Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm

20 Tháng Hai 201100:00(Xem: 6519)

Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm 

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma, một khu phố của dân Kuru. Một hôm, Ngài gọi các vị chư tăng: “Nầy các thầy”. Chư tăng đáp: “Thưa Đức Thế Tôn”. Đức Phật nói: “Nầy các vị, đây là con đường duy nhất để thanh tịnh thân tâm, vượt thắng phiền não, diệt trừ ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập niết bàn - đó là con đường của bốn lãnh vực quán niệm”. 

Bốn lãnh vực quán niệm là những lãnh vực gì? 

Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về thân thể, xa lìa mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời. 

Người ấy an trú trong sự quán niệm về cảm thọ nơi cảm thọ, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về cảm thọ, xa lìa mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời. 

Người ấy an trú trong sự quán niệm về tâm thức nơi tâm thức, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về tâm thức, xa lìa mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời. 

Người ấy an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về đối tượng của tâm thức, xa lìa mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời. 

Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể như thế nào? 

Người ấy tìm đến một khu rừng, tới một gốc cây, hay một nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế kiết già, giữ thân hình ngay thẳng và thiết lập sự quán niệm trên đối tượng thiền định. Với ý thức rõ ràng và sáng suốt, người ấy thở vào. Với ý thức rõ ràng và sáng suốt, người ấy thở ra. 

Thở vào một hơi thở dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở vào một hơi thở dài”. Thở ra một hơi thở dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở ra một hơi thở dài”. 

Thở vào một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở vào một hơi thở ngắn”. Thở ra một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở ra một hơi thở ngắn”. 

Người hành giả tự mình thực tập như sau:

Với ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở vào. Với ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở ra.

Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở vào. Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở ra.

Như người thợ tiện khéo tay hay người thợ học nghề, khi xoay một vòng dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang xoay một vòng dài”. Hay xoay một vòng ngắn, người ấy ý thức rằng: “ta đang xoay một vòng ngắn”.

Cũng như người hành giả thở vào một hơi thở dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở vào một hơi thở dài”. Thở ra một hơi thở dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở ra một hơi thở dài”. 

Thở vào một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở vào một hơi thở ngắn”. Thở ra một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở ra một hơi thở ngắn”. 

Người hành giả tự mình thực tập như sau:

Với ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở vào. Với ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở ra.

Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở vào. Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở ra.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Khi đi, người hành giả ý thức rằng: “ta đang đi”. Khi đứng, người hành giả ý thức rằng: “ta đang đứng”. Khi ngồi, người hành giả ý thức rằng: “ta đang ngồi”. Khi nằm, người hành giả ý thức rằng: “ta đang nằm”. Bất cứ thân thể đang ở trong tư thế nào, người hành giả cũng ý thức về tư thế đó.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Khi đi tới hay đi lui, người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi nhìn trước hay nhìn sau, cúi xuống hay đứng lên, người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi mặc áo cà sa hay mang bình bát, người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi ăn hay uống, nhai hay nếm, người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi đi đại tiện hay tiểu tiện, người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi đi hay đứng, nằm hay ngồi, ngủ hay thức, nói hay im lặng, người hành giả cũng ý thức rõ ràng về việc đó. 

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Người hành giả quán niệm về chính thân thể nầy, từ gót chân trở lên và từ đỉnh đầu trở xuống, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy các loại bất tịnh. Thuộc về thân thể nầy: “tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước mủ, nước khớp xương, nước tiểu”. 

Nầy các vị, thí dụ có một cái bao đựng các loại ngũ cốc như gạo lức, gạo hẻo rằng, lúa, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng. Hai đầu bao có thể mở ra được. Một người có mắt tốt khi mở bao ra, thấy rõ mọi loại hạt chứa đựng trong đó. Đây là gạo lức, gạo hẻo rằng, lúa, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng. 

Cũng như thế, khi quán niệm về thân thể nầy, người hành giả thấy được mọi thứ, từ gót chân đến đỉnh đầu và từ đỉnh đầu xuống gót chân, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy các loại bất tịnh. Thuộc về thân thể nầy: “tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước mủ, nước khớp xương, nước tiểu”.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Lại nữa, nầy các vị. Trong bất cứ tư thế nào của thân thể, người hành giả cũng quán niệm về những yếu tố cấu tạo thành thân thể. Trong thân thể nầy, có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa, có yếu tố gió. Như người đồ tể rành nghề hay người thợ học nghề, khi giết một con bò, ngồi giữa ngả tư và xẻ con bò ra thành nhiều phần. Người hành giả cũng vậy, trong bất cứ tư thế nào của thân thể, cũng quán niệm về những yếu tố cấu tạo thành thân thể. Trong thân thể nầy, có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa, có yếu tố gió.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Lại nữa, nầy các vị. Như khi thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, đã được một ngày, hai ngày, hoặc ba ngày, sình trương, thâm tím và thối rữa. Người hành giả quán niệm về thân thể đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có cách nào tránh thoát.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, bị quạ rỉa, bị diều hâu, kên kên và chó sói rừng gặm xé, bị dòi bọ rúc rỉa. Người hành giả quán niệm về thân thể đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có cách nào tránh thoát.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại bộ xương dính ít thịt và máu, các khớp xương còn gắn liền nhau bởi gân cốt. 

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại bộ xương không còn chút thịt nào nhưng vẫn còn dính chút máu, các khớp xương còn gắn liền nhau bởi gân cốt. 

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại bộ xương không còn chút thịt nào và cũng không còn chút máu nào, các khớp xương còn gắn liền nhau bởi gân cốt. 

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại đống xương rời rạc, chỗ nầy là xương tay, xương chân, chỗ kia là xương đùi, xương mông, xương sống, đầu lâu. 

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại đống xương trắng màu vỏ ốc. 

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại đống xương khô đã hơn một năm. 

Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại đống xương rã nát thành tro bụi. 

Người hành giả quán niệm về thân thể đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có cách nào tránh thoát.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là như vậy, thưa các vị.

Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về cảm thọ nơi cảm thọ như thế nào? 

Khi có một cảm giác khoái lạc, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác khoái lạc”. Khi có một cảm giác đau khổ, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác đau khổ”. Khi có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ”. 

Khi có một cảm giác khoái lạc về thể xác, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác khoái lạc về thể xác”. Khi có một cảm giác khoái lạc về tinh thần, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác khoái lạc về tinh thần”. 

Khi có một cảm giác đau khổ về thể xác, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác đau khổ về thể xác”. Khi có một cảm giác đau khổ về tinh thần, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác đau khổ về tinh thần”. 

Khi có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ về thể xác, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ về thể xác”. Khi có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ về tinh thần, người hành giả ý thức: “ta đang có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ về tinh thần”.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về cảm thọ nơi cảm thọ, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài cảm thọ. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi cảm thọ. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có cảm thọ đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về cảm thọ. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về cảm thọ nơi cảm thọ là như vậy, thưa các vị.

Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về tâm thức nơi tâm thức như thế nào? 

Khi tâm thức có tham dục, người hành giả ý thức là tâm thức mình có tham dục. Khi tâm thức không có tham dục, người hành giả ý thức là tâm thức mình không có tham dục. 

Khi tâm thức có sân hận, người hành giả ý thức là tâm thức mình có sân hận. Khi tâm thức không có sân hận, người hành giả ý thức là tâm thức mình không có sân hận. 

Khi tâm thức có si mê, người hành giả ý thức là tâm thức mình có si mê. Khi tâm thức không có si mê, người hành giả ý thức là tâm thức mình không có si mê. 

Khi tâm thức có thu nhiếp, người hành giả ý thức là tâm thức mình có thu nhiếp. Khi tâm thức có tán loạn, người hành giả ý thức là tâm thức mình có tán loạn. 

Khi tâm thức trở thành rộng lớn, người hành giả ý thức là tâm thức mình trở thành rộng lớn. Khi tâm thức trở thành hạn hẹp, người hành giả ý thức là tâm thức mình trở thành hạn hẹp. 

Khi tâm thức đạt đến trạng thái cao nhất, người hành giả ý thức là tâm thức mình đạt đến trạng thái cao nhất. Khi tâm thức không đạt đến trạng thái cao nhất, người hành giả ý thức là tâm thức mình không đạt đến trạng thái cao nhất. 

Khi tâm thức có định, người hành giả ý thức là tâm thức mình có định. Khi tâm thức không có định, người hành giả ý thức là tâm thức mình không có định. 

Khi tâm thức có giải thoát, người hành giả ý thức là tâm thức mình có giải thoát. Khi tâm thức không có giải thoát, người hành giả ý thức là tâm thức mình không có giải thoát.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về tâm thức nơi tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi tâm thức. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có tâm thức đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về tâm thức. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về tâm thức nơi tâm thức là như vậy, thưa các vị.

Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức như thế nào? 

Trước hết, người hành giả quán niệm về năm hiện tượng ngăn che như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. Quán niệm bằng cách nào? 

Khi có một niệm ái dục, người hành giả ý thức mình có một niệm ái dục. Khi không có một niệm ái dục, người hành giả ý thức mình không có một niệm ái dục. 

Khi một niệm ái dục chưa phát sanh, nay bắt đầu phát sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi một niệm ái dục đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi một niệm ái dục đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về điều đó. 

Khi có một niệm sân hận, người hành giả ý thức mình có một niệm sân hận. Khi không có một niệm sân hận, người hành giả ý thức mình không có một niệm sân hận. 

Khi một niệm sân hận chưa phát sanh, nay bắt đầu phát sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi một niệm sân hận đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi một niệm sân hận đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về điều đó. 

Khi có sự mê muội và buồn ngủ, người hành giả ý thức mình có sự mê muội và buồn ngủ. Khi không có sự mê muội và buồn ngủ, người hành giả ý thức mình không có sự mê muội và buồn ngủ. 

Khi sự mê muội và buồn ngủ chưa phát sanh, nay bắt đầu phát sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi sự mê muội và buồn ngủ đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi sự mê muội và buồn ngủ đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về điều đó. 

Khi có sự giao động bất an và hối hận, người hành giả ý thức mình đang có sự giao động bất an và hối hận. Khi không có sự giao động bất an và hối hận, người hành giả ý thức mình không có sự giao động bất an và hối hận. 

Khi sự giao động bất an và hối hận chưa phát sanh, nay bắt đầu phát sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi sự giao động bất an và hối hận đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi sự giao động bất an và hối hận đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về điều đó. 

Khi có sự nghi ngờ, người hành giả ý thức mình đang có sự nghi ngờ. Khi không có sự nghi ngờ, người hành giả ý thức mình không có sự nghi ngờ. 

Khi sự nghi ngờ chưa phát sanh, nay bắt đầu phát sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi sự nghi ngờ đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức được sự khử diệt đó. Khi sự nghi ngờ đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về điều đó.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có đối tượng của tâm thức đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về năm hiện tượng ngăn che như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức là như vậy, thưa các vị.

Tiếp đó, người hành giả quán niệm về sự bám víu vào năm uẩn như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. Quán niệm bằng cách nào? 

Người hành giả quán niệm như sau: 

“đây là hình sắc, đây là sự phát sinh của hình sắc, đây là sự hủy diệt của hình sắc”. 

“đây là cảm thọ, đây là sự phát sinh của cảm thọ, đây là sự hủy diệt của cảm thọ”. 

“đây là tri giác, đây là sự phát sinh của tri giác, đây là sự hủy diệt của tri giác”. 

“đây là sự vận hành tâm tư, đây là sự phát sinh của sự vận hành tâm tư, đây là sự hủy diệt của sự vận hành tâm tư”. 

“đây là ý thức phân biệt, đây là sự phát sinh của ý thức phân biệt, đây là sự hủy diệt của ý thức phân biệt”.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có đối tượng của tâm thức đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về sự bám víu vào năm uẩn như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức là như vậy, thưa các vị.

Tiếp đó, người hành giả quán niệm về sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. Quán niệm bằng cách nào? 

Người hành giả ý thức về mắt, ý thức về đối tượng của mắt là hình sắc, ý thức về những ràng buộc tạo nên do mắt và hình sắc. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa. 

Người hành giả ý thức về tai, ý thức về đối tượng của tai là âm thanh, ý thức về những ràng buộc tạo nên do tai và âm thanh. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa. 

Người hành giả ý thức về mũi, ý thức về đối tượng của mũi là mùi hương, ý thức về những ràng buộc tạo nên do mũi và mùi hương. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa. 

Người hành giả ý thức về lưỡi, ý thức về đối tượng của lưỡi là vị nếm, ý thức về những ràng buộc tạo nên do lưỡi và vị nếm. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa. 

Người hành giả ý thức về thân, ý thức về đối tượng của thân là sự xúc chạm, ý thức về những ràng buộc tạo nên do thân và sự xúc chạm. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa. 

Người hành giả ý thức về tâm ý, ý thức về đối tượng của tâm ý là tư tưởng, ý thức về những ràng buộc tạo nên do tâm ý và tư tưởng. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa. 

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có đối tượng của tâm thức đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức là như vậy, thưa các vị.

Tiếp đó, người hành giả quán niệm về bảy yếu tố của sự giác ngộ như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. Quán niệm bằng cách nào? 

Khi có yếu tố chánh niệm, người hành giả ý thức là mình đang có chánh niệm. Người ấy quán niệm rằng: “tâm mình đang có chánh niệm”. Khi không có chánh niệm, người hành giả ý thức là mình không có chánh niệm. Người ấy ý thức về chánh niệm chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về chánh niệm đã phát sanh, nay đang thành tựu. 

Khi có yếu tố trạch pháp, người hành giả ý thức là mình đang có sự quyết trạch về các pháp. Người ấy quán niệm rằng: “tâm mình đang có sự quyết trạch về các pháp”. Khi không có sự quyết trạch về các pháp, người hành giả ý thức là mình không có sự quyết trạch về các pháp. Người ấy ý thức sự quyết trạch về các pháp chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về sự quyết trạch về các pháp đã phát sanh, nay đang thành tựu. 

Khi có yếu tố tinh tấn, người hành giả ý thức là mình đang có sự tinh tấn. Người ấy quán niệm rằng: “tâm mình đang có sự tinh tấn”. Khi không có sự tinh tấn, người hành giả ý thức là mình không có sự tinh tấn. Người ấy ý thức về sự tinh tấn chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về sự tinh tấn đã phát sanh, nay đang thành tựu. 

Khi có yếu tố hoan hỷ, người hành giả ý thức là mình đang có sự hoan hỷ. Người ấy quán niệm rằng: “tâm mình đang có sự hoan hỷ”. Khi không có sự hoan hỷ, người hành giả ý thức là mình không có sự hoan hỷ. Người ấy ý thức về sự hoan hỷ chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về sự hoan hỷ đã phát sanh, nay đang thành tựu. 

Khi có yếu tố khinh an, người hành giả ý thức là mình đang có sự khinh an. Người ấy quán niệm rằng: “tâm mình đang có sự khinh an”. Khi không có sự khinh an, người hành giả ý thức là mình không có sự khinh an. Người ấy ý thức về sự khinh an chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về sự khinh an đã phát sanh, nay đang thành tựu. 

Khi có yếu tố định, người hành giả ý thức là mình đang có định. Người ấy quán niệm rằng: “tâm mình đang có định”. Khi không có định, người hành giả ý thức là mình không có định. Người ấy ý thức về sự định tâm chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về sự định tâm đã phát sanh, nay đang thành tựu. 

Khi có yếu tố buông xả, người hành giả ý thức là mình có buông xả. Người ấy quán niệm rằng: “tâm mình có buông xả”. Khi không có buông xả, người hành giả ý thức là mình không có buông xả. Người ấy ý thức về sự buông xả chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về sự buông xả đã phát sanh, nay đang thành tựu. 

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có đối tượng của tâm thức đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về bảy yếu tố của sự giác ngộ như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức là như vậy, thưa các vị.

Tiếp đó, người hành giả quán niệm về bốn sự thật cao quý như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. Quán niệm bằng cách nào? 

Khi sự kiện là đau khổ, người hành giả quán niệm: “đây là đau khổ”. Khi sự kiện là nguyên nhân đưa đến đau khổ, người hành giả quán niệm: “đây là nguyên nhân đưa đến đau khổ”. Khi sự kiện là sự chấm dứt đau khổ, người hành giả quán niệm: “đây là sự chấm dứt đau khổ”. Khi sự kiện là con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ, người hành giả quán niệm: “đây là con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ”.

Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có đối tượng của tâm thức đây”, như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về bốn sự thật cao quý như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức là như vậy, thưa các vị.

Nầy các vị, người hành giả nào thực hành được bốn lãnh vực quán niệm trên trong bảy năm, người ấy có thể đạt được quả vị chánh trí ngay nơi đây và trong kiếp này. Hoặc nếu còn dư báo thì cũng sẽ đạt được quả vị không còn trở lại. 

Nầy các vị, đừng nói gì đến bảy năm. Người nào thực hành được bốn lãnh vực quán niệm trên trong sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, hoặc một năm, người ấy cũng có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay nơi đây và trong kiếp này. Hoặc nếu còn dư báo thì cũng sẽ đạt được quả vị không còn trở lại. 

Nầy các vị, đừng nói gì đến một năm. Người nào thực hành được bốn lãnh vực quán niệm trên trong bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, hoặc nửa tháng, người ấy cũng có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay nơi đây và trong kiếp nầy. Hoặc nếu còn dư báo thì cũng sẽ đạt được quả vị không còn trở lại. 

Nầy các vị, đừng nói gì đến nửa tháng. Người nào thực hành được bốn lãnh vực quán niệm trên trong một tuần, người ấy cũng có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay nơi đây và trong kiếp nầy. Hoặc nếu còn dư báo thì cũng sẽ đạt được quả vị không còn trở lại. 

Đó là lý do tại sao mà tôi đã nói: “đây là con đường duy nhất để thanh tịnh thân tâm, vượt thắng phiền não, diệt trừ ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập niết bàn - đó là con đường của bốn lãnh vực quán niệm”. 

Đức Phật đã nói như vậy. Các vị hành giả hoan hỷ ghi nhận và thực tập theo lời Ngài.

- source: four foundations of mindfulness, Trường Đinh dịch thuật

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6091)
FAQ: Làm sao để biết ai là người hướng dẫn thực tập có khả năng? Phong trào MBSR đào tạo được khoảng chừng 9 ngàn người hướng dẫn chánh niệm tốt nghiệp từ cơ quan phụ trách đào tạo Oasis, trung tâm huấn luyện các giáo thọ chuyên nghiệp. Có chừng 18 ngàn bệnh nhân đã theo học các khóa MBSR ở UMass và một số lớp khác tổ chức tại địa phương. Để bảo vệ chất lượng huấn luyện các cơ sở này có giáo chức huấn luyện và chương trình giảng dạy hoàn bị. Ngoài ra còn có các trung tâm nghiên cứu Chánh Niệm như ở đại học California- Los Angeles (UCLA) tổ chức một chương trình 6 tuần lễ dành cho những sinh viên hay nhân viên và giáo chức muốn trở thành giáo thọ Chánh Niệm...
14 Tháng Tư 2016(Xem: 6749)
Chúng ta hãy nói một chút về việc hành thiền (thiền tứ niệm xứ). Quí vị cần phải biết một số điểm quan trọng trước khi bắt đầu thực hành. Hành thiền có nghĩa là gì? Quý vị thực hành như thế nào? Trạng thái tâm quan sát ra sao, thái độ thế nào? Mục đích hành thiền của quý vị là gì? Quý vị cần có một ý niệm và mục đích rõ ràng trước khi bắt đầu thực hành. Quý vị không thể bắt đầu thực hành mà không có một số hiểu biết hay kiến thức về việc mình đang làm. Khi quý vị làm một việc gì đó, quý vị cần phải hiểu một chút về những nguyên tắc đối với việc mình đang làm. Chỉ như vậy quý vị mới gặt hái được lợi ích từ việc làm đó. ....
09 Tháng Tư 2016(Xem: 5797)
FAQ: Mức độ khả tín của hiệu quả thực tập Chánh niệm? Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như nhãn, nhĩ , tỵ , thiệt, thân và ý (thức) Thuật ngữ Phật giáo gọi là năm căn hay bình dân hơn là lục tặc (đeo trên người Phật Di Lặc) Đó là sáu cửa ngõ để thế giới bên ngoài xâm nhập vào Tâm...
04 Tháng Tư 2016(Xem: 5602)
Bài viết này sẽ trình bày rằng Thiền Tông là pháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy. Nói nguyên thủy, vì Thiền Tông chính từ lời Đức Phật dạy. Nói cốt tủy, vì nhiều cách an tâm trong Thiền Tông là từ các kinh, khi chư tăng cao niên xin dạy pháp ngắn gọn để sẽ lui về một góc rừng ngồi trọn đời cho tới khi giải thoát.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 5714)
Câu hỏi: Chánh Niệm là phương pháp thực hành tâm linh của Phật Giáo hay một phương pháp phổ quát khoa học? Chánh Niệm là chú ý theo dõi một đối tượng nào đó với chủ đích, trong khoảnh khắc hiện tại, bàng quan, không phán đoán. Có bốn yếu tố chính (1) chú ý theo dõi (2) trong khoảnh khắc hiện tại (3) có mục đích (4) không phán đoán tất cả những đối tượng hay trãi nghiệm hiện ra trong tầm ý thức.
02 Tháng Ba 2016(Xem: 5390)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, với một tâm tư hoàn toàn tỉnh táo và sáng suốt, biết rõ đối tượng đang tiếp xúc hay thức tỉnh về việc mình đang làm. Nó là một hình thái thiền hành được áp dụng trong đời sống thường nhật, thể hiện qua việc chú tâm nhận biết hay chánh niệm tỉnh giác về các hoạt động của thân thể, vừa khiến cho tâm thức diễn tiến một cách thư thái, hài hòa, thông suốt, vừa khiến cho mọi hoạt động trở nên khoan thai, nhịp nhàng, chuẩn xác. Đây là một trong các phương pháp “quán thân trên thân” (kàye kàyànupassanà)1 hay pháp môn “thân hành niệm”(kàyagatasati)2 được nói đến trong kinh điển đạo Phật, nghĩa là chú tâm nhận biết hay quán niệm về các hoạt động hàng ngày của thân thể, khiến cho tâm trí trở nên định tĩnh, thanh tịnh, sáng suốt, đạt đến giải thoát và giải thoát tri kiến. Kinh Sa-môn quả, Trường Bộ nêu định nghĩa:
12 Tháng Giêng 2016(Xem: 9446)
Giống như trò chơi thể thao golf hay cả khi muốn luộc trứng tới mức hoàn hảo, mới đầu thực hành chánh niệm có vẻ dễ dàng. Nhưng lúc quý vị ngồi xuống tọa Thiền với đôi mắt nhắm hay mở – một chuyện không thể nào tránh được là quý vị không thể nào ngừng suy nghĩ
26 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10355)
Trong bài kinh Kalama nổi tiếng, thường được nhắc đến, Đức Phật đã đề ra mười điều mà ta không nên dựa vào để chọn người thầy hay để đi theo con đường tâm linh nào đó. Tất cả đều có liên quan đến một hệ thống niềm tin dựa vào truyền thống hay vào các cổ thư. Không tin nhưng ta phải tự tìm ra sự thật là điều Đức Phật thường nhấn mạnh. Nếu không làm thế, ta sẽ khó có được cái thấy nội tại, là bước đầu tiên đưa ta đến con đường đạo.
25 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6398)
Như Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ kheo, đây là con đường trực tiếp để làm trong sạch chúng sinh, để vượt qua buồn đau và sầu bi, để chấm dứt sự khổ và phiền não, để đạt được con đường chánh đạo, để chứng ngộ Niết-bàn, được gọi là Bốn Nền Tảng Chánh Niệm.”
21 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10472)
Vào thời Đức Phật có vị tỳ khưu tên Tuccho Pothila. Đại Đức Pothila rất thông minh, thấu suốt nằm lòng kinh điển. Ngài có đến mười tám ngôi chùa và được xem là một Pháp Sư lỗi lạc, khét tiếng đến nỗi mọi người đều tôn sùng kỉnh mộ. Khi nghe đến danh Đại Đức "Tuccho Pothila" ai cũng thán phục.