Bất lập văn tự

20 Tháng Tư 201503:49(Xem: 5956)

BẤT LẬP VĂN TỰ 
Không dùng chữ nghĩa, ngôn ngữ.  

Cư sĩ  Nhuận Bảo

Bất lập văn tự ở đây chẳng có nghĩa là hoàn toàn không dụng đến ngôn từ , chữ nghĩa như nhiều người thường nhận lầm, hiểu lầm qua cách định nghĩa từng lời, từng chữ một cách máy móc và giản đơn. Phải hiểu cách rốt ráo, rằng Tông chỉ của Ngài Bồ-đề Đạt-ma không ràng buộc vào ngôn ngữ, chữ nghĩa hay triệt để y cứ vào kinh điển theo thứ lớp mà truyền pháp, tức cũng có nghĩa Tông môn này không ra ngoài chánh pháp mà hơn hai ngàn rưỡi năm trước đức Phật đã truyền cho Sơ tổ Ấn độ Ma-ha Ca-Diếp, ngay giữa hội Linh sơn khi Phật đưa tay có cầm nhành sen vàng giơ lên trước đại chúng, mà tất cả đều ngơ ngác, duy chỉ có Ngài Ma-ha Ca-diếp đã nhìn Phật mỉm cười lãnh thọ Tâm pháp, cũng là pháp thượng thừa tối vi diệu "Không pháp" từ đức Phật. Phật đã ấn chứng việc truyền thừa Tâm pháp cho Tổ Ca-diếp qua lời tuyên bố trước đại chúng: ‘ Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, Pháp môn vi diệu, nay trao lại cho Ma-ha Ca-diếp.’

Và sau đó chính bài kệ truyền tâm ấn của Phật cho vị Tổ đầu tiên của pháp môn này (Ma-ha Ca-diếp) đã nói lên tất cả ý nghĩa của nó :

Pháp bổn pháp vô pháp, 
Vô pháp pháp diệc pháp 
Kim phó vô pháp thời, 
Pháp pháp hà tằng pháp.

Dịch : 
Pháp gốc pháp không pháp 
Pháp không pháp cũng pháp 
Nay hồi trao không pháp 
Các pháp đâu từng pháp.

Qua sự việc Thế tôn tay đưa nhành sen trước đại chúng (thầm trao Tâm pháp), chúng ta nào thấy Phật có thuyết pháp gì ở đây đâu, thế mà ngài Ma-ha Ca-diếp ngay đây trực nhận yếu chỉ.

Bỡi đây là Tâm pháp, một pháp môn tối vi diệu của Phật giáo mà Phật cũng như chư Tổ sau nầy thường gọi là Tối thượng thừa pháp, dành để chỉ dạy cho những người căn trí cao, phước sâu dày, và có duyên với Phật thừa vậy. Há chẳng phải như thế sao, khi mà cả đại chúng trong hội Linh sơn đều mờ mịt, duy chỉ có mỗi một đệ tử tối ưu của Phật, đệ nhất đầu đà Ma-ha Ca-diếp mới lãnh hội được yếu chỉ của pháp môn nầy mà thôi.

Tâm pháp hay Không pháp, cũng còn gọi là Thiền tông, từ sau Phật, tại chính đất Phật, đã được Tổ-Tổ trao truyền không gián đoạn, mãi đến Tổ thứ hai mươi tám của Ấn độ, ngài Bồ-đề Đạt-ma, và Ngài cũng chính là Sơ tổ của Thiền tông Trung hoa vậy.

Với Tâm pháp, không dùng chữ nghĩa, ngôn từ chẳng có nghĩa là không dùng gì cả mà có thể truyền pháp được, mà chữ nghĩa, ngôn từ hay hành động của các Thiền sư vượt thoát khỏi tri kiến nhị nguyên, không dính dấp, ràng buộc với kinh điển, hoặc liên hệ trực tiếp với sự việc đang được người đối diện đề cập đến theo vọng tâm phân biệt của họ, hay nói chính xác, lối dùng ngôn từ hay hành động có tính cách khai thị của chư Tổ thiền tông tuông ra từ cảnh giới tự chứng giải thoát, vượt quá giới hạn của thế trí để ngay đó phương tiện mở lối (khai thị) giúp người đối diện bất giác ngoảnh đầu, chỉ sátnna toàn bộ trí hiểu biết của tâm phân biệt cố hữu bị xóa sạch, như "mây đen qua trăng lộ sáng", đưa người đối diện trực diện Trung đạo, nhận rõ tự tánh (ngộ) để từ đây sống chơn thật với chính mình, cũng là sống đồng bổn lai tự tánh, cũng là Phật tánh (nhập) của mỗi người mà tu hành để tự giải thoát. Đến chỗ nầy, nói tu hành mà trong đây thật chẳng có gì gọi là tu nếu đã tự sống chân thật với chính nó, với tự thể tánh trọn thanh-tịnh, thì không còn đối đãi. Đến chỗ này ngôn ngữ chẳng thể với tới, mà chỉ có thân chứng mới tự tri, như chư Tổ thường nói, uống nước nóng lạnh tự biết vậy.

Nếu diễn-tả được trạng thái tâm thể này qua ngôn từ , chữ nghĩa thì Bồ-Đề Đạt-Ma đã có đề cập đến chữ Vô Tâm mà ý nghĩa là chỉ thể tánh Không -Vô tướng -Vô tác , Lục tổ Huệ Năng khi dùng pháp dạy người thì dụng chữ Không tướng - Vô Niệm - Vô truï , gần đây nhất thì Sư Đại Lãn thể hiện nó qua tự thể và diệu dụng của tánh bằng ba cụm từ Không tịch - Đương Niệm - Vô phân biệt , gồm lại thì một trong ba, phân ra thì ba trong một, nhưng nói cho rốt ráo vẫn chỉ một, chỉ tùy ở chỗ động-dụng của thể-tánh mà nói ba. Tuy-nhiên, dù dụng trăm lời ngàn chữ có lẽ cũng không thật rõ-ràng bằng câu thốt trực ngộ của Lục Tổ Huệ-Năng khi được Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn giảng Kim-Cang Kinh, đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" Ngài đã bất giác thốt lên :

" Hà kỳ Tự tánh bổn tự thanh-tịnh, 
" Hà kỳ Tự tánh bổn bất sanh diệt, 
" Hà kỳ Tự tánh bổn tự cụ túc, 
" Hà kỳ Tự tánh bổn vô động diêu, 
" Hà kỳ Tự tánh năng sanh vạn pháp."

Dịch:

Không dè Tự tánh vốn tự thanh-tịnh, 
Không dè Tư tánh vốn chẳng sanh diệt, 
Không dè Tự tánh vốn tự tròn đầy, 
Không dè Tự tánh vốn không lay động, 
Không dè Tự tánh năng sanh các pháp.

Trong pháp dạy người, tùy căn cơ duyên nghiệp cao thấp, nặng nhẹ của từng người mà các vị Tổ thiền tông tự biết phải có những câu hỏi hoặc đáp khác nhau, hoặc có khi ngậm miệng chẳng nói năng, hoặc có lúc lại dùng hèo, dùng gậy, cú , đấm, vv… để khai thị kẻ đối diện hốt nhiên tỏ ngộ tự tánh.

Với lý đạo, tất cả các pháp đều như huyễn hoá. Ngôn từ, chữ nghĩa, dù là chữ nghĩa trong kinh điển đều cũng không ra ngoài tướng ảo hóa nầy. Mà đã là tướng ảo hóa thì làm sao có thể dùng nó để diễn tả, hay nói lên chỗ cùng tột chơn thật của đạo được. Phải là tự chính mình lìa được tất cả các tướng ảo hóa này mới mong lọt vào cửa đạo. Thế nên Sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma khi nói "Bất lập văn tự" chẳng có nghĩa là hoàn toàn không dùng văn tự, mà có nghĩa là không dụng "Tướng" của văn tự, ngôn ngữ để truyền pháp vậy. Không dùng tướng văn tự, cũng có nghĩa là lìa văn tự, vượt thoát trên văn tự, không văn tự. Không văn tự ở đây tức lìa các tướng, để ngay đó tự không gì vướng mắc, trói buộc, tức là giải thoát vậy. Đây chính là chỗ hàng hàng châu ngọc tuông ra từ cảnh giới giải thoát, nói thật nhiều mà thật chẳng có gì gọi là nói, cũng như cái im lặng vi diệu như sấm, như sét của Phật và chư Tổ, chẳng nói nhưng thật đã nói, đã chỉ quá rõ ràng, trọn vẹn, tất cả đều phơi bày trước mắt chúng ta. Ở chỗ này, trong Kim-cang kinh, Phật đã phơi bày tất cả ruột gan, tha thiết chỉ bảo, nói xa nói gần với các đệ tử của mình: muốn vào tri kiến Phật phải nghe, phải thấy, phải hiểu "trên lời, vượt ý" khi Ngài nhắn nhủ : ‘ Suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp mà môi ta chưa hề động.’ Sự vi diệu và chân thật chính là chỗ này vậy.

Khi dạy người, ngôn từ hay hành động vượt thoát của các Ngài không ngoài mục đích trợ giúp phương tiện cho người đối diện lìa kiến chấp, tự xóa tan toàn bộ vô minh (mà con người tập nhiễm từ lâu đời lâu kiếp) mà họ đã tự nhận lầm vì chấp ngã qua cái biết của lục căn, lục thức. (Thật ra, cái biết đó chính là cái biết của vọng tưởng, của sanh tử nhưng cũng ít ai dám quay lưng lại với nó được, bỡi nặng chấp ngã) Một khi vô minh đã bị triệt tiêu, ngay đó nhận rõ thật tánh của các pháp , cũng là lúc tự mình khám phá được chính mình vậy.

Đối với Phật pháp, dù tu pháp môn nào đi nữa mà qua chữ nghĩa, ngôn từ thì chúng cũng chỉ là phương tiện dẫn dắt, dò dẫm, quan sát bên ngoài mà thôi, bỡi chúng (ngôn ngữ), thậm chí kể cả tri thức cũng đều là sản phẩm hư giả (hữu-tướng) của vọng tâm sanh diệt, nên chẳng thể thâm nhập, với tới được chỗ thật tướng mà không tướng, vô sở đắc của chơn tâm, cảnh giới của Thánh trí tự chứng, nhất như, phi sanh diệt.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Mười Một 2014(Xem: 11098)
"BÂY GIỜ ĐẠI THIỀN SƯ đã nhập diệt, chúng ta chỉ còn lại những câu chuyện. Và, may mắn thay, cuốn sách này là hiện thân như ngài còn sống, cho những ai chưa từng có cơ hội gặp được ngài. Qua các trang sách này, nếu bạn lưu tâm suy gẫm và để cho chúng thấm sâu vào tâm hồn bạn, bạn sẽ thực sự thấy ngài trong lời khai thị mà mình không thể bắt chước được và có lẽ quan trọng hơn nhiều, đó là niềm mong mỏi của ngài, bạn sẽ gặp lại chính mình."
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14389)
Biểu đồ I.1: Thiền tông Ấn Độ Biểu đồ I.2: Thiền Ấn Độ Đến Trung Quốc Biểu đồ I.3: Thiền Trung Quốc – Huệ Năng và Môn Đệ Biểu đồ II.1: Dòng Mã Tổ Biểu đồ II.2: Dòng Mã Tổ Biểu đồ III.1: Tông Tào Động Biểu đồ IV.1: Tông Lâm Tế Biểu đồ IV.3: Dòng Lâm Tế – Viên Ngộ Biểu đồ V: Tông Vân Môn & Pháp Nhãn
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5934)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy. Cho nên, nhìn thấy "cái thấy không thể thấy" thì chân tính sẽ hiện ra. Bản tính của cái thấy là vô sinh, nên "cái thấy sinh nẩy" là không có. Cũng không có sự thực hữu của tính, mà cái thấy chân thực thì không thay đổi, cho nên mới nói: thấy tính một cách chân thực.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 13324)
Phương pháp của Thiền là cắt đứt con đường nói năng và dập tắt khung trời khái niệm trong đó ý thức cứ tiếp tục tư duy và đi tìm kiếm những ý niệm để cố gắng tìm hiểu thực tại (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt). Ngôn ngữ đạo đoạn là cắt đứt con đường ngôn ngữ. Tâm hành xứ diệt nghĩa là dập tắt vùng trời của sự suy tư bằng khái niệm, đừng để tâm ý đi tìm những ý niệm: có-không, sanh-diệt,…
30 Tháng Chín 2014(Xem: 15430)
Đạo Phật nước Việt Nam chúng ta ngày nay có hai pháp môn tu chính là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Hai pháp môn Thiền và Tịnh cùng xuất phát trong hệ kinh tạng Đại Thừa, nói có hai pháp môn nhưng cùng cứu cánh cùng đi đến thành quả là hết khổ đau sanh già bệnh chết cho chính mình và cho mọi người.
29 Tháng Chín 2014(Xem: 9090)
Từ khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua trung quốc truyền tâm ấn đạo lý giác ngộ theo truyền thuyết thì sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền cho vị đệ tử kế thừa là ngài Thần Quang Huệ Khả bộ kinh Lăng-già tâm ấn. Nhưng phải chờ đến hơn ba trăm năm sau và qua sáu vị Tổ thì đạo giác ngộ mới nở hoa kết trái. Tuy nhiên hạt giống của Tổ Bồ-đề-đạt-ma gieo trên đất Trung Hoa là kinh Lăng-già nhưng nở hoa kết trái lại là kinh Kim cang. Tại sao lại có sừ sai biệt như vậy, dù rằng cả hai bộ kinh đều do Như Lai Thế Tôn thuyết giảng.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 13380)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuyệt vời. Tôi có nhiều cơ duyên với ngài... ngay cả từ thời rất là thơ trẻ, khi còn ở trong nước và khi chỉ mới đọc các bài báo sơ sài về ngài. Đất nước Tây Tạng và vị lãnh đạo này là một thế giới kỳ bí, không chỉ vì xa xôi cách biệt nhưng cũng vì niềm tin của dân tộc này rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
22 Tháng Chín 2014(Xem: 11847)
Quyển Lâm Tế Ngữ Lục song ngữ này được soạn thảo cho lớp Phật pháp tiếng Anh và cho giới trẻ người Việt học Phật. Đây là một phần việc trong chương trình giới thiệu những bản dịch hiện nay về văn bản Thiền cổ điển.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 8796)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 9426)
Tánh thấy là tánh giác biểu lộ nơi sự thấy. Tánh giác thì vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay thế nên tánh thấy cũng vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay. Thế thì tại sao lại có ra cái thấy phiền não, sanh tử khổ đau? Cái thấy của chúng ta đã bị nhiễm ô bởi tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… để thành ra các tướng sai biệt đến độ tranh chấp nhau không thể hoà giải. Đó là cái thấy sai lầm.