Thiền Định và Sức Khỏe

08 Tháng Mười Hai 201709:14(Xem: 5990)
THIỀN ĐỊNHSỨC KHỎE
Tác giả : Đại đức Thích Thiện Minh (Varapañño)
Tiến sĩ Phật Học (Srilanka)
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2017


Giới thiệu sách:
Ai sống một trăm năm, ác giới không Thiền Định.
Không bằng sống một ngày, có giới có Thiền Định.
(Kinh Pháp cú)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính thưa chư vị Thiện Hữu!

Thien Dinh va Suc KhoeNhư chúng ta đã biết,“Sức khỏe thể chất”, “Sức khỏe tinh thần” là hai vấn đề không thể tách rời và luôn trong thế hỗ trợ và nương tựa cho nhau để tạo nên sự an vui hạnh phúc lâu dài cho mỗi cá nhân trong cuộc sống.

Sự phát triển của Y học kim cổ Tây phương cũng như Đông phương, đặt trọng tâm vào sự chăm sóc sức khỏe thể chất của con người và hỗ trợ cho sức khỏe tinh thần trong một chừng mực nào đó. Nội dung chủ yếu của sách nầy là trình bày về “bốn yếu tố” chính yếu quan trọng ảnh hưởng quyết định đến sức khỏe đời sống của con người. Đặc biệt trình bày khá chi tiếtcụ thể về “phương pháp thiền định”, một phương pháp dưỡng sinh qua hơi thở vô cùng độc đáo, tuyệt vời được lưu truyền từ các bậc Thánh nhân tiền bối ngày xưa...

Tự ngàn xưa loài người trên trái đất nầy, bên cạnh việc chăm sóc sức khỏe về thể chất, cũng đã có phương pháp chăm sóc cho sức khỏe tinh thần một cách tích cựchiệu quả đó là Thiền Định. Con người trong dòng sinh tồn, trên đường mưu sinh sự nghiệp, thường bị ảnh hưởng bởi các tác động xã hội vận hành chi phối. Biết bao áp lực từ chính bản thân, từ công việc gia đình, xã hội, thế giới... và dường như không thể tránh khỏi, những áp lực ấy ngày một tăng thêm. Một số trường hợp căng thẳng thần kinh (stress), các hội chứng rối loạn tâm thần... mà cả hai ngành Tây y cũng như Đông y chưa tìm ra phương thuốc điều trị nhiều hiệu quả.

Thiền Định như một phương thuốc linh diệu có thể chặn đón, ngăn ngừa và hóa giải được những trạng thái tâm lí căng thẳng ấy trong mọi nơi mọi lúc. Thiền định giúp cho hành giả định tỉnh, trầm lặng hơn, biết tự chế, tự điều hòa được với những nguyện vọng mãnh liệt, những ảo tưởng, ảo giác phi thực tế quá độ, những cơn nóng giận do trái ý nghịch lòng... Thiền tự đánh thức, khơi dậy vô vàn năng lực quý báu vốn tiềm ẩn trong nội tâm của mỗi con người chúng ta. Người tập thiền có khả năng tự mình hóa giải những tổn thương trong nội tâm, tăng cường khả năng linh hoạt nhạy bén, dễ dàng vượt qua và hóa giải những khó khăn mà con người phải trực tiếp đối diện trong đời sống hàng ngày ...

Do vậy, mà Thiền Định thật sự là một nhu cầu cần thiết cho mọi người. Bất kỳ ai, ở độ tuổi nào đều cũng có thể thực hành được.

Thiền Định không còn thu hẹp trong lĩnh vực tôn giáo nữa, mà còn là một phương pháp dưỡng sinh hữu ích, một nghệ thuật sống linh động tuyệt vời. Thiền, nhìn bên ngoài thì đơn giản nhưng thật sống động, tinh nhị và phong phú. Thiền Định không chỉ dừng lại ở phạm vi bổ ích cho sức khỏe thể chất, bồi dưỡng cho sức khỏe tinh thần mà còn có một hoạt dụng vô cùng rộng lớn và quí báu, đó là giúp ta tăng trưởng lòng từ ái, tình thương yêu và sự tha thứ đối với nhân loại. Thiền làm nền tảng cho sự phát huy trí tuệ bổ ích lớn lao và thiết thực đối với mọi người, mọi lứa tuổi, đã và đang đi sâu vào giải quyết những vấn đề quan trọng cơ bản nhất từ nội tâm của con người, góp phần tích cực vào sức khỏe sự an vui cho mỗi cá nhân, của hòa bình chung cho toàn thể nhân loại.

Lợi ích tuyệt đối của Thiền Định, vì vậy mà không còn ranh giới và không bị bó buộc trong một cộng đồng văn hóa riêng biệt nào.

Thưa quý vị Thiện hữu!

Xét thấy Thiền Định là một môn học vô cùng bổ ích lớn lao như vậy, nên bần đạo mạo muội dịch soạn một phần nhỏ cuốn sách của Ngài Thiền Sư Acinna là một Đại Trưởng Lão Thiền Sư nổi tiếng, tinh thông cả hai (Pháp học và Pháp hành) tại Myanmar cũng như trên thế giới hiện nay.

Bần đạo thành kính tri ân đến Ngài Thiền Sư viện trưởng Acinna và Ngài Thiền Sư phó viện trưởng Cittara đương nhiệm chủ trì tại trung tâm Thiền viện Quốc tế Pa-Auk (Pa-Auk International Mediation Center–Myanmar), là hai bậc Sư phụ đã tận tâm chỉ dạy phương pháp Thiền định nầy đến bần đạo từ những năm qua. Đồng thời xin tri ân đến sự đóng góp nhiều cao kiến quý báu của chư Đại Đức đồng đạo, nhất là Đại Đức Giáo sư Sundara (Myanmar), Đại Đức Giáo sư Dhammadhara (Myanmar), Đại Đức Kusalaguna (Thiện Đức), Đại Đức Nguyên Tuệ... cùng với lòng hảo tâm của chư thiện tín gần xa hoan hỷ hùn chung phần phước thiện tạo điều kiện thuận lợi cho cuốn sách đến tay quí vị độc giả.

Đồng thời bần đạo thành tâm xin hồi hướng phước báu với Pháp thí này, đến các bậc ân sư và đến hết thảy các chúng sinh, mong cho tất cả chúng sanh hoan hỷ với phước thiện thanh cao này và được an vui lâu dài.

Với sự cố gắng hết mình, nhưng khó tránh khỏi sơ sót. Kính mong chư Tôn hiền đức, các bậc thiện trí thức hoan hỉ bổ chính, từ bi chỉ giáo. Bần đạo kính cẩn xin thọ nhận những cao kiến đóng góp xây dựng, để những lần tái bản được hoàn thiện hơn.

Lần tái bản nầy nhờ sự đóng góp kỹ thuật trình bày bìa của Thiện nam Ngọc Duy, ban in ấn từ nhóm cộng tác viên cô tín nữ Mai Lan Hương, Sư cô Bi Nguyện cũng như được Nhà xuất bản Tôn Giáo cho phép tái bản. Bần đạo rất là hoan hỷbiết ơn quý vị.

Nguyện cầu Ân đức Tam Bảo thiêng liêng và phước báu phát sinh do Pháp thí chân lý thanh cao này, hộ trì đến quý vị cùng bửu quyến luôn được dồi dào sức khỏe, thịnh vượng, phú quý, thân tâm thường an lạc, hằng tấn hóa trong mọi phước thiệnthành tựu mọi ước nguyện cao thượng, nhất là sớm hội đủ duyên lành chứng đắc đạo quả Niết Bàn an vui bất diệt, giải thoát sự buộc ràng sinh tử luân hồi trong ngày vị lai.

Soạn dịch giả: Đại Đức Thiện Minh
Xin chân thành tri ân đến quí vị!
Mandalay, Myanmar
Mùa an cư 25 tháng 7 năm 2015
Phật lịch 2559
 
pdf_download_2
thien-dinh-va-suc-khoe(Thích Thiện Minh)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
14 Tháng Tư 2016(Xem: 6786)
Chúng ta hãy nói một chút về việc hành thiền (thiền tứ niệm xứ). Quí vị cần phải biết một số điểm quan trọng trước khi bắt đầu thực hành. Hành thiền có nghĩa là gì? Quý vị thực hành như thế nào? Trạng thái tâm quan sát ra sao, thái độ thế nào? Mục đích hành thiền của quý vị là gì? Quý vị cần có một ý niệm và mục đích rõ ràng trước khi bắt đầu thực hành. Quý vị không thể bắt đầu thực hành mà không có một số hiểu biết hay kiến thức về việc mình đang làm. Khi quý vị làm một việc gì đó, quý vị cần phải hiểu một chút về những nguyên tắc đối với việc mình đang làm. Chỉ như vậy quý vị mới gặt hái được lợi ích từ việc làm đó. ....
09 Tháng Tư 2016(Xem: 5821)
FAQ: Mức độ khả tín của hiệu quả thực tập Chánh niệm? Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như nhãn, nhĩ , tỵ , thiệt, thân và ý (thức) Thuật ngữ Phật giáo gọi là năm căn hay bình dân hơn là lục tặc (đeo trên người Phật Di Lặc) Đó là sáu cửa ngõ để thế giới bên ngoài xâm nhập vào Tâm...
04 Tháng Tư 2016(Xem: 5636)
Bài viết này sẽ trình bày rằng Thiền Tông là pháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy. Nói nguyên thủy, vì Thiền Tông chính từ lời Đức Phật dạy. Nói cốt tủy, vì nhiều cách an tâm trong Thiền Tông là từ các kinh, khi chư tăng cao niên xin dạy pháp ngắn gọn để sẽ lui về một góc rừng ngồi trọn đời cho tới khi giải thoát.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 5744)
Câu hỏi: Chánh Niệm là phương pháp thực hành tâm linh của Phật Giáo hay một phương pháp phổ quát khoa học? Chánh Niệm là chú ý theo dõi một đối tượng nào đó với chủ đích, trong khoảnh khắc hiện tại, bàng quan, không phán đoán. Có bốn yếu tố chính (1) chú ý theo dõi (2) trong khoảnh khắc hiện tại (3) có mục đích (4) không phán đoán tất cả những đối tượng hay trãi nghiệm hiện ra trong tầm ý thức.
02 Tháng Ba 2016(Xem: 5431)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, với một tâm tư hoàn toàn tỉnh táo và sáng suốt, biết rõ đối tượng đang tiếp xúc hay thức tỉnh về việc mình đang làm. Nó là một hình thái thiền hành được áp dụng trong đời sống thường nhật, thể hiện qua việc chú tâm nhận biết hay chánh niệm tỉnh giác về các hoạt động của thân thể, vừa khiến cho tâm thức diễn tiến một cách thư thái, hài hòa, thông suốt, vừa khiến cho mọi hoạt động trở nên khoan thai, nhịp nhàng, chuẩn xác. Đây là một trong các phương pháp “quán thân trên thân” (kàye kàyànupassanà)1 hay pháp môn “thân hành niệm”(kàyagatasati)2 được nói đến trong kinh điển đạo Phật, nghĩa là chú tâm nhận biết hay quán niệm về các hoạt động hàng ngày của thân thể, khiến cho tâm trí trở nên định tĩnh, thanh tịnh, sáng suốt, đạt đến giải thoát và giải thoát tri kiến. Kinh Sa-môn quả, Trường Bộ nêu định nghĩa:
12 Tháng Giêng 2016(Xem: 9522)
Giống như trò chơi thể thao golf hay cả khi muốn luộc trứng tới mức hoàn hảo, mới đầu thực hành chánh niệm có vẻ dễ dàng. Nhưng lúc quý vị ngồi xuống tọa Thiền với đôi mắt nhắm hay mở – một chuyện không thể nào tránh được là quý vị không thể nào ngừng suy nghĩ
26 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10397)
Trong bài kinh Kalama nổi tiếng, thường được nhắc đến, Đức Phật đã đề ra mười điều mà ta không nên dựa vào để chọn người thầy hay để đi theo con đường tâm linh nào đó. Tất cả đều có liên quan đến một hệ thống niềm tin dựa vào truyền thống hay vào các cổ thư. Không tin nhưng ta phải tự tìm ra sự thật là điều Đức Phật thường nhấn mạnh. Nếu không làm thế, ta sẽ khó có được cái thấy nội tại, là bước đầu tiên đưa ta đến con đường đạo.
25 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6426)
Như Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ kheo, đây là con đường trực tiếp để làm trong sạch chúng sinh, để vượt qua buồn đau và sầu bi, để chấm dứt sự khổ và phiền não, để đạt được con đường chánh đạo, để chứng ngộ Niết-bàn, được gọi là Bốn Nền Tảng Chánh Niệm.”
21 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10519)
Vào thời Đức Phật có vị tỳ khưu tên Tuccho Pothila. Đại Đức Pothila rất thông minh, thấu suốt nằm lòng kinh điển. Ngài có đến mười tám ngôi chùa và được xem là một Pháp Sư lỗi lạc, khét tiếng đến nỗi mọi người đều tôn sùng kỉnh mộ. Khi nghe đến danh Đại Đức "Tuccho Pothila" ai cũng thán phục.
15 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 7248)
Quyển sách rất nhỏ này gồm những trích chọn một số lời dạy riêng về sự thiền tập. Nó gồm những trích đoạn nói riêng về thiền tập được trích từ những cuộc nói chuyện (pháp thoại) dành cho các Phật tử xuất gia và tại gia.