Bài Giảng Của Ngày Thứ Mười

27 Tháng Chín 201000:00(Xem: 17637)

NHỮNG BÀI GIẢNG TÓM TẮT
của KHOÁ THIỀN MINH SÁT MƯỜI NGÀY
Thiền sư Goenka - Thích Minh Diệu dịch
Nguyên tác: "The Discourse Summaries", S.N. Goenka (1994)

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ MƯỜI

Ôn lại phương pháp thực hành

Ngày thứ mười đã qua. Chúng ta hãy ôn lại những gì chúng ta đã thực hành trong suốt mười ngày qua.

Các bạn đã bắt đầu sự thực hành bằng sự qui y tam bảo, đó là, Phật, Pháp và Tăng. Bằng cách làm này các bạn không bị chuyển đổi từ tổ chức tôn giáo này sang tổ chức khác. Trong Vipassana sự chuyển đổi chỉ là chuyển khổ sang hạnh phúc, từ vô minh sang trí tuệ, từ trói buộc sang giải thóat. Toàn bộ giáo pháp mang tính phổ quát vũ trụ. Các bạn đã Qui Y không phải ở một cá nhân, giáo điều, hoặc đảng phái, nhưng ở một phẩm cách của sự giác ngộ. Có ai đó khám phá con đường dẫn đến giác ngộ vị ấy là một vị Phật. Con đường mà vị ấy thấy được gọi là Giáo pháp. Tất cả ai thực hành con đường này và đạt đến một trạng thái thuần tịnh được gọi là Tăng già (đoàn thể thanh tịnh). Được cảm hứng từ Những vị này, chúng ta qui Đức phật, Giáo pháp và Tăng đoàn để đạt cùng một mục đích của sự thanh tịnh tâm thức. Sự qui y này thực chất là phẩm chất phổ quát của sự giác ngộ mà chúng ta tìm để phát triển trong chính chúng ta.

Đồng thời, ở bất cứ người nào tiến hành con đường tu tập sẽ khởi lên cảm nhận của lòng biết ơn và sự hiểu biết để phục vụ người khác mà không mong cầu đáp lại bất cứ điều gì. Hai phẩm chất này nổi bậc nhất trong Đức phật thích ca, một vị Phật lịch sử. Ngài đạt được giác ngộ viên mãn bằng sự nỗ lực chính ngài. Tuy nhiên, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, ngài đã dạy phương pháp mà ngài đã tìm ra cho mọi người.

Những phẩm chất như nhau sẽ xuất hiện ở bất cứ ai thực hành Giáo pháp và vị ấy đoạn trừ, đối với một vài mức độ, thói quen cũ của chủ nghĩa tự ngã. Sự qui y chân thật, sự bảo vệ chân thật, là giáo pháp mà các bạn phát triển trong chính các bạn. Tuy nhiên , cùng với sự kinh ngnhiệm của giáo pháp chắc chắn phát triển một sự cảm nhận về lòng biết ơn đối với Đức Phật, vì Ngài đã tìm ra và đã dạy giáo pháp này, cũng như sự biết ơn đối với chư vị đã nổ lực quên mình duy trì gíao pháp trong hình thức nguyên thủy của nó qua hơn 25 thế kỷ cho đến ngày hôm nay.

Với sự tuệ tri này chúng ta đã qui y với Tam bảo.

Kế đến các bạn đã giữ năm giới. Đây không phải là một nghi thức tụng đọc hoặc lễ nghi. Bằng sự giữ năm giới này và tuân thủ, các bạn đã thực hành giới, nó là nền tảng của sự tu hành. Không có một nền móng vững chắc tòan bộ cấu trúc của thiền định sẽ bị suy yếu. Giới luật mang tính phổ quát và không thuộc vào một đảng phái. Các bạn tu tập để từ bỏ những hành động bằng thân hoặc khẩu có thể gây ảnh hưởng sự bình an và hài hòa của những người khác. Từ cấp đô tâm thức, sự cấu uế phát triển và biểu lộ chính nó bằng lời nói hoặc hành động. Trong Vipassana các bạn nỗ lực để thanh lọc tâm để nó trở nên vắng lặng và an tịnh thật sự. Các bạn không thể tiến hành thanh lọc tâm trong khi các bạn vẫn tiếp tục gây ra những hành động có tác động quấy nhiễu và cấu uế đến tâm.

Nhưng làm thế nào để phá vỡ vòng tội lỗi ở đó tâm bị quấy nhiễu làm những việc bất thiện và cứ như thế hành động ấy lại gây nhiễu hơn nữa đến tâm? Một khóa tu Vipassana cho các bạn một cơ hội. Vì chương trình rất nghiêm ngặc, luật lệ nghiêm túc, phát nguyện tịnh khẩu, và môi trường tác động cho sự tu tập rất mạnh, rất khó có thể đời sống chánh mạng giữ năm giới của các bạn bị phá vỡ. Vì vậy, suốt mười ngày các bạn có thể hành trì giới, và với căn bản này các bạn phát triển định (samaadhi); và tiếp tục thiền định làm nền tảng cho trí tuệ, với những điều kiện này các bạn có thể thể nhập vào những cấp độ chiều sâu của tâm thức và thanh lọc sự cấu uế của nó.

Suốt khóa tu các bạn hành trì quán sát về năm giới để có thể thực hành phương pháp này. Sau khi nhận ra Giáo pháp chúng ta quyết định chấp nhận và tu tập Giáo pháp, phải quán sát bằng những giới luật trong suốt cuộc đời.

Kế đến các bạn qui phục trước Đức Phật và vị Thầy hướng dẫn hiện tại cho khóa tu mười ngày. Sự qui phục này là vì mục đích dẫn đến một sự phán xét công bình đối với phương pháp tu tập. Chỉ có ai đã qui phục giáo pháp này mới có thể tiến hành tu tập và nỗ lực một cách trọn vẹn. Người nào với tâm tràn đầy hoài nghi và do dự thì không thể nào tu tập một cách thích hợp. Tuy nhiên, sự qui phục ở đây không có nghĩa là phát triển niềm tin một cách mù quáng; điều này không có lợi ích gì cho Giáo pháp cả. Nếu bất cứ nghi ngờ nào khởi lên trong tâm, các bạn nên đến vị Thầy hướng dẫn trong những lúc cần thiết để làm sáng tỏ sự nghi ngờ.

Sự qui phục còn có nghĩa liên quan đến nội qui và thời khắc của khóa tu. Những điều này được xác định, dựa vào sự kinh nghiệm của hàng ngàn những người tu tập trước, để có thể giúp các bạn hành trì liên tục cũng như để có sự lợi lạc lớn lao nhất trong khóa tu mười ngày này.

Bằng sự qui phục các bạn tiến hành tu tập chuẩn xác khi các bạn được hướng dẫn. Bất cứ những gì của phương pháp các bạn được tu tập trước đây, các bạn được yêu cầu để sang một bên trong suốt thời gian khóa tu. Các bạn có thể thành tựu những ích lợi và quán xét giá trị của phương pháp chỉ bằng cách hành trì nó nghiêm chỉnh, trong một đường lối thích hợp. Pha trộn sự tu tập, về phương diện khác, có thể dẫn các bạn vào những khó khăn nguy hại.

Từ lúc các bạn bắt đầu công việc của các bạn bằng sự thực tập thiền quán hơi thở (Anaapaana meditation) để phát huy khả năng chế ngự tâm và sự tập trung - samaadhi. Các bạn được hướng dẫn chỉ thở một cách tự nhiên không thêm vào bất cứ thần chú, kệ tụng, hình bóng hoặc mô thức nào. Một lý do cho sự nghiêm cấm này là để lưu giữ sự phổ quát của phương phát tu: hởi thở là yếu tố quen thuộc và có thể chấp nhận đối với mọi người, nhưng một câu chú hoặc một hình tượng có thể chấp nhận cho một số người mà không thể cho tất cả.

Nhưng một vấn đề quan trọng hơn nữa cho lý do chỉ được ï quán sát hơi thở, toàn bộ tiến trình là một sự khám phá chân lý trong mỗi chúng ta, về cấu trúc thân-tâm như thực thể của nó, không như các bạn phải muốn nó trở thành như ý của mình. Đó là một sự kiểm soát của thực tại. Các bạn ngồi xuống và đóng mắt lại. Không có âm thanh, không có sự quấy nhiễu bên ngoài, không có sự di chuyển thân thể. Lúc đó hoạt động nổi bật nhất trong chính các bạn là hơi thở. Các bạn bắt đầu bằng sự qúan sát thực tại này: hơi thở tự nhiên, khi nó đi vào và ra hai lỗ mũi. Khi đó các bạn có thể thở tự do, các bạn được phép thở nhẹ đều đặn, cốt để đặt sự chú ý của các bạn nơi khu vực của hai lỗ mũi, và từ đó một lần nữa các bạn trở lui lại hơi thở tự nhiên, thông thường và nhẹ nhàng. Các bạn đã bắt đầu với sự thật thô và bề ngoài này, và từ đó các bạn chuyển xa hơn và sâu hơn, trong phương hướng của những sự thật vi tế hơn, sự thật tối hậu. Về toàn bộ tiến trình, ở mỗi giai đoạn các bạn duy trì với sự thật mà các bạn thực tế kinh nghiệm, từ thô nhất đến vi tế nhất. Các bạn không thể đến chân lý tối hậu bằng cáchï khởi hành với một sự tưởng tượng. Các bạn sẽ chỉ rối rắm thêm trong những tưởng tượng lớn hơn và những sự tự lừa dối.

Nếu các bạn thêm vào một câu chú cho đối tượng của hơi thở, các bạn có thể tập trung tâm nhanh hơn, nhưng sẽ có một sự nguy hiểm trong sự thực hành bằng cách đó. Mỗi lời chú có một sự tác động đặc biệt. Bằng sự lập lại một lời chú hoặc câu chú, chúng ta tạo ra một sự dao động ảo giác ở đó chúng ta bị chìm sâu vào. Ở cấp độ bề mặt của tâm thức một lớp bình an và hài hòa được tạo ra, nhưng ở cấp độ chiều sâu những cấu uế vẫn còn tồn tại. Còn đường duy nhất để loại trừ những phiền não ngủ ngầm này là thực hành cách quán sát chúng nó, bằng cách mang chúng nó đến bề mặt để chúng nó trôi qua. Nếu chúng ta chỉ quán sát một sự dao động đặc biệt ảo tưởng, chúng ta sẽ không thể quán sát những dao động tự nhiên khác nhau liên quan đến những cấu uế của chúng ta, đó là, để quán sát một cách tự nhiên những cảm thọ sinh khởi trong thân chúng ta. Vì vậy, mục đích của chúng ta là để khám phá ra thực tại của chính chúng ta và để thanh lọc tâm, sử dụng một câu chú tưởng tượng có thể tạo ra những cản trở.

Một cách tương tự sự tưởng tượng - sự sao chụp một hình ảnh hoặc tượng hình bằng tâm thức- có thể trở thành một trở ngại cho việc hành trì. Phương pháp hướng dẫn đến sự phá vỡ sự thậtù hình thức để đạt đến chân lý tối hậu. Thực tại phối hợp và bề ngoài luôn luôn chứa đầy ảo giác, vì ở cấp độ này hoạt động nhận thức bị dao động do những phản ứng của quá khứ. Nhận thức có điều kiện này phân biệt và chia chẻ dẫn đến những sự ưa thích và những thành kiến, để phục hồi lại những phản ứng. Nhưng bằng thực tại chia chẻ bề ngoài, chúng ta dần dần đi vào kinh nghiệm thực tại tối hậu của cấu trúc thân và tâm.: không có gì khác hơn chỉ những dao động sinh diệt trong mỗi sát na. Ơû trạng thái này không thể phân biệt được, và vì vậy không có sự ưa thích hoặc những thành kiến có thể sinh ra, không có sự phản ứng. Phương pháp tu tập dần dần làm yếu đi nhận thức có điều kiện và vì vậy cũng làm yếu đi những phản ứng, đưa đến một trạng thái nơi đó những nhận thức và cảm thọ tiêu diệt, đó là, kinh nghiệm niết bàn. Nhưng bằng sự chú ý có chủ tâm đối với một hình tượng, hoặc tầm nhìn, chúng ta duy trì ở cấp độ bên ngoài, bao gồm sự thực tại và không thể vượt qua nó. Vì lý do này, không nên tưởng tượng hình tượng cũng không nên đọc tụng thần chú.

Sau khi tập trung tâm thức bằng sự quán sát hơi thở, các bạn bắt đầu thực hành thiền Vipassana để phát triển trí tuệ (pan~n~aa), quán sát bản chất của chính các bạn, tẩy sạch tâm thức cấu nhiễm. Từ đầu tới chân, các bạn bắt đầu quán sát những cảm thọ tự nhiên trong thân thể, bắt đầu trên bề mặt và sau đó đi vào sâu hơn, thực tập cảm nhận những cảm thọ trong và ngoài, trong mỗi phần của thân thể.

Quán sát sự thực tại như nó đang hiện hữu, không có bất cứ những thành kiến nào, để phân tán thực tại bên ngoài và để đi vào chân lý tối hậu - đây là Vipassana. Mục đích của sự phân tách thực tại thô là để có thể làm cho thiền giả thoát khỏi ảo giác của 'cái tôi'. Aûo giác này ở đỉnh cao của tất cả tham ái và sân hận của chúng ta, và mang đến khổ đau vô biên. Chúng ta có thể chấp nhận một cách tri thức rằng nó là một ảo giác, nhưng sự chấp nhận này không đủ để chấm dứt đau khổ. Không đề cập đến niềm tin tôn giáo hoặc triết học, chúng ta còn duy trì đau khổ bao lâu thói quen ngã chấp còn chấp giữ. Để phá vỡ ngã chấp này chúng ta phải kinh nghiệm trực tiếp bản chất vô thường của hiện tượng thuộc về thân và tâm, sự thay đổi không ngừng vượt qua sự điều khiển của chúng ta. Duy chỉ có kinh nghiệm này có thể phá vỡ ngã chấp, dẫn đến con đường thoát khỏi tham ái , sân giận và khổ hải.

Vì vậy phương pháp này là một sự khám phá, bằng kinh nghiệm trực tiếp, của bản chất thật của hiện tượng mà chúng ta gọi 'ta, của ta'. Có hai vấn đề của các hiện tượng

này: vật chất và tinh thần, thân thể và tâm thức. Thiền giả thực tập bắt đầu bằng sự quán sát thự c tại của thân. Để kinh nghiệm trực tiếp thực tại này, chúng ta phải cảm nhận thân thể, đó là, phải tỉnh giác những cảm thọ toàn bộ trong thân thể. Vì vậy sự quán sát về thân - kaayaanupassanaa - liên hệ cần thiết đến sự quan sát những bộ phận của tâm thức- dhammaanupassanaa.

Điều này không có nghiã rằng chúng ta nên quán sát những ý niệm cá nhân. Nếu chúng ta cố làm như vậy chúng ta sẽ bắt đầu dính vào tư duy ý niệm. Chúng ta chỉ nên đơn giản duy trì sự tỉnh giác tự nhiên của tâm thức ở sát na này; xem tham ái, sân hận, vô minh và dao động có mặt hay không. Và bất cứ điều gì sinh khởi trong tâm, Đức phật đã khám phá, sẽ được kết hợp với một thân cảm thọ. Vì vậy, trong trường hợp hành giả đang khám phá khía cạnh của tâm hoặc thân của hiện tượng của 'cái ta', sự tỉnh giác về cảm thọ là điều chính yếu.

Điều khám phá này là sự đóng góp độc nhất của Đức Phật, của tầm quan trọng trong Giáo pháp của Ngài. Trước thời Ngài ở Ấn độ và giữa những người đương thời với ngài, có nhiều người đã dạy và thực hành giới và định. Trí tuệ cũng đã có mặt, ít nhất trí tuệ thuộc về tri thức hoặc mang tính tôn sùng: nó được chấp nhận một cách thông thường rằng những tâm cấu uế là nguồn gốc của khổ đau, đó là sự tham ái và sân giận phải được đoạn trừ để thanh lọc tâm thức và để thành tựu giải thóat. Đức Phật một cách đơn giản đã tìm ra con đường để làm điều này.

Điều gì đã bị thiếu xót là một sự tuệ tri về tầm quan trọng của sự cảm thọ. Như bây giờ, một cách tổng quát nó được cho rằng những phản ứng lại của chúng ta là đối với những đối tượng bên ngoài của các căn- thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc và suy tư. Tuy nhiên , sự quán sát về chân lý trong đó biểu lộ giữa đối tượng và sự phản ứng là một gạch nối bị quên đi: sự cảm thọ. Sự tiếp xúc của một đối tượng với một cơ quan cảm nhận tương ứng dẫn đến sự cảm thọ; sự nhận thức sát định một sự đánh giá tốt hoặc xấu, liên quan đến vấn đề mà cảm thọ trở thành vui hoặc không vui. Tiến trình xảy ra rất nhanh đến nỗi sự nhận thức về vấn đề chỉ phát triển sau khi một sự phản ứng đã được lập lại nhiều lần và đã tập trung sức mạnh có nguy cơ có thể chế ngự tâm thức. Để giải quyết những phản ứng này, chúng ta phải tỉnh giác với chúng ở điểm nơi đó chúng nó sinh ra; chúng nó bắt đầu với cảm thọ, và vì vậy chúng ta phải tỉnh giác với những cảm thọ. Sự khám phá vấn đề này chưa từng được biết trước thời Đức phật, đã có thể làm cho Thái tử Siddhatha Gotama đạt được sự giác ngộ, và đây là lý do tại sao Ngài luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm thọ. Cảm thọ có thể đưa đến sự phản ứng về sự tham ái, và sân giận, và vì vậy khổ sinh ra, nhưng cảm họ cũng có thể dẫn đến trí tuệ với trí tuệ này chúng ta loại trừ sự phản ứng và bắt đầu thoát khỏi khổ đau.

Trong Vipassan, bất cứ sự tu tập nào mà ngăn chặn sự tỉnh giác về cảm thọ đều mang lại tác hại, về sự tập trung vào một câu thần chú hoặc một hình tượng, hoặc chỉ chú ý đến sự vận hành vật lý của thân thể hoặc đối với những tư duy sinh khởi trong tâm. các bạn không thể loại trừ khổ đau trừ phi các bạn đi vào nguồn gốc của nó, sự cảm thọ.

Phương pháp của Vipassana được Đức phật giải thích trong bài kinh Satipat.t.haana sutta (Bài kinh Tứ niệm xứ). Bài kinh này được chia thành những phần để kiểm tra những yếu tố khác nhau của phương pháp; quán sát về thân, về cảm thọ, về tâm, và về các pháp. Tuy nhiên, mỗi phần của bài kinh kết luận với cùng một ý nghĩa. Có những điểm khác nhau từ đó để bắt đầu sự thực hành, nhưng không có điều gì khác nhau ở điểm bắt đầu, một thiền giả phải trải qua những giai đoạn nào đó, những kinh nghiệm nào đó trên con đường đi đến mục đích tối hậu. Những kinh nghiệm này, cốt lõi đối vớiø sự hành trì của Vipassana, được mô tả trong những câu được lập lại ở phần kết luận của mỗi phần.

Phần đầu tiên này là phần trong đó chúng ta kinh nghiệm sự sinh (samudaya) và diệt (vaya) một cách riêng biệt. Ở giai đoạn này người hành thiền tỉnh giác về thực tại thống nhất , liên kết trong hình thức của những cảm thọ thô ở trong thân. Chúng ta tỉnh giác một cảm thọ, có thể là đau, sinh khởi. Nó có thể lưu lại trong một thời gian và cuối cùng nó trôi đi.

Tiếp tục đi vượt qua trạm này, chúng ta thâm nhập vào trạng thái của samudaya-vaya (sinh -diệt), trong đó chúng ta kinh nghiệm sự sinh diệt đồng thời, không có bất cứ khoảng gián đọan nào giữa chúng nó. Những cảm thọ thô, tập hợp chia ra thành những dao động vi tế, sinh và diệt ngay tức thời, và sự vững chắc của cấu trúc thân thể và tâm thức biến mất. Tình cảm rắn chắc và vững mạnh, và cảm thọ rắn chắc và cường độ mạnh, cả hai đều phân chẻ thành những dao động không có gì khác hơn. Đây là một trạng thái của bhan’ga - sự phân tán - trong đó chúng ta kinh nghiệm chân lý tuyệt đối của thân và tâm thức: sự sinh diệt liên tục, không có gì được xem là vững chắc ở đây.

Sự phân tán này là một vị trí rất quan trọng trongtiến trình tu tập, vì chỉ khi nào chúng ta kinh nghiệm sự phân tán của cấu trúc thân và tâm thì sự tham đắm đối với chúng không còn hiện hữu nữa. Khi đó chúng ta bắt đầu vô tham trong mọi tình huống ; đó là, chúng ta đi vào trạng thái của san’khaara-upekkhaa (các hành đều thanh tịnh). Những phiền não ngủ ngầm sâu kín bên trong- sam’khaaraa -bị chôn lấp trong vô thức bây giờ bắt đầu xuất hiện ở cấp độ bề mặt của tâm thức. Đây không phải là một sự thối lui; nó là một sự phát triển, vì trừ phi chúng nó hiện ra ở bề mặt, những phiền não không thể đọan trừ được. Chúng nó sinh khởi chúng ta quán sát một cách bình thản, và chúng nó tiêu đi tuần tự theo thứ lớp. Chúng ta sử dụng những cảm thọ thô và bất lạc như lànhững công cụ với công cụ này để loại trừ những san’khaaraa cũ của sân giận đang nằm trong kho dự trữ; chúng ta sử dụng những cảm thọ vi tế và hân hoan như những công cụ với công cụ này để đoạn trừ những san’khaaraa cũ của tham ái còn lưu trữ. Vì vậy, bằng sự duy trì tỉnh giác và bình thản đối với mỗi kinh nghiệm, chúng ta thanh lọc tâm thức của tất cả những phiền não phức tạp ngủ ngầm bên trong, và hướng đến mỗi lúc gần hơn và gần hơn mục đích của Niết bàn, của sự giải thóat.

Bất cứ những gì thuộc về trạm khởi đầu, chúng ta phải đi qua tất cả những trạm này để đến niết bàn. Chúng ta có thể đến mục đích sớmtùy thuộc vào khả năng nổ lực hành trì của chúng ta, và sự tích tụ những san’khaaraa của quá khứ mà chúng ta phải đoạn trừ.

Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, ở mỗi tình huống, sự bình thản là vấn đề cốt lõi, dựa vào sự tỉnh giác của những cảm thọ. San’khaaraa sinh ra từ điểm giao cảm của thân cảm thọ. Bằng sự duy trì bình thản đối với cảm thọ, các bạn ngăn ngừa không cho san’khaaraa mới sinh ra, và các bạn đồng thời đoạn trừ những san’khaaraa cũ. Vì vậy bằng sự quán sát những cảm thọ một cách tỉnh lặng, các bạn tuần tự phát triển hướng đến mục đích của sự giải thoát những khổ đau.

Thực tập một cách nghiêm túc. Đừng sử dụng thiền định như một trò chơi, chỉ thử nghiệm một cách hời hợt tuần tự các phương pháp hành trì mà không theo đuổi thật sự. Nếu các bạn làm như vậy, các bạn sẽ không bao giờ vượt qua những tiến trình ban đầu của bất cứ phương pháp nào, và vì vậy các bạn sẽ không bao giờ thành tựu mục đích. Điều đương nhiên, các bạn có thể tiến hành những thí nghiệm về những phương pháp khác nhau để tìm ra một phương pháp thích hợp cho các bạn. Các bạn cũng có thể đưa ra hai hoặc ba cuộc trắc nghiệm của phương pháp này, nếu cần, nhưng đừng để phí bỏ suốt cuộc đời của các bạn chỉ vì những cuộc trắc nghiệm. Một khi các bạn tìm ra một phương pháp thích hợp, thực hành nó một cách nghiêm túc để các bạn có thể phát ttriển đến mục đích.

Cầu mong những người khổ đau ở khắp mọi nơi tìm thấy con đường giải thoát khổ đau.
Cầu mong mọi chúng sanh đều được hạnh phúc!

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Tám 2016(Xem: 4930)
25 Tháng Bảy 2016(Xem: 5045)
Kính thưa các đại biểu đáng kính của cộng đồng Phật giáo, thưa các bạn: tất cả các bạn đã đến đây để tìm hiểu Thiền Quán là gì và nó giúp chúng ta thế nào trong cuộc sống hằng ngày; nó giúp chúng ta thế nào để thoát khỏi đau khổ, đau khổ của đời sống và của cái chết. Mọi người đều muốn thoát đau khổ, muốn sống một cuộc đời an bình và hòa hợp. Chỉ có điều chúng ta không biết làm thế nào. Chính sự giác ngộ của Siddhatta Gotama đã giúp ngài nhận ra chân lí: đau khổ nằm ở đâu, nó bắt đầu thế nào và làm thế nào để diệt khổ.
12 Tháng Bảy 2016(Xem: 5093)
Đây là bài thực tập do chính Jon Kabat Zinn phác thảo và đã trở thành một bài thực tập điển hình của hầu hết văn bản chỉ dẫn thực tập.
07 Tháng Bảy 2016(Xem: 5830)
Thiền sư U Silananda thọ giới tỳ kheo đã hơn bốn mươi lăm năm. Ngài hoàn mãn văn bằng Phật học cao cấp nhất tại Miến Điện và đã từng dạy đại học nơi này. Trong kỳ Kiết Tập Kinh Điển Phật Giáo lần thứ sáu tại Miến Điện vào năm 1954, Ngài là vị lãnh đạo việc soạn thảo Tự Điển Miến-Pali và cũng là Trưởng Ban Kiết Tập Kinh Điển Pali, Chú Giải, và Chú Giải Của Chú Giải lúc Ngài mới vừa 26 tuổi. Ngài là tác giả của nhiều sách viết bằng tiếng Miến và tiếng Anh, trong đó có cuốn The Four Foundations Of Mindfulness (Tứ Niệm Xứ hay là Bốn Lãnh Vực Quán Niệm), một cuốn sách căn bản giảng dạy chi tiết về Tứ Niệm Xứ.
05 Tháng Bảy 2016(Xem: 4885)
Tôi hành thiền Vipassanà không theo cách rập khuôn một bài bản cố định, có điều kiện của các thiền sư, thiền viện hay thiền phái nổi tiếng nào, dù biết rằng những phương pháp vận dụng quy mô ấy đều đem lại lợi lạc nhất định cho rất nhiều hành giả và bản thân tôi cũng đã học hỏi từ đó rất nhiều.
24 Tháng Sáu 2016(Xem: 5105)
Đạo Phật Là Gì? Đạo Phật chân chính không là những đền đài, tượng Phật, cúng dường hoặc lễ tụng. Trong khi những thứ này đều có giá trị, chúng lại không đáp ứng câu hỏi: Đạo Phật chân chính là gì? Nếu nói rằng đạo Phật chân chính là sự tu tập thiền định dùng chánh niệm và thắng trí để đạt tuệ giác đến dứt trừ tất cả phiền não, diệt khổ ưu thì chưa hẳn là đúng.