Phụ Lục Iii. Trương Thiếu Tề Giảng Thoại.

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11946)

III. Trương Thiếu Tề giảng thoại. 

Về căn bản pháp của Thiền, thử quan sát trong bộ Bích Nham Tập, trước hết ta không thể không đề lên tắc (1) thứ nhất gọi là "thánh đế đệ nhất nghĩa". Thiết tưởng ý thú của Viên Ngộ soạn Bích Nham Tập qui thức ở tắc ấy, nên mới gọi là "đệ nhất tắc". Nhân lấy đó làm căn bản pháp của thiền, làm cơ bản dựng tông mở giáo, nên trước hết cần minh thị câu nói đầu tiên ấy của Đạt Ma khi đến xứ này.

... Điểm chủ yếu của tắc ấy nằm trong bốn chữ "Quách nhiên vô thánh". Lương Võ Đế hỏi về "thánh đế đệ nhất nghĩa", ấy là nhà vua lập cước ở nhị đế quan của Phật giáo, tức là chân tục hai đế của toàn thể Phật giáo giáo nghĩa. Đế có nghĩa là chân lý. Võ Đế hỏi về chân lý của chân đế trong hai đế trên; cái mà nhà vua gọi là đệ nhất nghĩa chẳng qua chỉ là chân lý của giáo nghĩa, chưa phải là chân lý của cảnh giới tự chứng, tự ngộ. Đạt Ma đáp là "Quách nhiên vô thánh", cốt bảo rằng căn bản pháp của thiền là "truyền riêng ngoài giáo" chứ không phải là thứ thánh đế như trong giáo học nói. Nên bốn chữ "quách nhiên vô thánh" có thể coi như minh thị xác đáng nhất căn bản pháp của đạo Thiền.

Lương Võ Đế hỏi về đệ nhất nghĩa, sao Đạt Ma đáp là "quách nhiên vô thánh"? Trước hết ta nên khảo sát ý nghĩa rốt ráo của thuật ngữ "đệ nhất nghĩa". Kinh Lăng Già, tập I, phẩm 2, Nhất thiết pháp phẩm, nói: 

Bồ tát Đại Huệ bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Có phải ngôn thuyết là đệ nhất nghĩa? Có phải sở thuyết là đệ nhất nghĩa". Phật bảo Đại Huệ: "Chẳng phải ngôn thuyết là đệ nhất nghĩa, mà cũng chẳng phải sở thuyết là đệ nhất nghĩa. Tại sao vậy? Cái gọi đệ nhất nghĩa là chỗ an vui, sở nhập của bậc thánh nói lên, đó là đệ nhất nghĩa, chớ chẳng phải ngôn thuyết là đệ nhất nghĩa. Cái nghĩa đệ nhất ấy, là chỗ sở đắc của thánh trí tự tri, phải đâu là cảnh giới của ngôn thuyết vọng tưởng, nên ngôn thuyết vọng tưởng không hiển thị được đệ nhất nghĩa. Ngôn thuyết vốn do nhân duyên khởi, có sanh diệt, giao động, lăng xăng; đã là nhân duyên khởi thì không hiển thị được đệ nhất nghĩa. 

Xét theo đó thì đệ nhất nghĩa là cái hiển minh tột bực chân cảnh giới tự chứng ngộ của Phật đà, siêu việt cả phàm và thánh. Sở dĩ Đạt Ma đáp lại "quách nhiên vô thánh" chính là chỉ vào cảnh giới tự chứng tự ngộ. Võ Đế hỏi đệ nhất nghĩa, Đạt Ma đáp đệ nhất nghĩa, ý nghĩa chẳng đồng nhau. Người hỏi là hỏi đệ nhất nghĩa của chân đế trong nhị đế. Người đáp là đáp đệ nhật nghĩa của thánh trí tự giác của Phật đà. Cảnh giới tự giác vốn siêu việt cả chân tục hai đế, tức cảnh Niết bàn tuyệt đối, nên Võ Đế ngẩn ngơ không lãnh hội được. 

Nhưng thử hỏi tại sao nêu lời đáp ấy làm cảnh giới tự chứng? Vì "quách nhiên vô thánh" là cảnh giới siêu việt tất cả phàm thánh, phải trái được mất, là cảnh giới thạnh tịnh tự do vô ngại vậy. 

Vậy tỏ rõ Đạt Ma đã đưa ra lời đáp chẳng qua cốt thị hiện cảnh giới tự chứng; đúng là Sư huy động thanh bi kiếm quách nhiên vô thánh, hướng thẳng vào Võ Đế xả mạnh một đường gươm trên khối cấu ý trần tình của giáo nghĩa và tri giải, thanh thoát lâng lâng đúng như lập trường cứu tế đề xướng ra; chính đó là điều ta cần ghi nhớ. 

Trong bài bình xướng, Viên Ngộ có nói: 

Võ Đế cùng với pháp sư Lâu Ước, đại sĩ Đạo Phó và thái tử Chiêu Minh trì luận chân tục hai đế. Căn cứ theo giáo nghĩa thì chân đế làm sáng tỏ cái phi hữu, tục đế làm sáng tỏ cái phi vô; chân tục chẳng hai, tức thánh đế đệ nhất nghĩa; đó là chỗ cực diệu cùng huyền của hàng giáo gia. Võ Đế bèn đem điểm cực tắc ấy hỏi Đạt Ma: "Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?" Ma đáp: "Quách nhiên vô thánh". Nạp tăng trong thiên hạ chạy đâu cho khỏi! Đạt Ma vì ai một đao dứt tuyệt hết rồi! 

Ở đây,Viên Ngộ lấy trung đế làm thánh đế, căn cứ theo luận giải "bất chân không" của bộ Triệu Luận (2). Ta thử dẫn lời giải thích trong Du Già luận, phẩm chín mươi lăm nói: 

Do hai duyên nên gọi là đế: một là pháp tánh, hai là thắng giải; người ngu có cái trước không có cái sau, bậc thánh đủ cả hai, riêng gọi là thánh đế. Chiếu theo đó, rốt ráo gọi thánh đế là nói về cảnh giới sở chứng của thánh nhân. 

Song le bộ Quảng Hoằng Minh tập nói: 

Thái tử Luơng Chiêu Minh nói : cái gọi là hai đế, một là chân đế, hai là tục đế. Chân đế cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế. 

Tuy nhiên, dù luận bằng cách nào vẫn toàn là sở thuyết về diệu lý cao thâm của thuyết giáo. Đã là diệu lý thì trạm tịch là thể, hư dung là tánh, tuyệt nhiên không tướng không danh, tức không chấp nhận cho ta nghĩ bàn, nên Viên Ngộ nói đó là chỗ cực diệu cùng huyền. Võ Đế nắm lấy diệu lý ấy làm thành một quan niệm để hoang mang chấp lấy, rồi đem hỏi Đạt Ma, nên Đạt Ma đáp là quách nhiên vô thánh. Vì căn bản pháp của thiền chính là chặt đứt tất cả sở thuyết về diệu lý trong giáo nghĩa, vì thiền tự có cảnh giới tự do vô ngại riêng, siêu việt trên tất cả, tức là cảnh giới không Phật, không chúng sanh, không kim cổ. Cảnh giới ấy, tức là căn bản pháp của thiền. 

Viên Ngộ nêu giá trị của cảnh giới ấy như sau:

Nên nói: tham suốt được một câu, thì ngàn câu vạn câu đồng thời suốt, tự nhiên ngồi đâu yên đó, nắm gì vững nấy. Người xưa nói: 

Thịt nát xương tan chưa đền xong, 
Một câu siêu thoát ngàn ức kiếp.

Đó là nói: hễ tham quán câu quách nhiên vô thánh thấu suốt được thì dù đến trăm ức kiếp sanh tử luân hồi cũng siêu thoát xong, nơi pháp vị ngồi yên trên căn bản pháp, nắm lấy bổn phận mình thành bậc "trên trời dưới trời mình ta tôn quí", thành bậc chúa tể của thế giới. Nói thế giới là thế giới của hiện thực lịch sử, thành lập từ bản thể tuyệt đối "vô" của những tác dụng vô tận của chính ta; đảm nhiệm những tác dụng ấy từ nơi cơ yếu là thành tựu nhân cách "vô" của bổn thể tự giác, tuy ở trong thế giới mà vẫn siêu ngoài thế giới, hoạt dụng dọc ngang trong lịch sử mà vẫn sáng tạo ngoài lịch sử, nên gọi là chúa tể. Đó là cảnh giới cực tuyệt, có chứng đến đó mới gọi là được tôn giáo.

 Thiền học giảng thoại (3)

GHI CHÚ:

(1) Tắc: đề mục diễn giảng, gọi chung là công án. 
(2) Triệu luận: tác phẩm của sư Tăng Triệu (384 - 414) cao đệ của pháp sư Cưu Ma La Thập, xuất hiện trước ngày mở giáo của đạo Thiền. 
(3): Đài Bắc, Kiến Khang thư cuộc ấn hành, Dân quốc 49. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
02 Tháng Ba 2017(Xem: 6531)
06 Tháng Bảy 2016(Xem: 5974)
02 Tháng Sáu 2016(Xem: 5186)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
17 Tháng Năm 2016(Xem: 5639)
19 Tháng Tư 2016(Xem: 5977)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo. Dòng thiền phương bắc lấy Lục Tổ làm cội nguồn, sử gọi Nam tông (南宗); dòng này chủ trương “không câu nệ hình thức, không bám víu danh từ khái niệm, không chú trọng ngồi thiền, chỉ cần nội tâm trực giác đốn ngộ, tức tâm tức Phật, liền có thể thành Phật”.
14 Tháng Tư 2016(Xem: 7626)
Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ Huệ Năng để đoạt lại y bát nhưng khi ông không giở nổi chiếc y lên từ tảng đá thì liền nói: tôi vì pháp chẳng vì y bát xin hành giả vì tôi mà khai thị.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6210)
Tương truyền Đệ nhất tổ Thiền Tông ở Trung Quốc, Bồ Đề Đạt Ma bắt đầu chuyến Đông Độ vào thế kỷ thứ Sáu. Theo Đạo Nguyên trong Bích Nham Lục, sau 9 năm diện bích, Ngài muốn trở lại Ấn Độ, Tổ triệu tập một số đệ tử thân tín để ‘thử’ tình độ tu chứng. Đối với câu trả lời của đệ tử thứ nhất Đạt Ma phê là ‘con đã đạt được ‘ lớp da’ của ta. Hai đệ tử khác được Đạt Ma phê là đã đạt được ‘xương và thịt’ của Thiền (Thiền Cốt và Thiền Nhục). Chỉ có đệ tử thứ tư im lặng không trả lời. Tổ mới khen là đã đạt được Tủy của Thiền. Tuy nhiên khi không truyền bá Thiền bằng con đường ‘bất lập văn tự’, không ai có thể đạt được ‘tủy’ của Thiền, nhiều nhất là đạt tới mức ‘Thiền Xương Thiền Thịt’ (Zen Bone and Zen Flesh). Tác phẩm này được Paul Reps và Nyogen Senzaki dịch ra tiếng Anh từ Zen Stories (London 1939) Gateless Gate (Vô Môn Quan) (LA,1934), Thập Ngưu Đồ (LA 1935), và một tác phẩm cổ viết bằng tiếng Phạn (Centering) có thể