1. Tâm Ấn Chư Phật

27 Tháng Bảy 201403:13(Xem: 7684)

THỰC TẠI THIỀN
NHỮNG BƯỚC CHÂN TRONG RỪNG THIỀN VIỆT NAM
Đương Đạo
Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 2003

Tâm Ấn Chư Phật

Bài kệ của Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền cho đệ tử Pháp Hiền vào thế kỷ thứ 6 là bài kệ truyền dòng đầu tiên của Thiền tông Việt Nam. Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi đóng góp rất lớn cho sự khai sinh triều Lý, cho đến đời thứ 12 với Thiền sư Vạn Hạnh thì triều Lý được thành lập với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.

Cơ duyên ngộ đạo của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi được Thiền Uyển Tập Anh chép lại như sau :

“Đời Trần Đại Kiến thứ 6, năm Giáp Ngọ (574), Sư đến Trường An. Gặp lúc Chu Võ Đế phá diệt Phật giáo, Sư muốn sang đất Nghiệp. Bấy giờ đệ tam tổ Tăng Xán đi tỵ nạn, mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không. Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến trước mặt, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn ngồi yên không nói. Trong lúc đứng suy nghĩ, hoát nhiên như có chỗ đắc, liền sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi lại ba bước, thưa : “Đệ tử bấy lâu chưa có cơ hội, xin hòa thượng đại từ bi, cho con theo hầu hạ hai bên.” Tổ nói : “Ngươi nên mau về phương Nam giao tiếp, không nên ở đây lâu.”

Đến tháng 3 năm Canh Tý, Sư đến nước ta, dịch kinh Tổng trì, một quyển.”

Như thế, Thiền Tông đã truyền vào Việt Nam vào thời Tam tổ, trước thời của ngài Lục tổ Huệ Năng và năm phái Thiền về sau này.

Ở trên sở dĩ nói bài kệ của Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi là bài kệ truyền dòng không chỉ vì nó là bài kệ đầu tiên từ một vị sơ tổ, mà chính vì nội dung nó chứa tất cả tinh túy, ý nghĩa, sự nhìn thấy chân lý, tu hành và chứng đắc chân lý của Thiền Tông. Hơn 200 năm sau, với Thiền sư Vô Ngôn Thông, Thiền Việt Nam cũng có một bài kệ truyền dòng tương tự như vậy.

Tất cả những Thiền sư của dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi đều được nuôi dưỡng bởi, tu hành trong và chứng ngộ được cái thực tại – ở đây ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi gọi là tâm ấn chư Phật – mà bài kệ ấy muốn chỉ ra, nhắn gửi và trao truyền, cho đến chúng ta ngày nay. Bài kệ tâm ấn chư Phật đã được nói ra cho chúng ta, một lần cho mãi mãi. Bài kệ ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi nói cho đệ tử Pháp Hiền, thế hệ thứ nhất dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, trước khi thị tịch là như sau :

Phàm tâm ấn chư Phật
Tất không lừa dối
Tròn đồng thái hư
Không thiếu không dư,
Không đi không đến
Chẳng một chẳng khác
Chẳng thường chẳng đoạn,
Vốn không chỗ sanh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa,
Vì đối vọng duyên
Mà giả lập tên.
Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng y[1}* như thế
Tổ sư nhiều đời
Cũng y như thế đắc
Ta cũng y như thế đắc
Ngươi cũng y như thế đắc
Cho đến hữu tình vô tình
Cũng y như thế đắc.
Vả Tổ ta Xán công
Ấn cho ta tâm đó
Bảo ta mau về Nam giao tiếp
Không nên ở lâu
Rồi mới đến đây
Bèn cùng ngươi gặp
Quả hợp huyền ký
Ngươi khéo giữ gìn
Giờ ta đi đã đến.

Tâm ấn ấy, thực tại ấy vẫn như vậy trước mắt chúng ta, bất chấp sự hưng vong của lịch sử, bất chấp sanh già bệnh chết của mỗi chúng ta, bất chấp những cái thấy bị biến dạng vì thành kiến, vì tham sân si của chúng ta. Bởi vì, Nó thì ‘Trước trời trước đất vẫn trong trắng hoài’, như lời Thiền sư Nhẫn Tế, vị Thiền sư Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 20, đã đi học pháp ở Tây Tạng vào những năm 30 của thế kỷ. Lại một dòng Thiền khác, từ một hướng khác, được truyền vào ở một thời điểm khác, nhưng cũng vẫn chỉ là một tâm ấn ấy, tâm ấn của chư Phật Tổ.

Như người xưa nói, ‘Ngồi trong nồi cơm mà chết đói ê hề, ở trong biển nước mà chết khát ê hề.’ Đức Phật đã nói, ‘Tất cả chúng sanh đều có Tri Kiến Như Lai, thế mà vì chạy theo vọng tưởng để oan uổng trôi lăn trong khổ đau, sanh tử.’ Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi cũng nói :

Vốn không chỗ sanh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa.

Tâm ấn ấy, thực tại ấy chưa hề lìa xa chúng ta. Hơn thế nữa, tất cả chúng ta từ vô thủy đến nay, dù khổ đau hay hạnh phúc, dù đi đúng đường hay lạc đường, dù biết hay không biết, dù suy nghĩ có lý hay suy nghĩ bậy bạ, dù lên cao hay xuống thấp, dù sống nơi cõi Ta Bà này hay về Tịnh Độ… tất cả đều không ra ngoài Cái Ấy. Tất cả chúng ta vẫn hằng ở trong Cái Ấy, trong Thực Tại ấy, trong Tâm Ấn ấy, từ vô thủy đến vô chung. Bởi vì, ‘Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh’, tất cả chúng sanh đều là Phật tánh. Đó mới là điều quan trọng nhất của Con Đường, của Thiền. Nói theo ngôn ngữ của Đại thừa Ấn Độ và Tây Tạng, thực tại tâm ấn ấy là Nền Tảng của Thiền, Con Đường của Thiền và Quả của Thiền. Thực tại ấy là cái Thấy (tri kiến) của Thiền, Thiền Định của Thiền và Hạnh của Thiền.

Không có sự cứu độ nào bằng khi biết rằng chúng ta vẫn đang ở trong Thực Tại ấy, dù chúng ta có chú ý đến điều đó hay không, dù chúng ta nói hay hoặc nói dở, dù chúng ta nói hoặc nín, dù chúng ta làm hay không làm, dù chúng ta đi hay đứng, dù chúng ta thức hay ngủ… Dù chúng ta nói một điều gì, sai hay đúng, cũng không ra ngoài Cái Ấy, cũng vẫn là Cái Ấy, dù chúng ta có văn minh hay cổ điển, dù chúng ta mở mắt hay nhắm mắt, tinh tấn hay giải đãi, vô minh hay hết vô minh… chúng ta cũng không ra ngoài Cái Ấy, cũng vẫn là Cái Ấy, vô thủy vô chung.

Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng y như thế
Tổ sư nhiều đời
Cũng y như thế đắc
Ta cũng y như thế đắc
Ngươi cũng y như thế đắc
Cho đến hữu tình vô tình
Cũng y như thế đắc.

Có cái gì có thể ra ngoài cái Như Thế này đâu ? Có một hành động nào của thân, khẩu, ý có thể lọt ra ngoài cái Như Thế này đâu ? Tin được như vậy, thấu hiểu được như vậy, sống trong mọi mặt của sự sống mình được như vậy, gọi là (chỉ ‘gọi là’, bởi vì ‘vì đối vọng duyên, mà giả lập tên’) sống Thiền. Và sống được như vậy thì ‘cho đến hữu tình vô tình’ cũng đều vốn ở trong Niết bàn, vốn đã thành Phật, vì xưa nay vẫn hằng ở trong cái ‘Như Thế mà đắc’.

* * *

Cho nên chúng ta không ai có thể từ chối Tâm Ấn, từ chối Pháp, từ chối Thiền, khi Nó vẫn muôn đời ở đó. Chúng ta có thể lấy lý do tôi đang bận làm giàu, tôi đang bận tiến vào thời đại thông tin, tôi đang lo cho những khám phá mới…, chúng ta có lo hay không lo, có chánh niệm hay thất niệm, có nhìn hay không nhìn, có biết hay không biết, Nó vẫn ở đó, bao trùm lấy toàn bộ cuộc đời của chúng ta. Từ chối Tâm Ấn, từ chối Pháp, quay lưng với Thực Tại, chúng ta chỉ càng lúc làm hạn hẹp cuộc đời mình, càng lúc càng kẹt nghẽn trong thời gian và không gian hữu hạn, càng điên đảo trong một thế giới vọng tưởng do mình phân chia lắp ghép và ‘tự mua bán lấy’. Còn Pháp thì chẳng hề hấn gì bởi thế giới loạn thần của chúng ta, chẳng tương can gì đến cuộc đời và thái độ của chúng ta, nó muôn đời ở đó, dù chư Phật có ra đời hay không, có thuyết pháp hay không.

“Vâng, tôi thấy hình như điều đó đúng. Bởi vì từ gần hai ngàn năm nay, các Thiền sư trong các dòng Thiền khác nhau đều ‘như cùng một miệng, nói cùng một lời’ về Thực Tại ấy, về Tâm Ấn ấy. Thế thì tại sao người ta vẫn không biết đến Thực Tại ấy, để sống trong Nó để có hạnh phúc thật sự và bình an toại nguyện thật sự, để có Nền Tảng, Con Đường và Quả cho cuộc đời phù du của mình ?” Bởi thế, đó chính là nhiệm vụ của các Thiền sư từng thế hệ, của các Phật tử đang đồng hành với con người và thời đại của họ. Bởi thế mà có cái được đặt tên là Thiền, ‘vì đối vọng duyên mà giả lập tên’ : vì có sự mê mờ không thấy được cái thật của chính mình trong khi mình vẫn là cái đó, đây là một nhân duyên hư vọng (vọng duyên) cho nên có cái gọi là Thiền tông (giả lập tên) để Khai Thị Ngộ Nhập cho người. Nhưng dù có làm việc Khai Thị Ngộ Nhập này, dù đó là công việc công đức nhất, thì đó cũng chỉ là ở về mặt chân lý tương đối mà nói. Ở trong chân lý tuyệt đối, việc làm công đức ấy cũng chỉ là giả lập, vì mỗi người đều có Phật tánh, có ai đem Phật tánh cho ai đâu.

Bởi thế chúng ta chớ lầm mà nghĩ rằng Phật tánh, Tâm là cái gì mà vị Thầy nào ban cho chúng ta. Mỗi chúng ta đều có sẵn Tâm, chỉ là chúng ta không nhận biết nó do mãi chạy theo các tư tưởng, nhớ nghĩ, khi có khi không ; chúng ta không thấy nó là đời sống thật của mình, sử dụng nó sai lầm để rồi cuộc đời chỉ là sự trôi dạt theo vọng tưởng triền miên, nắm bắt hoa đốm không dứt. Vị Thầy không ban cho chúng ta cái đó, vị Thầy chỉ ‘ấn’ lại ‘tâm’ ta cho đúng, nghĩa là đưa nó nhìn thấy lại bản tánh của chính nó, để cho nó không còn sai lầm, hoạt động theo cách bị ràng buộc trong những trò chơi thêu dệt vẽ vời của chính nó. Khi tâm nhìn ra ‘bộ mặt thật’ của nó, nhìn ra ‘bản tánh’ của nó, toàn bộ vận hành tạo ra tư tưởng của nó sẽ thay đổi : thay vì sự vận hành để tạo ra khổ đau sanh tử, thì đây là sự vận hành trong giải thoát, tự do. Và như vậy tâm phát huy đầy đủ khả năng diệu dụng của nó.

Không ai cho chúng ta tâm cả, sự thật này là ‘dân chủ’ tuyệt đối, nếu nói theo chữ nghĩa ngày nay. Chỉ là chúng ta vẫn sống trên đất tâm mà chúng ta không biết, không biết làm gì, và có làm gì là do phiền não xui khiến, nên chúng ta không thấy nó, không biết nó, không sống được với nó. Công sức của vị Thầy ‘ấn cho ta tâm đó’ không có nghĩa là ban cho chúng ta tâm đó, mà ấn định, xác định, gom nó lại vào trong thực chất của nó, trong cái ấn của chính nó, không cho nó vương vãi. Như thế vị Thầy chỉ ra cho chúng ta tâm thật sự là gì, ấn định cho cốt lõi tinh túy của đời sống của chúng ta là gì ; khi chúng ta đã được ấn định, xác định cái thật từ bao đời nay vẫn là nền tảng của cuộc sống chúng ta thì có dại gì mà chúng ta không sống với tâm ấy, muôn đời mãn kiếp. Khi đã tự mình xác định, xác quyết tâm ấy rồi, chúng ta sống với tâm ấy, với toàn thể thực tại của nó, toàn thể hoạt dụng của nó, đó gọi là ‘ngươi khéo giữ gìn’.

Cho nên Thiền (hay thực tại) là muôn đời xưa cũ và muôn đời mới mẻ, trẻ trung. Muôn đời xưa cũ vì nó đã có từ trước khi chúng ta tự nhận mình là một cá thể tách lìa với toàn thể để đi mãi trong cuộc sống chết luân hồi và nó vẫn là chúng ta trong suốt cuộc hành trình lang thang đơn độc không biết khi nào chấm dứt ấy. Muôn đời vẫn mới vì nó là không gian và thời gian vô tận cho bất kỳ một biến cố nào, bất kỳ một xuất hiện phát minh nào của lịch sử. Hơn thế nữa, muôn đời vẫn mới vì nó không có chỗ trụ, nghĩa là không có sự cứng đọng và già chết. Trong nó không có một tiến trình sanh trụ dị diệt thô sơ, một tiến trình sanh để rồi tiếp theo một tiến trình chết. Trong nó mỗi khoảnh khắc là vô hạn cái sanh và vô hạn cái diệt, nghĩa là không có một cái diệt tách biệt với một cái sanh, một cái chết tách biệt với một cái sống. Trong ánh sáng của tâm tất cả đều chết đi và sống lại trong khoảnh khắc. Khi không có cái diệt, cái chết tách biệt với cái sanh, cái sống, thì cái diệt, cái chết theo nghĩa thường tình không còn nữa.

Đó là cái Toàn Thể hay cái Thực Tại mà Thiền đề nghị với mỗi chúng ta.

* * *

Tâm ấn mà ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi muốn khai thị và truyền lại cho đời sau ở đây là gì ? Đó là thực tại được nói trong nhiều kinh điển. Nó là Pháp thân, là Tri Kiến Phật, là Phật tánh mà chúng sanh đều có, là Thật tướng của tất cả các pháp, là cái Bổn Lai Thanh Tịnh, là bản tánh của tâm, là cái để Khai Thị Ngộ Nhập, là tánh Không…

Nhưng điều quan trọng nhất không phải là những mô tả về Tâm Ấn ấy : ‘tròn đầy thái hư, không thiếu không dư, không đi không đến, không được không mất, chẳng một chẳng khác…’ Điều quan trọng nhất không phải là Tâm Ấn ấy không lệ thuộc không gian thời gian, mà chính bởi vì Tâm Ấn ấy vốn ‘tròn đầy thái hư, không thiếu không dư, không đi không đến, không được không mất…’ nghĩa là không lệ thuộc thời gian và không gian mà sự kiện quan trọng nhất là Nó đang hiện tiền trước mặt mỗi chúng ta. Như đức Phật đã nói trong nhiều kinh, ở đây chỉ trích ra một câu nói của đức Phật với ngài Tu Bồ Đề trong kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (phẩm Vô Tác và những phẩm khác) về điều quan trọng nhất ấy :

Vì dù Phật có ra đời hay không, thật tướng các pháp vẫn luôn thường trụ không khác, vì pháp tướng pháp trụ pháp vị thường trụ duy nhất một tướng chẳng sai chẳng mất vậy.

Tâm ấn hay thực tại ấy là Pháp theo nghĩa tinh túy nhất của từ này. Tâm ấn của chư Phật hay ‘thật tướng các pháp’ vẫn thường trụ chẳng sai chẳng mất như vậy. Tâm ấn của chư Tổ vẫn ‘tự cổ thường nhiên’ như vậy. Thực tại xưa nay vẫn như vậy, pháp nhĩ như thị, pháp vốn như vậy.

Bởi vì nếu không như thế thì Thiền tông nói riêng và Phật giáo nói chung có ăn nhằm gì đến mỗi chúng ta, khi mỗi chúng ta hằng ngày phải kiếm sống, phải lo toan đủ chuyện, và rộng ra cả xã hội, phải tăng trưởng kinh tế, bài trừ những tệ nạn xã hội, phải sống trong một thế giới với biết bao nhiêu vấn nạn của nó ? Và rồi mỗi người của chúng ta phải giã từ thế giới ấy để đi theo cái chết của riêng mình ? Nếu không như thế thì chẳng lẽ Thiền tông, tinh túy của dòng sống tâm linh của đất nước chúng ta, đời sống tâm linh của lịch sử chúng ta, lại chỉ dành cho những người biết Hán-Nôm, những người hoài cổ và chẳng có một ảnh hưởng nào vào sinh hoạt xã hội, vào sự sống của con người, vào những đổi thay lớn lao trên bề mặt của thời đại ? Trong khi đó, với Thiền sư Chân Nguyên, một Thiền sư lỗi lạc thế kỷ 17, nghĩa là sau Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi hơn một ngàn năm, người làm hưng vượng phái Thiền Trúc Lâm – một phái Thiền chú trọng đến đời sống quốc gia đất nước – thì chúng ta thấy thực tại Thiền, tâm ấn của Tỳ Ni Đa Lưu Chi hay là cái ‘chân không vô tướng’ có ảnh hưởng như thế nào đến con người và thế giới :

“Đó là Chân Không vô tướng, là cha mẹ của trời đất muôn vật, làm nền tảng cho thế giới sanh linh, suốt cả xưa nay chẳng sanh chẳng diệt… Ẩn hiển cùng bày, sắc không chẳng hai, trời đất muôn vật chỉ một thể nguyên thần, vô trụ vô vi. Chợt lộ mặt thật xưa nay, lìa danh lìa tướng, mở toang then chốt trên đảnh môn hướng thượng, đèn tâm của Phật, Tổ truyền sáng mãi không cùng. Lúc hiển mà nói thì có tám vạn pháp môn, khi mật mà ngộ, thì chỉ bốn mắt nhìn nhau.

Tôn kính chúc rằng :

Quốc gia vĩnh cửu, ngôi báu kim luân và trời đất trường tồn.
Phật đạo không cùng, nối Tổ truyền Tông cùng Thứu Phong chẳng mất.”

Thực tại đó ảnh hưởng tới con người và xã hội, đơn giản bởi vì khi con người sống không có nền tảng, mà chỉ trôi dạt theo ảo tưởng và phiền não, nó chỉ làm rắc rối thêm cho mình và cho người. Và khi xã hội hoạt động không có nền tảng, mà chỉ chạy theo những mốt, những trào lưu, nó làm sao tiến bộ cho đúng hướng để trở thành một xã hội phát triển trong mọi mặt vật chất và tâm linh ?

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn