâm. Đây là chỗ chỉ cho thấy chứ không phải nói cho hiểu biết, cho nên quý vị cần tập trung một chút.

Bây giờ ở cấp độ thứ nhất, cõi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ là có ngã hay không có ngã? Có hai khả năng xảy ra.

Khả năng thứ nhất, nếu nói là vô ngã thì không thể gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tại sao như vậy? Trong Kinh điển diễn tả cảnh giới phi tưởng phi phi tưởng xứ không còn tri giác mà cũng không có không tri giác. Đó là bậc thiền cao nhất trong tam giới. Khi đạt đến thiền này thì tâm trở nên vô cùng vi tế, đến nỗi không thể nói là có tâm hay vô tâm. Nhưng mà nó vẫn có hay không có? Vẫn có phải không? Không thể nói là có hay không có, tức là vẫn còn có, nhưng nhỏ nhiệm vi tế cho nên vẫn còn một dấu vết của tâm sanh diệt. Đạt đến định này thì vẫn chưa hết tưởng mà vẫn còn một cái ngã tưởng vi tế, tức là vẫn còn một cái ngã chấp thầm thầm trôi chảy nhỏ nhiệm. Dù nói cảnh giới phi tưởng phi phi tưởng xứ không còn tri giác mà cũng không có không tri giác, như là sạch hết cả có và không. Nhưng ngay khi hỏi đến, vị tiên nhơn này vẫn thấy mình đang hiện có biết đây chứ không phải không còn gì cả, cho nên ông không thể nói là vô ngã được. Trong đó là chỗ khéo sạch mà chưa phải là cơ sống động của trí tánh thanh tịnh cho nên vị tiên nhơn này mờ mịt không thể giải đáp thỏa mãn sự thắc mắc của Thái tử. Qua đó quý vị thấy, cõi trời phi tưởng phi phi tưởng không phải là vô ngã rồi.

Nhưng nếu có ngã thì ngã là hữu tri hay vô tri (có biết hay không biết)? Bây giờ giả sử là không biết thì con người chúng ta không thể là không biết được. Con người là có biết chứ không phải cây đá.

Còn nếu cái ngã này có biết thì có phan duyên, mà có phan duyên là có nhiễm trước, còn nhiễm trước thì chưa giải thoát được sanh tử.

Bây giờ chỉ cần giải quyết chỗ phan duyên này một chút thì quý vị sẽ dễ dàng thấy rõ mọi vấn đề. Khi quý vị nói có biết, có nghĩa là có bình hoa này mình mới có biết, và biết đó có nghĩa là biết về bình hoa này, biết theo bình hoa này, nương theo bình hoa này mà có biết, tức là mình đã phan duyên chưa? _ Là vin theo duyên, theo bình hoa này rồi. Ngay khi phan duyên, nếu bình hoa đẹp thì muốn lấy về mình, mà xấu thì muốn bỏ đi. Khi muốn lấy về mình mà không được thì sao? _ Thì buồn phiền. Khi thấy xấu, không ưa, muốn bỏ đi mà nó cứ ở trước mặt mình hoài thì sao? _ Thì bực bội, phiền não. Từ đó, bao nhiêu tạo tác nghiệp chướng lớp lớp đua nhau sanh ra, và sanh tử khổ đau cũng có ra từ đó. Cho nên nếu nói có biết là có phan duyên, mà có phan duyên là có nhiễm trước, có nhiễm trước thì chưa giải thoát sanh tử là vậy. Tới đây quý vị mới thấy, từ một cấp bậc phan duyên này, chúng ta sang một cấp bậc thứ hai là phân biệt đẹp hay xấu, từ đó sang cấp bậc thứ ba là đẹp thì ưa lấy về mình, xấu thì ưa vứt bỏ đi. Và tiếp tục tiến lên cấp bậc thứ tư, lấy về mình không được thì buồn phiền, bỏ không được thì bực bội, cứ như thế mà vọng tưởng nối đuôi nhau thêu dệt. Đó là trôi lăn trong sanh tử. Dù cho quý vị đạt được định phi tưởng phi phi tưởng xứ mà chưa sáng tỏ được chỗ này thì vẫn còn lẩn quẩn, chưa thoát khỏi sanh tử. Sanh tử không phải là ai đem cho mình, không phải có một ai đó buộc mình đi trong sanh tử, mà do tâm mình chưa gỡ được cái gút mắc này, mình đang bị cuốn ở trong đó nên bị cuốn trôi trong sanh tử. Gỡ được chỗ này, quý vị mới thấy cái mê của mình chỉ một chút thôi, mà vì không rõ biết nên chúng ta phải luống chịu nổi khổ quá nhiều. Và sự thoát ra cũng không phải là xa, nhưng nhận ra rồi thì chúng ta lại bước sang một chân trời thênh thang sáng lạn. Ngay cái biết này mà biện cho ra, ứng dụng và sống cho được thì chúng ta cũng có khả năng giải thoát ngay hiện đời.

Khi quý vị đợi có duyên mới biết, không duyên thì không biết, thì đó là biết theo duyên, là cái biết của cái ngã sanh diệt này. Nếu nhận lại tánh sáng biết nơi chính mình, trên duyên mình vẫn đang sáng biết, không duyên mình vẫn hằng biết, như vậy cái biết đó có đợi duyên có thì nó mới có không? Không. Đó chính là cái biết của ngã thể chân thật mà đức Phật nói trong bốn đức niết bàn. Quý vị nào nhận được chỗ này thì sẽ rõ được cái ngã chân thật là thế nào, sẽ biết được câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” mà Đức Phật một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói lên khi Ngài mới ra đời. Cái ngã nào hơn hết và hơn là hơn như thế nào.

Đây là một ví dụ để lặp lại nghi vấn của Thái tử Sĩ-đạt-ta đã nói ở trên. Khi đưa tay lên, hỏi quý vị có thấy không? _ Là có thấy. Để tay xuống, hỏi quý vị có thấy không, nếu quý vị là người bình thường chưa từng nghe Hòa thượng giảng, quý vị sẽ đáp là không thấy, phải không? Bây giờ một câu hỏi đặt ra kế tiếp là vì sao có thấy, vì sao không thấy? Quý vị sẽ đáp là vì có cái tay nên thấy, để tay xuống, không có cái tay nên không thấy. Như vậy, cũng đồng một hành động đưa tay này lên, hỏi có cái tay hay không, thì quý vị đáp có tay, hỏi có thấy hay không thì quý vị cũng đáp là có thấy. Hỏi về cái tay thì đáp cái tay, hỏi về cái thấy thì nó theo cái thấy. Như vậy là quý vị đã nhầm lẫn giữa cái thấy và cái tay, quý vị đã bị đồng hóa mình với hoàn cảnh bên ngoài, là quên mình theo vật cho nên bị mê lầm. Vì vậy mà khi để cái tay xuống hỏi có thấy cái tay hay không thì đáp là không thấy. Nếu nói không thấy thì ai đang thấy không có cái tay để đáp là không thấy? Như vậy là mình đang thấy chứ. Không thấy có nghĩa là không thấy cái tay chứ không có nghĩa là mình không thấy, mà lâu nay chúng ta cứ nhầm lẫn cho là không thấy. Do đó mình biến cái mình đang thấy thành cảnh bên ngoài, đó là bị phan duyên. Sanh tử từ đây mà có. Nếu khi đưa tay lên, quý vị cứ sáng biết, đừng bám theo cái tay này. Khi để tay xuống, quý vị cũng đừng biết theo cái tay, an trú ngay nơi cái chưa dấy khởi mà hằng thấy biết nơi chính mình thì sẽ trả lại cái thấy ban đầu ngay nơi tất cả mỗi người. Cái đó có đợi có cái tay mới thấy không? Không đợi có cái tay này mới thấy. Khi có cái tay cũng thấy, khi không có cái tay cũng vẫn đang thấy biết. Có hay không có cảnh duyên nó cũng đang sáng biết. Cái thấy biết đó không kẹt trên cảnh duyên nên nó không phan duyên, không nhiễm trước, tự nó thấy biết suốt qua, vượt lên trên tất cả cảnh duyên có không, tự nó là giải thoát.

Cái tay này là đại diện cho tất cả cảnh duyên bên ngoài như nhà cửa, núi sông, con người, cảnh vật, buồn, thương, giận, ghét… nó có quyền sanh ra và mất đi, nhưng chúng ta vẫn đang lặng mà thấy biết. Như vậy quý vị có động không? Lâu nay mình động là do quên mình mà dính trên nó thôi. Cái có đến có đi là duyên bên ngoài, là cái sanh diệt. Còn cái khi khách đến cũng biết, khi khách đi cũng biết, khách thì có đến có đi, nhưng chủ vẫn ngồi trong nhà. Cái đó là cái chân thật nơi mỗi người.

Nói tóm lại, khi đưa tay lên, nói là thấy, để tay xuống nói là không thấy thì đó là mình đang thấy theo vật bên ngoài, đó là mất mình theo vật. Bây giờ nếu đưa tay lên quý vị cũng thấy, hạ tay xuống là không tay, nhưng quý vị có thấy không? Cũng không quên mình mà đang thấy. Ngay đây, nếu quý vị nào khéo thì liền hay ra tánh thấy biết vẫn hằng hữu, thì chính là quý vị đang thấy bằng cái thấy biết hiện hữu sẵn nơi mỗi người. Cái thấy biết này có đợi duyên mới biết không? Không đợi, phải không? Có duyên nó cũng biết, không duyên nó cũng biết, đó là cái chơn thật mà hằng biết, là cái chủ nơi chính mình. Không phải đợi duyên mới biết thì nó có phan duyên không? Không phan duyên thì giải thoát. Chính cái biết này là cái giải thoát, còn cái thấy biết phan duyên, đợi có duyên mới có thì cái đó còn trong sanh tử.

Từ đây, quý vị đã rõ được cái nghi vấn sau cùng mà Đức Phật gạn chưa? Các vị tiên nhân trải qua rất nhiều tầng định, cho đến tầng định phi tưởng phi phi tưởng xứ, là tầng định cuối cùng trong tam giới, vượt qua tầng định này là giải thoát khỏi tam giới. Trong tam giới không có tầng định nào cao hơn tầng định này. Các vị tiên nhân phải trải qua rất nhiều thời gian mới được cái định tối cao thời bấy giờ là phi tưởng phi phi tưởng xứ mà cũng chưa vượt qua được cái gút này. Còn quý vị ngày hôm nay ngồi đây, không cần trải qua một tầng định nào cả, mà quý vị cũng có thể gỡ được, thì có thấy sung sướng không? Thấy hạnh phúc, sung sướng vì nhận được luôn cái kết quả mà người khác đã phải mất rất nhiều thời gian và công sức mà chưa chắc đã nhận ra được.

Nhưng thử hỏi, hằng ngày quý vị có biết để ứng dụng hay là phan duyên. Biết là của báu mà quên đi, có vô lý không? Khi nào ngồi, thấy trong lòng trống trống thì sao? Tìm gì đó để làm hoặc buồn buồn thì đạp xe ra phố xem phim, trống một chút là tìm gì đó lấp vào liền, chịu không nổi. Vậy mới thấy, mình quen bỏ nhà ra đi lâu lắm rồi, chưa quen dừng lại. Nghe thì thấy quý lắm, nhưng tại sao không ai chịu dùng của quý đó mà toàn là lao ra bên ngoài? Như vậy, tu hành khó là tại sao? Cũng là do thói quen thôi chứ có khó gì đâu. Bỏ thói quen phóng ra ngoài là khó hay dễ? Vấn đề là mình có chịu bỏ hay không thôi? Cứ để nó lờ mờ trôi trôi thì mình yếu đuối lắm, thấy tu có vẻ khó khăn. Hôm nào quý vị chấn chỉnh mình mạnh mẽ lên, hôm nay mình quyết định không làm một việc gì đó theo thói quen (như đi uống cà phê chẳng hạn), quyết định dứt khoát khoảng 3 lần như vậy mình sẽ bớt được thói quen (uống cà phê). Quý vị thử tập coi, điều này quý Thầy cũng đã tập thử qua rồi. Cứ chiều chiều muốn đi dạo quanh hồ Tĩnh Tâm cho thư thả. Cứ như thế chiều nào cũng đi quen rồi, hôm nào bận việc gì đó không đi thì thấy có cái gì đó thiếu thiếu khó chịu. Đó là do huân tập mà thành thói quen, thiếu thì cảm thấy trống trãi, đến chiều mà không đi thì không chịu được. Bây giờ quyết định không đi. Lần đầu có thấy trống trải, trong tâm nó có bào chữa rủ rê cách mấy cũng dứt khoát không đi. Chỉ cần ba buổi chiều dứt khoát không đi như thế thì tự nhiên tâm mình không còn khởi niệm đòi đi dạo hồ nữa. Mới biết, khó hay dễ cũng là do mình có khẳng khái quyết định một cách dứt khoát mạnh mẽ hay không mà thôi. Nếu nhận chân được giá trị tôn quý của tâm chân thật này thì quý vị sẽ làm được, sẽ không theo cảnh bên ngoài, quay trở về sống cho bằng được với bản tâm chân thật ấy. Còn không thấy quý thì không mạnh mẽ, không có thái độ dứt khoát, cứ như vậy mà thả trôi bồng bềnh, tâm mình nó yếu, mà yếu thì bị vọng tập nó kéo mình trôi lăn từ chỗ khổ này sang chốn khổ khác, hết kiếp này rồi tiếp tục đến kiếp khác, mãi mãi ở trong luân hồi sanh tử chịu khổ mà thôi.

Hôm nay mình còn ngồi đây, có được một cuộc sống ổn định, một mái ấm tương đối bình ổn là tại sao? Là do mình còn có được một chút phúc duyên nên tạm thời an ổn trên đó, mà quý vị có biết rằng cái phước đó nó vô thường, khi phước hết rồi thì phải chịu khổ? Quý vị nhìn ngoài đường đâu thiếu những cảnh tai nạn thương tâm, trong bệnh viện đâu thiếu những dịch bệnh đau khổ, giữa chợ đời đâu thiếu những cảnh bi đát tan thương..., đó là khi phước hết thì cái họa nó đến. Mình cứ ngỡ rằng cuộc sống của mình là yên ổn lâu dài, cho nên mình cứ yên ả say sưa thả trôi mình trên một chút phước duyên đó, không lo tu bồi thêm, đến khi hết phước rồi cái họa nó đến thì đi cầu ai cứu cho kịp. Biết rõ như vậy rồi thì bây giờ quý vị nên tận dụng quảng đời còn lại, tận dụng chút phước duyên này để khẳng định lại cuộc đời của mình, nên làm những gì cho nền tảng của mình sâu dầy và lâu dài hơn. Nhìn thấy được như vậy thì quý vị sẽ nhận ra được giá trị cao quý của cái giúp cho mình thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Nhận ra được giá trị của cái chân thật đó, biết tôn trọng trân quý nó rồi, và chỉ cần thêm vào đó một tâm khái quyết định một cách dứt khoát nữa là chúng ta làm được.

Đó là cái dính mắc bên ngoài, do dính mắc trên cảnh trần bên ngoài mà bỏ quên tâm chân thật nơi chính mình. Bây giờ còn cái dính mắc vi tế khi công phu nữa. Cái này quý Thầy cũng thường gặp. Nhiều huynh đệ công phu miên mật, đến một lúc đang nằm trên ghế tự nhiên thấy thân tâm như không còn nữa, lúc đó hoảng lên la: “Tôi đâu rồi?”, xách y áo lên thưa thỉnh Hòa thượng Ân Sư, Hòa thượng hỏi: “Nếu chú hỏi chú đang ở đâu, vậy thì ai đang biết hỏi đó?”. Mới thấy cái mê của mình sâu hơn một mức nữa. Nếu thực sự là trống bặt, mất hút rồi thì sao không nhận ngay chỗ ai đang sáng biết rõ ràng mà không còn gì để khởi tâm động niệm đó? Chỉ cần khéo nhận lại thôi thì tâm thể hiện bày sờ sờ ra đó rồi. Tại sao con người chúng ta lúc ấy lại hụt hẫng như vậy? Tại sao khi trống vắng thì mình chịu không nổi? Tại vì lâu nay mình quen nhận những cái bên ngoài làm mình rồi, trống một chút là phải kiếm cái gì đó lấp vào. Quen nhận thân này là mình, quen nhận cái suy nghĩ là mình nên khi bất chợt nó mất đi thì sao? Thì đòi kiếm chỗ để vin, mà vin là phan duyên, là còn sanh tử khổ đau. Mới thấy, cái biết của con người thường là phan duyên. Giờ quý vị biết rồi thì đừng phan duyên nữa, có nghĩa là đừng theo những cái bên ngoài nữa, trả lại cái lặng mà đang sáng biết đây. Nhận được cái này thì ngay đây là giải thoát. Qua đó mới thấy được cái mê lầm của tất cả chúng ta đã lâu lắm rồi. Bây giờ muốn hết mê thì phải giác lại, mà muốn giác thì phải nhận lại cái tánh sáng biết sẵn có nơi mỗi người. Giác lại, không theo cái bên ngoài thì không còn bị trần duyên bên ngoài gạt mình nữa.

Gạn lại một lần nữa cho quý vị thấy rõ và khắc sâu hơn. Tất cả quý vị nhìn lên cái bình hoa này, quý vị có biết hay là không biết? Là biết, phải không? Nếu nói không biết thì mình đồng với cây đá sao? Mà con người thì không thể là cây đá được. Nhưng nếu có biết thì có phân biệt, có phan duyên, như vậy là còn trong vòng sanh diệt. Như vậy, quý vị biết như thế nào cho phải? Mình cứ lặng mà biết, cái bên ngoài có thể có, có thể mất đi, nhưng cái sáng biết chưa động nơi mình thì vẫn còn đây, như vậy đâu phải cố định đợi có duyên phân biệt mới biết, đâu phải cố định lúc nào biết cũng là phan duyên!
Vin theo, phan duyên là cái mê của con người, bây giờ mình biết rồi thì không phan duyên nữa. Nếu đợi có bình hoa mới biết, không có bình hoa thì không biết, thì đó là cái biết theo bình hoa, là cái biết từ bình hoa mà có ra, chứ không phải là cái của mình. Thấy biết như vậy là có phan duyên, mà có vin theo, có duyên theo thì có dính mắc. Có dính là có nhiễm trước, có nhiễm trước thì phiền não có ra, như vậy chưa được giải thoát mà còn trong sanh tử khổ đau. Khi có bình hoa quý vị biết, không có bình hoa quý vị cũng đang sáng biết, vẫn hằng biết mà không động thì cái biết đó không duyên theo bình hoa. Cái biết đó chân thật, trên bình hoa cũng biết, không bình hoa cũng biết, trần này có quyền sanh diệt, có đến có đi, nhưng chúng ta chưa hề đến đi sanh diệt bao giờ. Cái chưa từng sanh diệt thì không bao giờ bị hủy hoại thì mới đúng nghĩa là chân thật. Cho nên trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy Ngài A Nan: “Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, đó là tâm ông. Nếu tánh phân biệt đó rời tiền trần mà không có thực thể, đó là bóng dáng phân biệt tiền trần”. Nói chữ nghĩa thì có lẽ quý vị chưa quen nên sẽ khó hiểu. Bây giờ không cần hiểu, ngay đây mà thấy thẳng thôi. Bây giờ nhìn bình hoa này quý vị có biết không? Biết phải không. Có hai khả năng biết. Mình nghe giảng hiểu rồi thì cũng biết, nhưng bao nhiêu người khác chưa hiểu thì cũng biết. Vậy biết thế nào là cái biết chân thật, biết thế nào là cái biết của sanh diệt? Tánh phân biệt tức là thấy biết một cách rõ ràng. Đức Phật nói, rời cái bình hoa này mà mình vẫn còn một cái sáng biết rõ ràng không động thì chính cái đó là cái tâm chân thật của ông. Nếu giờ cất cái bình hoa đi mà quý vị nói là không biết thì cái biết này là biết theo cái bình hoa, khi bình hoa không còn thì chúng ta nói mình không còn biết nữa. Đó là chỗ đức Phật nói: “rời tiền trần không còn tánh phân biệt nữa”, tức là rời bình hoa này mình không còn biết gì hết, đó là bóng dáng phân biệt tiền trần, là cái biết của một tâm động, cái biết sanh diệt huyễn hóa không thật.

Nếu ngay đây, quý vị đang biết mà không theo cảnh, thì mới hay ra, tất cả chúng ta đều sẵn có một cái biết chân thật hằng hữu chưa hề thiếu vắng bao giờ. Chính cái biết không đợi duyên có mới biết, mà lúc nào cũng hằng sáng biết, cái này sáng mà không động, không bị sanh tử chi phối. Mắt thấy liền biết, tai nghe liền biết, xúc chạm liền biết..., ngay nơi sáu căn của chúng ta, nếu quý vị nào khéo nhận lại thì hằng ngày luôn luôn rõ biết, sống với cái chân thật của chính mình. Sống được với cái đó thì giải thoát ngay hiện tại.

Hằng ngày khi trời sáng quý vị thấy rõ mọi thứ chung quanh. Đến đêm tối không đèn không trăng, quý vị còn thấy nữa không? Tắt điện hết mà nói không thấy thì rõ ràng là thấy biết theo vật nữa rồi! Gạn nhiều lần như vậy mới phát hiện ra chỗ mê của mình. Mở điện sáng lên, quý vị thấy bàn, ghế, …., đột nhiên cúp điện, tối om thì quý vị có còn thấy gì không? Không thấy có bàn, ghế… chứ không phải là mình không thấy. Nếu thực sự là không thấy thì vì sao mình lại thấy tối om, không thấy vật gì cả? Nếu quý vị đợi có ánh sáng mới thấy, không có ánh sáng thì không thấy, đó là quý vị thấy theo các vật dụng trần cảnh bên ngoài hay là thấy theo cái thấy biết chân thật nơi chính mình? Là thấy theo cái bên ngoài, nên đức Phật nói đó là chúng ta bị trần sai khiến thức, khiến cho mình phân biệt đây là cái ghế, kia là cái bàn... đó là tình thức phân biệt tiền trần. Bị trần sai khiến thức mình phân biệt, từ đó mà sanh tử có ra.

Bây giờ quý vị biết rồi thì sao? Bật điện sáng lên cũng biết bằng cái thấy lặng mà sáng biết chưa từng động đây. Cúp điện tối om, mình vẫn lặng mà đang sáng biết đây. Như vậy là có biết theo cảnh sắc bên ngoài hay không? Là không. Và biết như vậy là chúng ta có bị lệ thuộc cảnh duyên bên ngoài hay không? Là không. Khi không bị lệ thuộc cảnh duyên bên ngoài, không bị cảnh vật bên ngoài xoay chuyển mình nữa, thì quý vị đã chuyển được vật chưa? Vật bên ngoài không sai khiến được mình nữa, trả lại sự tự chủ cho chính mình, có nghĩa là mình đã chuyển được vật. Các vị Thiền sư nói: “Nếu hay chuyển vật, tức đồng Như Lai. Tức là ngay đây, nếu hay chuyển được tất cả các vật thì liền đồng với Phật. Mình nghe nói ngỡ là xa vời quá không làm nổi, nhưng từ nãy đến giờ quý vị đã hiểu chuyển vật là sao chưa? Khi mình lệ thuộc vào vật có nghĩa là bị vật chuyển, làm cho thức phân biệt có ra. Bây giờ quý vị đừng biết theo vật nữa mà lặng lẽ sáng biết đây thì có vật mình cũng biết, mà không vật mình cũng hằng biết, như vậy quý vị có còn lệ thuộc trên vật không? Không lệ thuộc trên vật có nghĩa là mình đã chuyển được vật, mà chuyển được vật thì quý vị đồng với Như Lai rồi. Đức Phật hay chư Tổ đều ở ngay nơi con người mỗi chúng ta. Quý vị nghe và khéo nhận lại thì tất cả mọi chuyện đã rõ ràng rồi, chỉ còn một việc là thực hành thôi, không phải khó đâu. Khi nhận lại như vậy mới biết nơi mình có một cái chân thật lặng biết, hằng sáng, chưa từng động, không lệ thuộc trên trần.

Nghe nói như thế quý vị ngỡ là trong một con người chúng ta có hai cái biết, một cái biết sanh diệt và một cái biết giải thoát. Nhưng mà không thể có hai thực thể tồn tại trên một con người được. Cũng ngay thấy biết này, nếu mình đánh mất mình, quên mình mà thấy theo cảnh bên ngoài thì đó là cái biết của sanh diệt, của phiền não. Cũng ngay thấy biết này, quý vị đừng theo cảnh nữa, lặng sáng mà biết thì đó là cái biết chân thật, giải thoát sanh tử. Như vậy quý vị không cẩn bỏ cái này lấy cái kia, chỉ cần chuyển một chút thôi. Giống như trên cùng một bàn tay, nếu úp lại là đen, mà ngửa bàn tay ra là trắng, nhưng úp hay ngửa, trắng hay đen nó cũng chỉ là cơ thể con người. Trong cùng một hơi thở, khi hít vào thì thấy hơi lạnh, nhưng thở ra thì hơi ấm, nhưng trên thực tế thì hít vào hay thở ra, ấm hay lạnh cũng chỉ một làn hơi đó thôi chứ không có một làn hơi nào khác chen vào. Trên cùng một mặt nước, gió dấy thì sóng sanh, gió lặng thì mặt nước phẳng, nếu khéo nhận ra tánh ướt thì sóng gợn hay mặt nước phẳng cũng đồng một tánh ướt. Khéo nhận như vậy thì không còn bị các cảnh bên ngoài chi phối nữa.

Như vậy, cuối cùng đạt đến định phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi mà vị tiên nhân cũng không biết được chỗ này. Mới thấy chúng ta có phước duyên sâu dầy. Ngay đây, nếu quý vị khéo một chút thì cũng có thể nhận ra được. Bây giờ biết rồi thì quý vị thấy cái biết này có xa không? Đâu có ở đâu xa. Nếu quý vị biết bình hoa mà phan duyên thì còn sanh tử. Ngay đây, lặng mà biết, đừng biết theo bình hoa này thì đó là cái biết của giải thoát. Ngay đây, mình gạn được cái sanh tử và giải thoát không cách một đường tơ. Lúc này mới hiểu được câu của Ngài Quảng Nghiêm nói: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí, hưu hướng Như Lai hành xứ hành”, nghĩa là “Làm trai có chí xông trời thẳm, chớ dẫm Như Lai bước đã qua”. Mình đừng nên đếm từng bước mà đức Phật đã trải qua, mà nên nhận lấy ngay cái đức Phật chỉ cho mình sau khi đã thành tựu được, chứ không có nghĩa là bỏ đức Phật để làm một cái gì kỳ đặc hơn.

Sau khi đã khám phá ra nghi vấn cuối cùng này, cả một cuộc đời đức Phật dù giáo hóa rất nhiều, nhưng điểm trọng tâm chính yếu là Ngài cũng muốn chỉ cho chúng ta nhận ra ngay chỗ này mà thôi. Lần lượt đi qua một vài điểm điển hình trong kinh điển thì quý vị sẽ thấy rõ hơn.

Đầu tiên trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy ngài A Nan ““Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, đó là tâm ông. Nếu tánh phân biệt đó rời tiền trần mà không có thực thể, đó là bóng dáng phân biệt tiền trần”. Có phải là Đức Phật chỉ cho chúng ta cái lặng mà biết đây không? Quý vị đã nghe phân tích câu này ở đoạn trên rồi đó.

Trong Tiểu bộ kinh, Đức Phật dạy cho Bàhiya: “Này Bàhiya, đây là điều ngươi cần phải học tập. Trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng chỉ là cái thọ tưởng, trong cái thức tri chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ngươi đâu phải là cái ấy, là chỗ ấy? Thì ngươi không còn là đời này, không còn là đời sau, không còn là đời chặng giữa…”

Bây giờ quý vị thấy Đức Phật nói: “Trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng chỉ là cái thọ tưởng, và trong cái thức tri (rõ biết) chỉ là thức tri (rõ biết)". Nghĩa là sao? Ngay đang thấy biết, không thêm một niệm thứ hai xen vào, thì ngay đó là rỗng lặng mà hằng biết. Đó là chỗ đức Phật dạy: Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, thọ tưởng chỉ là thọ tưởng, thức tri chỉ là thức tri. Cái đó thấy vật thì liền biết, có tiếng thì liền nghe biết, có xúc chạm thì liền giác biết, có niệm hay không niệm cũng thường rõ biết... Đó là cấp độ thứ nhất, quý vị đã thấy nơi mình có cái lặng mà biết rồi. Bây giờ Đức Phật nói rõ hơn một chút nữa, ngay cái bình hoa này, quý vị biết chỉ là biết, chưa thêm một niệm thứ hai xen vào, thì quý vị là cái đang lặng mà biết, hay quý vị là cái đang bị đồng hóa với bình hoa này? Đang lặng mà biết, thì mình không phải là cái bị bình hoa này đồng hóa, mình không phải ở trên cái bình hoa này, đây chính là chỗ Đức Phật nói: “Ngươi đâu phải là chỗ ấy, đâu phải là cái ấy”.

Chính ngay khi rõ biết mà không thêm vào này, mình đâu phải là cái sắc bị thấy, đâu phải là tiếng được nghe, đâu phải là vật bị xúc chạm và đâu phải là niệm bị biết. Đây chính là chỗ Đức Phật nói: “Ngươi đâu phải là chỗ ấy, đâu phải là cái ấy”. Có nghĩa là mình không phải là cảnh duyên bên ngoài. Mà không phải là chỗ ấy, không phải là cái ấy thì “ngươi không còn là đời này, không còn là đời sau, không còn là đời chặng giữa”, tức là ngay cái mình đang sáng biết đây là vượt khỏi ba thời, là giải thoát.
Qua đó quý vị thấy, ngay trong Kinh Nguyên Thủy, Đức Phật cũng nhấn mạnh một điểm chính yếu là cái lặng lẽ mà đang sáng biết đây thôi.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: “Người phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, đối với tất cả pháp, nên Biết Như Thế, nên Thấy Như Thế, Tin Hiểu Như Thế, Chẳng Sanh Pháp Tướng.” Cụ thể, người muốn phát tâm cầu đạo vô thượng bồ đề nên biết như thế, là sao? Là cảnh như thế nào thì biết như thế ấy, không theo cái bên ngoài mà so sánh phân biệt. Nên thấy như thế, là sao? Là vật thế nào thì thấy như thế ấy, không theo cái bên ngoài, không bị cái bên ngoài xoay chuyển mà rơi vào sanh diệt. Nên tin hiểu như thế, là sao? Nhận lại, sống ngay cái đang lặng lẽ mà sáng biết đây. Rồi “chẳng sanh pháp tướng”, pháp tướng sanh khi nào? Quý vị nhìn bình hoa này, phân biệt nó đẹp hay xấu để đem về hoặc bỏ đi, có nghĩa là có bóng dáng bình hoa này trong đầu, trong đầu mình có bóng dáng thì có nghĩa là pháp tướng đã sanh, đó là tri kiến mà lập tri, trên một cái thấy biết lại sanh thêm một cái phân biệt thứ hai, là gốc của vô minh, không phải giác. Cho nên Đức Phật nói: “Người phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, đối với tất cả pháp, nên Biết Như Thế, nên Thấy Như Thế, Tin Hiểu Như Thế, Chẳng Sanh Pháp Tướng”, có nghĩa là cảnh như thế nào thì thấy như thế ấy, đừng vin theo cảnh, đừng thêm một niệm thứ hai xen vào, thì ngay đây là rờ rỡ rõ ràng, lặng lẽ mà sáng biết chưa từng động, không sanh diệt. Bằng nhân vô sanh thì mới đạt quả vị vô sanh. Bằng tâm đó để tu hành thì mới đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Qua những dẫn chứng điển hình ở trên, quý vị thấy sau khi Đức Phật thành đạo rồi, Ngài lập bày rất nhiều phương tiện để giáo hóa, nhưng điểm chính yếu cuối cùng cũng cốt chỉ cho chúng sanh nhận lại chỗ chân thật đó mà thôi. Nếu chưa được dẫn dắt từ những bước sơ cơ ban đầu mà chỉ thẳng chỗ này thì quý vị thấy dễ nhận hay là khó? Khó. Nên Đức Phật phải lập ra nhiều phương tiện để dẫn dắt từ từ. Nhưng cuối cùng, điều cốt lỏi đức Phật muốn chỉ cho mình cũng chỉ là chỗ này thôi. Thể thì chỉ có một, nhưng ở mỗi bộ Kinh đức Phật diễn tả bằng một danh từ khác nhau. Trong Kinh Lăng Nghiêm thì Ngài nói là Chơn tâm thường trụ, Kinh Pháp Hoa thì Ngài nói là Tri kiến Phật... Cho đến cuối đời khi sắp vào Niết Bàn, trên hội Linh Sơn, đức Phật đưa cành hoa sen lên, Ngài Ca Diếp liền nhận được ý chỉ, mỉm cười, ngay đó được đức Phật truyền trao tâm ấn, trở thành vị Tổ đầu tiên. Đức Phật đưa cành hoa sen lên, Ngài muốn chỉ cái gì? Và Ngài Ca Diếp nhận là nhận cái gì mà được truyền tâm ấn? Nếu quý vị rõ rằng, ngày xưa đức Phật đưa cành hoa sen và bây giờ chúng ta đưa cái tay này lên cũng không khác, là quý vị không theo cái bên ngoài để phân biệt, mà đang sáng biết rõ ràng không động, thì chúng ta sẽ sáng tỏ hết mọi vấn đề. Đức Phật muốn chỉ cũng là chỉ cái lặng lẽ mà sáng biết đây, Ngài Ca Diếp lặng mà biết, nên mỉm cười. Đức Phật thấy Ngài đã thể hội được cái Ngài muốn chỉ nên truyền tâm ấn. Rõ ràng ngay khi vừa đưa cành sen lên, thấy thì liền biết, thông qua tánh thấy, suốt tột nguồn tâm, đó là nhận được chỗ chính yếu đức Phật muốn chỉ, và Ngài cũng muốn chỉ ngay cái đang thấy biết hiện tiền đây. Mới biết tất cả những gì Đức Phật chỉ dạy cũng không ra ngoài cái trọng tâm đó. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa nói, Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, đó là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Mục đích chính Đức Phật ra đời là chỉ bày cho chúng ta nhận và sống được với cái thấy biết Phật nơi chính mỗi người.

Bây giờ đi qua phần chư Tổ để thấy rõ hơn cái tri kiến Phật này. Ngài Thần Hội là đệ tử của Lục Tổ, sau khi Lục Tổ qua đời, chính Ngài là người hoằng hóa khiến cho pháp môn đốn giáo của Lục Tổ thạnh hành. Cả một đời giáo hóa của Ngài không ngoài một mục đích chính là muốn chỉ cho tất cả chúng sanh nhận lại cái sẵn biết không sanh diệt. Trong Hiển tông ký, Ngài nói: “Tri tức biết tâm không lặng, kiến tức thấy tánh không sanh”. Tâm không lặng, làm sao biết? Tánh không sanh, làm sao thấy? Nếu nói biết tâm không lặng có nghĩa là có một cái tâm không lặng để biết. Nếu nói thấy tánh không sanh là còn một cái tánh không sanh để thấy. Như vậy có một cái biết để biết về tâm không lặng, có một cái thấy để thấy về cái tánh không sanh. Vậy thì cái tâm không lặng và cái tánh không sanh đó là cái bị biết, bị thấy, là cái bên ngoài cũng giống như cái bình hoa này, thì nó đâu phải là thể tánh chân thật đang thấy biết? Và thấy biết như vậy là còn có hai bên, là có chỗ cho tình thức xen vào, là sanh diệt huyễn hóa rồi, đâu có giá trị gì để nói! Bây giờ biết tâm không lặng là biết làm sao, thấy tánh không sanh là thấy thế nào? Khi nghe nói biết tâm không lặng thì quý vị đừng nghĩ có một cái tâm không lặng để biết, mà biết tâm không lặng có nghĩa là tâm mình rỗng lặng mà hằng biết, chứ không phải chìm vô trong cái không biết. Thấy tánh không sanh là sao? Trong cái bản tánh chân thật không cần khởi niệm, nhưng mà quý vị vẫn hằng thấy, đó là thấy tánh không sanh, chứ không phải là có một cái tánh không sanh để thấy. Thấy biết như vậy thì mới thấu tột được chỗ Ngài Thần Hội muốn chỉ cho chúng ta.

Cũng trong Hiển tông ký, Ngài Thần Hội nói: “Vô niệm mà niệm, tức niệm chân như. Vô sanh mà sanh, tức sanh thật tướng”. Nếu quý vị đợi có niệm mới biết, đó là niệm của sanh diệt. Trong khi vô niệm mà quý vị vẫn rõ biết tất cả, đó là cái biết của chân như. Trong cái bản thể chưa từng sanh khởi này, mà mình vẫn rõ biết một cách sống động rõ ràng, thì cái sống động của không sanh đó, là cái sanh của thực tướng chứ không phải là cái sanh của sanh diệt. Quý vị thấy rõ cái tri kiến Ngài Thần Hội chỉ cho chúng ta chưa? Trong tâm rỗng lặng mà hằng biết đó là tri, chứ không phải là đợi có cảnh mới biết. Bản tánh vốn không sanh mà một điểm lừa mình cũng chẳng được, đó là cái thấy Ngài muốn chỉ, chứ không phải là cái thấy đợi có cảnh mới thấy. Như vậy, cái không đợi có cảnh mới biết, mới thấy mà hằng thấy biết thì đó là cái biết chân thật. Đó là cái tri kiến mà Ngài Thần Hội muốn chỉ cho chúng ta. Chỗ này không phải chỗ để hiểu, biện cho quý vị hiểu, để rồi mình khéo tu, khéo nhận, chứ không phải dùng cái hiểu rồi cho là nó. Quý Thầy biện cho quý vị biết, nhưng nên nhớ biện để cảm nhận, còn muốn đến đó thì mỗi người phải tự thầm khế hội, không nên nhận cái hiểu này làm cái biết kia thì nguy.

Các bậc cổ đức có tạm chia ra làm 3 loại phân biệt (3 loại biết):

- Thứ nhất là căn thức: tức là căn thức mới sanh ra theo niệm mà sanh phân biệt.

- Thứ hai là ý thức: Tức là ý thức nhận biết suy lường phân biệt.

Hai cái biết này là cái biết của mê lầm, hư vọng, không thật.

- Thứ ba là cái biết của chân tâm: là chơn tâm ứng vật, như gương chiếu soi hình tượng, sáng suốt rõ ràng, giống như phân biệt mà không phải là cái phân biệt của ý thức. Lặng lẽ mà sáng biết thì tuy thấy biết rõ hết các cảnh mà không khởi tâm phân biệt.

Như vậy là chúng ta có ba cái biết hay sao? Tuy ba mà một thể. Chỉ vì quên mình mà lầm theo vật nên tạm chia ra làm ba để nhận lại thôi. Khi trở về rồi thì chỉ là một thể thanh tịnh sáng biết không động.

Trong Ngữ Lục Tổ Lâm Tế, Ngài cũng chỉ cho chúng ta cái thấy biết này. Ngài nói: “Giả sử có Văn Thù, Phổ Hiền, mỗi vị đều hiện thân đến hỏi pháp, vừa mở miệng thưa Hòa thượng, tôi sớm biết rồi. Huynh đệ vừa đến gặp nhau, tôi đã trọn rõ, bởi vì chỗ thấy của tôi có riêng khác, ngoài chẳng trụ phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt trọn không nghi ngờ”. Quý vị thấy Ngài Lâm Tế biết cái gì? Có phải là ngài có thần thông không? Nếu nói Ngài biết được điều gì đó, là đợi có một cái gì bên ngoài mới biết thì đó là cái biết của phàm phu sanh diệt chúng ta chứ không phải là cái biết của Tổ. Thông thường con người chúng ta đợi có vật mới biết, không vật thì không biết. Nghĩa là mình quen biết theo vật và chờ có vật mình mới biết, cho nên quên mất cái sẵn biết nơi chính mình. Vì vậy khi nghe Tổ Lâm Tế nói như thế thì chúng ta liền nghĩ, chắc do Tổ có thần thông nên biết trước mọi điều. Đó là chúng ta đem cái hiểu biết loạn động của mình mà suy lường tâm không động của Tổ, thì có đúng không? Bây giờ quý vị trả lại cái lặng mà biết đây thì sẽ thấy được chỗ Ngài Lâm Tế biết. Đây là Ngài nói rõ chứ không phải quý Thầy ngụy biện, Ngài nói: “Bởi vì chỗ thấy của tôi có riêng khác”, khác ở chỗ nào? Khác ở chỗ, cái thấy biết của Ngài bên ngoài chẳng trụ phàm thánh. Tức là không trụ vào cái hai bên, không trụ vào cảnh đẹp hay cảnh xấu, không trụ vào phải hay quấy, cảnh thánh hay phàm, tức là Ngài đang lặng mà biết chớ không phải phóng tâm ra để biết, để kẹt trên những cái này. Ngài nói tiếp, bên trong không trụ căn bản. Tức là Ngài không còn thấy có một cái để giữ mà sạch tất cả, vốn tự lặng lẽ thênh thang mà hằng sáng biết khắp, thấy suốt trọn không một chút nghi ngờ. Nếu quý vị còn thấy có cái gì đó để kềm giữ tức là chưa rời niệm thầm thầm gìn giữ bên trong, đó là còn trụ căn bản, còn kẹt, chưa thực sự tự do tự tại. Khi Ngài Văn Thù, Phổ Hiền chưa đến Ngài biết, cái biết đó sẵn có nơi chính mình, chưa đến cũng đã sẵn biết tự thuở nào rồi. Nếu quý vị đợi đến mới biết thì đó là biết về một cái gì đó, là cái biết theo duyên, đó là mình mê. Như vậy, vật đến, vật đi, một điểm cũng không dối qua được cái lặng lẽ sáng biết này. Bước vào mở miệng thì Ngài liền biết, không lầm, tại sao? Nếu chúng ta ngầm đợi có đối tượng mới biết, đó là cái biết của mê lầm, bị Ngài Lâm Tế gạt. Còn nếu bên ngoài quý vị đừng trụ vào cảnh hai bên, bên trong quý vị buông luôn không thèm trụ giữ, thì ngay đó toàn thể sáng biết thênh thang trùm khắp. Khéo nhận lại thì đó là quý vị nhận được cái biết chân thật mà chư Phật, chư Tổ muốn chỉ.

Bây giờ gút lại cái biết chân thật để quý vị dễ nắm, dễ nhớ và thực hành. Cái biết chân thật là không động, sẵn biết, hằng biết. Như trong bài hô thiền canh một quý vị thường nghe: “Nếu biết tâm tánh không tướng mạo, lặng yên chẳng động tự như như”. Chỉ cần lặng yên không động thì tự nó là như như, lặng đây là không thêm thì tự nó là trùm khắp.
Ngài Bá Trượng nói: “Linh quang chói sáng, vượt khỏi căn trần, thể bày chơn thường, không cuộc văn tự”. Tại sao vượt khỏi căn trần? Mình có nguồn linh sáng rỡ, vượt lên trên căn trần, tức là không cần đợi có vật mới biết mà hằng biết, bản tánh nó không nhiễm mà vốn tự viên thành, sẵn như vậy, nhưng chỉ vì mình quên nên không nhận ra, nhớ lại thì nó ngay đây, vốn tự tròn đầy từ hồi nào tới giờ. Chỉ vì chúng ta theo vọng duyên bên ngoài mà bỏ quên nó. Bây giờ lọc ra, chỉ cần không theo trần cảnh, không thấy biết theo cảnh thì tánh thể thấy biết chân thật không động hiển hiện rờ rỡ rõ ràng. Cho nên Ngài nói tiếp: “Tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành. Chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật”.

Như vậy, cái biết chân thật là cái lặng sáng mà hằng biết, vật đến liền biết, vật đi cũng đang biết. Tất cả cảnh vật có đến, có đi nhưng không ra ngoài tánh sáng biết chân thật đó. Nhận và sống với cái biết đó thì hằng ngày mình vẫn hằng biết mà không động. Mình không cần động, không cần sanh khởi mà vốn hằng biết. Nhận và sống như vậy là chúng ta đang sống bằng thể tánh chân thật nơi mỗi người.

Cổ đức có nói: “Tri chi nhất tự, chúng diệu chi môn”, tức là một cái biết này là cửa vào của bao nhiêu thứ mầu nhiệm khác. Bao nhiêu thần thông diệu dụng, bao nhiêu thiền định trí tuệ, bao nhiêu sự linh diệu thù thắng đều không rời ngoài tâm sáng biết này. Quý vị nhận và sống ngay cái này thì tất cả những cái khác đều từ nơi này mà có ra, chứ không phải tìm cái gì bên ngoài đem vào. Ngài Khuê Phong Tông Mật nói: “Người đốn ngộ tự tâm xưa nay thanh tịnh (tức là người nhận được tâm chân thật này thì tâm đó vốn tự thanh tịnh, không động, không có phiền não), trí tánh vô lậu sẵn tự đầy đủ, tâm này tức là Phật, cứu cánh không khác, y đây mà tu tức gọi thiền tối thượng thừa, cũng gọi là thiền Như Lai thanh tịnh, cũng gọi là Nhất hạnh tam muội. Đây là căn bản của tất cả Tam Muội, nếu người hay niệm niệm tu tập tự nhiên dần dần được trăm ngàn tam muội khác”. Quý vị thấy trăm ngàn thần thông diệu dụng của Phật đều từ một tâm thanh tịnh mà có ra, cho nên chúng ta tu Phật là nhận và sống ngay nơi chỗ này thì tất cả những cái khác đều từ cái này mà có. Chỉ cần nhận cái gốc này thì những cái kia tự có chứ không phải cầu để có. Nếu chúng ta tỏ nhận được CÁI GỐC này và sống trọn vẹn, không xen hở, thì dần dần cũng được trăm ngàn Tam Muội và các diệu dụng không khác đức Phật.

Nãy giờ quý vị nghe có hiểu không? Bây giờ không cho hiểu nữa, khéo nhận thì nhận ngay, không suy nghĩ, suy nghĩ thì liền sai.

Thiền sư Duyên Quán ở Lương Sơn một hôm có thầy tri viên hỏi:

- Khi giặc nhà khó giữ thì thế nào?

Sư đáp:

- Biết được chẳng phải là oan gia.

Giặc nhà là quý Ngài ngầm chỉ cho vọng tưởng phiền não nơi mỗi người. Khi mình tu, vọng tưởng nhiều quá, mình chặn không nổi thì phải làm sao? Thì chỉ cần biết được nó rồi, thì nó không phải là giặc của mình nữa. Ngài không bắt mình phải dẹp niệm, chi cần biết nó thôi, thì nó không còn là giặc trong nhà nữa. Nếu còn có tâm muốn cho vọng hết thì thầm chấp cho nó là thật, nên muốn đuổi nó đi, mà nhiều quá thì không chịu nổi, phải nhờ người chỉ dạy. Đem tâm ra xem coi, tìm không được, liền biết vọng không thật có. Khi vọng khởi kéo dây, kéo nhợ, thì quý vị đừng can thiệp trên nó, chỉ cần biết nó là đồ giả, không quan tâm. Ngay khi quý vị không can thiệp trên nó, chính là quý vị đang tự sáng biết mà không biết theo nó. Cho nên nó có quyền đến và đi, mà mình vẫn đang là toàn một thể sáng biết không động, thì có gì phải bỏ. Biết nó là giả, là đối tượng thì bao nhiêu vọng không quan tâm, chỉ cần mình lặng mà tự sáng biết, không biết theo nó, không biết trên nó, không tác ý thêm, thì không còn nền tảng cho niệm, thì nó có dính dáng gì đâu. Nền tảng của niệm đặt trên ý thức, mình không thèm để ý thì nó yên. Còn chỉ cần khởi nghĩ sao nhiều quá, thì đó là có điều kiện cho nó vin và nó đua nhau sanh khởi. Cuối cùng, không cần dẹp, chỉ cần lặng mà sáng biết đây thì liền xong. Cho nên Lục Tổ nói: “Không sợ vọng khởi, chỉ sợ giác chậm” là vậy.

Thầy tri viên hỏi tiếp:

- Sau khi biết được rồi thì sao?

Ngài Duyên Quán nói:

- Biến nó đến nước vô sanh.

Đây chính là chỗ Đức Phật nói “Độ tất cả chúng sanh vào vô dư Niết Bàn mà không thấy có chúng sanh thật được diệt độ”, khi lặng mà sáng biết thì đừng khởi tìm thêm gì, đừng làm thêm gì nữa, an liền ngay đó thì thể tánh thênh thang hiện bày.

Thầy tri viên hỏi tiếp:

- Đâu không phải là chỗ y an thân lập mạng?

Nếu chấp nhận an ổn ngay đó thì chưa phải là chỗ rốt ráo cuối cùng. Coi chừng trong đó chưa vượt qua khỏi cái thức thần nó ngầm ngầm lưu chuyển, nhưng vì nhỏ nhiệm quá mình không biết rồi tưởng đó là chỗ rốt ráo của đạo là sai. Vì thức thần còn thì còn có cớ cho niệm sanh khởi trở lại. Cho nên Thầy Tri viên mới nói, đó không phải là chỗ mà giặc (niệm) vẫn còn ẩn núp trong đó hay sao?

Ngài Duy Quán nói:

- Nước chết không chứa được rồng.

Tức là dù cho quý vị có đạt được chỗ vô sanh đó rồi và an trong đó, vẫn còn thấy có một cái vô sanh để thầm thầm giữ nó, chưa có một cơ sống dậy thì vẫn chưa được tự tại, chưa phải là trí chiếu phá sanh tử. Đó là đầu sào trăm trượng, là chỗ các Thiền sư quở trách, không chấp nhận. Cho nên ngài Duyên Quán nói: “Nước chết không chứa được rồng”.

Thầy tri viên hỏi tiếp:

- Thế nào là nước sống chứa được rồng?

Ngài Duyên Quán nói:

- Dấy mòi không phải sóng.

Đang lặng mà sáng biết, cái biết này không phải ý thức cho nên nó không phải là sóng nhấn chìm mình trong biển sanh tử. Ngay bản tánh sáng biết thanh tịnh tuyệt đối, không động nhưng rất mực sống động. Cái đó không phải là cái sanh diệt. Không phải làm gì cho nó được an định mà bản chất nó vốn là tự tịnh, tự định, nhưng sống động, rờ rỡ, sáng ngời.

Thầy tri viên hỏi tiếp:

- Bỗng khi đầm nghiêng, nước đỗ thì thế nào?

Tuy nói dậy mòi không phải sóng. Nhưng hôm nay ngồi đây còn bàn trên ngôn ngữ là còn trên sự tướng, còn một chút mòi, một chút nước, một chút sóng. Giờ đầm nghiêng nước đổ, tức là dẹp hết sự tướng, bặt đường nói năng, rồi thì sao, còn có chỗ để nói không? Khi dẹp hết sự tướng rồi, chỉ như thế mà quên sở đắc, quên chỗ ngộ, đừng trụ nữa, như thế mà sạch luôn, tiêu mất nước, tiêu mất mòi, tiêu mất sóng, không còn một bóng dáng khái niệm, bặt đường ngôn ngữ, không còn chỗ nói năng thì cái gì là cơ sống động?

Ngài Duyên Quán bước xuống giường thiền nắm đứng lại bảo:

- Chớ nói ướt góc ca sa của lão tăng!

Trong đây, nếu vừa chần chừ, chưa vượt khỏi khái niệm, còn một mảy may trần tư niệm lự là phàm là thánh thì nước tràn ngập đầu, nhấn chìm trở lại trong biển lớn sanh tử liền. Đối với Thiền sư Duyên Quán thì đi trên mòi, lướt trên sóng mà chéo áo ca sa cũng không dính chút nước. Do đó Ngài bước xuống tòa ra tay liền. Đó là cơ sống động rất đặc biệt của Ngài.

Ở trên đã giảng nói hết rồi, đến đây không phải là chỗ để giảng nói cho quý vị hiểu nữa. Đến chỗ rốt ráo rồi thì phải bặt hết dấu vết của tâm, không có chỗ cho tình thức chen vào. Và cái sau đó là cái tự sống dậy, không phải làm thêm gì vào trong đó. Không còn ngồi đó mà luận là BIẾT và KHÔNG BIẾT nữa. Đây là chỗ mà mỗi người phải khéo nhận và sống. Nhận và sống được như vậy thì hằng ngày mình vẫn làm, vẫn ăn, vẫn sinh hoạt mà đời sống của mình không hề bị nhiễm. Ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ khi nào, làm bất cứ điều gì cũng là đạo hết.

Đây chính là điểm đặc biệt của đạo Phật. Khi mê, mình quên mất tánh giác biết này, bây giờ không theo cảnh nữa thì cũng nhận ngay cái giác biết này. Mê là quên cái chân thật này, ngộ là nhận lại cái sẵn nơi mình. Khi chuyển được cái gút này thì đạo là cuộc sống bình thường hằng ngày chứ không phải làm cái gì khác thường. Vì thế, Tổ Bá Trượng nói với ngài Qui Sơn: "Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp". Người thật sự nhận chân rõ ràng rồi thì không còn nói có biết hay không biết, mà cuộc sống thường nhật chính là đạo.

Thiền sư Triệu Châu hỏi Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện:

- Thế nào là đạo?

Nam Tuyền đáp:

- Tâm bình thường là đạo.

- Lại có thể nhằm tiến đến chăng?

- Nghĩ nhằm tiến đến là trái.

- Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?

- Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy?

Ngay câu nói này, Ngài Triệu Châu ngộ lý.

Đến chỗ cuối cùng không còn khái niệm chỉ là bình thường thì đâu đâu cũng là Phật pháp. Phật pháp là cái sẵn có ngay trong sinh hoạt hằng ngày của mỗi chúng ta. Ngài Văn Ích Pháp Nhãn khi đến tham học với Ngài Quế Sâm, trình kiến giải nói đạo lý hơn một tháng mà Ngài Quế Sâm đều nói: “Phật pháp không phải thế ấy”. Cuối cùng, không còn gì để nói nữa, Ngài Pháp Nhãn thưa: ‘Bạch Thầy, con đã hết lời cùng lý rồi”. Ngài Quế Sâm khêu nhẹ: “Nếu luận về Phật pháp thì tất cả hiện thành”. Ngài Văn Ích Pháp Nhãn ngay đó đại ngộ. Thiền sư gạn nhiều là bởi cái phân biệt của mình sâu dầy quá. Gạn cho đau khổ tột cùng để khô kiệt cái phân biệt kia đi. Trong chỗ tình thức dứt bặt đó, chỉ cần khơi một chút thì liền sống dậy. Tới đó, đâu đâu cũng là Phật pháp. Mặc áo, ăn cơm, đi đại, đi tiểu trong tất cả sinh hoạt hàng ngày, làm gì cũng không ra ngoài Phật pháp, Phật pháp lúc nào cũng hiện tiền. Cho nên khác với tất cả các bộ kinh đại thừa khác, hình ảnh đức Phật đã xuất hiện vào đầu Kinh Kim Cang rất gần gũi, bình dị mà đạo lý vô cùng. “Đến giờ ăn, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành theo thứ lớp đi khất thực. Khất thực xong trở về chỗ ngồi thọ thực. Thọ thực xong thu xếp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi...”. Thấy như là những sinh hoạt bình thường hằng ngày chúng ta vẫn làm, nhưng ánh sáng giác ngộ hiển hiện sáng ngời trong từng cử chỉ của đấng đã giác ngộ. Sống trọn vẹn bằng tánh giác lặng mà sáng biết đó, thì trong bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì cũng đều là Phật pháp, không hề thiếu vắng.

Từ trên chư Phật đến các đệ tử của Ngài lập bày nhiều phương tiện giáo hóa dẫn dắt người sau, nhưng không ngoài một mục đích là chỉ cho tất cả chúng ta nhận lại cái thấy biết Phật nơi chính mình. Mừng Phật đản sanh, không gì thiết thực hơn là chúng ta cần phải tin, hiểu, khéo nhận và sống cho được với cái chính yếu mà đức Phật đã chỉ dạy. Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là một người đệ tử học theo đạo giác ngộ của đức Phật. Đó chính là món quà xứng đáng mà chúng ta dâng lên cúng dường Ngài trong ngày lễ kỷ niệm đức Phật đản sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn