Phần Thứ Hai: Cuốn 11-20

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 22240)

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG
(TỪ NĂM 1983-1989) 
Hòa Thượng Thích Duy Lực
Nhà xuất bản Tôn Giáo – Hà Nội 2001

Phần thứ 2 Cuốn 11-20

 

Hỏi: Xin Sư phụ kể qua vấn đề dịch Kinh như thế nào?

Đáp: Ở Trung Quốc, vấn đề dịch kinh từ chữ Phạn sang chữ Hán, dịch tràng trên ba trăm đến năm trăm người, người chủ dịch thường là người kiến tánh, thấu suốt Phật pháp, còn người dịch phụ phải qua sự ấn định của Chủ dịch. Ở Việt Nam thường do một người dịch, cũng tùy theo ý của người dịch, người dịch thường tự chẳng có tu chứng, hễ không có tu chứng thì không thể hiểu nổi ý của Phật, của Tổ, vì ý Phật, ý Tổ chẳng phải là sự suy nghĩ thông minh của thế gian có thể hiểu được.

Lai Quả Thiền sư nói: “Thông minh của thế gian chẳng phải là trí huệ của Phật pháp”, Tổ sư gọi là “Thế trí biện thông”. Lại, theo Phật giáo, xem những người thế trí biện thông, bậc tri thức khoa học là hạ căn, vì họ chấp thật những kiến thức khoa học của mình chẳng chịu buông, còn người đầu óc đơn giản, nơi Phật pháp lại cho là thượng căn, tu hành dễ đắc đạo hơn. Nên Phật pháp là nghịch với pháp thế gian.

Trong Niên Phổ của ngài Hư Vân có kể đến câu chuyện “Bá Trượng và con chồn”; chỉ vì đáp sai một chữ phải đọa làm con chồn năm trăm kiếp, nên Phật pháp chẳng phải là muốn nói thế nào cũng được, ấy chẳng phải chuyện chơi. Đối với Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, tội đại vọng ngữ là tội Ba La Di, là tội cao nhất, bằng như tội tử hình của thế gian. Hễ Tỳ Kheo phạm coi như Tỳ kheo ấy đã chết, Tỳ Kheo Ni cũng vậy, muốn khôi phục lại chức danh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, phải đợi đến kiếp sau mới được. Như Bá Trượng Thiền sư nói: “Nếu pháp sư chỉ giảng được nghĩa hai câu thì pháp sư ấy phải đọa địa ngục; nếu pháp sư giảng thấu ba câu mà người nghe hiểu sai lầm thì lỗi tại người nghe, người nghe đoạ địa ngục chứ không quan hệ đến pháp sư, vì pháp sư đã giảng hết ý rồi.

Hỏi: Thầy giảng những cái đó còn nằm trong ngũ ấm hay đã ra ngoài ngũ ấm?

Đáp: Không có nằm trong ngũ ấm, cũng chẳng ở ngoài ngũ ấm. Tôi thường nói hai chữ “BẤT NHỊ”, hễ có trong có ngoài là nhị, chính cái ngũ ấm chẳng phải là thật, làm sao có trong có ngoài?

Hỏi: Cái biết mà mình không khởi niệm, không tác ý phân biệt để biết, đó có phải là tri tịch không?

Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói rõ “Tri giác nãi chúng sanh”, đã lập tri rồi, mặc dù cái tri ấy không rõ ràng, nhưng cũng là tri. Nếu không khởi ý để biết thì làm sao biết đó không rõ ràng? Biết là “không rõ ràng” đã là biết rồi! “Tri tri” là căn bản vô minh, từ nguồn gốc ấy sinh ra sở tri. Dù yên lặng chẳng có vọng tưởng gì, nhưng năng sở đã rõ ràng, thì chẳng phải cái tri của Tự tánh. Đợi đến biết cái “mờ mờ không rõ ràng ấy” thì trở thành bụi bậm, là sở tri rồi.

Tại sao nói “Cái tri của Tự tánh? Đáng lẽ không có cái tên gọi là TRI, ấy chỉ là thế lưu bố tưởng, thế gian đã gọi là tri thì phải gọi cái tri đó thế gian mới hiểu, nếu không thì gọi bằng cái gì? làm sao diễn đạt? Nên mới có phân biệt thế lưu bố tưởng và trước tưởng. Do đó, nói chữ “TRI” đã là có sự chấp thật; chấp cái năng tri là thật, là căn bản vô minh vậy.

Hỏi: Cái “tri” ấy đã là bất đắc dĩ mà nói, nói cái trạng thái đó là “biết” cũng không được ư?

Đáp: Trong Thiền Thất Khai Thị Lục đề cập khi tham thiền đến trạng thái đó là " Vô tâm không cho hữu tâm biết”. Ví như có người hỏi ông tên gì, nếu còn trả lời được tức còn biết, chưa phải là vô tâm. Ví như nói “tri” và “vô tri”, VÔ TRI tức chẳng còn biết gì nếu còn biết là vô tri ấy là tri. Nếu thật vô tri, ai biết vô tri? “Cảm thấy” cũng là biết.

Hỏi: Vì sao không được tiếp tục ngồi khi trên thân khó chịu?

Đáp: Theo kinh nghiệm của tôi, khi kinh hành chớ nên vừa đi vừa vận động thì máu lưu thông, không sanh ra bệnh. Cũng như ngồi thiền, ngồi lâu thành bệnh, nhiều người chấp vào cái ngồi nên sanh ra bệnh. Lúc nghi tình nặng, ảnh hưởng đến nhức đầu, tức ngực, khó thở, nếu có vận động, thì máu lưu thông đều, vẫn tiếp tục kinh hành được, hễ ngồi thì không có sự lưu thông về máu nên dễ sanh bệnh, đôi khi bị chết giấc mà chẳng ai hay biết, nên tôi thường khuyên mọi người không nên chấp ngồi là vậy.

Hỏi: Thế nào là nghi tình phát khởi được và nghi tình phát chẳng khởi?

Đáp: Trong Tham Thiền Cảnh Ngữ của ngài Bác Sơn nói rõ “nghi tình phát chẳng khởi” là chỉ cái chơn nghi, nay chúng ta đều chưa đến chỗ chơn nghi, cũng gọi là nghi tình phát chẳng khởi. Sở dĩ nay ta gọi là “nghi tình” ấy chỉ là tập tham để đến chơn nghi phát khởi nghi tình, phát được chơn nghi cũng tương ưng với pháp thân rồi. Trong Niên Phổ của ngài Hư Vân nói “Khi chơn nghi phát khởi, ấy là sự thình lình đột phát”, chơn nghi phát lên là nghi tình gần thành khối vậy.

Nay chúng ta tham thiền thì chưa có ai phát được chơn nghi, nên gọi là “nghi tình phát chẳng khởi” chứ không phải không có nghi tình. Chúng ta tham thiền đến chỗ thuần thục thì thình lình phát lên chơn nghi, tương ưng với cái lý pháp thân như trong Tham Thiền Cảnh Ngữ nói, thì biết đó là chơn nghi.

Hỏi: Khi ngủ mê làm sao biết có tham thiền?

Đáp: Nay có những người đang ngủ mê mà biết mình tham thiền, ấy là những người không biết mình đang ngủ, nhưng người khác thì thấy họ đang ngủ mê. Chính người ấy có nghi tình và lúc sáng thức dậy vẫn đầy đủ tinh thần, ban ngày làm việc như thường, chẳng thấy mệt mỏi.

Hỏi: Phát khởi chơn nghi đã phá được sơ quan chưa?

Đáp: Phát khởi chơn nghi tương đương với nghi tình thành khối, chưa đến kiến tánh, chưa phá được sơ quan, nhưng rất hy vọng được phá sơ quan.

Hỏi: Chúng ta đang sống trong vọng thức thì làm sao y trí bất y thức?

Đáp: “Y trí bất y thức” là tiêu chuẩn và mục đích của mình, nhưng chúng ta đang suốt ngày sống trong thức tâm phân biệt, hiện nay đang tu ấy là thức, tham thiền đến một ngày nào đó kiến tánh rồi mới không còn phân biệt, mới chuyển thức thành trí được, tức sự automatic của trí bát nhã đã hiện ra.

Hỏi: ý nghĩa của Qui y Tam Bảo như thế nào?

Đáp: Có người hỏi “Qui y Thiền Tông” và “Qui y Tịnh Độ” như thế nào? Tôi giải thích rằng Qui y là Qui y Tam Bảo, còn Thiền tông và Tịnh độ chỉ là pháp môn chứ không phải qui y.

Qui y Tam bảo có hai: Một là thường trụ Tam Bảo, hai là Tự tánh Tam Bảo. Nay chúng ta qui y là Thường trụ Tam Bảo: Tượng Phật đại diện cho Phật Bảo, Kinh Phật đại diện cho Pháp Bảo và

Tăng ni xuất gia đại diện cho Tăng Bảo, nhờ Tăng Bảo giáo hóa để ngộ nhập Tự tánh Tam Bảo tức giải thoát, biết được mình là gì, tự làm chủ cho mình, đạt đến tự do tự tại. Mục đích để qui y Thường trụ Tam Bảo là vậy, chứ chẳng phải như một số người nghĩ rằng “Qui y để có giấy chứng minh, sau khi chết để trong hòm làm giấy thông hành ở âm phủ, ấy là sai lầm”.

Chữ PHẬT là “Người Giác ngộ”, gồm hai nghĩa tự giác và giác tha, giác hạnh viên mãn, hễ ai giác ngộ tức Phật. Tự ngộ rồi phải độ cho chúng sanh, tự mình và chúng sanh đều được tự do tự tại, tức giáo hạnh viên mãn. Nếu chỉ tự giác mà chẳng giác tha thì giác hạnh chẳng thể viên mãn.

Chữ PHÁP là chỉ phương pháp để đạt đến tự do tự tại, nay cách tham Thiền là Pháp Bảo để đưa chúng ta đến chỗ tự do tự tại.

Chữ TĂNG tại sao gọi là Bảo? Vì nếu có Phật có pháp mà chẳng có Tăng để từng đời truyền dạy thì Phật pháp cũng phải tiêu diệt. Nên ở trong Tam Bảo, Tăng Bảo là quan trọng nhất, có Tăng Bảo mới giữ được Phật Bảo và Pháp Bảo.

Hỏi: Thiền sư Nham Đầu là một vị đã kiến tánh, sao còn bị bọn cướp giết? Nếu nói là túc nghiệp phải trả, thì trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia Đại sư nói “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không, vị liểu ưng tu hoàn túc trái”. Lại, trong Kinh Kim Cang có câu: “Người nào thọ trì đọc tụng Kinh Kim Cang mà bị người khinh miệt thì tội nghiệp đời trước của người ấy đáng lẽ phải đoạ tam ác đạo, do đời nay bị người khinh miệt nên tội chướng được tiêu, và đắc Chánh đẳng Chánh giác”, ấy thì giải thích thế nào về cái chết của Thiền Sư Nham Đầu cho hợp lý?

Đáp: Phật pháp luôn luôn không rời khỏi nhân quả, có nhân ắt có quả? Thế gian có nhân quả, xuất thế gian cũng có nhân quả. Nhưng nhân quả là duyên tâm tạo, chẳng thể chấp thật. Chúng sanh thì chấp đó là thật, Phật vì muốn độ chúng sanh nên phải tùy thuận chúng sanh để độ. Cũng như Đức Phật đã kể về câu chuyện “Vua Lưu Ly giết chết cả tộc Thích Ca”:

“Vì đời trước chủng tộc Thích Ca sống trong một làng đánh cá, tiền thân Vua Lưu Ly là con cá lớn, binh sĩ là cá con trong một ao lớn, dân làng ấy xả hết nước ao và bắt con cá lớn và các cá con để ăn, duy chỉ có một đứa bé không bắt không ăn mà chỉ gõ ba cái vào đầu cá lớn. Đến đời Phật Thích Ca thành Phật rồi, vẫn phải bị nhức đầu ba hôm”.

Đó là muốn thể hiện vấn đề nhân quả không thể tránh, nhưng ấy là đối với sơ cơ. Tôi có xem qua một quyển Trụ Sứ Thập Hạnh, trong đó đức Phật bảo: “Nói ta bị nhức đầu ấy chỉ là phương tiện mà thôi, thực tế thì ta có bị nhức đầu đâu!”

Cho nên, chính hai câu “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không, vị liểu ưng tu hoàn túc trái” trong Chứng đạo Ca, có một người tham Thiền hỏi Tổ kiến tánh:

- Thế nào là nghiệp chướng ?"

Đáp: “Bổn lai không”.

- Thế nào là “Bổn lai không?”

- “Nghiệp chướng”.

Nghiệp chướng vốn chẳng thật, bổn lai vốn không, thì theo nhân duyên nào cũng là nhân quả.

Tổ độ chúng sanh cũng có phương tiện độ và nghiệp độ, như Phật Thích Ca ở quyển kinh này thì nói “Ta bị nhức đầu”, ở quyển kinh khác thì nói “Ta có bị nhức đầu đâu!” Đã thành Phật rồi, cơ thể còn không có, làm sao có nhức đầu ư? Ai nhức? Ấy chỉ là phương tiện để độ chúng sanh mà thôi.

Hỏi: Có người chẳng có qui y Tam bảo, chỉ ở nhà xem qua kinh Phật hoặc nghe được câu thoại đầu mà ở nhà tự tu, vậy có kiến tánh hoặc ngộ đạo không?

Hỏi: Giả sử người ấy chẳng biết có sự qui y mà chỉ tự nghe được câu thoại đầu để tu thì có thể ngộ, nhưng nếu người ấy đã biết được sự qui y, có người khuyên bảo giới thiệu qui y mà tự có ý không qui y Tam Bảo thì người ấy sẽ không ngộ được. Tại sao? Vì người ấy còn chấp, hễ chấp thật thì chẳng thể ngộ được.

Hỏi: Nếu như người ấy do quá nghèo mà không có phương tiện qui y?

Đáp: Qui y Phật pháp rất bình đẳng, chẳng có sự phân biệt giàu nghèo, đến chùa qui y không hạn chế giàu nghèo, có tiền hay không có tiền vẫn qui y được.

Hỏi: Con phát nguyện trong 49 ngày phải kiến tánh, như thế đúng không?

Đáp: Tôi đã nói là phải VÔ SỞ CẦU, VÔ SỞ ĐẮC, VÔ SỞ SỢ, tự nhiên mong cầu trong 49 ngày phải kiến tánh, ấy là cái tâm bức bách, quá gấp thành bệnh. Gặp trường hợp này phải biết cách đối trị: Câu thoại đầu đề cho thật chậm để cho điều hòa lại như Niệm_Phật_là_ai?”. Nên nhớ rằng hễ có sở cầu là không được. Vả lại, trong Thiền tông có thể trải qua mấy lần tiểu ngộ, thình lình được ngộ cái gì chớ có vui mừng quá, e sẽ thành bệnh. Ngộ được cũng phải quét, hễ có ngộ được một cái gì đó thành có sở đắc, nên phải quét.

Hỏi: Khi nghi tình thành khối sẽ như thế nào và làm sao đập bể?

Đáp: Lai Quả Thiền sư thí dụ “Khối này lớn lắm, siêu việt số lượng, bao hàm hư không, nếu như lấy cây đập nó một cái, thì cây đó cũng ở trong khối; lấy chân đá một cái cũng ở trong khối, bất cứ làm cách nào cũng ở trong khối”. Lúc đã thành khối rồi thì nghi tình 24 giờ chẳng giây phút gián đoạn mới được gọi là thành khối, nếu có một giây phút gián đoạn cũng không được gọi là “thành khối”, chính giây phút gián đoạn ấy khiến sanh tử nổi lên, khiến vọng tưởng từ đó nổi lên, khiến Diêm La Vương thấy được, tiểu quỷ bắt được.

Lúc nghi tình thành khối thì câu thoại tự mất, chỉ còn nghi tình, khi ấy muốn tự ý buông bỏ nghi tình, buông bỏ chẳng được; cố ý muốn nổi lên một vọng tưởng nào cũng chẳng được, cảnh giới ấy gọi là “nghi tình thành khối”, là đứng trước đầu sào trăm thuốc, hễ tiến lên một bước, lìa khỏi ý thức là ngộ, chẳng đại ngộ cũng tiểu ngộ, phá được Sơ quan.

Cái tiểu ngộ mà tôi thường nói ấy chỉ là giải ngộ, chẳng phải chứng ngộ, chưa phá được Sơ quan. Vì giải ngộ còn nằm trong ý thức, chưa lìa ý thức, còn đại ngộ là đã lìa ý thức rồi.

Hỏi: Trong năm câu hỏi để tham Thiền, nếu như tự tìm ra giải đáp cho câu hỏi có được không?

Đáp: Ấy là lấy tâm đi tìm hiểu, lọt vào hồ nghi chứ chẳng phải chánh nghi. Tham Thiền chỉ cho chánh nghi, không cho lọt vào hồ nghi. Lại, lấy tâm đi tìm là “ta”; phân biệt chẳng phải là “ta”, là tứ đại giả hợp ... cũng là giải thích thêm để tìm ra câu đáp án, đều là hồ nghi, chẳng phải tham Thiền.

Hỏi: Tướng của nghi tình thế nào? Muốn phá vỡ nghi tình bằng cách nào?

Đáp: Không được nổi ý phá nghi tình, nếu khởi ý muốn phá nghi tình ấy là hồ nghi, chẳng phải chánh nghi, là dùng ý thức đi tìm hiểu, vĩnh viễn phá không được. Chúng ta cứ tham mãi, tham liên tục và miên mật, đến nghi tình thành khối rồi, gặp nhân duyên thuần thục sẽ tự phá. Như quá khứ chư Tổ, có vị bị đập một cái được phá, có vị thình lình thấy con khỉ leo cây cũng được phá v.v... ấy là thình lình tự phá chứ chẳng phải khởi tâm tìm cách muốn phá. Nếu đến được chỗ đầu sào trăm thước rồi, đó là cửa vô minh, chưa có phá được, chưa có qua được, ngoại đạo đến chỗ này, thấy phía trước thanh thanh tịnh tịnh, chẳng còn đường đi, tưởng là cứu cánh, cho là đến cứu cánh Niết bàn, nhưng sự thật thì chưa, cũng còn dính líu ý thức. Đến đây nếu buông nghi tình xuống, không tiếp tục nữa, vẫn còn nằm trong ý thức, là nguồn gốc của ý thức. Như Cõi trời Phi tưởng Phi phi tưởng, mặc dù vọng tưởng không nổi lên trong nửa đại kiếp, nhưng sau đó vọng tưởng vẫn nổi lên.

Hỏi: Trong lúc tham Thiền, giữa tình trạng không phải thức cũng không phải ngủ, thường thấy những cảnh giới khác nhau, vậy có phải là nghiệp không?

Đáp: Ấy gọi là cảnh giới. Cảnh giới tốt cũng không vui thích, cảnh giới xấu cũng không để ý, chỉ cần giữ cái không biết, chỉ biết có câu thoại đầu, có nghi tình, ngoài ra đều không biết tới. Cho dù Phật Thích Ca đến xoa đầu thọ ký cũng phải quét luôn, nhưng cũng không được nổi ý quét, có nghi tình thì tự động quét, chỉ là không để ý, không biết tới. Vọng tưởng nổi lên bao nhiêu đều mặc kệ, chẳng những có vọng tưởng không biết tới, kể cả không có vọng tưởng cũng không biết tới, không cần đối trị, chính câu thoại đầu đối trị tất cả.

Hỏi: sư phụ dạy “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”, nhưng Phật tử đa số là mong cầu giải thoát, vậy có phải là sở cầu không?

Đáp: Khi bắt đầu tham Thiền nhưng chưa thực hành thì khởi ý cầu giải thoát, đã thực hành tham Thiền là đi trên con đường giải thoát rồi, không được cầu giải thoát nữa, có cầu là vọng. Cầu ngộ cũng là vọng, cầu thành Phật thì cái vọng ấy càng lớn nữa! Đã đi tất sẽ đến, đâu cần cầu! Ví như chúng ta đang ở Chợ lớn, xin cha mẹ cho đi Sài gòn, nếu cha mẹ chưa cho thì phải cầu xin, cha mẹ đã cho rồi thì cứ đi dọc đường mà nói “Ta cầu đi Sài gòn”, ấy có phải là vọng không?

Hỏi: Một người không xem sách vì sợ kiến giải mà chỉ một mực chú tâm tham thiền, với một người vừa tham thiền vừa nghiên cứu sách, cái nào tốt hơn?

Đáp: Tốt nhất là chuyên tâm tham Thiền. Tôi thường lấy việc ăn cơm để thí dụ: Người xem sách Thiền, hiểu biết kỹ về thiền, cũng như người thông minh tài giỏi, nhà bác học mà nghiên cứu trong chén cơm có bao nhiêu chất bổ, bao nhiêu Vitamine, lại phân tích có bao nhiêu Vitamine A, Vitamine C ... biết rất nhiều nhưng không ăn cơm. Còn người kia dốt nát, không biết gì cả, chỉ biết ăn cơm mà thôi. Người không biết gì cả, chỉ biết ăn cơm thì người ấy được no, còn người thông minh bác học kia biết đủ thứ, nhưng không ăn cơm thì người ấy chịu đói vậy.

Mặc dù người dốt nát kia chẳng biết Vitamine là gì nhưng đã ăn cơm, đã được tiêu hóa rồi, thì nhổ ra nước miếng cũng là Vitamine.

Hỏi: Đối với người biết tham thoại đầu lại chưa có lòng tin thì sao?

Đáp: Hàng tuần thuyết pháp tôi vẫn thường nói: “Tôi chẳng phải giảng giáo lý cao siêu để cho người nghe biết thêm về giáo lý, chỉ là tăng trưởng lòng tin cho mọi người”.

Lòng tin rất cần, nhưng không phải chỉ tin pháp môn là đủ. Trong Tham Thiền Cảnh Ngữ có nói: “Nếu chỉ tin pháp môn tham Thiền này, cho dù tin 100% vẫn chưa đủ. Tại sao? Vì chỉ tin theo pháp môn, chưa tin tự tâm”. Người tham Thiền phải tin rằng “tự tâm mình là Phật”. Trong cuốn Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải có nói: “Nếu tin tự tâm là Phật, gọi là chánh tín; nếu tin ngoài tâm có Phật, ấy là tà tín”. Nên cần nhất phải là tin tự tâm và sau đó mới tin pháp môn.

Do đó, nếu chuyên tâm thực hành thì trong một hai tuần lễ sẽ nổi được lòng tin, vì thấy mình đã có tiến bộ. Có một vài cụ già sau khi thực hành vài tuần thì cảm thấy phiền não bớt đi nhiều, tự nhiên tăng trưởng lòng tin. Tự tạo được lòng tin thì lòng tin ấy mới mạnh, nếu chỉ dựa vào sách vở, kinh nghiệm của người khác là vô dụng.

Trung Phong Thiền sư có thí dụ về “Con dấu vàng”: Con dấu thể hiện sự tín nhiệm, nhà vua có con dấu vàng của vua, quan chức có con dấu của quan chức, người buôn bán cũng tự có con dấu riêng. Có con dấu thì được mọi người tin cậy, nhưng con dấu đó phải là của chính mình mới được, giả sử cho ông lượm được con dấu bằng vàng, nếu không phải của mình thì rốt cuộc xài chẳng được”.

Con dấu dụ cho cái gì? Dự cho sự ngộ của Phật, của Tổ. Lời nói của Phật, của Tổ thì mọi người tin, nếu lượm được lời của Phật của Tổ mà cho là của mình thì chẳng những không xài được, còn mắc tội nữa! nên coi sách cho nhiều cũng chẳng ích lợi gì, tự ngộ rồi mới là của mình.

* Cảm tưởng của Sư Bà Huê Lâm:

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Kính bạch Thượng Tọa Thiền Sư, hôm nay là ngày viên mãn Thiền thất, con xin đại diện cho tất cả chư hành giả hiện diện, nói lên lời cảm nghĩ của con:

Qua 7 ngày dự đạo tràng tu tập tham Thiền, vừa ngồi thiền và kinh hành trong tám giờ đồng hồ,

Thượng tọa Thiền sư chẳng màng lao nhọc, dìu dắt chúng con, chỉ dạy phương pháp tham Thiền, cả giáo lý lẫn thực hành, rất là kỳ diệu.

- Theo con được hiểu, tham Thiền chẳng phải là giáo lý thiển cận, mà là phô diễn giáo lý tột đỉnh của tất cả tư tườởng Phật giáo, một lý thuyết trực chỉ, có thể đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ, giải thoát viên mãn, con có cảm nghĩ toàn thể bí mật của sự tu tập tham Thiền nằm trọn trong bản giác bình dị, nhưng rất cùng diệu chỉ.

- Kính bạch Thiền Sư, đây là lần đầu tiên con tham dự Thiền thất, nhưng đã cởi mở những điều thắc mắc trong bốn mươi năm qua. Con đã xuất gia hơn bốn mươi năm, tu tập theo pháp môn Mật tông, hôm nay, lần đầu tiên con tham dự Thiền thất do Thiền sư dẫn dắt một cách siêu việt, khiến tâm hồn con thiết tha vô cùng. Con cảm niệm trong sự dạy dỗ của Thiền Sư đối với tất cả chúng con, con cảm động khi thấy sức khỏe của Thiền Sư rất yếu, nhưng từ bi vô lượng. Thiền Sư đã không nài cực nhọc giảng dạy cho chúng con. Vì thế, nên từ đây về sau, con nhiệt thành tham cứu Thiền, và luôn nỗ lực dụng công tham Thiền, đạt đến giác ngộ, để đền đáp tứ trọng ân, trong đó có ơn huệ của Thiền Sư chỉ dạy cho chúng con.

- Chúng con được yên tâm tu tập là nhờ quí Đàn na tín thí giúp đỡ, giờ đây, con xin đại diện toàn thể đại chúng trong Thiên đường, thành tâm cầu chúc Thiền Sư pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, để dẫn dắt chúng sanh đến bờ giải thoát.

Chúng con xin lễ tạ Thiền Sư, ngưỡng mong Thiền Sư chứng minh cho toàn thể đại chúng trong Thiền đường.

Đáp từ của Sư Phụ:

- Lời khen tặng của Sư bà Huê Lâm, tôi tự cảm thấy rất hổ thẹn. Bởi vì xưng tôi là Thiền Sư thì thật ra tôi chưa đủ tư cách làm Thiền sư. Trong giải thất kỳ trước, tôi có kể sơ qua về quá trình ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền, chưa kiến tánh mà ra hoằng pháp ấy là sự bất đắc dĩ, vì Hòa Thượng đã tuyên bố, nếu không thực hiện, e làm mất sĩ diện của Hòa Thượng. Nhưng đã bắt đầu hoằng pháp thì tôi phải tận bổn phận của tôi, biết bao nhiêu nói bấy nhiêu, giới Tỳ kheo là có chức nguyện hoằng pháp. Ở trong Thiền tông cũng có lịch sử rằng “Thầy chưa kiến tánh, trò đi tham học ở ngoài trở về, thầy biết đệ từ ấy đã kiến tánh, nên mời đệ tử lên tòa, lễ bái đệ tử làm thầy, sau đó thầy cũng được kiến tánh”, tôi cũng hy vọng như thế. Tôi thì chưa kiến tánh, nhưng tôi hy vọng quý vị mau kiến tánh hơn tôi, mặc dù tôi dạy tham Thiền, nhưng nếu có vị nào kiến tánh rồi, tôi sẽ trở lại lạy thầy đó để tôi được kiến tánh.

Hỏi: Núi Tu-di là chỉ cho pháp thân và hạt cải là chỉ cho tứ đại phải không?

Đáp: Không phải. Ấy là chỉ cho cái lớn nhỏ tương đối:

Núi Tu-di là lớn, hạt cải thì nhỏ, lớn nhỏ tương đối là lọt vào tứ cú, chướng ngại cho sự dụng của Tự tánh. Kinh liễu nghĩa dạy chúng ta vô sở trụ, cũng là nghĩa lìa tứ cú, tức chẳng trừ cú thứ nhất, nhì, ba hoặc bốn.

Hỏi: Trong thời mạt pháp này, áp dụng pháp tu nhĩ căn viên thông của Quán Thế Âm Bồ Tát, có được kiến tánh không?

Đáp: Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến nhĩ căn viên thông và giải thích rất rõ. Bây giờ nhiều người chấp lời nghịch ý, không hiểu Kinh Lăng Nghiêm, chỗ này ngài Hư Vân đã có nói rõ: “Chúng ta tham câu thoại đầu tức phản văn tự tánh, tức nhĩ căn viên thông rồi”. Nếu dùng lỗ tai đi nghe, lấy lỗ tai để phản văn thì vĩnh viễn phản văn không được, bất kể nghe trong nghe ngoài đều là nghe vọng, chẳng nghe động thì nghe tịnh, trong ngoài động tịnh đều là nhị.

Nay tôi sẽ dẫn chứng Kinh Lăng Nghiêm, vì dùng kinh để chứng kinh mới rõ. Kệ rằng:

Dùng nghe giữ lời Phật, đâu bằng nghe bản văn?

Nghe chẳng tự nhiên sanh, do tiếng có tên nghe.

Xoay nghe thoát khỏi tiếng, đặt tên NGHE cho ai?

Lấy nghe trì danh hiệu Phật, không bằng tự nghe cái nghe. Nhưng cái nghe đó chẳng phải tự nhiên sanh ra, là vì âm thanh mới lập cái tên “nghe”, nay xoay cái nghe trở về thì thoát khỏi âm thanh, đã thoát khỏi âm thanh thì đặt cái tên “nghe” cho ai? Tức không được gọi là nghe thì làm sao lại dùng lỗ tai để phản văn? ấy là sai lầm. Nên ngài Hư Vân nói “Chiếu cố thoại đầu tức phản văn tự tánh. Nếu không tham thoại đầu, cứ lấy lỗ tai nghe thì phản văn không được.

Trong cuốn Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải, từ đầu đến cuối đều tỏ rõ không được chấp lời mà nghịch ý. Tự tánh chẳng phải do mắt thấy được, chẳng phải lỗ tai có thể nghe được, nếu dùng mắt thấy tai nghe, thì sao Kinh Kim Cang lại nói: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”. Bất năng kiến Như Lai tức không thấy được Tự tánh Phật của mình, tức đi lầm đường, không đúng chánh pháp, vĩnh viễn không được thấy Tự tánh Phật.

Hỏi: Cái biết của lục căn trước khi dấy niệm phân biệt là chơn hay vọng?

Đáp: Cái biết của lục căn nếu lọt vào cái “biết” là vọng. Biết là cú thứ nhất, không biết là cú thứ nhì, cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”. Kiến văn giác tri hễ lập thì có chấp thật, tức căn bản của vô minh, biết là “trước khi dấy niệm phân biệt” ấy đã là vọng rồi.

Chữ “Biết” này, như trong Kinh Niết Bàn, Phật gọi là thế lưu bố tưởng, thế gian đã lưu hành, gọi biết là biết; còn phàm phu chấp cái biết đó là thật, lọt vào trước tưởng, gọi là điên đảo tưởng. Cho nên, tri kiến lập tri, tức vô minh bổn, nếu tri kiến không kiến lập, không chấp là thật tức Niết bàn. Hễ có biết là lọt vào điên đảo tưởng, mặc dù cái biết đó chưa khởi lên ý phân biệt.

Hỏi: Ngồi Thiền mà niệm danh hiệu Phật, có được coi là tham thoại đầu không?

Đáp: Không được. Tham thoại đầu là phải khởi nghi tình, niệm danh hiệu Phật không phải là câu hỏi. Câu hỏi là dấu hỏi, nên niệm danh hiệu Phật chỉ là niệm Phật chứ không phải tham thiền. Phải có nghi tình mới là tham thiền, nếu không có nghi tình không được gọi là tham Thiền.

Hỏi: Xin Sư Phụ giảng lại sự tích về ngài Văn Thù không thể làm cho cô gái xuất định.

Đáp: Thủ đoạn của chư Phật chư Tổ là muốn chúng ta khai ngộ kiến tánh mới được giải thoát. Ấy là muốn chúng ta nghi, nghi là không hiểu; không hiểu nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Nếu giải thích ra rồi thì không nghi, nghi là nhân, ngộ là quả, không nhân thì không quả.

Ngài Văn Thù Bồ tát là bậc cao, còn cao hơn Phật Thích Ca, lại thị hiện để giúp Phật hoằng pháp, còn Dõng Minh Bồ tát là bậc thấp, muốn hiểu ý đó, phải tham đến kiến tánh mới được.

Thủ đoạn của Tổ rất nhiều, và rất vô lý. Ví như “Con trâu qua song cửa sổ, đầu và tứ chi đều qua được, tại sao cái đuôi không qua được?” Có nghĩa lý gì đâu? Ý của Tổ là muốn chúng ta nghi vào chỗ đó. Tại sao cái đuôi qua không được?

Thường thường, đối với thủ đoạn của Tổ sư, người ta hay lọt vào tình giải ý thức, như Tổ Hoài Nhượng độ Mã Tổ: Vì Mã Tổ chấp ngồi có thể thành Phật, Hoài Nhượng Thiền sư bèn đem mài cục gạch, Mã Tổ hỏi:

- Mài gạch để làm gì?

Đáp: Mài gạch để làm gương.

- Cục gạch làm sao thành gương được?”

Hoài Nhượng Thiền sư hỏi lại: “Thế thì tọa thiền làm sao thành Phật ư?”

- Vậy thì phải làm sao?

Đáp: Ví như bò kéo xe, xe không chạy, phải đánh xe hay đánh bò?

Theo lẽ thường tình thì dĩ nhiên là phải đánh bò mới đúng, nhưng nếu hiểu theo như vậy là sai lầm, ấy là tình giải, là theo ý thức phân biệt, đâu phải tự tánh, chỉ là vọng thôi. Mã Tổ nếu hiểu như thế thì chẳng thể kiến tánh vậy. Cho nên, chỉ cho tâm nghi chứ không cho tâm đi tìm hiểu, tâm tìm hiểu là hồ nghi chứ chẳng phải chánh nghi.

Hỏi: Xin hỏi trong đạo tràng này có ai không kẹt vào chấp lời nghịch ý hay không?

Đáp: Nay tôi hỏi thầy trước: Thầy có lọt vào chỗ này hay không? Nếu có người nào ôm chặt câu thoại đầu tham tới nghi tình thành khối thì người ấy mới thoát khỏi được. Nếu chưa đến chỗ đó, vẫn thoát không khỏi, vẫn còn có cái chấp. Đừng nói là trong đạo tràng này, chính tôi vẫn còn. Cho nên, nếu muốn biết qua ai là người không lọt vào cái chấp này thì phải hỏi từng người một, như mỗi lần cuối thất, lúc giải thất, người chủ thất vẫn phải hỏi từng người một mới biết, mặc dù là Thiền sư kiến tánh như Lai Quả Thiền sư, Hư Vân Thiền sư v.v...

Hỏi: Ai tạo ra vũ trụ này?

Đáp: Ý nói ở trong vũ trụ có một vị cao nhất ư? ấy là tư tưởng của ngoại đạo. Theo Phật pháp thì chẳng có ai là cao nhất, tất cả chúng sanh đều là Phật, chứ chẳng phải là Phật có cao hơn. Tại ông có tư tưởng chấp thật mới đưa ra câu hỏi này. Nếu vũ trụ đã chẳng phải thật, thì có ai thật tạo ra? Nên Phật nói là vô thỉ, tức không có bắt đầu.

Nếu có người thật tạo ra vũ trụ, thì thử hỏi người ấy ai tạo ra? Nếu cho là tự nhiên, thì pháp nào cũng phải bình đẳng, người nào cũng tự nhiên được đâu thể chỉ một người đó được tự nhiên, ngoài ra chẳng ai được?

Phật pháp bình đẳng, nếu một người tự nhiên được thì mọi người đều tự nhiên được; đời xưa tự nhiên được đời nay cũng tự nhiên được.

Đối với vũ trụ vạn vật, Phật pháp nói là “Nhất thiết duy tâm tạo”, do vọng tâm hoạt động mới biến hiện ra, chứ không phải có một vị nào cao nhất để tạo ra. Bây giờ thân của ông rõ ràng do cha mẹ sanh, và cha mẹ của ông cũng có cha mẹ sanh, rồi cha mẹ đầu tiên có không? Giã sử có, từ vô lượng vô biên kiếp có một đôi nam nữ, là cha mẹ đầu tiên của ông, thì tôi xin hỏi: Cha mẹ đầu tiên đó có cha mẹ không? Nếu ở trên còn cha mẹ thì không được gọi là cha mẹ đầu tiên, nếu không có thì hai vị đó từ đâu sanh? Nếu nói là do Thượng Đế tạo ra, ai tạo ra Thượng đế? Cho nên tìm mãi vẫn không tìm ra sự bắt đầu, nên Phật nói là “Vô thỉ”. Nếu có ai chấp thật phải có người tạo ra, ấy là ngoại đạo, chẳng phải Phật giáo.

Hỏi: Vạn pháp duy thức như thế nào?

Đáp: Nói về Duy thức, Phật pháp cũng có tông phái Duy Thức. Như tôi đã nói “Nhất thiết duy tâm tạo”, duy tâm thì duy thức. Bốn câu kệ ở Kinh Hoa Nghiêm:

Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật,

Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo.

Phật cũng là duy tâm tạo, vũ trụ pháp giới, chẳng có cái nào không phải duy tâm tạo. Nói do ý thức biến hiện tức duy tâm tạo, bất kể là do độc đầu ý thức biến hiện nhắm mắt chiêm bao, hay do đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm bao, đều là do ý thức biến hiện. Do tâm tạo thì chẳng thật, hễ chấp thật là sai lầm, ngoại đạo chấp nhắm mắt chiêm bao là giả, cho mở mắt chiêm bao là thật, cũng là sai lầm.

Hỏi: Trong Kinh Kim Cang có nói “Tu Đà Hoàn còn biết mình chứng quả Tu Đà Hoàn thì chẳng phải Tu Đà Hoàn”, như vậy, trong kinh Phật còn thừa nhận có quả vị để chứng đắc, thế có trái với tinh thần Thiền tông không?

Đáp: Tôi đã nói “Người tham thiền mà tự nói ta tham thiền” thì không phải người tham thiền. Tham thiền sẽ được ngộ, nhưng nếu có tâm muốn cầu ngộ, chờ ngộ lại chẳng phải rồi, vĩnh viễn không được ngộ.

Tu Đà Hoàn là Sơ quả, còn có cái chấp là chưa được chứng. Ví như từ Chợ lớn đi Sài gòn, hễ đi thì sẽ đến, chứ đâu cần dọc đường cứ phải la lên rằng “Ta đi Sài Gòn, ta đi Sài gòn” đâu!

Trung Phong Thiền sư ở trong Trung Phong Pháp Ngữ khai thị rằng: “Người tham thiền đề câu thoại đầu khởi nghi tình, biết câu thoại đầu thuần thục là không được, biết câu thoại đầu không thuần thục cũng không được”, biết có chứng quả Tu Đà Hoàn hay chưa chứng quả đều không được, biết và không biết là đối đãi, là lọt vào tứ cú, là vọng; biết là vọng biết, không biết là vọng không biết, đều là vọng.

Trong Phật pháp phải phá ngã chấp, bất cứ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, đều phải phá ngã chấp, chứ chẳng phải bỏ bên đây mà chấp qua bên kia, ấy là biên kiến, cũng là lọt vào năm thứ ác kiến.

Hỏi: Theo Thiền tông, chưa phá được Sơ quan mà khối nghi đã bùng vở, thì làm sao nghi tiếp để tiến đến Trùng quan?

Đáp: Đến Sơ quan phá được bổn tham thì bổn tham mất đi, nhưng theo công án của Tổ, có chỗ thấu được và có chỗ chưa thấu được, chỗ chưa thấu được vẫn phải nghi nữa, bởi vì nghi căn chưa cắt dứt, còn phải nghi tiếp cho đến triệt ngộ.

Hỏi: A La Hán có kiến tánh không? Nếu không, làm sao xuất luân hồi? Vì còn căn bản vô minh. Nếu có, Tiểu thừa không có nghi tình, làm sao kiến tánh? Vì như lời thầy nói “Có nghi mới có ngộ, không nghi thì không ngộ”.

Đáp: Theo lời của Tổ, A La Hán chưa phá được căn bản vô minh, chưa kiến tánh, nhưng vì phá được nhơn ngã chấp, nên được ra khỏi sanh tử luân hồi. Sanh tử có hai thứ: Phần đoạn sanh tử và Biến dịch sanh tử. A La Hán phá được ngã chấp, dứt được phần đoạn sanh tử, nhưng vì chưa kiến tánh, chưa phá được pháp chấp, nên chưa dứt Biến dịch sanh tử, cần phải tiến tu thêm. Do chấp quả A La Hán là thật, tưởng đã đến Cứu cánh Niết bàn, nên bị Phật quở là ngu si.

Hỏi: Theo Bát Nhã Tâm Kinh, quét tri kiến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cho đến Phật. Vậy nếu đã vào hàng Thanh Văn, đã vào hàng Thánh, sao chưa đạt đến trí huệ Bát Nhã mà còn kẹt vào tri kiến?

Đáp: Lời Phật ở Bát Nhã Tâm Kinh là muốn quét sự chấp của chúng ta, không được chấp cái nào là thật, tức vô sở trụ; không được trụ ở bất cứ nơi nào, trụ nơi tri kiến phàm phu cũng không được, trụ nơi tri kiến thừa Thanh văn, thừa Duyên giác, Đại thừa Bồ tát, kể cả tri kiến Phật cũng không được. Lời Tổ có nói: “Hễ trụ nơi tri kiến Phật thì bị Phật trói buộc, trụ nơi Bồ tát thì bị Bồ tát trói buộc, chẳng phải là cái nghĩa Vô sở trụ”.

Nghĩa Vô sở trụ là hoạt bát vạn năng, nếu có sở trụ thì tánh hoạt bát vạn năng bị mất. Hễ có trụ là chưa có tư cách thành Phật, nên tri kiến Phật cũng phải quét.

“Đại tâm vô y”, vô y tức vô trụ. Nên Bát Nhã Tâm Kinh quét sạch tất cả chấp, phá tất cả chấp; cao nhất là chấp Phật, cũng không được. Đến chỗ “Đại tâm vô y” thì sự dụng hoạt bát vạn năng mới phát huy khắp hư không pháp giới.

Lời của Phật, của Tổ, tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều là để trị bệnh chấp của chúng ta. Nhưng nói “chấp thật” chẳng phải là không chấp cái Có mà lại chấp cái Không; chẳng chấp cái Chơn lại chấp cái giả, nếu chấp không, chấp giả, chấp vọng thì bệnh chấp ấy càng nặng hơn, càng khó trị, chấp huyễn cũng vậy. Hễ chấp huyễn trụ nơi huyễn, chấp vọng trụ nơi vọng, đều là chấp cả. Tri kiến Phật còn chấp không được, huống là chấp huyễn chấp vọng! Chấp vào chỗ nào là chướng ngại chỗ đó.

Hỏi: Bài kệ của ngài Trung Phong Thiền sư tặng cho Thái tử nước Hàn như thế nào?

Đáp: Bài kệ ấy là:

Đời người giống như huyễn trung huyễn

Trần thế gặp nhau ai là ai?

Cha mẹ chưa sanh ai là ta?

Một hơi không vào ta là ai?

Đời người cũng như huyễn ở trong huyễn, huyễn đã chẳng phải thật rồi, lại huyễn ở trong huyễn, bây giờ ở ngoài thế gian gặp nhau, tự mình còn chưa biết mình, biết ai là ai ? Chỉ biết việc ở ngoài mà chẳng biết mình thì làm chủ cho mình chẳng được chẳng làm chủ cho mình được thì chẳng thể tự do tự tại, phải luôn chịu khổ. Tấm thân này khi cha mẹ đã sanh là ta, lúc cha mẹ chưa sanh ai là ta? Một hơi thở chẳng hít vào thì ta lại là ai? Thai trâu bụng ngựa cũng không biết, làm chó làm mèo cũng không biết.

Hiện nay chúng ta đang khỏe mạnh, nếu không y theo lời của Tổ, của Phật để tham cứu, chỉ biết ở ngoài, chỉ biết người khác mà chẳng biết mình là cái gì, khổ sẽ còn mãi mãi, không biết chừng nào hết.

Hỏi: Khi tham thiền, vọng tưởng nổi nhiều phải làm sao?

Đáp: Không cần để ý đến vọng tưởng, vọng tưởng nổi lên bao nhiêu mặc kệ, đừng biết tới, chỉ chú ý câu thoại đầu, hỏi thầm trong bụng, có hỏi thì có đáp, hỏi không hiểu, đáp không ra, cứ hỏi tới mãi, khi thoại đầu quen thuộc rồi vọng tưởng tự nhiên nổi không lên. Vì nghi tình là cây chổi automatic, khỏi cần tác ý muốn quét, nó tự động quét sạch.

Hỏi: Tại sao nói “Sanh tử là việc lớn?”

Đáp: Trung Phong Pháp Ngữ nói “Phải xem sanh tử là việc lớn”, trong Thiên Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói: “Tự mình có bệnh lớn mà không hay, cứ cho rằng mỗi ngày ta ăn ba tô cơm thì làm sao có bệnh ư? Ấy là bệnh gì? Là bệnh sanh tử vậy”. Bệnh sanh tử này từ vô thỉ đến bây giờ, cứ bệnh hoài, chưa dứt. Tại sao ? Nay chúng ta được cái thân người này, không biết trải qua bao nhiêu kiếp trong thai trâu bụng ngựa, con chó con heo ... mới được thân người, nếu mất thân này rồi, không biết lại phải trải qua bao nhiêu kiếp mới được trở lại làm người nữa. Nên phải biết đến bệnh sanh tử và rất cần trị cho hết, mới được tự do tự tại, không bị sanh tử trói buộc, khiến mình lại phải chịu khổ.

THAM THOẠI ĐẦU LÀ GIẢI QUYẾT VIỆC SANH TỬ. Lai Quả Thiền sư nói: “Bệnh sanh tử chỉ có thuốc thoại đầu mới trị được”, nay chúng ta tham thoại đầu là trúng thuốc trị bệnh sanh tử. Đời xưa ngộ đạo được thì đời nay cũng ngộ đạo được, xưa với nay vốn chẳng khác, khác là do cái chấp tâm phân biệt của mình.

Hồi thời Phật Thích Ca, khi Ngài đưa lên một nhánh bông mà chẳng nói gì cả, trong hội có hơn muôn người, chỉ một mình Ca Diếp ngộ được, ngoài ra một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo, chỉ chứng quả A La Hán, là đi ở nữa đường, chưa về đến nhà. Còn ở Trung Quốc, dưới Mã Tổ có một trăm ba mươi chín người kiến tánh, thế thì chứng tỏ xưa với nay chẳng khác. Nói mạt pháp chuyển thành chánh pháp, hạ căn chuyển thành thượng căn, ấy là do quyết tâm của mình, chứ chẳng phải do đời xưa hay đời nay. Đời nay ít người ngộ đạo vì đuổi theo vật chất, ham hưởng thụ vật chất, chứ chẳng phải người đời nay không bằng người đời xưa.

Hỏi: “Thế nào là Tức tâm là Phật?”

Đáp: Lời nói của Phật, của Tổ chỉ là phương tiện tạm thời đối với đương cơ lúc đó, nên Kinh Lăng Nghiêm nói “Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa” . Trong Kinh Lăng Già, Phật tự nói: “Lời nói của ta chỉ là ngôn ngữ vọng tưởng, đừng có chấp thật”, tức bệnh của chúng sanh là bệnh giả, lời nói của Phật là thuốc giả, lấy thuốc giả để trị bệnh giả, bệnh giả hết thuốc giả cũng vô dụng, chứ chẳng phải có thuốc thật.

Nói đến “Tức tâm là Phật”, trong Thiền tông có một công án:

Ngài Mã Tổ là một vị Tổ rất danh tiếng, dưới ngài có một trăm ba mươi chín người kiến tánh, từ đời Phật Thích Ca đến nay chưa ai bằng. Có người hỏi Mã Tổ:

- Tại sao nói tức tâm là Phật?

- Tại muốn gạt con nít nín khóc.

- Hỏi: Sau khi nín thế nào?

- Chẳng phải tâm chẳng phải Phật.

Nên biết, ấy chỉ là phương tiện tạm thời để gạt con nít nín khóc thôi. Tổ Sư Thiền chỉ chú trọng thực hành, rất kỵ lý luận, chỉ muốn người tham thiền thực hành đến ngộ, lý luận là sở tri chướng, cho nên không cho tâm đi tìm hiểu; muốn hiểu thiền hiểu đạo cũng còn không cho, nói gì đến lý!

Hỏi: “Ngoài bặt các duyên, tâm như tường vách”, có phải là công phu không?

Đáp: Nói “Ngoài bặt các duyên, làm sao bặt được? Nay người đời cứ hễ niệm Phật thì lấy câu danh hiệu Phật trừ vọng tưởng, trì chú thì lấy câu chú để trừ vọng tưởng, quán tưởng lấy cái sở quán trừ vọng tưởng, ấy là sai, nhưng tham câu thoại đầu chẳng phải vậy. Tham thoại đầu không được trừ vọng tưởng, không được buông bỏ vọng tưởng, không được đè nén vọng tưởng. Tại sao? Vì nếu lấy đó làm chánh, mặc dù không có vọng tưởng, vẫn là bệnh, những người khác cho không có vọng tưởng là tốt, nhưng ở Tổ Sư Thiền thì vẫn là thiền bệnh.

Lại, khỏi cần trừ vọng tưởng, vọng tưởng nổi lên bao nhiêu mặc kệ, chỉ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, nghi tình là cây chổi tự động quét; không những có vọng tưởng quét, không có vọng tưởng cũng quét. Như tôi đã nói ở trên, cái chánh là trị bệnh sanh tử chứ không phải trừ vọng tưởng, tại chấp vọng tưởng là thật, nên mới có sanh tử.

Hỏi: Xin Sư Phụ giải thích những việc thông thường trong Thiền thất.

Đáp: Nói “Thiền thất” là tham thiềh liên tục trong bảy ngày. Nhiều người tưởng “thất” là căn nhà, ấy là sai. Cũng như nhiều người Việt cho “bế quan” là nhập thất, kỳ thật, ý nghĩa hai chữ “Nhập thất” ở tiếng Hán là: Vị bổn sư cho phép mấy đệ từ sắp kiến tánh được tự do vào Trượng thất để tham hỏi, tức trong cả ngàn người đệ tử, chỉ có vài chục người được quyền tự do ra vào phòng của Hòa thượng Trụ trì để tham vấn, nên gọi là “Đệ tử nhập thất”, chứ không phải đi vào một căn phòng để bế quan.

Ở chốn tòng lâm hay Thiền đường Trung Quốc, chỉ có tu sĩ, không có người tại gia, khi cử hành Thiền thất, cũng như đi vào trường thi, phải thi đậu kiến tánh chứ không phải để tập tham thiền. Bây giờ ở đây cử hành Thiền thất là để cho tập tham, cách ngồi tự do, không nhất thiết phải ngồi kiết già, sở dĩ ngồi vì đi mỏi thì ngồi, ngồi mỏi thì đi, chứ không phải cần sự ngồi.

Khi xưa không có đồng hồ, người ta đốt lên một cây nhang, ngồi hết cây nhang thì đi, đi hết cây nhang thì ngồi, nên gọi tọa hương và đi hương, bảo hương thì phải chạy như bay. Trong thiền đường có người tuần hương, hễ ai nói chuyện, cười giòn, là phạm qui củ, bị đánh hương bảng. Lai Quả Thiền sư lúc mới vào Thiền đường, một ngày bị đánh bốn trăm hương bảng, nhưng Ngài hai mươi tám tuổi đã kiến tánh.

Hỏi: Xin thầy cho biết con người không sanh tử như thế nào?

Đáp: Muốn biết con người không sanh tử phải đề câu thoại đầu lên tham, rồi mới biết được. Bây giờ tôi nói cho ông biết, ông làm sao biết được? Ví như tôi đã ăn đường thì biết vị ngọt như thế nào, ông chưa từng ăn qua, dù tôi giải thích chữ “ngọt” từ sáng đến chiều, ngày này qua tháng kia, năm này qua năm kia cũng chẳng thể hiểu. Nay chỉ cần cho ông nếm thử một miếng đường thì “ồ”, hóa ra đường là như thế! Cho nên, chỉ có tự mình tham tự mình ngộ, nếu nói ra được là không cần tham rồi!

Chỉ cần Phật Thích Ca nói cho chúng ta biết là được đâu cần tu chi cho cực khổ! Nếu nói ra, cho biết được, ấy là tri giải, chẳng dính dáng đến sự sanh tử.

Pháp môn Tổ Sư thiền này rất kỵ sự tri giải, nay không học tham thiền mà cầu tri giải, là nghịch ý của Tổ sư. Tri giải là của người khác, chẳng phải của mình, như ngài Trung Phong Thiền sư thí dụ “con dấu”, Con dấu là gì? Là lời nói của Phật, của Tổ, do Phật tự ngộ, Tổ từ ngộ rồi nói ra. Nếu lượm những lời nói của Phật, của Tổ mà cho là của mình thì là giả mạo, vì đó chẳng phải của mình, của mình phải tự ngộ mới được.

Hỏi: Cách thức trong khi dựng công tham thiền như thế nào?

Đáp: Lúc tán loạn phải nhắm mắt tham, hôn trầm phải mở mắt tham. Nếu không bị tán loạn và hôn trầm thì mắt hơi mở, không nhắm hẳn. Người tham thiền chẳng cần biết có nghi tình hay không, cứ hỏi tới hoài, nhưng hỏi từ từ, đừng nên hồ gấp quá, không được để ý vọng tưởng, hơi thở, cảnh giới tốt xấu ... tất cả đều không được để ý. Hễ hôn trầm quá thì lấy nước lạnh rửa mặt, hoặc kiếm công việc khác để làm, vừa làm việc vừa tham là tốt. Tổ sư là muốn chúng ta ở trong động hạ thủ công phu, chứ không muốn chúng ta tìm nơi vắng vẻ để tham. Ở trong động tập tham lâu nhập nhưng mau kiến tánh, còn ở nơi vắng lặng tập tham mau nhập nhưng lâu kiến tánh, ba trăm năm không được kiến tánh, muốn mau lại thành chậm, nhiều người sơ cơ cứ cho là ở trong động khó tập, mặc dù khó nhưng lâu ngày cũng có thể thâm nhập được.

Hỏi: Sao tham thiền hay quên những việc ở ngoài?

Đáp: Có quên là tiến bộ, quên là quên việc ở ngoài, còn câu thoại đầu thì không quên. Việc ở ngoài quên nhiều chừng nào tốt chừng nấy, như ngài Lai Quả nói: “Sau cùng phải quên cả thế giới, quên đi thân tâm, mới đạt đến cảnh giới chơn tham”. “Vô tham tức chơn tham”, vô tham tức không biết mình đang tham, quên cả việc đang tham thiền, nhưng nghi tình vẫn còn, lúc đó đã đến thoại đầu rồi, nên những gì thông minh lanh lợi xưa nay trở nên khó ngốc, nhưng thật tế là tiến bộ.

Muốn đạt đến cảnh giới chơn tham, như Lai Quả Thiền sư nói: “Hễ người ta gọi tên tuổi của mình, vẫn biết trả lời được tức chưa phải chơn tham; người khác hỏi mà mình quên cả tên gọi, mới là chơn tham”.

Hỏi: Khi tham thiền quên hết, gặp việc thì thế nào?

Đáp: Chẳng có sao cả, ví như ngài Hư Vân, hai ba tháng quên ăn cũng chẳng sao, lại sống đến 120 tuổi. Chỉ cần giữ được căn bản “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” thì sự dụng của Tự tánh mau được hiện ra, tự động chứ không cần phải lo sợ. Cái gì cũng phải quên, chỉ có thoại đầu là không được quên.

Hỏi: Sao câu thoại đầu có lúc đề lên rõ ràng và có lúc không rõ ràng?

Đáp: Nếu không rõ ràng phải đề chậm một chút, từng chữ một, rõ ràng phân minh, hễ đề gấp quá thì không rõ ràng. Đối với một số người, tâm quá gấp bách, cứ muốn đề mau, dễ khiến thần kinh căng thẳng, ấy cũng không được, phải đề chậm lại, nếu quá căng thẳng phải đề cho thật chậm.

Hỏi: Tại sao chúng sanh tạp dụng tâm?

Đáp: Hàng ngày chúng ta mặc áo ăn cơm là tạp dụng tâm, nhưng Tổ sư đã kiến tánh rồi thì mặc áo ăn cơm không tạp dụng tâm. Tại sao nói mặc áo ăn cơm là tạp dụng tâm? Có một công án: Một ông quan hỏi một vị Thiền sư đã kiến tánh:

- Ngài có tu hành không?

Đáp: - Có chứ.

- Tu bằng cách nào?

- Đói bụng thì ăn cơm, buồn ngủ thì đi ngủ.

- Vậy thì ai ai cũng tu hành rồi! Ai lại chẳng đói ăn mệt ngủ!

- Khác.

- Khác ở chỗ nào?

- Ta ăn cơm chỉ là ăn cơm, còn quý vị ăn cơm chẳng chịu ăn cơm, cứ so đo đủ thứ; ta ngủ chỉ là ngủ, còn quý vị chẳng chịu ngủ, trăm điều suy nghĩ, ấy là tạp dụng tâm.

Hỏi: “Sao gọi câu thoại đầu của mình” và “Câu thoại đầu của người ta?”

Đáp: Ý nói niệm thoại đầu là câu thoại đầu của người ta; nếu chỉ ở trong bụng thầm niệm câu thoại đầu mà không có nghi tình, là câu thoại đầu của người ta. Còn câu thoại đầu của mình là hỏi, vừa hỏi vừa thắc mắc, không hiểu nổi, đáp không ra, hỏi tiếp mãi, ấy là câu thoại đầu của mình.

Hỏi: Thế nào là chánh tín?

Đáp: Tin tự tâm là Phật gọi là chánh tín, tin ngoài tâm có phật là tà tín. Tham thiền phải tin tự tâm, nếu không tin tự tâm thì dụng công thế nào cũng không được kiến tánh. Vì kiến tánh là kiến cái tự tâm, kiến tự tánh Phật, nếu không tin tự tâm thì làm sao kiến? Chỉ tin pháp môn, dù thực hành bao nhiêu năm, cực khổ bấy nhiêu cũng không thể kiến tánh được, nên phải tin tự tâm.

Hỏi: Thiền tông giảng kinh có lọt vào kiến giải như Giáo môn không?

Đáp: Sự giảng kinh của tôi khác hơn các Pháp sư giảng kinh Giáo môn. Vì tôi giảng kinh là muốn mọi người tăng trưởng lòng tin tự tâm, chứ không phải là giải thích giáo lý cho người ta biết thêm về giáo lý cao siêu. Lúc tôi giảng kinh là quét giáo lý, dù giáo lý cao siêu hơn Phật cũng quét luôn, chỉ lấy tất cả tinh thần chú vào câu thoại đầu để được mau kiến tánh.

Hỏi: Sự minh tâm kiến tánh của người tu và học thuyết khác nhau ở chỗ nào?

Đáp: Minh tâm tức kiến tánh, kiến tánh tức minh tâm. Bốn chữ “Minh tâm kiến tánh” với sự thật thân chứng còn cách xa lắm, vì minh tâm kiến tánh là lời nói văn tự, còn thật chứng của mình nói không được, ngôn ngữ tiếp xúc không được, tư tưởng suy lường cũng tiếp xúc không được. Nói “Minh tâm kiến tánh” là giả danh, chỉ là phương tiện đặt ra danh từ để hiểu phần nào thôi, thuộc về lý luận, chẳng phải là thật chứng. Thật chứng phải kinh nghiệm.

Hỏi: Tham thiền có cần cố ý khởi nghi tình không?

Đáp: Bắt đầu tập tham phải cố ý khởi nghi tình, tập cho quen. Còn “dụng công ít phí sức” của ngài Trung Phong nói, là phải lấy việc sanh tử làm thiết yếu; vì không chừng ngày mai là mình chết rồi, chết thì chẳng biết đi về đâu, nay còn mạnh khỏe, phải tranh thủ giải quyết cho xong. Cho nên lấy việc sanh tử làm sự thống thiết, lâu ngày trở nên ít phí sức ban đầu phải từ lạ tập thành quen.

Hỏi: Làm thế nào để tin tự tâm là Phật?

Đáp: Ấy là do chấp thật vào lời nói; lời nói chỉ là phương tiện tạm thời, dù là lời nói của Phật, nhưng hễ chấp thật là sai. Phải ở trong lời nói hiểu ý Phật. Đức Phật thường thí dụ rằng: “Lời nói chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, nếu hiểu theo ngón tay là sai lầm, phải nhờ ngón tay chỉ mà ngó thấy mặt trăng”. Ý của Phật muốn chúng ta nhờ vào ngón tay chỉ mà thấy được mặt trăng, chứ không phải muốn chúng ta hiểu về ngón tay.

Hỏi: Khi nào chư Tổ dùng “khẩu đầu thiền” để khiến người khai ngộ?

Đáp: Khẩu đầu Thiền là nói những người không có ngộ, chỉ mượn nước miếng của người khác để dạy người, nên gọi khẩu đầu thiền, chỉ là nói bằng miệng, với kinh nghiệm thật tế chẳng dính dáng gì.

Sự ngộ là do người tham đến cảnh giới đó được ngộ, chứ chẳng phải là nhờ khẩu đầu thiền được ngộ. Đến khi công phu thành khối rồi, gặp nhân duyên gì cũng có thể được ngộ.

Hỏi: Theo lẽ thường, Sa di theo thầy học đạo 15 năm, khi thầy xét thấy vị Sa di đó có giữ giới, có đạo hạnh, thì thầy mới dạy Thiền. Nếu theo lời Sư phụ dạy, có phải thi phần nào không?

Đáp: Thầy đó không phải là tôi. Tôi dạy pháp tham Tổ Sư Thiền, pháp thiền này ai cũng tu được, bà lão 80 - 90 tuổi cũng tham được, con nít 6 - 7 tuổi cũng tham được, chưa làm Sa di cũng tham được, huống chi đã là Sa di rồi! Còn vị thầy mà cô nói, thầy dạy thiền gì tôi không biết, cho nên không thể nói là đúng hay không đúng. Theo giới luật thì con nít 7 tuổi là có thể làm Sa di, trong giới luật gọi là Khu-ô Sa di, tức biết đuổi quạ là có thể làm Sa di.

Hỏi: Khi tham, câu thoại đầu bị lạc qua câu khác, có được không?

Đáp: Không được, phải trở về câu bổn tham, giữ câu bổn tham của mình, không được lạc qua câu khác.

Hỏi: Thế nào là hữu tình, vô tình thuyết pháp?

Đáp: Hữu tình là do tâm tạo, vô tình cũng do tâm tạo. Nói “Vô tình thuyết pháp” là khi người dụng công tham đến nghi tình thành khối rồi, gặp vô tình nào cũng thuyết pháp cho mình ngộ được, chứ chẳng phải thật có vô tình thuyết pháp.

Hỏi: Thế nào là thấy bản lai diện mục?

Đáp: Thấy bản lai diện mục tức kiến tánh. Ngộ có chứng ngộ và giải ngộ, kiến tánh là chứng ngộ, còn giải ngộ chẳng phải chứng ngộ, đối với sanh tử chẳng dính dáng gì cả.

Hỏi: Làm sao phá bỏ năng tri và sở tri?

Đáp: Không cần phá bỏ. Tôi dạy mọi người không được buông bỏ vọng tưởng, không được đè nén vọng tưởng. Không được phá trừ, cũng không cần tác ý phá trừ, chỉ đề khởi câu thoại đầu tham tới mãi nghi tình là cây chổi tự động quét sạch.

Về vấn đề năng tri và sở tri: Lục căn là dùng để tri, phải không ? Nhưng trong Tâm Kinh nói “Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý”, chữ VÔ là cây chổi để phá lục căn, vì cái tri do lục căn tiếp xúc lục trần, sánh ra lục thức, ấy là vọng tri. Trong quyển 2 của Kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ rằng do con mắt bệnh nên thấy hoa đốm trên không, thật ra trên không chẳng có hoa đốm! Cũng như thấy có núi sông đất đai, có quốc độ chúng sanh, có Phật, Bồ tát v.v... tất cả đều do con mắt bệnh từ vô thỉ, do có biết mới thấy như thế.

Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri giác nãi chúng sanh”. Có tri giác tức thành chúng sanh. Chư Phật chẳng phải không có tri giác như gỗ đá, nhưng tri giác của Phật chẳng năng sở đối đãi, không có năng tri sở tri, năng giác sở giác, vì năng sở đối đãi là do tâm tạo, là vọng.

Trong Kinh Lăng Nghiêm còn nói “Dẫu cho diệt hết tất cả kiến,văn, giác, tri, trong giữ u nhàn, vẫn là bóng phân biệt của pháp trần”, huống là lấy cái tri của lục căn tiếp xúc lục trần! Có cái tri rõ ràng, cũng là cái vọng rõ ràng.

Hỏi: Tham thiền có cần kiến giải không?

Đáp: Về Giáo môn là phải tìm hiểu giáo lý, nhưng giáo lý chỉ thuộc về lý luận, theo Giáo môn là tín, giải, hành, chứng, bất cứ pháp môn nào, trước tiên phải tin, giải là hiểu, hiểu được giáo lý rồi phải thực hành, có thực hành mới chứng theo từng cấp bậc. Còn Thiền môn cũng có tín, có giải, nhưng sau khi bắt đầu thực hành thì mọi sự hiểu biết, kiến giải phải cắt đứt, gọi là hành khởi giải tuyệt. Nên đã thực hành tham Thiền rồi còn đi tìm hiểu, ấy là hồ nghi chứ chẳng phải chánh nghi.

Hỏi: Tu thiền một thời gian được phát huệ, sau đó lại trở nên khờ khao, vậy có mâu thuẫn không?

Đáp: Đó không phải là mâu thuẫn, mà là tùy theo căn cơ trình độ của mỗi người có khác, nên có sai biệt. Có người phát huệ được tiểu ngộ, tức trải qua nhiều giải ngộ, đó đối với những người ham tri giải có thể được, nhưng không phải cần thiết, vì có một số người sau khi phát huệ tiểu ngộ rồi, lại bị cái huệ đó chướng ngại, chẳng được tiến tới nữa. Đối với những người không cầu tri giải thì khỏi cần tiểu ngộ mà trực chứng đại ngộ, ấy là tốt hơn.

Thật ra việc phát huệ không phải có ích mà là có hại, bởi vì thường do được phát huệ rồi lại tăng thêm ngã chấp, Phật pháp phải phá ngã chấp, nếu không phá được ngã chấp lại còn tăng thêm tà có hại. Nhưng vì lúc ban đầu chỉ có một mình tôi hoằng dương pháp Tổ Sư Thiền, do muốn tăng trưởng lòng tin cho mọi người, nên đưa ra sự thật về việc phát huệ của Phật tử cho người ta dễ tin, sau này lòng tin của mọi người vững rồi, thì tôi nói với Phật tử rằng sự phát huệ đó không cần thiết. Nếu như phát huệ mà không khởi chấp thì còn được, nhưng hễ chấp vào đó thì bị chướng ngại vô cùng.

Bên Giáo môn muốn phát huệ mà không được, còn Thiền môn đạt được phát huệ là phải quét, chẳng những giải ngộ phải quét, chứng ngộ cũng phải quét! Sau khi phá được Sơ quan xong không quét sạch là chẳng thể tiến đến Trùng quan; phá được trùng quan mà không quét thì chẳng thể tiến đến mạt hậu Lao quan. Do đó, chứng đại ngộ rồi cũng còn phải quét, chứ chẳng phải chỉ quét tiểu ngộ mà thôi.

Hỏi: Học thuyết của Lão Trang có giống tông chỉ pháp môn Tổ Sư Thiền không?

Đáp: Khác. Học thuyết Lão Trang còn ngã chấp; chấp chỗ thanh tịnh vô vi là tốt, còn đốt với Tổ Sư Thiền thì thanh tịnh gọi là thiền bệnh. Tổ Sư Thiền lấy Vô Sở Trụ làm căn bản, chẳng lọt vào bên động, chẳng lọt vào bên tịnh, cũng chẳng lọt vào trung đạo, chẳng lọt vào chỗ nào cả.

Hỏi: Mình nhờ người khác cứu độ được không?

Đáp: Trồng bí được bí, trồng đậu được đậu, nếu không trồng bí mà mong cầu Phật cho mình quả bí, có được không? Có nhân mới có quả, không gieo nhân muốn có quả, ấy thành chẳng có nhân quả rồi. Nếu không có nhân quả tạo không có Phật pháp.

Nói đến vấn đề “Cầu”, có cầu là phá hoại nhân quả, tức phá hoại Phật pháp. Nếu khỏi cần nhân mà có quả là không có nhân quả, không có nhân quả thì làm ác cũng chẳng sao, làm ác nhân rồi cầu Phật cho mình thiện quả cũng được vậy! Vả lại, cầu là thuộc về mê tín, Phật pháp là chánh tín, chánh tín phải phá trừ mê tín mới có thể giải thoát sanh tử, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn, nên phải tự độ độ tha.

Hỏi: Thế nào là ác kiến ngoại đạo?

Đáp: Theo Giáo môn, ác kiến có năm thứ: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ:

Thân kiến là chấp cái thân ta là thật, tất cả đều qui về thân ta trên hết.

Biên kiến là chấp về tương đối, chẳng chấp có thì chấp không, chẳng chấp thường thì chấp đoạn, chẳng chấp chơn thì chấp giả v.v...

Tà kiến là chấp không có nhân quả, hễ có sở cầu là lọt vào tà kiến, vì không cần nhân mà mong cầu được quả.

Kiến thủ là chấp vào ý kiến nào cao nhất, ví như nói vũ trụ là do một vị chúa tể nào tạo ra ...

Giới cấm thủ: Ví như ở Ấn Độ có phong tục không ăn thịt heo, vì cho rằng ăn thịt heo không được giải thoát, nay dám phá giới cấm ấy, gọi là giới cấm thủ.

Hỏi: Thiền tông lấy tâm truyền tâm, tại sao lại có truyền y bát?

Đáp: Về việc truyền y bát, bởi trước khi Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc, người Trung Quốc chưa biết pháp môn Tổ Sư Thiền, nên có việc truyền y bát để làm vật tin cho người. Đến đời Lục Tổ thì việc truyền y bát trở thành sự tranh giành, và lòng tin của mọi người đã vững, nên không cần truyền y bát nữa.

Còn về vấn đề truyền tâm ấn, nói là truyền, kỳ thật không phải có tâm ấn thật để truyền, chỉ là trò kiến tánh rồi thầy ấn chứng cho, gọi là truyền tâm ấn. Nhưng đến đời sau này thì dù trò chưa kiến tánh, thầy vẫn ấn chứng, khiến việc truyền tâm ấn bị gián đoạn, tức sự ngộ bị gián đoạn. Thời nay, nói đến chữ “truyền” chỉ là truyền thừa sự thực hành đúng theo chánh pháp mà thôi. Như ngài Hư Vân đã ngộ, nhưng thầy của ngài chưa kiến tánh; Lai Quả Thiền sư đã ngộ mà thầy của ngài cũng chưa ngộ.

Cũng như tôi chưa kiến tánh, chưa được truyền tâm ấn, nhưng vì tôi may mắn biết được cách thực hành tham Tổ Sư Thiền, nên tôi chỉ truyền lại cho quý vị về cách thực hành Tổ sư Thiền. Về cách thực hành, nếu siêng năng, quyết tử tham sẽ được ngộ, còn lôi thôi thỉ chẳng được ngộ. Trong lịch sử Thiền tông, cũng có trường hợp trò được ngộ mà thầy chưa kiến tánh, thầy lễ trò trộ lại làm thầy, còn tâm ấn thì không có truyền nữa.

Hỏi: Tham thiền đến đầu sào trăm thước thế nào?

Đáp: Tham Thiền đến đầu sào trăm thước vẫn còn nằm trong ý thức, công phu thành khối vẫn nằm trong ý thức, phải lìa ý thức mới kiến tánh. Nói KIẾN TÁNH, nếu chấp “thật có Phật tánh” ấy là thêm, nếu chấp “không có Phật tánh” ấy là bớt, tự tánh chẳng thể thêm bớt, nên không thể dùng ngôn ngữ văn tự diễn đạt được, phải tự ngộ tự biết.

Hỏi: Tu hành đến một lúc nào đó sẽ có thần thông, phải không?

Đáp: Theo pháp môn khác như Mật tông thì tôi không biết rõ, nhưng theo pháp môn Tổ Sư Thiền rất kỵ thần thông. Lịch đạt Tổ sư kiến tánh rồi đều có thần thông nhưng không cho ai biết, có khi sơ hở lộ ra cho người biết rồi liền thị tịch. Thần thông là bản tánh mọi người sẵn có, chứ không phải do học mà được, nhưng cái thiết yếu là cần phải đạt đến tự do tự tại, giải thoát vĩnh viễn, còn về thần thông, theo trong Kinh Lăng Nghiêm, tà ma ngoại đạo cũng có thần thông, nhưng chỉ khiến tạo thêm tội địa ngục chứ chẳng thể giải thoát. Cho nên Tổ Sư Thiền rất kỵ thần thông.

Hỏi: Thế nào là “Bọt nước hư không trong biển giác?”

Đáp: Trong Kinh Lăng Nghiêm có thí dụ: “Giác tánh của mình là một biển lớn, hư không chỉ là một bọt nước trong biển, còn các thế giới như thế giới Ta Bà, thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly v.v...thì kiến lập ở trong bọt nước đó. Hễ bọt nước bể là hư không tan nát, qui về biển Giác, không có hư không thì thế giới còn không? Thế giới kiến lập ở đâu? Nếu đã hiểu Kinh Lăng Nghiêm thì vấn đề này không cần hỏi nữa.

Hỏi: Kiến tánh rồi có thành Phật không? Như vậy là có sở cầu có sở đắc không?

Đáp: Kiến tánh không phải có Phật để đắc, Đức Phật trong Kinh Kim Cang nói: “Nếu ta có thật chứng đắc A Nâu Đa La Tam Miêu Tam Bồ Đề, thì Phật Nhiên Đăng đã không thọ ký cho ta thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, vì vô sở đắc nên Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta thành Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni”. Sau khi ngộ rồi mới biết trước kia chưa từng mê, thực sự ngộ ấy chỉ là biết mình là cái gì, biết mình đã sẵn có thôi, chứ không phải có đắc thêm cái gì từ bên ngoài.

Hỏi: Trước kia đề lên câu thoại đầu khó khởi nghi tình, nay tham được dễ dàng rồi lại khởi vọng niệm muốn giúp cho người này, người kia, ấy là thế nào?

Đáp: Ấy là do thói quen từ xưa nay, đừng nên để ý, cũng đừng nổi niệm muốn giúp hay không muốn giúp, nói “muốn giúp” cũng không được, nói “không muốn giúp” cũng không được, chỉ để ý câu thoại đầu. Tham Thiền chỉ là một câu thoại đầu, ngoài nghi tình ra, không được nổi thêm một niệm nào, cũng đừng có nói là quyết tử hay không quyết tử. NGOÀI CÂU THOẠI ĐẦU RA, HỄ NỔI LÊN MỘT NIỆM KHÁC LÀ BIỆT NIỆM, LÀ THIỀN BỆNH. Cho dù nổi niệm muốn độ hết tất cả chúng sanh cũng là biệt niệm, muốn hiểu thiền hiểu đạo cũng là biệt niệm.

Hỏi: Dụng công cách nào khi thân thể có bệnh?

Đáp: Chẳng có phương tiện gì khác, chỉ có một câu thoại đầu: Hôn trầm cũng đề câu thoại đầu, tán loạn cũng đề câu thoại đầu, chỉ để ý câu thoại đầu, ngoài ra bất cứ hôn trầm, tán loạn, vọng tưởng, thanh tịnh v.v... cũng chỉ là đề câu thoại đầu.

Lúc vọng tưởng nhiều, không biết tới; lúc không có vọng tưởng, được yên tịnh, cũng không biết tới, đừng có sợ hôn trầm, vọng tưởng, tất cả đều không biết tới.

Hỏi: Phạm tứ trọng giới, tu lại có thành Phật không?

Đáp: Trong Đại Tạng Kinh và Chứng Đạo Ca đều nói: “Tất cả chúng sanh đều được thành Phật”. Tỳ kheo Dũng Thí phạm hai giới Ba la Di: Sát và dâm, sau khi phạm ăn năn sám hối, muốn tự tử và nhảy từ trên cao xuống, nhưng được cứu sống, sau đó quyết tử tu nên nay đã thành Phật. Ý nghĩa của hai chữ sám hối: SÁM là diệt tội phá giới, HỐI là sau này không được tái phạm. Nếu còn tái phạm thì sự sám lần trước không tác dụng, tội còn nặng thêm. Có người buổi sáng sám hối, buổi chiều lại tái phạm, vậy làm sao diệt tội?

Sám hối diệt tội chỉ có thể diệt tội phá giới, còn tội nhân quả thì chẳng thể diệt được, cho nên, khi phạm tứ trọng giới Ba La Di của Tỳ kheo, nếu triệt để sám hối, quyết tử tham thiền có thể thành Phật.

Hỏi: Tham thiền đến khi phát khởi chơn nghi, sự khai ngộ có bằng với chư Tổ không?

Đáp: Nếu đã đạt đến chơn nghi thì có thể khai ngộ bằng với chư Tổ, bằng Phật nữa. Nói Tham thiền kiến tánh thành Phật, ấy là cái lý, còn về sự, do tập khí lâu đời, nên khi kiến tánh thì sự ngộ bằng Phật, nhưng sức dụng so với Phật còn xa lắm, phải dứt sạch hết tập khí thế gian, tập khí xuất thế gian.

Hỏi: Khi tu pháp môn Tổ Sư Thiền, kiến tánh rồi có còn tiếp tục tu nữa không?

Đáp: Nói “Kiến tánh là tự tánh tự hiện, gọi là kiến tánh thành Phật. Tổ Sư Thiền có ba lớp: Sơ quan, trùng quan, mạt hậu lao quan.

- Phá sơ quan rồi cũng gọi là kiến tánh, nhưng chưa rốt ráo, thấy thì thấy nhưng rất mơ hồ, phải tiến thêm .

- Đến khi phá được trùng quan, cũng gọi là kiến tánh, thấy thì thấy rõ, nhưng chính vì còn ghi nhớ cái thấy rõ ấy, còn giữ cảnh giới ngộ, không tan rã được; hễ còn ngộ tức sự mê chưa hết, vì mê với ngộ là tương đối, mê là bệnh, ngộ là thuốc, cảnh giới ngộ còn ghi nhớ trong lòng là không được triệt để cứu cánh.

- Đến chỗ mạt hậu lao quan, cái ghi nhớ, rõ ràng ấy lan rã hết, là đến mạt hậu lao quan, nên nói “Ngộ rồi đồng như chưa ngộ”.

Mặc dù đến đó, phàm phu ngộ cũng đến đó, Thập Địa Bồ tát ngộ cũng đến đó, sự ngộ bằng nhau, nhưng sự dụng thì khác xa nhiều. Tại sao? Vì phàm phu dù ngộ triệt để nhưng tập khí thế gian và xuất thế gian còn nguyên, Thập Địa Bồ tát ngộ triệt để, tập khí thế gian đã sạch, tập khí xuất thế gian còn chút ít, rất vi tế. Nên sức dụng của Thập Địa Bồ tát mạnh hơn sức dụng của phàm phu.

Phàm phu nếu ngộ triệt để rồi tập khí cũng sẽ tự hết dần, cuối cùng cũng bằng với Thập Địa Bồ tát, bằng với Phật, thần thông biến hóa, vô lượng vô biên, tất cả đều sẵn có.

Hỏi: Ơn cha mẹ lớn hay ơn Phật lớn?

Đáp: Ở trong Phật giáo có Tứ ơn: ơn Phật, ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn chúng sanh, tứ ơn đều bằng nhau, không có lớn nhỏ cao thấp. Cho nên, Đức Phật hy vọng mọi người đều thành Phật, chứ không có Phật phải cao hơn, chúng sanh phải thấp hơn. Lại, nói đến tứ ơn thì tất cả chúng sanh; Phật, cha mẹ, sư trưởng, cũng là ở trong chúng sanh, nên hễ báo đáp ơn của chúng sanh là báo đáp hết tứ ơn.

Hỏi: Làm thế nào để đền ơn cha mẹ?

Đáp: Nay chúng ta sanh ở kiếp này thì kiếp này có một cha một mẹ, nếu muốn đền đáp công ơn cha mẹ, phải khiến cha mẹ đạt đến tự do tự tại, vĩnh viễn giải thoát tất cả khổ, ấy mới là triệt để. Nếu chỉ nuôi dưỡng cha mẹ thì khổ của cha mẹ không thể hết được. Cho nên, người xuất gia không có nuôi dưỡng cha mẹ, theo thế gian là bất hiếu, nhưng ở trong Phật pháp gọi là đại hiếu. Sao gọi đại hiếu? Dù ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, cha mẹ cũng phải già, phải bệnh và cuối cùng phải chết, chết rồi tùy theo nghiệp báo chịu khổ sanh tử luân hồi, không được giải thoát.

Còn người xuất gia, nếu tự chẳng làm tròn bổn phận, tự chẳng giải thoát được là phụ ơn cha mẹ; phải tận bổn phận của mình, tự giác giác tha, tự mình giác ngộ thành Phật rồi, giác ngộ tất cả chúng sanh. Trong tất cả chúng sanh có cha mẹ của mình, chẳng những cha mẹ kiếp này, kể cả cha mẹ từ vô lượng kiếp cũng bao gồm trong đó.

Cho nên, Phật pháp gọi là đại hiếu, hiếu ấy mới triệt để.

Nay chúng ta tham Thiền, nếu siêng năng quyết tử tham đến kiến tánh thành Phật thì được viên mãn đại hiếu vậy.

Hỏi: Phật Quán Âm có ngàn tay, ngàn mắt nghĩa như thế nào?

Đáp: Ấy là hình dung cái dụng của Phật tánh, tức dụng của tự tánh. Phật tánh của mọi chúng sánh đều sẵn đủ sự dụng, vô lượng vô biên, mắt thấy khắp tất cả vi trần vô lương vô biên thế giới, tay có thể lấy tất cả vật trong tất cả thế giới, đâu có hạn chế bởi ngàn tay ngàn mắt! Vì nói vô lượng vô biên thì mọi người khó hiểu, nên lấy ước số một ngàn, chứ chẳng phải một người có ngàn tay ngàn mắt.

Hỏi: Tham thiền có chướng ngại việc làm không?

Đáp: Tham Thiền đâu có cấm người đi kiếm cơm ăn việc làm! Chẳng những không chướng ngại đời sống của mình, còn có giúp ích cho đời sống; người nào làm nghề gì cứ chiếu theo nghề cũ, vẫn nuôi nấng cha mẹ, Tổ dạy là phải ở trong lao động mà tham, lúc đang làm cũng là lúc đang tham, đâu có chướng ngại! Nên tôi thường nói “Tham Thiền đệ nhất, đời sống đệ nhị”, vì nhất thiết do tâm tạo, sinh sống là có nhân quả, còn tham thiền có thể sửa đổi nhân quả, khi tâm lực mạnh rồi nhân quả có thể sửa lại được.

Hỏi: Cầu siêu cho cha mẹ bằng cách nào tốt hơn?

Đáp: Mục đích cầu siêu cho cha mẹ là muốn cha mẹ giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại, phải không? Vậy tụng kinh lễ sám có thể đạt đến mục đích này không? Nếu không được thì phải có cách khác. Ví như Lai Quả Thiền sư nói: “Chỉ có câu thoại đầu mới được giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại”, nếu muốn cầu siêu cho cha mẹ, tự mình phải quyết tử tham thiền, ấy mới là thật tế. Còn về tụng kinh lễ sám, cũng như Lai Quả Thiền Sư nói: “Chỉ gieo trồng được thiện nhân, để muôn ngàn kiếp sau, khi thiện nhân chín mùi mới bắt đầu tham thiền”. Như vậy nay ta bắt đầu tham thiền có phải mau hơn không?

Hỏi: Kiếp này chết rồi, kiếp sau làm sao biết có nhân duyên hay không?

Đáp: Về vấn đề sanh tử, trước mắt chúng ta thấy có sanh tử rõ ràng, nhưng kỳ thật ấy là do vọng tâm của mình ngày đêm hoạt động chẳng ngừng, sanh ra cảm giác sai lầm, mới thấy có sanh tử luân hồi. Tự tánh xưa nay vẫn như thế, vốn chẳng có sanh tử. Hạt giống nhân duyên nằm trong thức thứ tám, cũng như hạt lúa trong kho, dù cất giữ mươi năm, trăm năm, vẫn là hạt lúa, không có mất, khi nào gặp trợ duyên, khởi lên hiện hành rồi mới tàn. Hạt lúa là nhân, nhân công trồng trọt, nước tưới, phân bón, nắng mưa ... ấy là trợ duyên giúp cho hạt lúa trưởng thành, nên gọi là nhân duyên.

Hỏi: Người tham Thiền đối với tình cảm vợ chồng như thế nào?

Đáp: Theo ngũ giới của bậc cư sĩ chỉ cấm tà dâm, không cấm chánh dâm, vợ chồng chính thức thuộc chánh dâm. Còn theo Tổ Sư Thiền thì không để ý những vấn đề đó, chỉ để ý câu thoại đầu. Nếu đã tập trung tinh thần về câu thoại đầu thì những vấn đề trên đều quét sạch. Nay có nhiều Phật tử, xưa kia thích đi chơi, xem phim, mặc áo đẹp, tham thiền một thời gian sau không thích nữa. Đối với tình vợ chồng cũng thế, khi đi đến cảnh giới đó rồi tự nhiên quét sạch. Lại, nếu muốn chứng quả thì tất cả tình cảm cha mẹ, anh em, bạn bè đều dứt, không chỉ riêng tình cảm vợ chồng. Vì hễ tình sanh thì trí cách.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tất cả sát, đạo, dâm đều lọt vào ma đạo, không có sát, đạo, dâm thì lọt vào Cõi Trời, vẫn chưa ra khỏi luân hồi, vì còn ở trong tương đối”. Nên trong Tổ sư Thiền có và không đều quét sạch.

Hỏi: Về công án “Động Sơn qua cầu, Huyền Sa qua núi” như thế nào?

Đáp: Công án và sự tích của Tổ sư rất nhiều, một ngàn bảy trăm Tổ, sau này đến bảy ngàn công án. Nói tóm lại, Huyền Sa qua núi, đá nhằm cục đá liền ngộ; Động Sơn qua cầu, thấy bóng trong nước cũng ngộ ... Bóng nước, cục đá v.v... chỉ là trợ duyên cho sự ngộ, chứ cái ngộ chẳng phải do những thứ đó. Cái chính là do công phu của mình đã tới mức rồi, gặp gì cũng có thể làm trợ duyên khiến ngộ.

Nên công án chỉ là trợ duyên, nếu giải thích công án chỉ làm chướng ngại cho sự tham Thiền chứ chẳng có ích lợi gì. Như những sách thiền thời nay, đem công án ra giải thích, là nghịch với ý Tổ, làm chướng ngại người tham thiền. Ý của Tổ là muốn chúng ta nghi, hễ giải thích ra thì hết nghi, hết nghi là hết ngộ, Thiền tông gọi là “Lắp bít cửa ngộ của người tham thiền”.

Hỏi: Tham câu thoại đầu đề lên câu hỏi, khoảng cách giữa câu hỏi lần thứ nhất với lần thứ nhì có sự kéo dài, vậy đúng không?

Đáp: Câu thoại đầu là câu hỏi, có hỏi thì có đáp, hỏi thầm trong bụng “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” không hiểu, đáp không ra, phải hỏi liền, vẫn đáp không ra, hỏi tiếp ... trong đó không có kẽ hở, không có gián đoạn. Nếu có kẽ hở, cũng như Lai Quả Thiền sư nói “Thai trâu bụng ngựa cũng ở trong kẽ hở đó nổi lên”. Có kẽ hở thì Diêm La Vương thấy được có thể sai quỷ sứ đến bắt, còn không có kẽ hở thì vô tướng, hễ vô tướng thì Diêm La Vương chẳng thể thấy.

Hỏi: Con học Phật cứ quên hoài, vậy có phải là cái nghiệp không?

Đáp: Không phải là nghiệp. Nếu cô vì muốn giải quyết vấn đề sanh tử mà xuất gia, thì nay tham thiền là đi đúng con đường giải thoát, nên mới được quên, quên là đúng với đường lối giải thoát, quên thì chẳng bị dính mắc, còn ghi nhớ là dính mắc.

Trong bài Pháp môn An Tâm của Tổ Đạt Ma có nói: “Phân biệt ghi nhớ là việc bên chảo dầu sôi lò lửa than, không phân biệt ghi nhớ là sự Niết bàn giải thoát”. Hiện nay chùa nào cũng thờ Tổ Đạt Ma, tại sao thờ Tổ Đạt Ma? Vì Tổ dạy cho người tu giải thoát. Nay nhiều người lấy dòng Lâm Tế, tự nhận là Gần cháu của Tổ Đạt Ma, nhưng lại trái ngược với Tổ, trái ngược với Tổ Đạt Ma tức trái ngược với Phật Thích Ca, thế thì xuất gia làm chi?! Chẳng thà ở ngoài đời, học theo pháp thế gian, được hưởng thụ như người đời, đâu cần cực khổ bỏ cha mẹ, anh em gia đình mà không được giải thoát, lại mắc thêm tội của bên chảo dầu sôi lò lửa than, sau này chịu những khổ báo!

 

 Sư phụ giảng về đại ý PHỔ MÔN (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa)

Tạo sao gọi là PHỔ MÔN? vì tự tánh của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn. Kinh này do Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần. Sao gọi Tam Tạng? Tam tạng gồm Kinh, Luật, Luận, nếu thông suốt kinh điển gọi là Kinh sư; thông suốt giới luật gọi là Luật sư, thông suốt luận gọi là Luận sư. Ngài Cưu Ma La Thập thông suốt cả kinh, luật, luận, nên gọi Tam Tạng Pháp sư. Pháp sư chuyên về dịch kinh, sự dịch kinh rất đúng với ý Phật, được nhà Vua đương thời kính trọng. Sư đã nói trước rằng: “Nếu tôi dịch kinh sai ý Phật thì hãy đem lưỡi tôi cắt đi; còn nếu tôi dịch đúng ý Phật, sau khi tôi mất, tất cả đều có thể hoại, ngoại trừ cái lưỡi”. Sau khi Sư tịch, đem đi trà tỳ, tất cả đều thiêu rụi, chỉ còn lại cái lưỡi.

Chứng tỏ các kinh do Ngài dịch không sai.

Chánh văn:

Lúc Phật đang thuyết pháp, Vô Tận Ý Bồ tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch tay áo bên phải, quỳ gối chân phải, bạch Phật rằng:

- Thế Tôn, do nhân duyên gì mà Quán Thế Âm Bồ tát được gọi là Quán Thế Âm?

Phật bảo: “Nếu có vô lượng vô biên chúng sanh , đã chịu tất cả khổ, nghe được Quán Thế Âm Bồ tát, nhất tâm xưng danh, thì Quán Thế Âm Bồ tát sẽ quán được âm thanh khiến giải thoát”.

Theo thế gian thì âm thanh phải dùng tai nghe, chẳng thể dùng mắt thấy, nhưng người kiến tánh triệt để rồi lục căn hổ dụng, tức dùng mắt nghe được, dùng lỗ tai xem thấy. Chữ QUÁN là dùng con mắt để nghe âm thanh, ấy là sự dụng của tự tánh, nên ba chữ QUÁN THẾ ÂM là chỉ về tự tánh của mình, chứ chẳng phải thật có một vị Bồ tát tên Quán Thế Âm.

Quán Thế Âm Bồ tát nghe được xưng danh đến cứu giúp: Chẳng những thế giới này, kể cả hằng hà sa số vô lượng vô biến vi trần thế giới, hễ chúng sanh nào cầu cứu cũng sẽ được cứu, ví như đài phát thanh hiện nay có làn sóng mạnh, dù máy radio to nhỏ, nếu bắt đúng theo làn sóng cũng có thể thâu được. Sức dụng Tự tánh của mình cũng vậy, khắp hư không pháp giới, nếu sự tu của chúng ta quét trống rỗng tất cả ngũ uẩn giai không, đến cái Không tướng hiện ra, tự tánh tự hiện, tức tự tánh mình cứu mình, chứ chẳng phải Quán Thế Âm Bồ tát hay một người nào đó.

Phải biết Quán Thế Âm Bồ tát là dùng con mắt để nghe chứ không phải dùng lỗ tai, nếu chúng ta

dùng con mắt nghe được mới là Quán Thế Âm, đạt đến cảnh giới này tất cả khổ đều được giải thoát.

Ở trên đã nói, ba chữ Quán Thế Âm là tự tánh của mình, mọi người đều sẵn đủ, sức dụng thần thông biến hóa chẳng kém hơn Phật, nên gọi Phật tánh, sở dĩ Phật phát huy ra hết mà chúng ta chỉ có thể phát huy được một ít, chưa bằng một phần triệu, do phát huy chậm nên gọi là nghiệp lực, nếu được phát huy hết, gọi là thần thông lực.

Sự biến hóa hiện nay của chúng ta chậm đến chính mình cũng chẳng thể biết được; ví như tóc, móng tay, tế bào ... mỗi giây phút biến đổi, thân thể mỗi giây phút biên đổi, ngày đêm chẳng ngừng, nhưng tự mình chẳng hay. Hễ biến đổi một chặng thì nhân quả bằng tam thế: Kiếp trước tạo kiếp này, kiếp này tạo kiếp sau, vì nhất thiết duy tâm tạo, do tâm lực tạo ra nghiệp lực.

Ví dụ tâm lực đến tột đỉnh là một triệu độ, nay tâm lực chúng ta chỉ có một độ, tham Thiền mãi tăng lên mười độ, rồi trăm độ, ngàn độ ... . Hễ tâm lực tăng đến năm trăm ngàn độ (phân nữa tâm lực), lúc ấy có thể biến cái này cái kia, ấy gọi Thần thông lực. Nên Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm như họa sĩ tài ba, khéo họa đủ thứ thế giới, họa ra thiên đàng, địa ngục?”

Ở trong này nói đến “trì danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ tát”; chữ TRÌ này nhiều người lầm tưởng cho tụng là trì, mỗi ngày tụng Kinh Phổ Môn nói là trì kinh Phổ Môn, mà chẳng biết trì là phải hành trì. Ví như hàng Tăng ni chúng ta phải tự giới, mỗi nửa tháng bố tát (tức tụng giới) một lần, nếu cho tụng giới tức trì giới lả không đúng, phải theo giới thực hành mới gọi là trì. Trì kinh cũng vậy.

Hễ hành trì đúng pháp thì đạt đến sự dụng như Quán Thế Âm Bồ tát, sức dụng của tự tánh automatic, không qua tác ý, đã đạt đến cảnh giới này thì vào lửa chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, muốn gì được nấy, bởi do nhất tâm mà thần lực được hiện ra, tất cả tai nạn đều được giải thoát. Do nhân duyên này nên gọi là Quán Thế Âm.

Nếu thực hành đúng pháp môn, khi tự tánh hiện ra sức dụng thì bị dao chém đầu mà đầu chẳng bị đứt, dao lại gẫy từng khúc; (Trước kia khi đọc đến đây, do chưa hiểu nghĩa này, cho rằng ấy là gạt trẻ con, nhưng nay thì tin được. Việc này giải thích ra thì vô lý, nhưng sự thật như thế). Những ma quỷ, la sát muốn ăn thịt người, hút tinh khí người, đều chẳng thể hại, chẳng những không thể hại được, kể cả con mắt chẳng thể ngó thấy.

Trong Thiền tông có một sự tích như sau:

Một vị Tổ sư đã kiến tánh, làm Trụ Trì ở chùa hơn ba mươi năm mà Già Lam Bồ tát không thể thấy mặt vị Trụ trì ấy, vì Sư luôn có một hào quang bao phủ. Một ngày kia, Bồ tát hỏi vị Chủ sự trong chùa:

- Tôi muốn chiêm ngưỡng chân dung của Sư Trụ trì, Ông có cách nào không?

Đáp: “Dễ thôi, ngày mai, lúc ăn quả đường, ông làm đổ thùng cơm thì thấy được”.

Già Lam Bồ tát làm theo lời của vị Chủ sự, Hòa Thượng Trụ trì thấy vậy liền mắng:

Cơm của thí chủ cúng dường, sao bất cẩn như thế!”

Ngay lúc la mắng, hào quang bị giảm xuống, Già Lam Bồ tát mới có dịp đảnh lễ, nhưng sau đó hào quang của Sư lại phủ kín, chẳng thể thấy được nữa.

Mỗi người chúng ta đều có hào quang, chỉ cần tâm lực mạnh. Nên khi sức dụng của tự tánh hiện ra, Bồ tát còn chẳng thể thấy được, nói chi quỷ thần ư!

Chánh văn:

Bất kể người có tội, bị gông cùm xiềng xích, tất cả khủng bố, tai ương, do nhất tâm xưng danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ tát, đều được tan rã, được giải thoát.

Muốn đạt đến nhất tâm thì bình thường phải tu tập lúc niệm phải nhất tâm, chẳng có một tạp niệm nào. Ví như tham Thiền, chỉ có một câu thoại đầu, không có biệt niệm, thì dụng của Tự tánh được hiển hiện.

- Vô Tận ý Bồ tát, nếu chúng sanh ham dâm dục sẽ được hết dâm dục; ham sân giận cũng sẽ được hết, kẻ ngu si được trí huệ.

Nay đã có sự thật chứng tỏ, nhiều Phật tử sau một thời gian tham Thiền, đối với những ham thích trước kia như ăn mặc đẹp, đi chơi, ca hát v.v… đều tự nhiên bỏ. Tự tánh của mọi chúng sanh sẵn đủ tất cả, chẳng kém hơn Phật, do bị tham sân si che lắp nên chẳng thể phát huy, như bụi che lắp ánh sáng của chiếc gương, nếu quét sạch bụi bậm thì ánh sáng của gương được hiện ra, quét trống bao nhiêu hiện ra sự dụng bấy nhiêu, tức dụng tức không, tức không tức dụng, không tới cực, dụng tới cực, hoạt bát vạn năng, vô lượng vô biên. Ánh sáng gương vốn sẵn đủ, chẳng phải do chùi mới thành gương, Tự tánh của chúng ta vốn sẵn thần thông biến hóa như Phật, chẳng phải do tu mới thành.

Dụng của Tự tánh có đại uy thần lực như thế, nên mới có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, và tất cả chúng sanh đều phải hướng vào tự tánh mà ngộ, phải quét sạch tất cả chấp tâm của mình. Lúc tự tánh hiện ra, chẳng cần dụng cũng được, vì đã tự do tự tại rồi! Nên muốn cầu nam được nam, cầu nữ được nữ, muốn gì được nấy, hễ còn một chút khổ là chẳng tự do tự tại vậy.

Phật bảo: Nếu có người thọ trì 62 ức hằng hà sa số Bồ tát, công đức của người ấy, với phước đức của người thọ trì danh hiệu Quán Thế âm Bồ tát bằng nhau không khác.

Tại sao nói số 62 mà chẳng phải 61 hay 60 ? Vì kiến chấp của chúng sanh có 62 thứ: Ấy là: Tứ cú x ngũ uẩn = 20. 20 x tam thế = 60. 60 + Hữu & vô = 62. Tất cả kiến chấp đều không ngoài 62 thứ này, nên lấy ước số 52 để đối trị 62 kiến chấp, chỉ cần một Quán Thế Âm là đủ rồi. Như trên đã nói, Tự tánh vốn đầy đủ tất cả, cùng hư không, khắp pháp giới, tất cả đều chẳng ở ngoài tự tánh. Nói “Tâm bao gồm hư không pháp giới” vẫn chưa đúng, vì cho tâm là tâm, hư không pháp giới là hư không pháp giới, là nhị; tự tánh bất nhị, hư không pháp giới tức tâm, tâm tức hư không pháp giới; tự tánh tức tâm, tâm tức tự tánh, chẳng hai chẳng khác. 62 ức, nói ra rất nhiều, nhưng gom lại chỉ là bất nhị, chỉ là tự tánh Quán Thế Âm mà thôi, cho nên công đức với phước

đức bằng nhau.

Công đức và phước đức của thế gian dù có số lượng nhiều, nhưng lâu ngày cũng hết, còn công đức của tự tánh thì chẳng thể hết, vì bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm. Cho nên, chư Phật chư Tổ chỉ muốn chúng ta được ngộ, khi ngộ rồi sức dụng của tự tánh phát huy, nên phải thọ trì. Thọ trì là muốn quét cho sạch, nay quét chưa sạch thì năng lực ấy chỉ có thể gọi là tiềm năng, tức tiềm ẩn nơi tự tánh.

- Nói 32 ứng thân của Quán Thế Âm Bồ tát độ chúng sanh; chúng sanh nào cần Phật thân để độ thì hiện Phật thân, cần thân Bồ tát để độ hiện thân Bồ tát v.v... nói tóm lại chỉ là tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà độ như ngài Lục Tổ nói: “Tự tánh tự độ”, Quán Thế Âm Bồ tát tự tánh tự độ, chúng sanh cũng tự tánh tự độ; tự tánh tự độ tức Quán Thế Âm Bồ tát, chứ chẳng phải là người khác độ. Nếu người khác độ được thì Đức Phật đại từ đại bi, đã độ hết chúng sanh rồi, đâu cần cực khổ mà tu!

Lúc bấy giờ, Vô Tận Ý Bồ tát muốn cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát bằng sâu chuỗi Anh-lạc quý báu, lúc đầu Quán Thế Âm Bồ tát không chịu nhận, và Vô Tận Ý Bồ Tát nói rằng:

- Hãy thương xót chúng tôi mà nhận lấy sâu chuỗi.

Khi ấy Đức Phật cũng nói với Quán Thế Âm Bồ tát rằng: “Hãy thương xót Vô Tận Ý Bồ tát và tứ chúng cùng các cõi trời, người, A Tu La v.v... mà nhận lấy” Vì thế, Quán Thế Âm Bồ tát đã nhận và chia sâu chuỗi thành hai phần, một phần cúng dường Phật Thích Ca, một phần kia cúng dường Tháp Phật Đa-Bảo.

Đây là hình dung cho Pháp Thí, nếu như chẳng nghe được pháp bố thí thì chẳng biết tu hành, chẳng thể lìa khổ, Vô Tận Ý Bồ tát vì muốn chúng sanh cung kính Tam Bảo, vì ngài là đại diện đương cơ, thay mặt cho tất cả người nghe pháp, gồm tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nam nữ cư sĩ và thiên long bát bộ, cúng dường cho Quán Thế Âm Bồ tát.

Tự tánh thần lực của Quán Thế Âm Bồ tát khắp thế giới Ta bà và vô lượng vô biên thế giới. Khi ấy, Vô Tận Ý Bồ tát hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, Phật tử do nhân duyên gì, hiệu Quán Thế Âm?

Phật bảo: Đức hạnh của Quán Thế Âm Bồ tát khắp mười phương thế giới, tất cả Phật, Bồ tát đều có đại nguyện sâu như biển cả, chẳng bị thời gian, số lượng hạn chế, chẳng thể dùng trí suy lường. Nay ta nói qua cho biết: Do nghe danh hiệu chẳng bỏ qua cái thân, tâm chẳng bỏ luống qua, đến khi tự tánh được hiện ra thì tất cả khổ đều diệt.

Ở đây nói “nghe danh hiệu thấy cái thân, tâm chẳng bỏ luống qua”, cũng như Kinh Lăng Nghiêm nói đến “NGHE" là phản văn tự tánh, chữ chẳng phải thật nghe cái danh hoặc thật thấy cái thân, Tự tánh chẳng có hình tướng, như Kinh Kim Cũng nói: “Không có thân mới là đại thân”, nếu có hình tướng thì chẳng phải đại thân. Ví như hiện nay chúng ta tham thiền, nếu chẳng có vọng tưởng cũng chẳng có nghi tình là lọt vào vô ký không, tức là bỏ luống qua, đối với sự tu hành vô ích.

- Giả sử có người muốn hại mình, xô vào hang lửa, do sức dụng tự tánh sẽ hóa hầm lửa thành nước cam lồ, tất cả tai ương, ác thú, binh lửa v.v... đều do sức dụng tự lánh mà được hóa giải, tất cả khổ sanh lão bệnh tử, địa ngục, nga quỷ, súc sinh ... đều được tiêu tan.

- Đạt đến cảnh giới đó gọi là Chơn quán, không còn dính líu gì cả, không có vọng tưởng, tất cả đều trong sạch, luôn cả trong sạch cũng không, gọi là Thanh Tịnh Quán. Lúc đó, trí huệ ấy là Bát nhã, chẳng như trí huệ thế gian, chẳng bị hạn chế bởi số lượng, gọi là Quảng đại Trí Huệ Quán. Quán cái khổ của chúng sanh và đem lại sự vui mà tự tánh của mình tự nhiên đạt đến vô-duyên-từ và đồng thể bi, tức chẳng có cái TA để độ chúng sanh, chẳng có chúng sanh thọ nhận sự giúp đỡ của ta, ta và chúng sanh đồng một thể, gọi là Bi Quán và Từ Quán.

Năm thứ quán: Chơn quán, thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán, bi quán và từ quán, đều là sức dụng của tự tánh. Người thời nay thường nói “Từ bi bác ái”, tưởng từ bi và bác ái giống nhau, kỳ thật là khác nhau như trời với đất, BÁC ÁI là chấp ngã, có cái TA để ban bố cho đại chúng, còn Từ BI là chẳng có ngã, chẳng do tự và tha: Chẳng có ta cho đại chúng và đại chúng thọ nhận sự từ bi của ta.

- Bây giờ, chúng ta chưa đạt đến chỗ này, phải thường nguyện thường chiêm ngưỡng, ngày đêm tu hành chẳng gián đoạn, khi cấu bẩn của tập khí quét sạch, ánh sáng trong sạch của Tự tánh hiện ra, như mặt trời khiến tan rã mây đen, tất cả tai ương, gió lửa bão táp đều tiêu, thế gian được sáng tỏ, mọi chúng sanh đều được thọ nhận mưa cam lồ, những phiền não trước kia được dập tắt. Ấy là do Diệu âm Quán Thế Âm, Phạn âm hải triều âm, cho nên phải thường quán.

Phạn là thanh tịnh, còn hải triều âm là ngày đêm chẳng gián đoạn. Tự tánh của mình cũng thế, mặc dù hiện nay là chúng sanh, nhưng tự tánh từ xưa nay vốn như thế, chưa từng gián đoạn, dù đầu thai thành con trâu con chó vẫn không gián đoạn, nên phải quán Tự tánh của mình. Nay chúng ta tham thiền là trì về tự tánh của mình vậy.

Trì Địa Bồ tát ở trong chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng:

- Thế Tôn, nếu chúng sanh nghe Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát, tự tại thần thông lực của Tự tánh

tự hiện khắp nơi mà công đức chẳng thiếu xót”.

Lúc Phật thuyết xong Phẩm Phổ Môn, trong chúng có tám mươi bốn ngàn chúng sanh được phát tâm Bồ đề.

Tâm bồ đề tức tâm giác ngộ, tâm giác ngộ tức tâm vô sở đắc, tâm vô sở đắc mới đến giác ngộ cao nhất, nếu còn sở đắc tức còn chân ngã, chẳng phải tâm Bồ đề, sẽ không đạt đến giác ngộ cao nhất.

Hỏi: Về Vấn đề Vật Bất Thiên trong Triệu Luận, nay tham Thiền dùng câu thoại đầu có thể biết được vật bất thiên không?

Đáp: Nếu dùng trí suy lường là lưu động rồi, phải tự ngộ mới được, muốn ngộ phải tham câu thoại đầu, ngộ rồi mới chứng được vật bất thiên. Trước mắt thấy bất cứ cái gì đều là lưu động, hễ dùng vọng tâm hiểu biết thì tất cả đều có sự thay đổi, lưu động, nên ngài Hám Sơn sau khi ngộ rồi mới chứng tỏ là Vật bất thiên: Sau khi ngộ rồi lễ Phật không có tướng lạy xuống và đứng lên; mở cửa nhìn ra ngoài thấy lá cây bay lả tả mà lá nào cũng chẳng động; đi vào nhà cầu tiểu tiện chẳng thấy tướng chảy của nước tiểu, nên có câu “Gió bảo bay núi mà chẳng động, nước sông đổ gấp mà chẳng trôi”, trước kia nghi câu “thế gian tướng thường trụ” trong Kinh Pháp Hoa đến đây ngộ được và tan rã, bởi vậy bất thiên là thường trụ. Cũng như tôi đã giải hai câu: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, ngài Tăng Triệu giải câu “Mặt trẻ trụ khi xưa, mặt già trụ nơi nay”, tức các tánh trụ nơi một thời, xưa trụ nơi xưa, nay trụ nơi nay.

Nói xưa với nay là để cho mọi người dễ hiểu, chẳng những xưa nay, giây phút thứ nhất trụ nơi giây phút thứ nhất, giây thứ nhì trụ nơi giây thứ nhì, cho nên Không Tử bắt tay với Nhàn Hồi, vừa bắt tay là sự bắt tay đã mất. Giây phút thứ nhì của cơ thể đã khác với giây phút thứ nhất, tế bào đã biến đổi rồi.

Pháp tánh vốn chẳng sanh diệt, thấy pháp tánh sanh diệt là do vọng tâm hoạt động, bây giờ nói do vọng tâm suy lường, ví như nói hoa đốm trên không, đứa trẻ sanh ra nói là hiện hoa đốm trên không, đứa trẻ chết nói là hoa đốm diệt, sự thật thì đâu có hoa đốm trên không mà nói sanh với diệt! Cho nên Phật nói trong Kinh Lăng Nghiêm “Nay thấy tất cả núi sông đất đai, Phật và chúng sanh v.v... đều do kiến bệnh từ vô thỉ”, Kinh Pháp Hoa nói: “Chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng” , tất cả các pháp vốn là tịch diệt, tịch diệt là bất thiên.

Bất Thiên là ở trong sanh diệt lưu động thấy được bất thiên, chứ chẳng phải ở trong tịnh, nên việc này phải chứng ngộ mới được.

Sư bà Pháp Thành: Nay con đã phát tâm tham Tổ Sư Thiền, nguyện sau này có vãng sanh cũng tiếp tục tu theo pháp môn này chẳng bỏ.

Đáp: Pháp môn tham Tổ Sư Thiền này, như ở trên đã nói, tất cả các pháp vốn là tịch diệt bất động; nếu bất động thì làm sao có vãng sanh và không vãng sanh? Bây giờ thực hành theo đường lối tham thiền chỉ là đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình hỏi tới mãi, ngoài ra đừng có nhớ đừng có biết là được rồi. Còn phát nguyện là tốt, nhưng đã bắt đầu tham thoại đầu rồi thì tất cả đều không biết không nhớ, cũng chẳng cần biết đến sau này có bỏ hay không bỏ, vì đã tiếp tục là không bỏ rồi, cần gì nguyện bỏ hay không bỏ!

Chư Phật lúc chưa thành Phật thì vị nào cũng có nguyện, nhưng sau này nếu không xả bỏ cái nguyện thì chẳng thể thành Phật được. Bổn tánh của mình vốn vô sở trụ, cho nên, đến cửa giải thoát rồi là vô tướng vô nguyện, tức nghĩa vô sở trụ, chẳng trụ ở bất cứ chỗ nào, nếu cứ ôm cái nguyện tức có sở trụ.

Hỏi: Con thì theo pháp môn tham Thiền, đến khi lâm chung, nếu những người xung quanh niệm Phật phải làm sao?

Đáp: Trước tiên phải có lời dặn: “Đã đi theo pháp môn này rồi khỏi cần niệm Phật, tức dù có lòng tốt muốn trợ niệm, nhưng sẽ làm hỗn loạn pháp môn của tôi, vô ích”. Nếu người ta không nghe theo, thì mặc cho ai niệm Phật, mình cứ tham câu thoại đầu của mình, không biết tới.

Chớ có nói là lâm chung, trước mắt cũng vậy, vạn pháp tự nó lăng xăng, đâu dính dáng với ta! Ai muốn làm gì thì làm, không biết tới. Chẳng những việc ở bên ngoài không biết tới, ở trong tâm mình, vọng tưởng nổi lên ào ào cũng không biết tới, không có vọng tưởng, được thanh thanh tịnh tịnh, cũng không biết tới, câu thoại đầu được miên mật cũng không biết tới, chứ đừng nói là ngoại cảnh.

Nếu Sư Bà đã quyết tử tham Thiền thì khỏi cần lo việc lâm chung nữa, trước mắt nếu làm chủ được thì lâm chung làm chủ được, đến bệnh hoạn vẫn làm chủ được, chiêm bao cũng làm chủ được thì lâm chung tự nhiên làm chủ được. Nên biết, tự tánh vốn chẳng có việc lâm chung, sanh tử vốn chẳng thật, nếu cứ lo cho việc lâm chung, sẽ rất chướng ngại cho sự tham thiền của mình. Cần phải bây giờ làm chủ được, tham câu thoại đầu không bị tất cả ngoại cảnh ảnh hưởng, bất kể người ta đến nói gì; chê cười, phỉ báng, chửi mắng ... đều không biết tới.

Hỏi: Trang 12 của phần “Vật Bất Thiên” trong Triệu Luận có nói “Bất sanh bất diệt là thường”, nhưng trong Kinh Duy Ma Cật lại nói “Bất sanh bất diệt nghĩa là vô thường”, vậy là như thế nào?

Đáp: Tất cả những gì chúng ta thấy được hiện nay đều là sanh diệt, chính cái tâm niệm vừa sanh vừa diệt. Còn tự tánh vốn bất sanh bất diệt, tức ở trong sanh diệt thấy được bất sanh bất diệt, mới là bản tánh của mình.

Nghĩa của tự tánh là vô sở trụ, đối với thường mà nói vô thường, để phá sự chấp của chúng sanh; thường và vô thường là đối đãi, nếu không có chấp thì đâu có thường và vô thường, sanh diệt và bất sanh bất diệt? như Triệu Luận nói “Không phải do lời nói khác biệt mà chơn tâm của Bậc Thánh cũng khác biệt theo”. Nói khác biệt là do muốn giải tỏa bệnh chấp của chúng sanh, lời nói chỉ là phương tiện tạm thời dùng để phá chấp, chứ chẳng phải lời nói là chân lý.

Cho nên, 36 pháp đối của Lục Tổ trong Kinh Pháp Bảo Đàn, hễ người chấp sáng thì nói tối, chấp tối thì nói sáng, chấp thường thì nói vô thường, chấp vô thường thì nói thường v.v... chỉ là để phá chấp mà thôi. Do đó, chớ có chấp vào lời nói mà đánh mất ý nghĩa, phải được ý quên lời. Lời nói của chư Phật chư Tổ thường đối chọi với nhau, kỳ thật là vô sở trụ, là bất nhị.

* Có một ngoại đạo hỏi Phật:

- Hôm qua thuyết pháp gì?

Đáp: Pháp định.

- Hôm nay thuyết pháp gì?

- Pháp chẳng định.

- Sao hôm qua định, hôm nay chẳng định?

- Đúng vậy, hôm qua định, hôm nay chẳng định.

Đó chính là nghĩa Vô sở trụ vậy.

* Ví như tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?

Đáp: Có.

Tăng khác hỏi: Con chó có Phật tánh không?

Đáp: Không.

Lời nói đối chọi nhau, cũng là thể hiện nghĩa vô sở trụ, tức không cho mình trụ ở một pháp nào. Nên Triệu Luận nói: “Lời của chư Phật chỉ là để giáo hóa chúng sanh, mặc dù nói ra muôn ngàn sai biệt, nhưng ý chỉ là một, là muốn giải tỏa bệnh chấp của chúng sanh”. Còn nói “Tìm đạo ở nơi diệu ngộ”, nay chúng ta chưa được diệu ngộ, tập khí ham tìm hiểu giáo lý, tăng thêm tri giải, cho nên kinh Đại thừa liễu nghĩa là để phá tri giải của mình, chấm dứt tâm tìm hiểu, mới chuyên tâm tham cứu câu thoại đầu để được ngộ. Nếu còn muốn hiểu thấu giáo lý, cũng như nhìn vào ngón tay, không chịu nhìn theo ngón tay chỉ, là nghịch với ý của chư Phật chư Tổ.

Hai chữ “Giáo lý” chỉ để phá chấp mà thôi, chẳng phải có cái giáo lý cao siêu gọi là “chân lý” để cho biết, cho tăng thêm ngã chấp. Ý của Phật là muốn chúng ta kiến tánh thành Phật, nên mới có pháp môn tham thiền. Nếu hiểu theo lời nói của người khác , ấy là của người khác, chẳng phải của mình; nếu cho là phải hiểu được giáo lý của Phật rồi mới chân tu, thì hai chữ giáo lý chính là bảo mình nhìn vào chỗ đen tối, nhìn chỗ ngón tay chỉ, và nay tham thoại đầu là nhìn vào chỗ mịt mù đen tối không biết gì cả.

Triệu Luận nói: “Như Lai vì trị bệnh chấp của chúng sanh, mới đặt ra cái này cái kia để phá chấp, gọi là giáo lý”. Nếu cứ muốn nghiên cứu giáo lý tức muốn nghiên cứu ngón tay mà chẳng chịu nhìn chỗ ngón tay chỉ, là hiểu lẩm giáo lý, nghịch với giáo lý. Nay có nhiều người hiểu lầm như thế, cho là hiểu biết giáo lý, làm thầy để dạy về giáo lý, khiến đánh mất tác dụng của giáo lý.

Hỏi: Đã tham thiền rồi còn đi tụng giới sám hối không?

Đáp: Lai Quả Thiền Sư trong Thiền Thất Khai Thị Lục nói: “Nay chúng ta tham câu thoại đâu là giới định huệ đầy đủ, chẳng những giới định huệ, tất cả pháp đều đầy đủ trong đó. Tại sao? Vì ngoài tâm đâu có Pháp! Tất cả tâm pháp và thế gian pháp đều không ở ngoài tâm, nay tham câu thoại đầu là trở về chơn tâm của mình, không chỉ là giới, cả định lẫn huệ đều đầy đủ.

Nói đến sám hối thuộc về bên giới, hễ có phạm giới thì phải phát lồ sám hối. Nay ôm câu thoại đầu khởi lên nghi tình, suốt ngày đêm đều ở trong nghi tình, đâu còn khởi tâm phạm giới? Ngày đêm khởi lên nghi tình là định, căn bản của Phật pháp là vô sở trụ, vô sở trụ tức huệ, nên giới định huệ đủ cả. Tất cả tụng kinh, niệm Phật, hay việc thế gian công thương kỹ nghệ đều ở trong đó, chẳng có ở ngoài.

Hỏi: Lai Quả Thiền Sư nói: “Tù chùa Kim Sơn đến ở chùa Cao Mân cảm thấy mới, ở chùa Cao Mân được ba mươi năm thì chùa Kim Sơn trở nên lạ” như thế nào?

Đáp: Ấy là vấn đề với quen, từ lạ trở thành quen, từ quen trở thành lạ. Vọng tưởng của chúng ta đã quen thuộc từ vô thỉ đến nay, còn câu thoại đầu thì mới lạ, hôm nay cũng tham, ngày mai cũng tham, tham mãi khiến câu thoại đầu ngày càng quen, vọng tưởng ngày càng lạ. Hễ câu thoại đầu quen được một tháng thì vọng tưởng lạ bớt một tháng; thoại đầu quen được một năm thì vọng tưởng lạ đi một năm. Cũng như trước ở chùa Kim Sơn ba mươi năm, nay mới về chùa Cao Mân thì chùa Kim Sơn là quen, chùa Cao Mân là lạ, từ từ ở lâu rồi quen dần, ở chùa Cao Mân được một năm thì chùa Kim Sơn lạ đi một năm, đến khi ở được Cao Mân ba mươi năm thì chùa Kim Sơn trở nên hoàn toàn lạ. Tham câu thoại đầu trở nên quen thuộc thì vọng tưởng sẽ thành lạ, và tham mãi vọng tưởng nổi lên chẳng được nữa.

Hỏi: Thế nào là Mật tông?

Đáp: Mật tông là tam nghiệp gia trì: Tâm quán tưởng, thân kiết ấn, miệng trì chú. Ba thứ đồng thời ấy phải có Thượng sư đích thân truyền dạy mới được. Nay có người cho niệm chú là Mật tông, ấy là sai lầm. Mật tông cũng phải phá ngã chấp, Tịnh Độ cũng phải phá ngã chấp, mới hợp với nhân quả. Nhiều người do tự mình tu không đúng tông chỉ của pháp môn, trở lại phỉ báng Phật pháp không hiệu nghiệm, là phỉ báng Phật Pháp Tăng, tạo tội địa ngục. Bất cứ tu pháp môn nào; Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ ... tất cả đều là phương tiện của Phật dạy, phải tu đúng theo tông chỉ mới được.

Hỏi: Tu Tịnh Độ là phải trải qua mấy A Tăng Kỳ kiếp mới được vãng sanh, phải không?

Đáp: Nói “A Tăng Kỳ Kiếp” là bên Giáo môn, còn Tịnh Độ hạ phẩm hạ sanh phải ở trong hoa sen mười hai đại kiếp mới ra khỏi bông sen. Còn Thiền tông thì không cần đợi đến chết, lúc còn sống vẫn có thể kiến tánh thành Phật.

Hỏi: Người tham thiền nếu còn biết đến kiếp trước hoặc nhiều kiếp thì vẫn còn bị hạn chế bởi thời gian, mà hành giả tham thiền nếu ôm chặt câu thoại đầu, trở về với Bát Nhã, không còn khái niệm thời gian, thời gian chỉ là vọng tưởng sai lầm của chúng sinh từ lâu. Như Kinh Kim Cang nói “Tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều bất khả đắc”, thế thì hành giả tham thiền cũng chẳng cần biết đến một kiếp hay hai kiếp, một năm hay hai năm, chỉ biết là ôm chặt câu thoại đầu thì chắc chắn trở về nhà được, không nên bị lệ thuộc bởi thời gian, chướng ngại cho sự tu, có phải vậy không?

Đáp: Phải, nhưng cái đó là sau khi chứng ngộ mới được. Nay hễ có nói ra là sai rồi; phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa, đối với người hỏi, chỉ hỏi một trả lời một, hỏi hai trả lời hai, vì muốn giúp ích cho người hỏi, mới thuyết kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Phật thuyết kinh bất liễu nghĩa rồi mới ở trong kinh liễu nghĩa dạy người phải y theo kinh liễu nghĩa, chứ không được y theo kinh bất liễu nghĩa. Ấy cũng là do tùy cơ hóa độ.

Hỏi: Thế nào là “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết?”

Đáp: Nếu muốn giải nghĩa là phải giải đúng ý Phật, chứ không được giải theo văn tự lời nói. Bởi vì lời của Phật là phá chấp, nếu theo văn tự để giải nghĩa, hễ Phật nói có thì mình chấp cái Có đó là thật, hễ Phật nói Không thì lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho Phật. Còn nếu “Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”: Kinh là phá chấp, nếu lìa kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.

Hỏi: Hồi xưa khi đi học giáo lý, Thầy có dạy “Tụng kinh giả minh Phật chi lý, niệm Phật giả cảm Phật chi ơn, trì chú giả phát Phật chi huệ, tọa Thiền giả kiến Phật chi tánh”, cho nên chúng con sắp giờ tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền, làm hết! vậy có đúng không?

Đáp: Ấy cũng như Trí Giả Đại sư nói “Học Phật pháp thành ngoại đạo”, tự cho ý của mình là ý Phật. Nói “tụng kinh để minh Phật chi lý”, là lý gì? - Lý đó là giáo lý, tức lời giáo hóa của Phật. Tất cả giáo lý, tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều là phá chấp, rồi bây giờ lại chấp thật, tức là nghịch với giáo lý, làm sao minh được? Nói “Tụng kinh bất minh giáo lý” mới đúng!

Nói “Niệm Phật để cảm Phật chi ơn”, ơn của Phật là gì? Là chỉ đường lối tu hành cho mình tu theo khiến được giải thoát, nay muốn cảm ơn Phật mà nghịch với đường lối của Phật, theo như Trí Giả Đại sư nói, theo giới luật là tạo tội địa ngục!

Hỏi: Xin Sư phụ giải thích hai chữ “Giáo lý”.

Đáp: Hai chữ GIÁO LÝ là nghĩa lý trong kinh giáo, tác dụng và mục đích của giáo lý là để phá chấp. Tại sao? Bởi do chúng sanh chấp thật, nên bị kẹt nơi sanh tử luân hồi chẳng thể ra được, nên giáo lý là dạy cho chúng sanh phá chấp để thoát khỏi luân hồi, phải thực hành theo giáo lý mới mong giải thoát.

Bất cứ tám mươi bốn ngàn pháp môn, đều là phương tiện do Phật lập ra, tất cả đều nằm trong giáo lý, chẳng có ngoài giáo lý; kể cả pháp môn Tổ Sư Thiền, nói là giáo ngoại biệt truyền, ấy chỉ là phá cái chấp thật về giáo lý, nhưng cũng là nằm trong giáo lý. Trong Bát Nhã Tâm Kinh phá hết tất cả các chấp từ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa ... đều là thực hành đúng theo giáo lý chứ chẳng ở ngoài giáo lý.

Bốn tông của pháp Đại thừa Trung Quốc là Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức, thuộc về Giáo môn; và bốn tông thực hành là Thiền tông, Tịnh độ, Mật tông và Luật tông. Đối với bốn tông thực hành thì người chẳng biết giáo lý, chẳng cần biết qua giáo lý vẫn thực hành được, còn bốn tông của Giáo môn thì căn cứ theo kinh giáo, như Thiên Thai căn cứ Kinh Pháp Hoa, Hiền Thủ căn cứ Kinh Hoa Nghiêm ... cho nên vừa học giáo lý vừa thực hành theo kinh giáo.

Người thời nay học giáo lý mà nghịch với giáo lý, các Phật Học Viện đa số chỉ dạy giáo lý mà không có phần thực hành, rồi dạy kinh lại hướng dẫn phương pháp niệm Phật, dạy một cách tạp lộn, tức áp dụng không đúng tông chỉ của Kinh đó, khiến giáo lý chẳng còn tác dụng, chẳng được lợi ích.

Hỏi: Trong Kinh Địa Tạng nói: “Công đức tụng kinh cho người chết, người chết hưởng một phần, người sống được sáu phần, vậy có đúng không?

Đáp: Ấy chẳng phải là lời trong kinh, mà là do người tự làm tài khôn thêm vào, cũng như trong Kinh , người ta thêm vào mười hai đại nguyện, người đời chẳng biết, tưởng là nguyên văn như thế, chẳng những Kinh Địa Tạng, kể cả Kinh Đại Tạng cũng có chen vào kinh ngụy. Pháp thế gian còn phải có nhân quả, chẳng thể lìa nhân quả, huống là Phật pháp!

Nói đến vấn đề tụng kinh, người sống được sáu phần, người chết được một phần, ấy là không có nhân quả! Nếu vậy thì lúc còn sống chẳng cần tu hành, chẳng cần làm việc thiện, làm ác cũng chẳng sao, miễn có tiền là được, sau khi chết, hễ con cháu mời một trăm người tụng kinh thì người chết được một trăm phần công đức, mời một ngàn người tụng kinh thì được một ngàn phần công đức ... mời nhiều chừng nào thì công đức nhiều chừng nấy, phải vậy không? Thế thì nhân quả ở đâu? Người làm ác cứ làm ác, hễ có tụng là được rồi! Đó chính là lý do tại sao con người càng ngày càng khổ thêm, tạo nghiệp càng nặng thêm!

Hỏi: Khi có người chết, bên Tịnh Độ tì trợ niệm, còn Thiền tông phải làm gì? Có cần người nhắc nhở câu thoại đầu cho người lâm chung?

Đáp: Người tham thiền chỉ đề câu thoại đầu tham tới mãi. Mục đích tham Tổ sư Thiền là muốn làm chủ cho mình, trước mắt còn sống khỏe mạnh, nếu không tập cho tự làm chủ được, đến lúc lâm chung nhờ người xung quanh nhắc nhở, nhồi nhét cho mình là muộn rồi! Có ỷ lại thì làm sao tự chủ được? Phải lúc bệnh cũng làm chủ được, lúc chiêm bao cũng làm chủ được, tức trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng tự chủ được mới xong.

Hỏi: Tại sao có kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa?

Đáp: Do bệnh của chúng sanh ham chấp thật, bệnh quá sâu nặng, chẳng thể bỏ chấp được, nên Phật phải thuyết kinh bất liễu nghĩa, để tạm thời làm việc thiện, gieo trồng thiện căn, hơn là đi làm việc ác. Nếu người bệnh chấp nhẹ, có thể tiếp nhận kinh liễu nghĩa thì chẳng cần qua phần bất liễu nghĩa.

Kinh bất liễu nghĩa của Đức Phật khác hơn kinh bất liễu nghĩa của ngoại đạo; vì nguồn gốc của ngoại đạo là chấp thật, nên mãi mãi là bất liễu nghĩa. Còn nguồn gốc của Phật pháp là vô sở trụ, vốn chẳng có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, do phương tiện tạm thời thuyết pháp bất liễu nghĩa, sau đó sẽ đi vào con đường liễu nghĩa. Nếu đã tin vào liễu nghĩa mà còn chấp thật, ấy là nghịch với pháp liễu nghĩa vậy.

Hỏi: Trước khi biết tu pháp môn tham Thiền, hàng tháng chúng con vẫn đến chùa sám hối, Bố tát, tụng kinh ... Nay nếu không đi thì có tội không?

Đáp: Ở trên tôi đã nói: “Câu thoại đầu là bao gồm tất cả”, như đang gánh nước bữa củi cũng là thoại đầu, ăn cơm ngủ nghỉ cũng là thoại đầu, tụng kinh sám hối cũng là thoại đầu, chỗ nào cũng là thoại đầu thì đâu có gì khác? Nay nếu trong lúc Bố tát còn câu thoại đầu không? Hễ còn thì chẳng có gì là chướng ngại cả. Tội với vô tội là do tâm tạo, nếu tâm không tạo thì tội làm sao có! Ngài Lục Tổ nói “Tất cả đều chẳng chướng ngại”, chớ cho là “cần” hay “không cần”, tùy người tùy nơi, nếu cảm thấy thoại đầu bị công việc đó đánh mất thì phải tập cho không bị đánh mất; ví như lúc ăn cơm, thoại đầu không có, thế thì bỏ cơm không ăn ư? Vậy phải làm sao? Phải tập cho lúc ăn cơm cũng có thoại đầu, miễn tất cả nơi đều không quên câu thoại đầu.

Hỏi: Bửa củi, gánh nước dễ tham, nhưng khi lên chánh điện, được cử làm Duy na dẫn chúng, hễ làm tròn nhiệm vụ thì đánh mất câu thoại, hễ lo tham thoại đầu thì e không làm tròn nhiệm vụ, vậy phải làm sao?

Đáp: Trong Truyền Đăng Lục có một câu chuyện về thủ đoạn của Tổ sư như sau:

Có một vị Tăng đến cầu pháp, Tổ sư bảo:

- Pháp luân chưa chuyển thực luân chuyển, nay ông hãy đi hóa duyên xin gạo về cho đại chúng. Khi trở về Tổ lại bảo:

- Mùa Đông lạnh giá, chùa đang thiếu củi, hãy đi hóa than về!”

Vị Tăng vâng lời sau khi trở về, Tổ lại bảo:

- Hãy giữ lấy chức vị Duy Na”.

Vị tăng tuy nhận lời, nhưng trong bụng cảm thấy nôn nao khó chịu, trong bụng rất nghi, tự nghĩ: “Nghe nói Tổ sư là vị thiện tri thức có tiếng tăm, vậy mà đến cầu pháp sao không chỉ dạy, mà chỉ sai làm đủ thứ việc, vậy thì làm sao giải thoát được?”

Mặc dù làm Duy na, nhưng cuối cùng cũng kiến tánh. Ấy là thủ đoạn của Tổ sư, tùy theo nhân duyên của mọi người, nên Lục Tổ nói là “Tất cả đều chẳng chướng ngại”. Vả lại, nếu do tham thoại đầu mà quên đánh chuông gõ mõ … thì người ta trách thì cứ trách, chỉ chiếu cố câu thoại, ngoài ra không biết tới.

Hỏi: Nếu Phật tử quy y vị tăng không chơn chánh hành pháp, tức như Sư phụ nói là học Phật pháp thành ngoại đạo, nếu cứ theo ủng hộ thì có tội không? Nếu không ủng hộ, có phản thầy không?

Đáp: Vậy thì như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Cả thầy lẫn trò đều theo đó mà đọa!” Việc quy y là quy y Tam Bảo, bao gồm Phật, Pháp, Tăng, nghĩa chữ Tăng là Hòa hợp chúng, phải gồm bốn người mới thành Tăng. Vị Tăng đó chỉ là thay mặt cho Tam Bảo chứng minh người đó là đệ tử của Tam Bảo, chứ không phải đệ tử của một thầy nào.

Nếu cho là quy y một vị thầy, như Hoằng Nhất Luật sư nói “quy y Nhị Bảo chứ chẳng phải Tam Bảo”, chỉ là quy y Phật Bảo, Pháp Bảo và giao thiệp với một Đại đức, vì chỉ có một người thì chẳng thành Tăng, chẳng phải Tam Bảo.

Hỏi: Con nghĩ rằng, hàng Phật tử chúng con, người nào quyết tâm cầu giải thoát thì tất cả những gì chướng ngại cho sự giải thoát của mình, phải tự mình san bằng, chẳng ai có thể san bằng giùm chính mình được. Nếu xét thấy điều đó có chướng ngại cho sự tu, dù có lợi về vật chất cũng dẹp bỏ, chẳng màng đến lời khen chê của thế gian, khen mà có hại thì không cần, chê mà có lợi cho sự giải thoát cũng hoan hỉ chấp nhận, phải tu đến kiến tánh mới có thể đền ơn tứ ân, có phải vậy không?

Đáp: Trong đường lối tham thiền là không cho nổi biệt niệm, nên lợi hay hại không biết tới, chỉ là tham câu thoại đầu, chỗ nào cũng là câu thoại đầu, thì đâu còn gì có thể chướng ngại? Nếu còn ham thích lợi ích, thì bị lợi ích chướng ngại, bất cứ khen chê, chửi mắng cũng mặc kệ, không biết tới.

Đối với bậc tu sĩ ở trong chùa, nếu như không chướng ngại chánh tu của mình thì tất cả đều có thể tùy duyên, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Hễ có chướng ngại, hoặc bị bắt buộc làm những việc phải đọa địa ngục, chẳng thà bỏ đi chỗ khác, vì mục đích của mình chỉ là đi đến giải thoát chứ không phải đi xuống địa ngục.

Hỏi: Làm sao phân biệt chánh niệm và tà niệm?

Đáp: Trước nhất phải xác định cái gì là chánh niệm? Chánh với tà là tương đối, khác hơn chánh niệm tức là tà. Niệm của chúng sinh sát na sanh diệt chẳng ngừng, nên phải nhờ phương tiện của Phật dạy. Ví như chọn phương pháp tham Thiền thì nghi tình là chánh niệm, ngoài nghi tình ra, bất cứ nổi niệm gì đều là tà; hoặc nghĩ “Tôi đang tham Thiền” ấy tức là tà, chứ đừng nói đến cái khác. Tại sao? Vì nghi tình là không biết gì cả, nếu ngoài cái “không biết” còn biết đến “ta tham Thiền” tức là tà, chứ chẳng phải niệm thiện là chánh, niệm ác là tà!

Kinh Kim Cang nói: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”. Theo người thế gian thì lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, đâu phải tội lội gì mà nói là hành tà đạo? Lục Tổ nói: “Vô niệm niệm tức chánh, hữu niệm niệm thành tà”, nhưng chấp vào cái chánh cũng không được, phải “Tà chánh đều quét sạch, tánh Bồ đề rõ ràng”.

Hỏi: Nếu đi theo một pháp môn khác, có phải phản thầy không?

Đáp: Nay người đời nói đến vấn đề “phản bội”, nếu biết là sai vẫn nghe theo làm theo tức hại cho thầy mình, chứ không phải là thương thầy, vì giúp cho tạo tội khiến đọa địa ngục. Nay nếu không đủ sức cứu thầy mình thì phải chuyên tu, khỏi cần sanh tâm tách rời hay không, tất cả những gì chướng ngại cho sự tu đều không biết tới, kể cả sự tu của mình cũng không biết tới, huống là cái khác!

Phật và Tổ là muốn mình thực hành, tự giải thoát cho chính mình và giải thoát cho chúng sanh, ấy mới gọi là báo Tứ ơn: Ơn Phật, chúng sanh, thầy và cha mẹ. Nếu chúng ta thành Phật tức báo đủ tứ ơn, hễ tu không đúng mà bị đọa là hại, tức chiều theo vọng chấp của thế gian, làm sao báo được? Chiều theo vọng tâm mê chấp của thế gian là phải chấp cho càng sâu nặng thêm, nếu không thì bị chê là phản bội thầy. Nhưng sự thật chúng ta chỉ đi đúng theo lời dạy của Phật, của Tổ, không có phản bội. Lại, nếu nói xa thầy là phản bội, ví như khi học hết tiểu học phải lên trung học, vậy đối với người thầy dạy tiểu học là phản thầy sao? rồi lên đại học thì phải xa thầy trung học, sau khi tốt nghiệp đại học, đi du học nước ngoài, cũng là phản thầy sao? Lúc du học trở về, mặc dù trí thức lúc đó có thể làm thầy của thầy, nhưng gặp lại thầy tiểu học vẫn là thầy của mình, Tục ngữ Trung Quốc có câu “Một ngày làm thầy, suốt đời là cha”, đâu có phản thầy?! Pháp thế gian chấp tướng còn như thế, huống là Pháp xuất thế gian phá tướng? Hai chữ “Phản thầy” là do người có tâm chấp thật mới sanh ra suy nghĩ như thế, ấy là nghịch với ý của Phật, của Tổ, cũng nghịch với lý thế gian vậy.

Hỏi: Sự khác nhau giữa Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền như thế nào?

Đáp: Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền hơi sai biệt; bên Giáo môn đạt đến Như Lai Thiền chứ chưa đến Tổ Sư Thiền. Trong Truyền Đăng Lục có một công án phân biệt về Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền như sau:

* Thiền sư Hương Nghiêm xưa kia vốn rất thông minh, nói một hiểu mười, ở nơi Bá Trượng học thiền rất lâu, do bị thông minh chướng ngại, không được kiến tánh. Sau khi ngài Bá Trượng tịch, đến ở với Qui Sơn, Qui Sơn là một Thượng thủ của Bá Trượng, cùng Hương Nghiêm vốn là sư huynh đệ với nhau, nay đã ra hoằng hóa.

Một ngày kia, Qui Sơn nổi lòng từ bi muốn dẫn dắt Hương Nghiêm, hỏi:

- Theo sự hiểu biết của ông, trước khi cha mẹ chưa sanh, là cái gì? Hãy nói cho ta biết!

Hương Nghiêm trả lời không được, lục khắp các sách đã học vẫn tìm không ra, cứ yêu cầu Qui Sơn nói trắng ra.

Qui Sơn bảo: “Ta nói thì được rồi, chỉ e sau này ngộ sẽ chửi mắng ta”.

Cầu mãi vẫn chẳng chịu nói, trong tâm thắc mắc quá, bèn đem đốt hết tất cả sách vở, nói rằng: Nay chỉ làm một ông tăng ăn cơm mà thôi”.

Hương Nghiêm từ giã Qui Sơn đi hành cước, vào trong núi ở một mình, tâm cứ nghi câu “Trước khi cha mẹ chưa sanh mặt mũi bản lai ra sao?” Một ngày kia nhổ cỏ liệng cục đá trúng cây tre phát ra tiếng liền ngộ, mới biết thủ đoạn của Qui Sơn, hướng về phía Qui Sơn lễ bái.

Sau khi ngộ có làm một bài kệ, Qui Sơn nghe được nói với đệ tử Ngưỡng Sơn rằng:

- “Hương Nghiêm đã kiến tánh”.

Ngưỡng Sơn nói “Chưa chắc, để con đi thử một phen”.

Ngưỡng Sơn gặp Hương Nghiêm, nói: “Thầy nói ông đã kiến tánh, hãy nói thử xem!”

Hương Nghiêm làm bài kệ rằng: “Năm xưa nghèo, chưa phải nghèo, năm xưa nghèo còn có đất để cắm dùi; nay nghèo mới thật nghèo, kể cả dùi cũng chẳng có.

Ngưỡng Sơn nói: “Như Lai Thiền thì cho ông ngộ, Tổ Sư Thiền thì chưa. Hãy nói nữa xem!”

Hương Nghiêm nói: “Tôi có một cơ, nhìn vào trong đó nếu vẫn chưa ngộ, chớ gọi Sa Di”.

Ngưỡng Sơn mới chấp thuận, rằng: “Mừng cho Sư đệ đã ngộ Tổ Sư Thiền”.

Vì bài kệ trước vẫn còn lý giải được, bài kệ sau thì chẳng thể lý giải. Ví như Thiền tông có người hỏi Tổ Sư.

- Thế nào là Phật?

Đáp: “Cục cứt khô”.

Nếu là bên Giáo môn, hỏi thế nào là Phật thì phải trả lời: “Phật là người giác ngộ, gồm tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn v.v...”

Cho nên, Tổ Sư Thiền chỉ chú trọng thực hành, nếu khởi tâm tìm hiểu thì ngày càng xa vậy.

Hỏi: Sau khi kiến tánh thành Phật, có thể biết được sự bắt đầu của vạn vật chăng?

Đáp: Nói kiến tánh thành Phật, là kiến được tự tánh tức thành Phật. Thế thì nói “Tự tánh vốn là Phật”, được không? Nếu tự tánh vốn là Phật, lại sao lại biến thành chúng sanh? Nếu Phật có thể biến thành chúng sanh thì tu thành Phật cũng vô ích, sau này vẫn có thể trở thành chúng sanh. Nếu nói tự tánh là chúng sanh, thì dẫu cho tu cách nào cũng chẳng thể biến thành Phật! Nếu vốn chẳng phải là chúng sanh thì lục đạo luân hồi từ đâu ra? Vì có chúng sanh mới có lục đạo luân hồi, có lục đạo luân hồi mới có nhân quả!

Làm thiện sanh thiện đạo, làm ác sanh ác đạo, nay giả thiết trước kia tất cả chúng sanh đều như nhau, chẳng ai làm thiện, cũng chẳng ai làm ác, thì trước khi chưa khởi niệm làm thiện làm ác, ai lên thiên đàng, ai xuống địa ngục? Nếu chưa làm mà đã có người xuống địa ngục, người lên thiên đàng thì không có nhân quả!

Hiện nay, các nhà khoa học muốn tìm sự bắt đầu của vũ trụ, nhưng truy cứu mãi cũng chẳng được, nếu chiếu theo Tiến Hóa Luận của nhà khoa học, là con người do con khỉ tiến hóa mà thành, cho rằng cái nhân đầu tiên là một hạt nguyên tử cực nhỏ, vậy theo kiến thức mọi người cũng biết, từ thai nhi trong bụng mẹ phải trải qua mười tháng mới được hình thành, và thân này rõ ràng do cha mẹ sanh ... mọi việc chẳng có sự bắt đầu thì làm sao ráng tìm được sự bắt đầu?! Cho nên, Đức Phật nói là “Vô thỉ” - Không có sự bắt đầu, vì tất cả đều do tâm tạo.

Tại sao dám nói là Vô Thỉ? Vì thời gian chẳng có bắt đầu thì tất cả chẳng có bắt đầu.

Hỏi: Xưa nay số lượng chúng sanh thành Phật có bao nhiêu?

Đáp: Tôi đã nói cái căn bản rồi, mà ông còn chấp vào vấn đề này! Nếu chấp thật có chúng sanh thì phải có đơn vị và số lượng. Nay thử làm một bài toán: Hễ một chúng sanh thành Phật thì số chúng sanh bớt một và số Phật thêm một, phải không? Theo lời Phật nói: Nếu trong một đại kiếp có một ngàn chúng sanh thành Phật thì bây giờ đã chẳng còn chúng sanh nữa. Chớ nói một ngàn chúng sanh, hễ trong một đại kiếp có một chúng sanh thành Phật; trong mười đại kiếp, trong một trăm đại kiếp hoặc một triệu đại kiếp có một chúng sanh thành Phật, thì bây giờ cũng hết chúng sanh rồi! Tại sao? Vì thời gian không có số lượng, là vô số lượng!

Nếu số lượng chúng sanh có thể tính bằng đơn vị, lấy số lượng so sánh với vô số lượng, cho dù số lượng lớn nhất vẫn còn là nhỏ: Thí dụ cứ mỗi một triệu đại kiếp có một chúng sanh thành Phật, thì bớt đi một chúng sanh, bớt mãi số lượng sẽ hết, còn về thời gian không có sự bắt đầu, nên không bị hạn chế bởi số lượng.

Cho nên nói “Chúng sanh nghiệp thức” là không đúng, chúng sanh chẳng có bớt, cho đến tận vị lai; Chúng sanh cũng bao nhiêu đó, Phật cũng bao nhiêu đó, chẳng thêm chẳng bớt. Vì có thật đâu mà thêm bớt! Kể cả nhân quả luân hồi cũng là việc trong chiêm bao, nay nếu ở trong chiêm bao truy cứu mãi, vẫn là việc trong chiêm bao, chỉ cần thức tỉnh là ra khỏi nhân quả luân hồi trong chiêm bao. Đức Phật cần chúng ta thức tỉnh, bằng không, dẫu cho Thiện tri thức giải thích tất cả giáo lý nhà Phật cũng là ở trong chiêm bao, chưa thể ra ngoài được.

Hỏi: Tại sao Phật ở Kinh này nói khác, ở kinh kia lại nói khác?

Đáp: Tất cả lời nói của Phật kiến lập ra, như tứ đại, ngũ uẩn, Phật, chúng sanh, Bồ đề, Niết bàn v.v... chỉ là giả danh để phá sự chấp của chúng sanh, khiến mau được giác ngộ, mau được thức tỉnh để ra ngoài chiêm bao mà thôi. Mặc dù nói muôn ngàn đường lối, đủ thứ sai biệt, chỉ vì từ bi muốn chúng sanh thoát khổ, tùy căn cơ trình độ của chúng sanh mà thuyết pháp, nên ở kinh này nói khác, ở kinh kia lại nói khác. Nếu như không hiểu ý Phật thì cảm thấy rất mâu thuẫn, kỳ thật chẳng có mâu thuẫn.

Chư Phật chư Tổ không có ý muốn gạt chúng sanh, chỉ vì chúng sanh chẳng thấu được lời nói của Phật, của Tổ, cho nên bị Phật gạt, bị Tổ gạt. Cũng như nút sông biển cả vốn chẳng có ý muốn chướng ngại người, tại người đi qua không được, nên bị núi sông biển cả chướng ngại. Do đó, các Tổ Sư Thiền tông sau khi kiến tánh rồi nói: “Sau này ta chẳng bị Phật gạt nữa”.

Hỏi: Thế nào là thân trung ấm?

Đáp: Nhiều người cho rằng hễ người chết rồi sẽ biến thành quỷ, ấy là tư tưởng sai lầm. Lục đạo gồm: Trời, người, A Tu La, súc sinh, nga quỷ, địa ngục, nghiệp quỷ chỉ là một loại trong lục đạo, chứ không phải là ai chết rồi cũng biến thành quỷ.

Ví như nói làm thiện sanh tam thiện đạo, làm ác sanh tam ác đạo, nếu thiện ác cân bằng, chưa thể phân biệt phải sanh thiện đạo hoặc ác đạo, gọi là thân-trung-ấm, tức thân trước chết rồi, thân sau chưa sanh, ở nơi chính giữa, gọi là trung ấm. Trong bảy ngày, nếu tâm hơi nghiêng về thiện thì sanh thiện đạo, hể nghiêng về ác sanh tam ác đạo. Nếu trải qua bảy ngày mà vẫn chưa phân biệt thiện ác, lại thêm bảy ngày nữa, cứ trải qua bảy lần như thế, tức bốn mươi chín ngày thì phải đi đầu thai, người thế gian gọi là cúng cầu siêu bảy thất là vậy.

Mục đích cầu siêu là mong hướng dẫn người chết hướng tâm về thiện, nhưng nếu cúng bằng heo, gà, ảnh hưởng đến tâm ác, khiến đoạ ác đạo chẳng ích lợi gì.

Hỏi : Về vấn đề tu Thiền nhờ tự lực, và Tịnh Độ nhờ tha lực như thế nào?

Đáp: Tất cả phương tiện của Phật dạy đều phải nhờ tự lực, phải tự ngộ chứ không thể nhờ tha lực. Nói Pháp môn Tịnh Độ nhờ tha lực là sai lầm; bởi tông chỉ của Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hành, cũng là nhờ tự lực Nhất là về cái nguyện, khi đã phát đại nguyện rồi thì phải thực hành, ấy là nhờ tự lực. Niệm Phật cũng phải tự lực tự làm, chẳng được nhờ người khác niệm giùm.

Tông phái nào cũng phải nhờ tha lực, nhưng tự lực là chánh, tha lực là trợ duyên. Còn nói Thiền tông là nhờ tự lực chẳng nhờ tha lực cũng không đúng, tại sao? Thế có phải khi mình sanh ra đã biết tham Thiền đâu! Pháp môn này là do Phật dạy, ấy là trợ duyên; do chư Tổ truyền lại đời sau, ấy là trợ duyên; Thầy dạy chúng ta tham Thiền, ấy cũng là trợ duyên, là tha lực. Cho nên chẳng có Tông phái nào chỉ nhờ tự lực hoặc chỉ nhờ tha lực mà được, tại con người chấp tâm sai lầm thôi.

Hỏi: Tác giả bài “Tứ Liệu Giản” có phải của ngài Vĩnh Minh không?

Đáp: Ngài Vĩnh Minh là Tổ thứ ba của Pháp Nhãn Tông, đã kiến tánh triệt để, có tác phẩm Tông Kinh Lục gồm một trăm quyển rất danh tiếng. Hư Vân Thiền sư đã xem hết tất cả tác phẩm của Ngài, chẳng thấy bài kệ này. Trong Tứ Liệu Giản nói: “Có Thiền mà không có Tịnh Độ thì mười người tu chín người sai; có Tịnh Độ mà không có Thiền thì muôn người tu muôn người được; còn nếu có Thiền và có Tịnh độ, Thiền Tịnh song tu, như cọp mọc thêm sừng”. Chính bài kệ này đã là mâu thuẫn rồi. Tại sao? Nếu chỉ có Tịnh độ mà không cần thiền đã muôn người tu muôn người được, cần gì tu thêm Thiền để muôn phần mất hết chín ngàn! Vả lại, Tổ Sư đã kiến tánh làm sao lại có bài kệ tự mâu thuẫn kể trên!

Hỏi: Thiền tông nếu chẳng thấy được Phật thì tu để làm gì?

Đáp: Muốn tranh cãi về vấn đề chấp Phật hay không chấp Phật, trước tiên phải xác định chữ PHẬT này là gì, nên chấp hay không nên chấp. Thế thì theo ý ông, chữ Phật là gì? Giáo môn cũng có nói: “Nếu chấp Phật là thật có, ấy là chấp thêm; còn nếu chấp Phật là thật không, ấy là chấp bớt”, nếu tự tánh vốn là Phật thì chẳng thể biến thành chúng sanh; nếu tự tánh là chúng sánh thì dù tu thành Phật, sau này cũng sẽ biến thành chúng sanh. Lại, nếu tự tánh vốn là chúng sanh thì chẳng thể tu thành Phật, vậy chấp Phật để làm gì? Nói “tu đến kiến tánh thành Phật”, vì chữ PHẬT nghĩa là giác ngộ, hễ giác ngộ gọi là Phật. Muốn giác ngộ phải tham Thiền, đến khi ngộ rồi gọi là Kiến tánh thành Phật, chứ chẳng phải Phật là một vị thần linh! Nếu trong tâm chấp phải có một ông Phật thật khiến cho mình ngộ thì vĩnh viển không được ngộ.

Hỏi: Nếu nói ngộ là Phật, Phật là ngộ thì thử hỏi ai là người ngộ, cái gì ngộ? Nếu không thì e rằng sẽ đi vào cái ngoan không!

Đáp: Tại ông chấp cái có là thật có, chấp cái không là thật không, nên có câu hỏi này. Theo Phật pháp, chấp có thì bệnh còn nhẹ, chấp không bệnh nặng khó trị. Nên biết tự tánh là bất nhị, không có hai, lại, trong các Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Kim Cang đều nói VÔ SỞ TRỤ; bất cứ nói pháp nào thật, pháp nào không thật đều là trụ, là nhị. Nói có ai thành Phật đã là nhị rồi, vì có người năng thành, có Phật sở thành, chẳng phải là tự tánh!

Lại, Tự tánh khắp mọi nơi, đâu có một chỗ để ông chỉ ra được! Nếu phải chỉ là “ai”, ấy là ngã chấp. Tiểu Thừa phải phá ngã chấp rồi mới chứng quả A La Hán, còn Đại Thừa phá ngã chấp rồi, phải phá luôn pháp chấp, tức chẳng có cái pháp để mình tu, chẳng có cái quả để mình chứng, phá hết mới gọi là Bồ tát Đại thừa, nhưng cũng chưa phải đã thành Phật, vì còn cái tri giải về phá chấp.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Tư 2015(Xem: 5925)
Bất lập văn tự ở đây chẳng có nghĩa là hoàn toàn không dụng đến ngôn từ , chữ nghĩa như nhiều người thường nhận lầm, hiểu lầm qua cách định nghĩa từng lời, từng chữ một cách máy móc và giản đơn. Phải hiểu cách rốt ráo, rằng Tông chỉ của Ngài Bồ-đề Đạt-ma không ràng buộc vào ngôn ngữ, chữ nghĩa
19 Tháng Tư 2015(Xem: 12384)
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy.
14 Tháng Tư 2015(Xem: 5830)
Một chỗ thấy biết vắng lặng, trong trẻo, bất động, vô ngại, vô biên hốt nhiên hiển hiện trước mắt người con Phật, đồng "một" thực tại phi thời gian, đã làm đảo lộn các chuẩn mực và mọi giá trị qui ước xưa cũ vốn có từ thuở lọt lòng của người ấy, đối với cuộc sống và cảnh giới này.
10 Tháng Tư 2015(Xem: 8435)
Huệ Năng đang gánh củi bỗng nghe được câu kinh mà ngộ. Ông xin vào tu trong chùa, suốt tám tháng chỉ được thầy giao cho công việc giã gạo dưới bếp. Ngày kia, thầy họp Tăng chúng, bảo mỗi người làm ngay một bài kệ về sở học của mình, ai được thầy chọn sẽ được truyền cho y bát.
02 Tháng Tư 2015(Xem: 8452)
Đa số chúng ta có lẽ đều biết câu truyện này. Có một vị thiền sư được những người chung quanh ca tụng là người sống trong sạch. Một gia đình sống ở gần đấy có một cô con gái xinh đẹp. Một hôm cha mẹ cô gái khám phá ra rằng cô có thai
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11659)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
20 Tháng Ba 2015(Xem: 8232)
Thường thường với tâm lý người thế gian hễ làm việc gì cũng mong muốn có kết quả, được thành tựu cái gì đó mới chịu, mới hăng hái làm. Trong đạo, người tu thì muốn đắc quả, muốn chứng đạo, cho nên có những danh từ đắc đạo, đạt đạo, chứng đạo, thành đạo v.v… Vậy thật sự có đạo để chứng, để thành hay không?
27 Tháng Hai 2015(Xem: 12675)
Như giữa ban ngày, cảnh vật rành rành trước mắt. Thoáng giấc ngủ say, mọi thứ đưa vào cơn mộng. Cũng vậy, tâm sáng nơi mỗi chúng ta, luôn luôn hiện tiền trên mọi sinh hoạt.
15 Tháng Giêng 2015(Xem: 7343)
Đọc Thiền sử, chúng ta thấy dưới cửa Lục tổ Huệ Năng có bốn mươi ba (43) vị đắc pháp, trong đó Nam Nhạc–Hoài Nhượng, Thanh Nguyên–Hành Tư và Hà Trạch–Thần Hội là ba trường phái nổi bật nhất.