● 19/11/93 - 25/11/93

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 24361)

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Từ năm 1992-1999) 
Hòa Thượng Thích Duy Lực
Nhà xuất bản Tôn Giáo – Hà Nội 2001

6.

19/11/93 - 25/11/93 tại Chùa Từ Ân, Quận 11

Hỏi: Thế nào là thoại đầu?

Đáp: THOẠI là lời nói, ĐẦU là đầu tiên lời nói, tức trước khi chưa có câu thoại. Ngài Hư Vân giải thích rằng: “Khi muốn nói một lời, phải nổi niệm mới có thể nói ra, khi chưa nổi niệm muốn nói, gọi là thoại đầu; nếu đã nổi niệm mặc dù chưa nói ra miệng, đã thành thoại vĩ, là cuối chứ chẳng phải đầu”.

Tại sao dùng câu thoại để hỏi? Là dùng câu thoại chỉ chỗ chưa có câu thoại, và kích thích để khởi lên nghi tình. Vì câu thoại có dấu hỏi: Ví như hỏi “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?”, không biết là cái gì, ấy là dấu hỏi; “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?”, cái chỗ nào đó cũng là dấu hỏi. “Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?”, cái ra sao đó cũng là dấu hỏi. “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?”, khi đưa ra câu hỏi mà không biết, tức khởi lên nghi tình. Hỏi câu thoại để kích thích nghi tình, chứ không phải lấy câu thoại làm mục tiêu để tìm hiểu đáp án. Nếu tìm hiểu đáp án của câu thoại là sai lầm, chẳng phải tham thiền.

Tham Thiền gọi là “Khán thoại đầu” và “tham thoại đầu”. Khán tức nhìn; chẳng phải dùng con mắt nhìn, là dùng tâm nhìn, nói đúng hơn là dùng tánh thấy để nhìn. Vừa nhìn vừa hỏi câu thoại để kích thích khởi lên nghi tình, nếu không có nhìn thì nghi tình vừa khởi lên mất, nên phải KHÁN phải NHÌN để giữ nghi tình được kéo dài.

Nhìn và hỏi phải một lượt, chẳng có trước sau. Có người nghe tôi nói như thế, tưởng là phải đồng thời có hai tâm, tức một tâm để nhìn, một tâm để hỏi. Tôi nói: “chẳng phải hai tâm, cũng chẳng phải một tâm”, vì thoại đầu là chưa có niệm nào hết, chẳng hình tướng số lượng để diễn tả. Vả lại, nhìn là dùng tâm nhìn, hỏi là dùng tâm hỏi, cũng chẳng có hình tướng số lượng diễn tả, cho nên hành giả cảm thấy khó hiểu. Nay tôi dùng những gì có hình tướng số lượng diễn tả, chứng tỏ là một lượt chẳng có trước sau, cũng chẳng phải hai tâm hay một tâm:

- Tôi đem đồng hồ kim gió thay cho thoại đầu! kim gió nhảy một cái là một giây, không có gián đoạn. Con mắt mình nhìn ngay kim gió, con mắt đang nhìn, kim gió đang nhảy, con mắt nhìn không ngừng, kim gió nhảy cũng không ngừng, hỏi “trước khi kim gió là gì?”, cũng không ngừng, vừa hỏi dứt hỏi nữa, liên tiếp không ngừng, ba cái đồng thời, là một lượt, chẳng trước sau, nên không phải là hai hay một. Cho nên nói “nhìn” và “hỏi” là một lượt, chẳng có trước sau.

Khi nhìn đến nghi tình giữ được rồi, không cần hỏi cũng được, chỉ nhìn và giữ nghi tình, nuôi nghi tình cho cực mạnh, như bơm bong bóng, bơm đến cực độ bong bóng tự nổ, lúc bong bóng nổ tức nghi tình vỡ, gọi là kiến tánh thành Phật, lúc đó chẳng còn gì để nghi nữa, gọi là đoạn dứt nghi căn, tiếng Hán gọi “đốn đoạn nghi căn”, tức căn bản của sự nghi sạch hết, cái biết khắp không gian thời gian, chẳng còn thiếu sót. Kinh nói “Một giọt mưa ngoài hằng sa thế giới đều biết”, tất cả chúng sanh, hễ một chúng sanh nổi một niệm gì đều biết, gọi là Chánh Biến Tri.

Sao gọi Chánh Biến Tri? Chánh là đúng với thực tế, Biến là phổ biến không gian thời gian chẳng thiếu sót, Tri là biết.

Mục đích tham thiền: muốn hiện cái biết Chánh biến tri, thì phải ngưng cái biết của bộ não. Cái biết của bộ não ví như mây đen, cái biết của Chánh biến tri cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp không gian thời gian. Sở dĩ chúng ta không thấy được ánh sáng mặt trời, là do bị mây đen che khuất, chứ chẳng phải ánh sáng mặt trời có thiếu sót gián đoạn. Nếu có gió lớn thổi tan đám mây, hễ thổi tan một chút là như có một lỗ nhỏ thì ánh sáng từ lỗ nhỏ đó hiện ra. Sự hiện ra đó chẳng phải là mới hiện, là đã hiện tư vô thỉ, chỉ vì bị mây đen che khuất thôi. Nếu thổi tan sạch thì ánh sáng chiếu khắp.

Ánh sáng mặt trời dụ cho cái biết của Phật tánh, mây đen dụ cho cái biết của bộ não, gió lớn dụ cho nghi tình. Nghi tình của mình sẽ dẹp hết mây đen, cái biết của Phật tánh hiện lên, chiếu khắp không gian thời gian, cái dụng cũng vậy. Hành giả tham thiền không cần tìm hiểu câu thoại, chỉ cần giữ cái không biết của nghi tình là được.

Hỏi: Qua câu thoại đầu, quyết định đời nay phải thấy Phật tánh, con để tâm vào nơi phát xuất câu hỏi trong đầu và con đã định tâm được, vậy có đúng với Thiền tông không?

Đáp: Không đúng, Bát nhã đâu thể cấy được! Bát nhã là trí huệ của Tự tánh đã sẵn từ đời nào, chẳng phải do cấy hoặc trồng lên. Ấy là cái thuyết của Giáo môn, còn Thiền môn chỉ là phát hiện thôi. Mặc dù nói kiến tánh thành Phật, nhưng đến khi kiến tánh rồi mới biết chẳng có Phật để thành.

Hỏi: Người tham thiền phải quên và không biết thì làm sao tham khảo kinh sách?

Đáp: Đã dùng không biết để tu, còn muốn biết về kinh sách làm gì? Nói vậy cũng mâu thuẫn, như hiện nay tôi đang dịch Kinh Lăng Già và trước kia tôi đã dịch các

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Kim Cang … Tại sao tôi phải dịch kinh? Vì hiện nay chúng ta chưa tin Phật tánh sẵn đủ của mình, phải nhờ kinh Phật, nhờ Thánh ngôn lượng, tức dùng ngôn thuyết của bậc Thánh để tăng trưởng lòng tin, tin tự tâm của mình, nên mới cần đọc kinh xem kinh. Nếu lòng tin tự tâm đã đủ 100% thì tất cả mọi thứ đều là dư.

Khi lòng tin đầy đủ thì sự thực hành mới mau có hiệu quả. Tố sư nói: “Tin có mười phần thì sự nghi mới có mười phần, nghĩ được mười phần thì sự ngộ mới được mười phần”. Cho nên, bắt đầu từ chỗ tin, tin tự tâm sẵn đủ tất cả chẳng thiếu sót, chỉ cần thực hành để phát hiện nó thôi.

Hỏi: Vì con tu theo pháp môn Tổ Sư Thiền/, nhưng gia đình không hiểu, chồng con đánh đập chửi mắng, đến nỗi con phải xin ly di, vậy con có lỗi không?

Đáp: Trong Giáo môn có sáu Ba-la-mật, và nhẫn nhục là một trong sáu Ba-la-mật đó. Cái cùng tột của Nhẫn nhục Ba-la-mật là không biết nhẫn nhục. Nếu tự còn biết mình đang nhẫn nhục, ấy chẳng phải thật nhẫn nhục, còn cái thật nhẫn nhục là nghe người ta chửi mắng đồng như khen ngợi, chẳng biết là do mình có sự nhẫn nhục. Nếu nghe tiếng chửi mắng đồng như khen ngợi thì đâu cần nhẫn nhục nữa! Ấy mới thật sự đạt đến cùng tột của nhẫn nhục vậy. Chỉ cần giữ được nghi tình miền mật, chẳng biết tới người ta đang sĩ nhục chửi măng.

Hỏi: Kiến giải thể nào là thật sự kiến tánh? Kiến giải thế nào là chưa thật sự kiến tánh?

Đáp: Nếu có một chút kiến giải là chưa kiến tánh, vì còn trụ nơi kiến giải, tức có hai chữ “cho là”. Bất cứ cho là cái gì, cho là Niết bàn, cho là Phật... đều chưa phải kiến tánh.

Hỏi: Khi có người chết, gia đình thường cúng cơm, vậy người chết có ăn được không? Nếu không cúng, người chết có bị đói không?

Đáp: Người chết rồi chỉ còn cái xác, thiêu thì thành tro, chôn thành đất, đâu còn biết ăn! Người thế tục theo truyền thống đời xưa nói có linh hồn, nhiều Phật tử cũng tin là có linh hồn, những chính giáo lý của Phật giáo không thừa nhận linh hồn, chỉ thừa nhận thần thức. Tại sao? Theo sự tưởng tượng của người thế gian, cho linh hồn theo cơ thể biến đổi, như trẻ con chết thì linh hồn là trẻ con, người lớn chết thì linh hồn người lớn ... nếu theo cơ thể biến đổi thì cơ thể đã chết mất, linh hồn cũng chết theo. Đức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm đã chứng tỏ: “Những gì có biến đổi lay động phải chết mất, còn cái tồn tại vĩnh viễn thì không lay động, nên không thể chết”. Linh hồn đã theo cơ thể biến đổi thì đâu thể tồn tại được!

Nói đến vấn đề ăn, trong Kinh Lăng Nghiêm có bốn thứ ăn: Loài người và thú thì ăn những thứ có thật chất, có loài chỉ ăn qua ngửi mùi, có loài chỉ tiếp xúc gọi là ăn, có loài chỉ xem, ví như xem sách, ăn những trí thức trong đó. Cúng cơm là vật chất, phải có thân xác mới ăn được, chẳng có thân xác lấy gì để ăn? Cho nên, nói cúng chỉ là do lòng hiếu thảo, kỷ niệm và ghi nhớ ông bà thì được, nhưng người có tu hành thì có sự cảm ứng (Sư phụ kể về câu chuyện Huỳnh Đình Kiên, xem trang 49).

Hỏi: Con đi làm công đức gieo duyên các nơi, mọi người trong gia đình đều ủng hộ, ví như con trong một cây, đến lúc có trái, cả gia đình con đều được hưởng hay chỉ một mình con được hưởng?

Đáp: Những người thấy người khác bố thí mà phát tâm tùy hỷ, phước đức bằng với người bố thí, huống là có sự góp sức thì quả đều bằng nhau.

Hỏi: Những vị Tổ đã kiến tánh ngoài việc có thần thông ra, vẫn đói ăn khát uống như người thường! đâu có gì đặc biệt?

Đáp: Đặc biệt ở chỗ sanh tử tự do, muốn sống muốn chết đều tự do. Ví như có một vị Tổ, đang sống khỏe mạnh chẳng bị bệnh gì, bỗng tụ tập đồ chúng đãi tiệc chia tay, ăn xong tự mình nằm trong quan tài, bảo đồ chúng đậy nắp lại đem đi thiêu. Các đệ tử thấy thầy mình vẫn khỏe mạnh, trong tâm nghỉ ngờ, chỉ đậy nắp hòm lại, không dám đóng đinh, cũng chẳng đem đi thiêu. Ba ngày sau, không biết thầy mình ra sao, bèn hé mở nắp hòm, Tổ ngồi dậy mắng chúng một trận, nói:

- Các ngươi theo ta đã lâu, còn không tin ta sao!

Nói xong bước ra khỏi quan tài, lại đãi tiệc, ăn xong nói:

- Tiệc nay gọi là tiệc ngu si, bởi các ngươi quá ngu si. Sau này nhất định phải nghe theo lời dặn của ta, đem quan tài đi thiêu. Ai còn lén mở nắp hòm thì chẳng phải đệ tử của ta.

Đến lần thứ hai các để tử mới thật sự đem đi thiêu.

Hỏi: Thế nào là đời sống bị ràng buộc, thế nào là đời sống an vui giải thoát?

Đáp: Hễ chấp thật thì bị ràng buộc, không chấp thật tức được an vui, cũng như tôi nói về thế lưu bố tướng và trước tướng. (Sư phụ đã giảng về thế lưu bố tướng và trước tướng, lược qua).

Hỏi: Thế nào là Thiền cứu cánh và thế nào là thiền phương thiện?

Đáp: Nói cứu cánh trong Thiền tông là phá mạt hậu Lao quan, tức bàn thể của Phật tánh và diệu dụng đều hiện khắp không gian thời gian, tất cả tập khí phiền não đều dứt sạch, gọi là cứu cánh, nếu chưa đến bậc đồ chưa được gọi là cứu cánh.

Hỏi: Sau khi Phật nhập Niết Bàn bao lâu thì kinh điển Phật được kết tập? Cả kinh Đại thừa và Tiểu thừa cùng kết tập một lúc hay có trước sau?

Đáp: Các kinh Đại thừa liễu nghĩa và kinh Tiểu thừa không kết tập một lượt, nay các nước Tiểu thừa không công nhận có Đại thừa. Năm 1974, tôi đi thăm Thái Lan hơn một tháng, gặp các sư Thái Lan và Tích Lan. Nước Tích Lan lấy Phật giáo làm quốc giáo, tất cả quan chức đều là Phật giáo đồ, nhưng không biết có Phật A Di Đà, luôn cả hiệu Phật cũng không biết? Lại nữa Tu sĩ các nước Tiểu thừa chỉ thọ giới Tỳ-kheo, không thọ giới Bồ tát.

Trước kia, Phật thuyết pháp Tiểu thừa bằng tiếng Pali, tiếng Pali là tiếng địa phương, chỉ có âm, không có chữ! truyền đến Thái Lan thì dùng chữ Thái viết ra kinh Pali, truyền đến Tích Lan cũng vậy. Ngoài ra, nước Campuchia, Lào v.v ... đều dùng chữ của nước họ viết ra Kinh Pali. Còn Phật thuyết Đại thừa bằng Tiếng Phạn.

Chớ nói giữa kinh Đại thừa và Tiểu thừa có sự khác biệt, chỉ nói trong Kinh Tiểu thừa thôi cũng có khác. Lúc kết tập Tiểu thừa thì giống nhau, sau đó chia thành hai bộ, tức Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ; hai bộ đó lại chia thành 9 bộ phái và 11 bộ phái, thành ra Tiểu thừa có 20 bộ phái khác nhau, nhưng tất cả đều không thừa nhận có Đại thừa.

Cũng như nay ở Đại Học Vạn Hạnh Việt Nam, Hòa thượng Minh Châu dạy về pháp Tiểu thừa, lấy Kinh Pali làm Đại Tạng Kinh, trong đó không có kinh Đại Thừa. Còn trong Đại Tạng Kinh của Đại Thừa thì bao gồm cả Đại, Trung, Tiểu thừa.

Nay chỉ nói về ngày sanh của Phật Thích Ca, cũng có mấy mươi thuyết khác nhau, đến gần đây, Hội Phật Ciáo Thế Giới họp tại Campuchia mới thống nhất ngày lễ Phật Đản vào 15 tháng 4, còn ở Trung Quốc thì mùng 8 tháng 4.

Về Phật lịch, tính theo Thiền tông thì năm nay là 3021 năm, còn theo Phật lịch Tiểu thừa là 2537 năm, chênh lệch cả mấy trăm năm.

Có Phật tử hỏi tôi về Phật lịch, rốt cuộc là 2537 năm? Hoặc như Kinh Pháp Hoa nói là từ vi trần kiếp trước? Hoặc 3021 năm? Cái nào đúng? Tôi nói: Nói đúng thì tất cả đều đúng, hễ nói sai thì tất cả đều sau. Chính Đức Phật đã nói là “Vô thỉ”, tức chẳng có sự bắt đầu, cũng là nghĩa vô sanh. Nếu có sự sanh khởi, tức phải có bắt đầu vốn là chẳng có sự sanh khẩu làm sao có bắt đầu? Chẳng những con người không có sự bắt đầu, tất cả vũ trụ vạn vật đều không có lý bắt đầu.

Nhưng nay chúng ta thấy có sự sanh diệt rõ ràng, có sự bắt đầu rõ ràng, vậy cái bắt đầu đó từ đâu? Phật nói ấy là do bệnh nhặm mà thấy có hoa đốm trên không. Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật nói với A Nan:

- Nay ngươi thấy có ngươi có ta, thấy núi sông đất đai, vũ trụ vạn vật, đều là bệnh đã thành từ vô thỉ, do tâm tạo mới có.

Sự thật chẳng phải là không có, chỉ là không có sự bắt đầu; không có sự sanh khởi chứ chẳng phải đoạn diệt hoàn toàn chẳng có gì cả.

Hỏi: Sức kỳ diệu của tâm như thế nào?

Đáp: Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật nói “Nhất thiết duy tâm tạo”, tôi mới vừa nói “Vô thỉ vô sanh”, nay thấy có sự sanh là do tâm tạo, cho đến đủ thứ sai biệt đều là do tâm tạo. Sức tâm của chúng ta rất kỳ diệu, nếu phát huy ra, như Đại Trí Độ Luận nói “nổi lên một niệm có thể làm Đại Thiên thế giới tan rã thành hạt bụi”, mạnh hơn bom nguyên tử không biết bao nhiêu triệu lần. Bởi bản thể của tâm khắp không gian thời gian, thì sức dụng cũng khắp không gian thời gian, chẳng có gì hạn chế nổi.

Hỏi: Trong Hư Vân Niên Phổ có ghi: Sau khi kiến tánh, ngài Hư Vân vẫn còn áp dụng những Dịch lý, xem phương hướng để xây dựng các đại tòng lâm, xây tháp cho các vị Tổ v.v. . . Sau khi đi quyên tiền, ngài có nhập đinh một lần để thuyết pháp tại nước Xiêm (Thái lan), 9 ngày mới xuất định, sau đó bị chứng tê bại, chính ngài có cầu đảo thần y Hoa Đà để trị bệnh. Tại sao người đã kiến tánh còn có thể tin việc thần quyền Cầu đảo?

Lại nữa, mới khi ngài Hư Vân đi đến đâu đều có hiện thoại ứng điềm lành, ví như vườn cải xanh có thể hiện thành hoa sen xanh, cây khô trổ hoa, cây hoa mai mọc hoa sen v.v... Xin hỏi, đó có phải cảnh trí Thánh vượt khỏi phàm tình? Thay vì như sư phụ nói là nhân nào quả nấy, cây lý sanh ra lý, cây đào sanh ra đào?

Đáp: Tự tánh bất nhị, chẳng hình tướng số lượng, chẳng phải bộ não có thể nhận biết được. Tại sao? Vì bộ não này là sanh diệt, sau khi chết đều biến thành tro thành đất, còn Phật tánh là vô thỉ, chẳng sanh diệt. Cái biết của Phật tánh là Chánh biến tri, nên biết được cái biết của bộ não, cái biết của bộ não chẳng thể biết được cái biết của Phật tánh.

Tất cả câu hỏi của Sư đều là cái biết của bộ não.

Lại nữa, sự kiến tánh cũng có sâu và cạn, như Sơ quan, Trùng quan, Mạt hậu Lao quan, không phải kiến tánh liền triệt để. Dẫu cho kiến tánh triệt để, vẫn còn tập khí. Theo Giáo môn, Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, đến Thập Hồi Hướng, tập khí thế gian dứt sạch rồi mới lên Sơ địa, nhưng vẫn còn tập khí xuất thế gian, phải đến Diệu Giác mới hết tập khí.

Người phá Lao quan đến cùng tột, tập khí thế gian còn chưa dứt, huống là tập khí xuất thế gian! Người kiến tánh thì sự ngộ bằng Đẳng giác, nhưng tập khí còn, nên thần thông không hiện ra được, phải qua sự bảo nhiệm, tự động dứt tập khí. Hễ tập khí còn thì việc làm đều giống người thế gian, đâu có gì lạ!

Lại nữa, có Bồ tát hiện nghịch độ, là tạo tội còn hơn người đời. Thuận độ thì người đời để tin, nhưng vì phương tiện hóa độ chúng sanh, chứ chẳng phải người kiến tánh rồi còn tệ hơn người đời. Chúng ta còn là phàm phu, chẳng thể dùng sự hiểu biết của mình đoán mò bậc Thánh. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tất cả hiểu biết đều là vọng”, đều không có thật.

Hỏi: Thế nào là công phu cách vật và đến lúc vật cách?

Đáp: “Cách vật” 1à lới nói của nhà Nho, gọi “Trí tri cách vật”. Ngài Đại Huệ muốn phá sự chấp của nhà Nho, nên nói “vật cách”, chứ chẳng phải có nghĩa lý gì. Tổ Sư Thiền là dùng cái không biết để tu, làm sao biết đến cách vật hay vật cách! Nếu biết đến cách vật hay vật cách là không có công phu, vì công phu chỉ có nghi tình, không biết đến cái khác.

Hỏi: Làm thế nào để đạo lực chuyển được nghiệp lực?

Đáp: Nếu giữ được nghi tình, có công phu thì nghiệp lực cũng không biết, đạo lực cũng không biết. Vì tự tánh bất nhị, bất nhị thì không có đạo lực, cũng không có nghiệp lực. Vốn là chẳng có hai thứ này, nên nói tất cả đó tâm tạo. Nay cho là có nghiệp lực, cho là có đạo lực đều là “cho là!” có “cho là” thì chẳng phải công phu vậy.

Lời của chư Tổ chỉ là dùng để phá chấp, như bài kệ của Lục Tổ phá chấp của Thần Tú: “Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nha trần ai”, nếu chấp vào “bổn lai vô nhất vật”cũng là kiến chấp, cũng là có sở trụ, chẳng phải bản thể vô trụ.

Nói tóm lại, xem Kinh và Ngữ lục của Tổ sư, hễ ngộ thì ngộ ngay lúc đó, nếu chẳng ngộ tức không hiểu, cứ giữ cái không hiểu đó, gọi là nghi tình, sau này sẽ được ngộ, chứ đừng cho là thật có cái nghĩa lý rồi đi tìm hiểu, ấy là nghịch với Tổ Sư Thiền.

Hỏi: Làm sao thoát khỏi nghiệp nhân quả đã tạo?

Đáp: Chỉ cần giữ nghi tình không hiểu không biết, do nghi tình chấm dứt tất cả biết của bộ não, đưa mình đến chỗ kiến tánh. Sau khi kiến tánh triệt để rồi, tất cả nghiệp chướng đã tạo trước kia đều tự tiêu. Tại sao? Vì trước kia là chưa thức tỉnh, còn ở trong chiêm bao, phải chịu nhân quả trong chiêm bao, nếu đã kiến tánh, tức nhảy ra ngoài chiêm bao, thì nhân quả trong chiêm bao tự dứt. (Sư phụ đã giảng về nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao, lược qua). Cho nên, chỉ cần lo mình làm sao đến kiến tánh, ngoài ra khỏi lo gì cả.

Hỏi: Chư Tổ dạy rằng: “Công phu bắt đầu từ đa tâm đến thiểu tâm, nhất tâm rồi vô tâm”. Vậy chúng con phải nương theo đó để biết tiến triển của công phu, hoặc chỉ giữ nghi tình mà thôi?

Đáp: Đây là lời của ngài Lai Quả, nhưng ngài cũng nói: “Nếu nói là vô tâm thì lấy gì để biết?”, Tôi cũng thường nói: Có “cho là” tức đã nổi niệm biết. Mục đích của mình là khán thoại đầu, tham thoại đầu, thoại đầu là không biết, vậy còn muốn biết những thứ đó làm gì? Cứ muốn biết hoài thì làm sao đến chỗ vô tâm?

Hỏi: Sư phụ dạy dùng tâm nhìn chỗ không biết nhưng con nhìn một hồi, biết là tâm con đang nhìn, vậy cái biết đó là tâm hay bộ não?

Đáp: Là bộ não biết hay tâm biết, hai cái đều đừng biết mới là nghi tình. Bây giờ cho cái gì là tâm? Cho cái biết của bộ não gọi là vọng tâm, cái biết của Phật tánh gọi là chơn tâm?

Thật ra, con người chỉ có cái tâm khắp không gian thời gian, chẳng vọng tâm với chơn tâm, do có bộ não phân biệt gọi là thức, vì có thức phân biệt mới có vọng tâm và chơn tâm, cũng như mặt mũi chỉ là một, khi bệnh thì hiện tướng xanh vàng ốm yếu, khi mạnh thì hiện ra tướng hồng hào. Khi hiện ra tướng bệnh thì tướng mạnh bị che khuất, hiện ra tướng mạnh thì tướng bệnh không còn nữa. Dù tướng bệnh hay tướng mạnh, cũng chỉ là mặt mũi này thôi, chẳng phải có cái khác.

Hỏi: Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật nói: “Nếu chúng sinh thời mạt pháp muốn cầu Thiện tri thức, phải tìm người có chánh kiến, xa lìa nhị thừa, tâm chẳng chấp tướng, và không còn tác chỉ nhậm diệt”. Cơn nghi rằng nếu tâm chẳng chấp tướng, có thể sai phạm luật nghi không? Thế nào là bốn bệnh tác, chỉ, nhậm, diệt?

Đáp: Tôi thường nói: Chúng ta đang ở trong mở mắt chiêm bao, phải từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh, tất cả khổ trong chiêm bao mới được thấm đứt. Cho nên, việc cần thiết là phải thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao. Nói là “thành Phật” thì Phật tánh đã thành sẵn, chỉ là phát hiện cái “đã thành sẵn” đó; gọi là “kiến tánh”, tức hiện bản tánh đầy đủ tất cả năng lực đã sắn ấy, chứ chẳng phải do tác mà thành, nên nói “tác” là bệnh; “chỉ” cũng, vậy chẳng phải do chỉ mà thành; “nhậm” là bệnh mặc kệ, diệt cũng thế. Tất cả vốn đã sẵn, nên tác, chỉ, nhậm, diệt đều là bệnh. Nay nói tâm chấp tướng hay tâm không chấp tướng đều lọt vào tứ cú, đều do vọng tướng của mình tạo ra, phải lìa hết, kê cả chấp hay chẳng chấp .

Hỏi: Trong lúc công phu bị hôn trầm phải thế nào?

Đáp: Hành giả tham Thiền có hai tướng: Hôn trầm và tán loạn. Vọng tưởng nối lên nhiều là tán loạn, vọng tưởng bớt mà cảm thấy buồn ngủ, gọi là hôn trầm. Có câu thoại đầu phải có nghi tình, khi nghi tình mạnh thì chúng hôn trầm, lúc nghi tình yếu mà vọng tưởng bớt đi dễ lọt vào hôn trầm.

Hành giả tham thiền phải lìa hai tướng này, tức bình thường tham không bị hôn trầm tán loạn thì mắt hơi mở. Nếu vẫn còn thấy hôn trầm phải mở to hai mắt. Nếu vẫn còn thấy hôn trầm, phải dùng nước lạnh rửa mặt hoặc đứng dậy đi kinh hành, hay kiếm công việc làm.

Thời Xuân Thu có ông Tô Tần muốn chống lại sự hôn trầm, đã cầm cây dùi đâm thẳng vào bắp chân!

Nay trong lúc tọa hương, giữa đại chúng, không thể đứng dậy đi kinh hành, hễ hôn trầm có thể dùng móng tay tự ngắt vào mình, để vọng tưởng chẳng nổi lên được. Ấy là tùy theo sự quyết chí của hành giả tự điều chỉnh, chứ không thể nói nhất định được. 

Hỏi: Nếu nói Đức Phật không có nhập Niết Bàn, là bất sanh bất diệt, thì tại sao ngài lại còn sanh ra nữa?

Đáp: Câu hỏi của cô là do tư tưởng chấp thật mà có. Theo thực tế của Tự tánh, bản thể khắp không gian thời gian, tức chẳng có hai cái hư không, gọi là bất nhị. Bất nhị thì chẳng thuộc về hữu hay vô, do đó, cho là “có” hay “không” đều là tư tưởng chấp thật. Ví như nói là Phật nhập Niết Bàn, có thí dụ trong kinh rằng:

Một ông thầy thuốc trị bệnh rất giỏi, có ba người con (dụ cho Tam thừa), khi ba người con mắc bệnh, phải uống thuốc mới khỏi. Đứa con đầu nghe lời cha, uống thuốc liền khỏi, đứa thứ nhì lúc đầu chẳng tin, nhưng sau đó cũng chịu uống thuốc rồi mới hết bệnh. Chỉ có đứa con út, mặc dù nói là tin, nhưng cứ ỷ lại cha, chẳng chịu uống thuốc ngay. Người cha biết ỷ của con, liền từ giã các con đi phương xa! và cho người báo tin về rằng ông ấy đã chết, tức nhập Niết bàn. Mất đi sự nương tựa, đứa con út hoảng sợ mới chịu uống thuốc chữa bệnh.

Thật ra,Niết bàn của Phật là phương tiện để độ những chúng sanh như đứa con út vậy.

Hỏi: Địa ngục ở tại thế gian hai ở một cảnh giới nào khác?

Đáp: Tất cả do tâm tạo, ở chỗ nào cũng có, tất cả thế giới đều có. Cũng như nói đọa địa ngục A-tỳ, tức địa ngục Vô gián, từ kiếp này sang kiếp khác chẳng gián đoạn, cho đến thế giới này hoại rồi dời sang thế giới khác vẫn tiếp tục chịu khổ địa ngục. Nhưng tất cả đều do tâm tạo, cho nên, dù đoạ địa ngục A-tỳ, nếu đã gieo một hạt giống Phật. trong lúc chịu khổ, thình lình nhớ lại, dù một câu niệm Phật, cũng có thể chấm dứt cái khổ của địa ngục Vô gián, vì tâm đã chuyển biến. Ví như bà mẹ của Mục Kiền Liên, nhờ tâm lực của chư Tăng, khiến tâm niệm bà chuyển biến, liền được thoát khỏi cảnh Ngạ quỷ.

Hỏi: Theo kinh Phật, Nhất Xiển Đề không tin nhân quả và tội phước, luôn phải sống trong địa ngục muôn đời muôn kiếp, vậy cuối cùng những người này có thể thành Phật không?

Đáp: Nhất Xiển Đề mặc dù trước mắt không có lòng tin Phật pháp, nhưng chỉ là một khoảng thời gian thôi, chẳng phải vĩnh viễn. Tại sao? Vì Nhất xiển đề cũng đầy đủ Phật tánh, chủng tử trong Phật tánh đã sẵn thì sau này có nhân duyên khiến tin rồi tu hành thì cũng thành Phật.

Hỏi: Theo học thuyết của nhà Phật, thân hiện tại này vốn do thức biến hiện, phải không?

Đáp: Chẳng những thân hiện tại, mà cả thân quá khứ, thân vị lai cho đến vũ trụ vạn vật, đều do thức biến hiện, nên gọi là Duy thức.

Hỏi: Thân hiện tại này dựa vào đâu được hình thành?

Đáp: Đã nói là vô thỉ thì làm sao có chỗ dựa? Như trong Kinh Lăng Nghiêm, Phú Lâu Na hỏi Phật: “Trong Như Lai Tạng vốn là trong sạch, tại sao bỗng hiện núi sông đất đai, tất cả chúng sanh sanh rồi diệt, diệt rồi sanh?”

Phật bảo: “Đã nói là vọng thì chẳng thể có tại sao, vọng chẳng có nhân, nếu có tại sao tức chẳng phải vọng”. Phật chỉ trả lời như thế.

Hỏi: Vì muốn dụng công tham thiền, nên ban đêm ráng thức để tu, và ban ngày khi tọa hương thì bị ngủ gục hoặc hôn trầm, phải khắc phục như thế nào?

Đáp: Vậy là không đúng. Theo lời của chư Tổ, hễ buồn ngủ cứ ngủ, ngủ rồi thức dậy mới đủ tinh thần tham. Lúc cần ngủ thì không ngủ, đến lúc tham cũng không đủ tinh thần, thành ra ngày đêm đều tham không được. Về vấn đề “muốn không cho hôn trầm”, ấy là quá trình của người tu, khi tham đến vọng tưởng ít rồi, tự nhiên sẽ hôn trầm, nên nói “tài, sắc, danh, thực, thùy” là ngũ dục đối với người tu hành. Lúc tôi mới nghe như vầy, nghĩ rằng tại sao ngủ cũng là tham dục? Vì bốn thứ trước là ở ngoài thân, hành giả dễ đứt, còn sự ngủ là do sinh lý đòi hỏi, khó đứt, nên đem việc ngủ xếp trong năm thứ tham dục.

Theo kinh nghiệm của tôi, phải tranh đấu đến mấy tháng mới hết. Cho nên, lúc cần ngủ thì cứ ngủ, chứ đừng có ráng sức. Tu hành khỏi cần ráng, như ngài Đại Huệ nói: “Ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy”.

Hỏi: Có một vị Tu sĩ khi xuất gia phát nguyện trọn đời đi theo con đường tu hành, nay vì hoàn cảnh phải ra đời, vậy có tội lỗi không? Khi ra đời rồi, vị ấy có thể tiếp tục tu pháp Tổ Sư Thiền không?

Đáp: Vị này phát tâm xuất gia, nay vì hoàn cảnh ra đời, không bằng người giữ bản nguyện ban đầu, tiếp tục tu xuất gia. Nếu sau khi ra đời tiếp tục tu pháp Tổ sư Thiền, thì cũng như những cư sĩ tại gia tu Thiền vậy, tốt hơn so với người không tu.

Theo hoàn cảnh thực tế hiện nay, tôi cảm thấy người nữ tu hành xuất gia muốn tu giải thoát, phần nhiều không bằng người còn tại gia. Cho nên tôi thường khuyên các nữ cư sĩ có tâm muốn xuất gia, bảo họ đừng xuất gia. Như ngài Lục Tổ nói: “chẳng phải xuất gia mới tu, tại gia cũng tu được”, nếu như thân xuất gia mà tâm tại gia, chi bằng tâm xuất gia mà thân tại gia, nếu giữ được tâm quyết tử tu hành thì không phân biệt tại gia hay xuất gia.

Theo tôi thấy, người nữ với nhau thường có nhiều ý kiến đối chọi nhau, sanh ra thù ghét lẫn nhau, nên Phật Thích Ca lúc đầu không cho nữ giới xuất gia. Sau Tôn giả A Nan vì người mẹ nuôi của Phật năn nỉ Đức Phật ba lần, Phật mới cho xuất gia, với điều kiện phải hành theo pháp Bát Kỉnh.

Vì tâm sinh lý của giới nữ rất khó trị, nên Phật chế ra giới luật. Nhiều người cho là không bình đẳng: Tỳ kheo có bốn tội Ba-la-di, Tỳ-kheo-ni phải có tám Ba-la-di; giới luật của Tỳ-kheo chỉ có 250 giới, Tỳ-kheo-ni đến 348 giới; Tỳ-kheo được phép xuất gia 7 lần, Tỳ-kheo-ni chỉ được một lần. Phật Thích Ca nói là chúng sanh bình đẳng, tại sao chế ra giới luật không bình đẳng? Cùng là loài người với nhau đã không bình đẳng, huống là đối với tất cả chúng sanh! Tại sao?

Vì tâm sinh lý của giới nữ khác hơn nam, ví dụ: Nam giới không mặc áo có thể đi ra ngoài đường, nữ đâu thể được! Nên phải chế thêm giới luật để kềm chế.

Phật Thích Ca đã chế ra giới luật nghiêm ngặt như thế, kềm chế như thế, mà hiện nay bất cứ ở nước nào, Việt nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia . . . chùa của Tăng mà người nắm quyền lại là Ni, chùa nào cũng như chùa nấy. Sự thật chứng tỏ, giới luật nghiêm như thế vẫn kềm chế không nổi.

Như câu chuyện của ông Huỳnh Đình Kiên, là từ thân nữ chuyển thành nam, làm quan vẫn kiến tánh. Sau khi kiến tánh rồi vẫn làm quan, đâu cần xuất gia mới tu được? Xuất gia là để tiện cho việc hoàng pháp, như ngài Lục Tổ, cư sĩ kiến tánh, đã được truyền y bát làm Tổ, vẫn còn trải qua mười lăm năm mới xuất gia, và xuất gia vì mục đích hoàng pháp. Nếu chỉ là tự mình tu giải thoát thì xuất gia hay không chẳng quan trọng.

Hỏi: Tại sao vọng tưởng nổi lên nếu không suy nghĩ phân biệt thì vọng tưởng liền diệt, nếu vọng tưởng nổi lên mà suy nghĩ phân biệt thì vọng tưởng đó kéo dài không dứt?

Đáp: Nghi tình là không biết, bất cứ vọng tưởng gì nổi lên đều không biết, chẳng những vọng tưởng nổi lên không biết, không có vọng tưởng nổi lên cũng không biết, tức chẳng biết mình là không có vọng tưởng, mới giữ được nghi tình. Bây giờ lại phân biệt là vọng tưởng loại này hay loại kia, còn bảo tôi phân tích nữa!

Tôi đã nói: Pháp môn này dùng cái không biết để tu, giữ nghi tình thì tất cả đều không biết; chẳng những vọng tưởng không biết, chân lý cũng không biết, Phật, Bồ tát cũng không biết. Tu đến cuối cùng rồi, nghi tình sẽ đưa đến kiến tánh thành Phật, thành Phật rồi thì Bồ đề viên mãn, qui vô sở đắc. Nếu còn sở đắc tức thành Niết bàn của tiểu thừa, Kinh Lăng Già nói: “Chẳng có Phật Niết bàn, chẳng có Niết bàn Phật”. Niết Bàn là đối với sanh tử, sanh tử đã chẳng có, làm sao có Niết bàn ư? Cũng như nói “phiền não tức bồ đề”; do có phiền não mới có bồ đề, phiền não đã sạch thì làm sao có bồ đề! Nên người kiến tánh ngộ rồi đồng như chưa ngộ, vì có sự mê mới có sự ngộ, mê đã hết thì ngộ cũng không còn.

Hỏi: Trong học công phu đến cuối cùng của ý thức, câu thoại đầu tự mất, chỉ có nghi tình hiện tiền, nếu sức nghi mạnh, có thể ngộ triệt thấu tam quan. Nhưng trong lúc triệt ngộ nếu không có thiện tri thức, hành giả có thể tự biết không? Có cần phải thiện tri thức ấn chứng không? Hoặc chưa thấu triệt để, chỉ phá Sơ quan hay Trùng quan, thì hành giả có thể tự biết được không? Làm sao có thể tự thấy được chỗ chưa thấu triệt nếu không gặp thiện tri thức?

Đáp: Theo ngài Nguyệt Khê trong Đại Thừa Tuyệt Đối Luận, cuốn Cội Nguồn Truyền Thừa và Phương Pháp Tu Trì của Thiền tông, nói: “Người đã kiến tánh, hoặc phá Sơ quan, hoặc phá Trùng quan hay Mạt hậu Lao quan, nếu lúc đương thời có người Thiện tri thức đã kiến tánh, thì xin vị đó ấn chứng cho, nếu không gặp Thiện tri thức, nên dùng kinh Đại thừa liễu nghĩa hoặc Ngữ lục của Tổ sư ghi trong Truyền Đăng Lục để ấn chứng cũng được”.

Vì nay là thời mạt pháp, người kiến tánh rất ít, có những vị đã kiến tánh rồi, do không có nhân duyên hoàng pháp nên sông ẩn trong rừng núi hay xó chợ mà người ta chẳng biết, nên phải nhờ các kinh Đại thừa như Kinh Lăng Nghiêm, Kinh hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa v.v… để ấn chứng.

Hỏi: Nếu không dùng kinh điển thì người kiến tánh đó có thể tự biết mình kiến tánh triệt để hay chưa triệt để?

Đáp: Có người biết, có người không biết, vì do tập khí từ lâu đời rất khó dứt sạch. Nếu là người đã dứt tập khí thế gian và xuất thế gian thì tự biết được; còn chưa dứt tập khí thế gian và xuất thế gian thì có người cũng chẳng thể tự biết. Cho nên, trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật giải thích rất kỹ về 50 thứ ma ngũ ấm, dặn Tôn giả A Nan phải giải thích rất kỹ cho người đời sau, khiến chẳng lọt vào cái thuyết của tà ma ngoại đạo. Cũng như nay có nhiều người vì ham thích thần thông, phát được thần thông, tự cho mình đã kiến tánh, mà chẳng biết ma cũng có thần thông, nên phải dùng Kinh ấn chứng.

Hỏi: Khi phá được Sơ quan hay Trùng quan, phải dụng công như thế nào để vượt qua những cảnh giới đó, thấu triệt đến Mạt hậu Lao quan?

Đáp: Kiến tánh triệt để tức phá được Mạt hậu Lao quan, gọi là đốn dứt nghi căn, tức gốc nghi sạch hết, lúc đó cái biết của tự tánh hiện lên, khắp không gian thời gian, chẳng chỗ nào không biết, chẳng lúc nào không biết. Nếu còn một chút không biết, tức còn có nghi chưa dứt, không phải là dứt sạch nghi căn.

Hỏi: Như vậy, lúc chưa kiến tánh triệt để, nghi tình vẫn còn, phải không?

Đáp: Còn có chỗ không hiểu, chỉ là dứt được phần nhiều, nhưng vẫn còn chút ít. Nếu kiến tánh triệt để thì chẳng còn một chút nào.

Hỏi: Cái biết của Phật tánh là chẳng chấp trước phân biệt, còn cái bộ của bộ não là cái biết chấp trước phân biệt, ví như nước và làn sóng, làn sóng dụ cho cái biết của bộ não bị bát phong thổi lên, nước trong lặng dụ cho thể thanh tinh của Chơn như Phật tánh, phải không?

Đáp: Thí dụ như thế không đúng, và thí dụ này đã bị ngài Nguyệt Khê bác bỏ: Nước trong lặng chỉ có thể dụ cho vô thỉ vô minh, tức chỗ thoại đầu, còn làn sóng là vọng tưởng. Nước trong lặng chẳng thể dụ cho bản thể Phật tánh, tại sao? Phật tánh chẳng lay động, gọi là như như bất động, chứ chẳng thể bị gió thổi hoặc làn sóng lay động. Nếu Phật tánh còn có thể bị gió thổi, nổi lên làn sóng, mà làn sóng là sanh tử luân hồi; Phật tánh còn luân hồi thì tu giải thoát có ích lợi gì?

Hỏi: Giữa Bồ tát Bát nhã và Bồ tát Hoa nghiêm khác nhau như thế nào?

Đáp: Chẳng phải có sự khác nhau giữa Bồ tát Bát nhã và Hoa nghiêm, chỉ khác biệt bởi cấp bậc Sơ địa, Nhị địa, Tam địa đến Thập địa, cho đến Đẳng giác vẫn là Bồ tát. Nay chúng ta thọ giới Bồ tát, dù chưa chứng quả, là học hạnh của Bồ tát, gọi là Sơ học gồ tát Hoa Nghiêm và Bát Nhã đều là Kinh, là lời dạy của Phật về cách tu hành, chẳng phải cấp bậc chứng quả, nên chẳng thể nói là khác hay chẳng khác.

Hỏi: Thế nào là “tà khởi phiền não tới, chánh đến phiền não trừ, tà chánh đều chẳng chấp, thanh tịnh đến cùng tột” trong Kinh Pháp Bảo Đàn?

Đáp: Nếu chấp vào tà kiến như không tin nhân quả, làm điều trái với nhân quả thì phiền não và khổ phải đến, vì tạo ác nhân ắt chịu khổ quả. Còn chánh là dùng để đối trị cái tà, chẳng làm nhân ác thì chẳng phải chịu khổ quả, nên phiền não trừ. Nhưng tà với chánh là tương đối, còn trụ nơi tương đối thì chẳng thể đạt đến giải thoát cuối cùng, vì còn sở trụ, do đó, tà chánh đều quét sạch! chẳng còn sự tương đối, tức nhập vào quốc độ tuyệt đối.


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn