● 06/03/95 - 12/03/95

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 24576)

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Từ năm 1992-1999) 
Hòa Thượng Thích Duy Lực
Nhà xuất bản Tôn Giáo – Hà Nội 2001

15.

06/03/1995 –1/03/1995 tại Chùa Từ Ân, Quận 11


Hỏi: Khi cúng giỗ, ông bà cha mẹ quá cố có hưởng được không?

Đáp: Nói vậy là còn ngã chấp, nếu thật phải nhờ sự cúng giỗ mói được hưởng thì ông bà cũng phải chết đói, vì một năm chỉ cúng giỗ một hai lần, làm sao sống nổi!

Hỏi: Tâm con cứ ráng tu miên mật, nhưng sao tối đi công phu thì buồn ngủ không tu nổi?

Đáp: Buồn ngủ thì cứ ngủ, thức dậy rồi tiếp tục, khỏi cần ráng, ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy, nếu buồn ngủ có ráng cũng không được.

Hỏi: Là người tu hành, chúng con thường muốn việc tu hành lên hàng đầu, cuộc sống hàng ngày vào hàng thứ hai, nhưng tại sao cứ bị tuột xuống?

Đáp: Theo lời Phật dạy, chúng ta ở chung cùng tu thì phải giữ gìn qui cả. Tôi đã nói nhiều lần, trong Thiền thất nếu ai không giữ và phạm qui củ ba lần phải mời họ đi ra. Bất cứ Tăng đoàn nào, ở đâu cũng vậy, hễ có chúng đông phải nhờ qui củ, chứ không phải ai muốn làm sao cũng được, nhưng người lãnh đạo phải làm gương mẫu cho đại chúng noi theo, tự mình làm được rồi nói đại chúng mới chịu nghe.

Lại nữa, tất cả thời giờ đều nên dùng để tu hành, còn giờ giấc dành cho lao động, trồng trọt, cuộc sống … phải giới hạn; hiện nay đa số các chùa có Phật tử cúng dường, không cần trồng trọt sản xuất, phải thực hiện đúng theo thời khóa, chớ nên tự xen vào ý mình.

Hôm trước đài BBC có chiếu một bài phóng sự về một đoàn ký giả đến phỏng vấn một dân tộc Cogi ở vùng Nam Mỹ, bài đó có tiêu đề “Thông điệp của người dân tộc Cogi”. Trong phim tài liệu, cuộc sống của dân làng Cogi đều thể hiện 100% theo tinh thần giới luật nhà Phật, trong khi tất cả Phật Giáo trên thế giới hiện nay chẳng ai theo nổi.

Họ thực hiện cuộc sống có qui luật đúng như sự Yết ma trong Tăng đoàn, bất cứ việc lớn việc nhỏ đều qua đại chúng và phải thông qua 100%, nếu trong đó có một người không đồng ý cũng không được. Trẻ em trong làng đến bảy tuổi là bắt đầu tập theo hạnh Sa di, đến hai mươi mốt tuổi thì tập hạnh Tỳ kheo, chỉ khác nhau ở chỗ họ có gia đình vợ con.

Mặc dầu có vợ con, nhưng không ai có tài sản riêng của cá nhân và của gia đình; tất cả đều là của chung, luôn cả lương thực cũng không tích chứa. Điều đó cũng giống giới luật nhà Phật, hễ hôm nay khất thực được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu, không tích chứa cho phần ngày mai.

Dân làng tốn rất ít thời gain về việc ăn uống, phần nhiều thời gian giành cho sự tu. Họ cho tất cả đều là anh em trong một đại gia đình nhân loại nên họ không ăn cá thịt, điều này phù hợp với Phật Giáo rằng tất cả chúng sinh đều là anh em họ hàng. Đối với thực vậ, nếu không cần thiết thì họ cũng không phá hủy một cách vô lý, và điều này cũng phù hợp theo kinh Phật dạy, họ thực hành trong mọi mặt chứ không chỉ là nói suông.

Họ không giao thiệp bên ngoài, nhưng lại biết rõ về mọi việc dang diễn ra trên thế giới: Biết rõ sẽ có một cuộc họp về tôn giáo thế giới tại Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1993, nên muốn nhân dịp này nhờ đoàn ký giả của đài BBC gởi một thông điệp đến toàn thế giới: Hiện nay trên toàn thế giới về vấn đề ô nhiễm môi trường, chặt cây phá rừng, thiên tai, chiến tranh, đổ máu v.v... đều là do con người không chịu gìn giữ, chỉ biết phá hoại gia tài của mẹ (vũ trụ) mà gây lên, khắp thế giới ngày nay đều nghịch với thiên nhiên, cho nên, họ đưa ra thông điệp với cương vị là người đàn anh mà dạy dỗ đàn em.

Hỏi: Bạch Sư phụ, con vẫn chưa rõ cách tham: Là niệm câu thoại đầu hay hỏi thầm trong bụng? Vậy là trong trí của mình đặt lên câu hỏi rồi hỏi thầm trong bụng, phải không?

Đáp: Tôi đã nói là “hỏi” chứ không phải là niệm, đừng co cho là trí hay ngu, đừng đem ý mình xen vào, cứ nhìn và hỏi câu thoại. Hỏi là để khởi lên lên sự không biết, nhìn là nhìn chỗ không biết, hỏi và nhìn một lượt, đừng cho là bất cứ cái gì cả. Ông nói “phải hỏi thầm trong tâm”, cho là phải cũng không được, cho là không phải cũng không được.

Hỏi: Vậy phải làm sao mới đặt được câu hỏi?

Đáp: Chỉ có hỏi và nhìn, đến khi nào ngộ mới thôi, chớ có cho là cái hỏi phải làm sao, cái nhìn phải làm sao, ngộ là tự biết. Bây giờ cứ cho là phải như thế này mới đúng, như thế kia không đúng; cho là trí, là ngu, là vô ký v.v... đều chướng ngại sự tham thiền.

Hỏi: Có một vị tu sĩ nói với con rằng “những người tu thường được Hộ pháp bảo vệ, nhiều khi có tiếng nói vang trong đầu để hướng dẫn việc đúng sai trong chỗ hành …” Vậy có thật là Hộ pháp chỉ day hay do ma cảnh tạo ra?

Đáp: Do chính mình có tâm chấp, mới lọt vào tà ma. (Xem chương nói về 50 Thứ Ma Ngũ Ấm Ma trong Kinh Lăng Nghiêm).

Hỏi: Có lần cho nên nằm chiêm bao thấy mấy con chuột kiện với con rằng con mèo trong nhà săn đuổi chúng quá, vậy phải làm sao?

Đáp: Cách giải quyết chỉ là đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình nhìn và hỏi, mới là cách giải quyết căn bản, ngoài ra không biết tới. Mấy cái kia không cần giải quyết, như lời Phật nói “Chỉ là tùy duyên tiêu nghiệp chướng và không tạo thêm nghiệp mới” thôi.

Hỏi: Người đã kiến tánh có thể nhìn thấy hào quang của người khác không?
Đáp: Không nhất thiết. Có người kiến tánh rồi do tập khí thế gian còn nhiều nên chưa có thần thông, phải dứt sạch tập khí thế gian rồi thân thông mới có thể hiện lên. Cũng có những người cư sĩ tham thiền đến một mức nào rồi hiện được sức dụng của tự tâm, cũng gọi là thần thông, nhưng rất ít.

Về vấn đề hào quang, nếu tâm lực của mình phát huy ra hết thì không cần thấy hào quang nữa, vì đã thấy khắp không gian rồi! Phật tánh gọi là Chánh Biến Tri, cái biết đúng như thực tế, thấy khắp không gian thời gian, vô lượng, vô biên chúng sinh hễ có một chúng sinh nổi lên một niệm đều biết, chứ không phải chỉ thấy biết hào quang mà thôi.

Hỏi: Thế nào là bốn tham?

Đáp: Bốn tham tức câu thoại đầu mà mình tham, chỗ chưa khởi niệm lên gọi là thoại đầu, khi phá sơ quan gọi là phá bổn tham.

Hỏi: Thế nào là “Chấp bỏ sự là kẻ ác bảng, chấp dụng bỏ thể là kẻ lỗ mãng?
Đáp: Bất cứ chấp về cái gì, coi trọng về cái gì đều chướng ngại sự tham thiến, hễ chấp vào chỗ nào đều là kẻ vác bảng. Có một câu chuyện như sau:

Một vị tăng lên đường đi gặp Mã Tổ, dọc đường thấy một khúc cây rất to, đến nơi gặp ngài và kể cho ngài nghe về khúc cây đó, Mã Tổ nói:

- Không ngờ ông lại có sức mạnh đến thế!

Tăng nói: - Tôi có sức mạnh gì đâu?

Mã Tổ nói: Ông vác cả khúc cây to kia từ đó đến đây, chẳng phải là có sức mạnh sao!

Thật ra, ông Tăng kia đâu có vác, chỉ là ghi nhớ mà thôi, đó là nghĩa vác bảng, chúng ta tham thiền chấm dứt hết tất cả tìm hiểu ghi nhớ suy nghĩ, tức tránh khỏi những thứ đó.

Hỏi: Câu “Trước khi chưa ngộ như mất cha mẹ, sau khi đại ngộ như mất mẹ cha” là như thế nào?

Đáp: Ở ngoài đời, cha mẹ đối với con cái rất quan trọng, chuyện gì cũng không gấp bằng khi hay tin cha mẹ mất, bất kể khó khăn thế nào, dù đang ở thật xa cũng phải về liến. Câu nói này dụ cho khẩn thiết, ý nói việc kiến tánh cần thiết như mất cha mẹ, chẳng việc nào cần hơn. Sau khi kiến tánh rồi, tập khí chưa dứt sạch, chẳng thể hiện ra sức dụng, nên cần sự bảo nhiệm để dứt trừ tập khí, gọi là cần thiết như mất mẹ cha.

Hỏi: Trong khi công phu, luôn khán vào chỗ chưa khởi niệm, tức hầm sâu vô minh, bất kể đi đứng nằm ngồi, Ngài Hư Vân trong Ngữ Lục có nói: Khi khán công án đến lúc chăm chăm như mèo rình bắt chuột thì không cần đề khởi câu thoại đầu, vì sợ khi đề câu thoại lên là trên đầu lại thêm đầu, phải không?

Đáp: Sở dĩ hỏi câu thoại đầu là vì chưa khởi được nghi tình, nên nhờ câu thoại để kích thích; đến khi nào nhìn được rồi, nghi tình được kéo dài thì khỏi cần hỏi câu thoại cũng được.

Hỏi: Theo sự nhận xét của con thì cõi Cực Lạc và địa ngục đều là ở đây hết cả. Nếu cuộc sống của mình cảm thấy hạnh phúc yên vui thì đó là Cực lạc; nếu sanh nhằm vào chỗ luôn bị bức bách đó là địa ngục, phải không?

Đáp: Đức Phật đã nói “Nhất thiết duyên tâm tạo”, địa ngục là tâm tạo, Cực Lạc cũng là do tâm tạo, chúng sinh, cõi Phật … cũng là do tâm tạo, chẳng phải ở nơi đây hay tại nơi đó, là ở nơi tâm, tâm thì chẳng có chỗ, khắp không gian thời gian.

Hỏi: Chủng tử của nhà Phật và cơ nhân của tế bào có ảnh hưởng gì không?

Đáp: Cơ nhân của tế bào chỉ tạo ra hình thể và di truyền, Cơ nhân là nhân của thể xác, hễ thể xác này hoại rồi ra thể xác khác, còn chủng tử là do nghiệp của mình tạo ra, có mật mã ghi trong tâm linh, nếu không sửa đổi thì nó cứ tiếp tục mãi.

Thể xác sẽ hoại, còn tâm linh không có hoại. Cho nên, cơ nhân của tế bào thuộc vật chất, tâm linh thuộc thể tinh thần; thể xác chẳng phải chủ sinh mạng, chủ sinh mạng là tâm linh. Khi tâm linh lìa khỏi thể xác này thì thể xác có thể biến thành tro thành đất, còn chủ sinh mạng chẳng thể biến thành tro đất, ấy mới chính là chơn thật của ta.

Hỏi: Tại sao nhà khoa học chứng được thể xác con từ đâu có, mà chẳng thể chứng minh được cái chơn linh của con người?

Đáp: Vì thể xác có thể dùng ngũ giác quan tiếp xúc được, còn tâm linh chẳng thể dùng ngũ giác quan chứng tỏ sự tồn tại của nó, đó là siêu ngũ giác quan. Cho nên, người đã chứng quả mới có thể tự mình chứng biết, còn người chưa chứng quả thì không thể chứng minh; người có tu hành có thể dùng tâm linh chứng tỏ tâm linh, người không tu chẳng thể dùng bộ não chứng tỏ sự tồn tại của tâm linh. Đó là lý do tại sao trong Tâm Kinh Đức Phật dùng chữ VÔ để phủ định: Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp … vì chẳng thể tiếp xúc được cái thực tế, tức chính tâm linh của ta chẳng thể tiếp xúc bởi lục căn lục trần lục thức.

Hỏi: Con đi chùa gặp một vị tu hành, Phật tử đem đồ mặn cúng dường thầy ấy vẫn dùng, con thắc mắc hỏi thầy, thầy nói: “Tu hành đừng chấp chay hay mặn, chấp là kẹt. Ăn mà trong tâm không chấp, cứ lo tu đi”. Vậy có đúng không? Có lọt vào nhân quả không?

Đáp: Vị thầy đó nếu thật sự không phân biệt chay mặn thì tất cả cái khác đều không phân biệt, vậy cũng được, hễ thật sự không phân biệt, ấy là chuyển thức thành trí rồi, còn cái thức phân biệt nữa. Nếu chưa đến mức, chỉ không phân biệt chay mặn mà cái khác thì phân biệt, ấy là sai, nói như thế là gây tội địa ngục, còn phải trả nợ thịt.

Hỏi: Xin Sư phụ kể qua câu chuyện ngài Hư Vân nhập định như thế nào?

Đáp: Ngài Hư Vân nhập định nửa tháng mà cảm giác chỉ có một lúc. Ngài cùng các vị đồng tu ở trên núi Chung Nam, quanh năm phủ tuyết, mỗi người ở một cái cốc cách xa nhau, thức ăn chỉ đào những củ khoai rất cứng trên núi, người thường ăn không nổi. Một hôm, Ngài bỏ củ khoai vào nồi nấu rồi công phu nhập định lúc nào chẳng hay, lúc đó vào dịp Tết, những người bạn đồng tu ở xung quanh thấy lâu không gặp ngài, bèn rủ nhau đến thăm, thấy ngài đang nhập định, liền búng lỗ tai khiến xuất định và hỏi ngài nhập định bao lâu?

Ngài đáp: Mới hồi nãy, chắc nồi khoai đã chín rồi.

Nhưng khi mở nắp nồi ra thì trong đó củ khoai đã nổi mốc lên cao, tính ra mới biết đã hơn nửa tháng.

Sở dĩ chớp nhoáng thấy thời gian nhanh là do công phu không có vọng tưởng nên thời gian trôi nhanh mà không hay, nhưng nếu còn cảm biết tức chưa quên, công phu còn non. Hễ nghi tình chơn thật thì kể cả công phu cũng không biết luôn.

Hỏi: Tại sao kinh điển Đại thừa thường đề cập đến tâm thanh tịnh?

Đáp: Nói “tâm thanh tịnh” là để đối trị với tán loạn, đó thuộc về Giáo môn, còn Thiền Tông chỉ chú trọng chữ nghi, nếu giữ được nghi tình thì tất cả đều giải quyết, không biết đến thanh tịnh, cũng không biết đến không thanh tịnh.

Hỏi: Có phải chỗ thanh tịnh, trong Thiền Tông gọi là hầm sâu vô minh?

Đáp: Chỗ đó là vô thỉ vô minh, tức nguồn gốc của nhất niệm vô minh.

Hỏi: Ngài Ca Diếp đã ngộ được cái gì trong Hội Linh Sơn khi Đức Phật đưa lên một cành hoa rồi ngài được truyền y bát?

Đáp: Nếu có ngộ được cái gì chẳng phải ngộ. Khi bản tâm toàn vẹn hiện lên, chẳng phải là ngộ được cái, chẳng phải có tâm năng kiến để kiến được Phật tánh: Rồi nói đến Chánh Biến Tri, cái biết đó cũng là cái tâm đó tự biết, chẳng phải có cái tâm khác để biết về cái này, tất cả y như cũ, không thêm bớt, không có sự tương đối.

Hỏi: Đức Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, bất kể ke ngu người trí, kẻ hèn người sang, nhưng tại sao khi chư Phật chư Tổ truyền tâm ấn lại chỉ truyền cho một người mà thôi?

Đáp: Đó không phải chỉ truyền cho một người, mỗi đời kiến tánh chẳng phải chỉ có một người, chỉ là chọn một người làm tiêu chuẩn cho người đời sau, và người đó đã ngộ triệt để; người khác cũng đã ngộ, cũng có thể ngộ triệt để, nhưng lại không bằng người này. Đến ngài Lục Tổ thì Ngũ Tổ tuyên bố sau này chấm dứt việc truyền y bát, vì e rằng dễ xảy ra sự tranh giành.

Nhưng người đời sau vẫn tiếp tục sự truyền thừa, như tôi khi thọ pháp cũng đã được truyền Tổ y (Hai mươi lăm điều), chưa phải là Tổ đã được truyền y, thực tế là tự dối dối người.

Hỏi: Trước khi tham học Tổ Sư Thiền, con tu theo pháp môn niệm Phật, mỗi khi con bệnh, sau khi đi khám bác sĩ và uống thuốc không khỏi, con về nhà chỉ thiền sổ tức niệm Phật là hết, thời gian bệnh kéo dài khoảng một tuần. Từ khi con chuyển qua tham thoại đầu, những lúc con bệnh, đi khám bác sĩ và về nhà công phu mãi cũng không hết, bệnh của con kéo dài đến cả tháng, con phải bỏ công phu không dự thiền thất và trở lại dùng thiền sổ tức niệm Phật thì tự nhiên nó hết.

Sau khi khỏi bệnh, cón cứ phân vân mãi không biết nên tiếp tục niệm Phật hay tham Tổ Sư Thiền? Con quyết định thiền sổ tức đến khi nào khỏi hẳn rồi mới tham thiền trở lại.

Trong lúc niệm Phật, có những lúc con gặp phải phiền não và phóng tâm cũng không hay, rồi tự nhiên câu thoại đầu con tham trước đây lại khởi lên nhắc con về sự phóng tâm đó. Qua câu chuyện trên, xin Sư phụ từ bi chỉ dạy cách thức tham Tổ Sư Thiền cho con được miên mật để tham tiếp mà không trở lại câu niệm Phật nữa.

Đáp: Tổ Sư Thiền do Phật Thích Ca thân truyền, mục đích muốn mọi người đều được kiến tánh thành Phật, giải thoát tất cả khổ, vĩnh viễn đạt đến tự do tự tại, giải quyết triệt để vấn đề sinh tử chứ không phải dùng để trị bệnh thân. Nếu cô muốn nhờ sự tu hành để trị bệnh thì đừng nên tham Tổ Sư Thiền, có thể chọn phương pháp niệm Phật để trị bệnh, nhưng không giải thoát được.

Hỏi: Vậy khi con bệnh, con dùng thiền sổ tức niệm Phật để trị bệnh, và khi bệnh con khỏi rồi con trở lại tham Tổ Sư Thiền, như thế công phu của con có bị gián đoạn không?

Đáp: Vì cô không tin Tổ Sư Thiền, cũng không tin bệnh tật từ nhân quả mà ra, tu thiền sổ tức cũng không thành tựu, tu Tổ Sư Thiền cũng không thành tựu, chỉ uổng công tốn thì giơ. Nếu thật muốn giải thoát, Tổ dạy phải chuyên sâu vào một môn. Chuyên tu một môn chưa chắc được thành tựu, huống là nhảy qua nhảy lại! Vả lại, vì cô còn chấp thật thương tiếc thân thể này, làm sao đi đến miên mật để kiến tánh!

Cô nên bỏ pháp tham thiền, thấy phương pháp quán sổ tức hay hơn thì nên tu pháp đó, chỉ nhất môn thâm nhập mà thôi.

Hỏi: Tham thiền lấy cái không biết để tu, vậy tham đến lúc không biết tức hay quên, phải không? Ví như những kinh điển con đọc cũng quên dần, những gì đã xem qua trước đó cũng quên dần, chính câu thoại đầu quét dần những ghi nhớ biết trước đó, phải không?
Đáp: Mục đích tham thiền là dùng cái không biết chấm dứt hết tất cả tùy duyên biết, ghi nhớ biết, suy nghĩ biết. Chấm dứt ghi nhớ biết thì quên, cuối cùng còn cái nghi tình không biết, sau cùng nghi tình bùng nổ, cái không biết cũng tan rã, cái biết Chánh Biến Tri của Phật tánh mới hiện lên. Sự thật cái biết sẵn sàng đó chẳng phải gọi là biết, cũng chẳng phải gọi là không biết, tất cả dụng đều phải nhờ nó.

Nếu thật do nghi tình miên mật, như ngài Đế Nhân lúc giảng kinh tự mình không hay biết đã giảng những gì, mà người nghe lại cảm thấy rất hay, còn nếu công phu chưa đến mức, lúc biết lúc không biết thì giảng không được.

Hỏi: Do công phu của con còn yếu kém, còn dùng ý thức để xét nét lại công việc hằng ngày. Ví dụ: Trước khi đi đâu, cần đem theo những vật dụng gì … đến nơi mới biết là đã quên không mang theo, hoặc đang tụng king có khi cũng quên … khiến con cảm thấy bực mình.

Đáp: Chính những cái đó làm cho công phu bị chướng ngại không thể quên hẳn luôn. Do công phu chưa đến mức, còn ghi nhớ biết, tức ngã chấp vẫn còn to. Nếu công phu đã đến mức và ngã chấp thu đến rất nhỏ rồi sẽ không có những tình trạng này.

Trong lịch sử Thiền Tông kể về một vị Tăng đến tham học một vị Tổ ở trên núi, vị Tăng này dù sự ngộ đã cao, nhưng do ngã chấp còn cao, khi đến núi không đến đảnh lễ và hỏi pháp, lại một mình cất một cái cốc tu. Tổ sai người đến dụ cho Tăng ấy ra ngoài và đốt luôn cả cái cốc đang ở để tuyệt đường quay về.

Lại nữa, ngài Đại Huệ chưa kiến tánh, đi tham học với một bạn đồng tham, vì trong thời chiến, trên đường không yên ổn, ngài có mang theo một miếng vàng để chi tiêu. Ngài giấu miếng vàng trong nón, thỉnh thoảng phải kiểm tra xem còn hay mất, người bạn thấy ngài để tâm đến việc giấu vàng, một hôm đang di đò giữa sông, bạn ấy thình lình giựt nón của ngài thảy xuống sông, lúc đầu ngài bị giật mình, lập tức ngài ngộ liền và đa tạ người bạn ấy.

Nếu là người thường sẽ rất giận, vì trong lúc lánh nạn, tiền bạc là vật quý giá nhất, nhưng vì ngài biết chính cái đó đã làm chướng ngại, bị người bạn liệng đi rồi lại thấy nhẹ nhàng liền. Ông cũng vậy, vì còn ghi nhớ nên bị chướng ngại, cũng phải suy nghĩ hoài, nhớ hoài. Bây giờ quên đem đồ đạc có sao đâu, lúc nhớ lúc quên không thành vấn đề, miễn công phu miên mật là được. Như ngài Lai Quả nói: “Bạt tai thì cứ bạt tai, miễn công phu không bị bạt tai đánh mất thôi!”.

Hỏi: Trong Kinh Pháp Hoa nói: “Các pháp trùng trùng duyên khởi, khứ lai hiện tại đều có nhân quả, liên hệ chằng chịt”, vậy tại sao Đức Phật lại có tam năng và tam bất năng? Phật đã có thể độ những người không có nhân duyên với Phật pháp? Vậy những cái không có nhân duyên đó là vĩnh viễn hay có tính cách thời gian?

Đáp: Đó chỉ có tính cách thời gian, chỉ là tạm thời thôi.

Hỏi: Thế nào là nhất niệm vô minh?

Đáp: Nay ông đang hỏi tôi, đó gọi là nhất niệm vô minh. Trong cuộc sống hằng ngày, bất kể suy nghĩ việc gì đều thuộc nhất niệm vô minh. Trong tứ oai nghi đi đứng nằm ngồi, ăn cơm mặc áo, từ niệm này qua niệm kia, ngày đêm liên tiếp chẳng ngừng, đều là dùng nhất niệm vô minh để ứng dụng trong cuộc sống. Nếu dẹp hết tất cả nhất niệm vô minh rồi là trở về vô thỉ vô minh, nói kiến tánh thành Phật là muốn phá tan vô thỉ vô minh.

Hỏi: Thế nào là trạng thái vô thỉ vô minh?

Đáp: Thanh thanh tịnh tịnh, trống rỗng không có gì hết, chẳng có một niệm nào sanh khởi, gọi là vô thỉ vô minh, cũng gọi là thoại đầu. Lúc kiến tánh là phá tan vô thỉ vô minh, chẳng sanh khởi nhất niệm vô minh nữa.

Ngài Nguyệt Khê nói là “Từ chỗ tương đối đi vào quốc độ tuyệt đối”, đó là chẳng phải là tiêu diệt tất cả tương đối, tất cả tương đối vẫn y như cũ, nhưng hoàn toàn biến thành tuyệt đối, chẳng có ý mình xen vào. Hễ có ý mình xen vào, đó là nhất niệm vô minh.

Hỏi: Trong Kinh Đại Niết bàn, Đức Phật nói: “Các hạnh vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt làm vui” là thế nào?

Đáp: Nói tất cả pháp, nay chúng ta nhận biết được đều là sanh diệt, tham thiền là dùng cái không biết dẹp hết tất cả biết thì sanh diệt diệt, có sanh diệt là có khổ có vui, khi sanh diệt diệt rồi thì tịch diệt hiện tiền, lúc đó không có khổ vui, ấy mới là cái vui triệt để, nhưng lúc đó thì chẳng còn buồn khổ nữa, nên cái vui cũng chẳng phải là vui, vì không còn tương đối. Do muốn nói theo lời của thế gian, nên nói “tịch diệt làm vui”.

Hỏi: Hàng xuất gia chúng con ngày thường do bận rộn công việc, nên thường thường khi vào ba tháng Hạ mới tu để có được tuổi hạ, còn tham Tổ Sư Thiền Sư phụ bảo chúng con tu sao chẳng có tuổi hạ?

Đáp: Nếu một năm chỉ tu ba tháng là chín mươi ngày, vậy còn chín tháng kia khỏi tu sao? Ngài Trung Phong nói: “Bắt đầu tham Tổ Sư Thiền là bắt đầu kiết hạ, đến khi kiến tánh mới giải hạ”, chứ đâu phải chỉ có chín mươi ngày!

Hồi xưa sở dĩ có chín mươi ngày cấm túc, vì ở Ấn Độ là xứ nóng, do nóng bức quá nên phụ nữ ăn mặc không chỉnh tề, kể cả ở vùng nông thôn, nơi hẻo lánh, có người không mặc quần áo, bất tiện cho Tỳ kheo đi khất thực. lại nữa, mùa hè nóng bức, đi ra ngoài đường dễ đạp trúng các côn trùng gây sát sanh, nên Đức Phật mới chế ra ba tháng hạ để cấm túc, chứ chẳng phải là đợi kiết hạ mới tu, không kiết hạ thì chẳng tu.

Nơi tòng lâm ngày đêm sáu thời công phu, ban ngày ba thời, ban đêm ba thời, bốn tiếng đồng hồ đầu đêm phải tu, bốn tiếng nửa đêm được ngủ, rồi bôn tiếng đồng hồ sau vẫn tu tiếp, tức ngày đêm chỉ cho ngủ bốn tiếng đồng hồ thôi.

Hỏi: Nói “Pháp thiền vô trụ, mà lìa niệm tưởng vào chỗ trụ thiền” là lìa chỗ nào để trụ thiền? Nói “Pháp thiền vô sanh mà lìa chỗ sanh thiền” là lìa chỗ nào để sanh thiền?

Đáp: Nếu có chỗ nào để lìa thì chẳng phải Tổ Sư Thiền. Tổ Sư Thiền chẳng có sự tương đối, nay có lấy có bỏ là tương đối. Tổ Sư Thiền là lìa đến chỗ không có chỗ để lìa, tức luôn cả chữ “lìa” cũng không có, hễ có chỗ lìa là còn có sở trụ.

Lục Tổ nói “Lấy vô trụ làm gốc”, chẳng những chỉ có thiền là vô trụ, vũ trụ vạn vật đều không trụ, chẳng phải chỉ có thiền là vô sanh, vũ trụ vạn vật tất cả đều không sanh. Phật nói là vô thỉ, tức chẳng có sự bắt đầu.

Cái “Vô trụ” này cũng là một trong những danh từ của tâm, mà danh từ của tâm thì vô số, sở dĩ nhiều là vì sự dụng của tâm rất nhiều, thành ra tên gọi vô lượng vô biên. Do bản thể của tâm khắp không gian thời gian, chẳng có để trụ, chẳng có lúc để trụ, nên gọi là vô trụ. Do chẳng có chỗ sanh khởi, chẳng có lúc sanh khởi, nên gọi là vô sanh. (Sư phụ đã giảng về các tên gọi Như Lai, Niết bàn v.v... lược qua).

Do đủ thứ tên gọi, nhưng ý vốn chẳng khác, nói “chẳng khác” chứ không phải là một, không phải là đồng. Tại sao? Vì nếu là đồng tức nhị, là tương đối với khác, phàm tất cả tương đồi đều chẳng phải bản lai diện mục của tâm.

Hỏi: Con nghe Sư phụ nói năm thứ chủng tánh: Ngoại đạo chủng tánh, Nhị thừa chủng tánh, Đại thừa chủng tánh, Như Lai chủng tánh và Bất định chủng tánh. Vậy có phải khi Bất định chủng tánh gặp được minh sư dạy tham Tổ Sư Thiền thì sẽ tu Tổ Sư Thiền có kết quả?

Đáp: Phải.

Hỏi: Còn Như Lai chủng tánh tức hành giả đó có chủng tánh Phật, ngoài ra ba chủng tánh kia có thể tu Tổ Sư Thiền được không?

Đáp: Được nhưng khó thành tựu, nếu tu theo chủng tánh của người đó dễ thành tựu hơn. Dẫu sao thì cuối cùng cũng sẽ đạt đến Như Lai chủng tánh, nhưng vì trước mắt chưa tới, phải trải qua một thời gian rồi sau cùng mới tới được.

Hỏi: Vậy nếu là những người thuộc Tiểu thừa chủng tánh, hoặc Đại thừa chủng tánh, ngoại đạo chủng tánh, họ vẫn có thể tu pháp Tổ Sư Thiền, nhưng phải đi vòng quanh, phải vậy không?

Đáp: Vì họ đã không tin thì làm sao tu? Do đó Đức Phật phải tùy thuộc vào chủng tánh của họ mà dạy cách tu Tiểu thừa hay Trung thừa, chứ không ép buộc được, nên Phật phải dạy pháp tu Tiểu thừa trước, đến khi họ đã chứng quả A la hán rồi. Phật mới quở là chưa đến đích, chỉ là hóa thành nơi nửa đường, và bảo họ bỏ hóa thành để đi đến Bảo sở.

Có người chịu nghe và có người không chịu, loại người không chịu bỏ quả A la hán gọi là Định tánh Thanh văn, trong kinh nói họ như người say rượu, có thứ rượu phải mất cả ngàn ngày mới có thể tỉnh rượu, khi tỉnh rượu rồi mới chịu bỏ Tiểu thừa đi đến Đại thừa.

Hỏi: Chúng con là Phật tử, được sự hướng dẫn của Sư phụ tu theo pháp môn tham Tổ Sư Thiền, chúng con, chúng con sẽ nhất quyết kiến tánh thành Phật, nhưng nếu chúng con không đủ khả năng một lúc phá được tam quan, thì phải đi tuần tự từ sơ quan, rồi trùng quan và mạt hậu lao quan.

Trong giai đoạn phá tam quan, chúng con đi đến sơ quan và trùng quan, nhưng chưa phá được lao quan, vừa kiến tánh nhưng chưa triệt để nên phải bảo nhiệm. Con chưa hiểu bảo nhiệm cái gì? Làm thế nào để bảo nhiệm?

Đáp: Nói kiến tánh thành Phật thì đã thành sẵn, Kinh Viên Giác nói “Tất cả chúng sinh đều đã thành Phật”, người nào cũng có khả năng để cho Phật tánh hiện ra, để kiến tánh thành Phật. Nếu đã hạ quyết tâm tham thiền, trước sau cũng phải hiện ra, chỉ e là không có quyết tâm mà thôi.

Nay cứ đi theo đường lối hướng dẫn, sẽ có ngày đi đến sơ quan, trùng quan và mạt hậu lao quan. Bây giờ chưa đến, muốn biết làm sao được? Ngài Lai Quả trong Thiền Thất Khai Thị Lục nói: “Những gì tôi nói là chỗ hành, chứ chẳng phải chỗ thấy”, chỗ thấy đó quý vị đi đến rồi sẽ tự thấy, chưa đến chỗ làm sao thấy? Có nói được cũng vô ích, chỉ là chướng ngại.

Hỏi: Thế nào là “Thường ứng chư căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng, phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng”?

Đáp: “Thường ứng chư căn dụng”, có người dịch là “chư căn thường ứng dụng” là sai. Thường ứng chư căn dụng là cái bản tâm, nó ứng dụng mà chẳng khởi dụng tưởng, ví như cảm giác của lớp da khắp không gian thời gian của cơ thể này, chúng ta không khởi tưởng nó cũng đang dùng, khởi tưởng nó cũng đang dùng, tiếp xúc nó cũng biết là có tiếp xúc, không tiếp xúc nó cũng biết là không tiếp xúc, đau nó biết là đau, không đau nó cũng cũng biết là không đau … nó luôn luôn có cảm giác, cái cảm giác đó sẵn sàng, không bị tiêu mất, gọi là thừng ứng, tức là luôn luôn sẵn sàng, ứng dụng không gián đoạn.

Lục căn thấy, nghe, ngửi, nếm … chẳng phải là có sáu người, nó thường dùng mà chẳng khởi dụng tưởng. Ví như sự biết của lớp da nói trên, chúng ta tưởng là khi có tiếp xúc nó mới là dùng, nhưng không tiếp xúc nó cũng đang dùng vậy, nếu không thì làm sao biết là không tiếp xúc.

Hỏi: Trong cái dụng đó có sự cảm thọ không?

Đáp: Có, như cảm thọ nóng biết nóng, cảm thọ không nóng biết là không nóng.

Hỏi: Nếu cảm thọ sự vui hay khổ thì chính sự cảm thọ đó làm cho con người khổ, phải vậy không?

Đáp: Tại khởi tưởng mới có khổ vui, nếu không khởi tưởng thì không có, nên nói là “chẳng khởi dụng tưởng”.

Do bản tánh đó đang dùng mà không khởi dụng tưởng, nhưng chúng ta khi dùng có khởi lên dụng tưởng, nên có khổ vui, đủ thứ cảm giác. Nếu chẳng có dụng tưởng thì vốn chẳng khác, tức có phân biệt là thức, chẳng phân biệt là trí. 

Thường ứng chư căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng. Chẳng phải không thấy không nghe, là thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không nghe: Thấy như không thấy thì không phân biệt xấu đẹp, nghe như không nghe thì không phân biệt khen chê. Hễ có phân biệt, khi khen thì mừng, chê thì buồn.

Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng: Chẳng phải không biết cái tách này là nước, chén kia là cơm, nhưng không khởi phân biệt nước đục hay nước trong, cơm ngon hay cơm dở … cho nên tôi thường nói: Phật pháp ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày vậy.

Hỏi: Nghe Sư phụ giảng hình như dễ, nhưng ứng dụng trong thực tế của cuộc sống thì rất khó.

Đáp: Phải, đó là do tập khí từ vô thỉ, từ lâu đời đã thành thói quen, gặp cái gì cũng muốn phân biệt, không phân biệt không được. Cho nên, bất cứ cách tu nào đều muốn chúng ta dứt trừ tập khí phiền não, gọi đó là tập lậu, là hữu lậu, như bình nước bị chảy, đến khi nào không chảy nữa thì gọi là vô lậu.

Hỏi: Thiền sư Liễu Quán, đời thứ 35 Tông Lâm Tế ở Việt Nam tịch vào năm 1743, trước được Hòa thượng Tử Dung dạy tham câu “Muôn pháp về một, một về chỗ nào”, sau xem Truyền Đăng Lục đến câu “Dĩ vật truyền tâm nhân bất hội xứ” được tỏ ngộ. Sau nhờ Hòa thượng Tử Dung ấn chứng, Hòa thượng hỏi:

- Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật truyền nhau, chẳng biết truyền cái gì?

Sư đáp: Búp măng trên đá dài một trượng, phất tử lông rùa nặng ba cân.

Hòa thượng hỏi tiếp: Thuyền chèo trên núi cao, ngựa đua dưới đáy bể?

Sư đáp: Chiết giác nên ngưu triệt dạ hống, một huyền cầm tử tân nhật đàn (Gãy sừng trâu đất rống suốt đêm, đây đứt đờn cầm trọn ngày gãy).

Hòa thượng vui mừng ấn khả.

Xin hỏi với những câu nói vô nghĩa này, Hòa thượng ấn khả cái gì?

Đáp: Những lời đáp ấy đều là những lời chuyển ngữ, lời mà không có sở trụ, người chưa ngộ nói ra không được.

Hỏi: Xin Sư phụ kể qua về qui củ của Tòng lâm?

Đáp: Trong Tòng lâm, tất cả đều là của chúng, chẳng phải của cá nhân nào cả. Khi ngài Hư Vân đến chùa nhận chức Trụ trì, cũng như làm quản lý không ăn lương mà thôi, chứ chẳng phải đó là tài sản của ngài vậy.

Đối với tất cả mọi người trong Tòng lâm, gọi là “phố thỉnh” phổ là phổ biến, ví như muốn đi cuốc đất thì phố thỉnh, ai cũng phải đi; muốn làm việc gì thì tất cả cũng làm, ngoại trừ những vị chức sự đang làm công việc thì khỏi.

Lúc ngài Bá Bá Trượng làm Trụ trì, tự mình vác cuốc đi trước, mọi người thấy ngài đã lớn tuổi, hằng ngày lại phải thuyết pháp, khuyên ngài nên để lại cho người trẻ làm, ngài không chịu, lần nào ra làm đều dẫn đầu đi trước. Mọi người đem giấu cuốc của ngài, ngài không tìm được cây cuốc, bèn nói:

- Hôm này ta không làm thì hôm nay ta không ăn.

Nên có câu “một ngày không làm, một ngày không ăn”. Ấy là mô phạm Tòng lâm.

Hỏi: Bây giờ muốn mở Tòng lâm phải làm gì?

Đáp: Tòng lâm là của đại chúng, cũng như chùa chiền là do Đàn na tín thí gom góp tiền bạc xây dựng, nếu lợi dụng lòng thành kính của Phật tử cất lên ngôi chùa, rồi tự mình làm chủ, cho là “chùa này của tôi, tất cả tài sản là của tôi” cũng được, nhưng sau khi chết phải trả nợ cho thí chủ, ây là nhân quả.

Hỏi: Thế nào là “Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ?”

Đáp: Là hiển bày bất nghĩa bất nhị, chẳng có cái nào bằng Phật. Chữ Phật ở đây là giác ngộ, chứ chẳng phải là một vị thần linh. Mười phương chỉ về không gian, tam thế chỉ thời gian, ý nói khắp không gian thời gian cũng chẳng có cái gì sánh bằng sự giác ngộ. Giác ngộ mới được giải thoát tất cả khổ, không bao giờ trở lại nữa.

Hỏi: Thế nào là năng lễ sở lễ tánh không tịch?

Đáp: khi chúng ta lễ Phật, cái thân này là năng lễ, Phật là sở lễ. Đức Phật nói vũ trụ vạn vật đều không có tự tánh, tức là không thật; năng lễ cũng không thật, sở lễ cũng không thật. Tại sao nói Phật cũng không thật? Vì chữ Phật chỉ là giác ngộ mà thôi, do có mê mới có giác ngộ, nếu không mê thì giác ngộ cũng không. Do chấp thật mới thành mê, nếu chẳng chấp thật thì không mê cũng không ngộ, kể cả thân này cũng do mê chấp thành có. Cho nên, mê ngộ tánh vốn không tịch, tức không có tự tánh, nên nói tánh không tịch.

Hỏi: Sư phụ nói “tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ”, tại sao lại phân biệt tiểu nghi và đại nghi? Đã ngộ rồi tại sao lại phân biệt tiểu ngộ và đại ngộ? Chẳng lẽ sự ngộ cũng có cấp bậc?

Đáp: Theo ngài Lai Quả, nay chúng ta tham thoại đầu, là đang trên đường đi ý thức. Ý thức có hai mặt, một mặt biết và một mặt không biết. Tu theo mặt biết là Như Lai Thiền, nay chúng ta tu Tổ Sư Thiền là mặt không biết. Bây giờ chưa đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường, khi nào đến thoại đầu rồi thì đường đi ý thức hết, chỗ này gọi là vô thỉ vô minh, cũng gọi là đầu sào trăm thước, là nguồn gốc của ý thức, mặc dù thanh thanh tịnh tịnh, nhưng chưa phải kiến tánh.

Từ chỗ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước, lìa khỏi ý thức là kiến tánh, ngài Lai Quả ví dụ: Từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước là lọt vào hư không, phải té xuống và phải té cho chết. Theo thuật ngữ Thiền Tông, gọi là “Tuyệt hậu tái tô”, tức sau khi chết sống lại. Có hai tình trạng: một là tiểu từ tiểu hoạt, hai là đại tử đại hoạt.

Tại sao chết cũng có tiểu tử và đại tử? Vì tiểu tử tiểu hoạt còn cái xác, đại tử đại hoạt thì luôn cả cái xác cũng không còn. Vậy cái xác là gì? Ấy là cảnh giới ngộ: Tiểu ngộ còn ôm cảnh giới ngộ, tức phá được ngũ uẩn ngã, nhưng còn ôm Niết bàn ngã, cho là có ta để ngộ. Đại tử đại hoạt chẳng còn ta nữa, chẳng có ai ngộ, nên nói “Ngộ rồi đồng như chưa ngộ”. Có ngộ tức còn mê, khi hết mê thì hết ngộ.

Hỏi: Khi chưa gặp Sư phụ, con hành pháp môn niệm Phật rất nhiều, bất cứ đi đứng nằm ngồi con cũng niệm Phật cả, rồi sau đó con làm mọi việc cũng hay quên, đến nỗi một lần vào nửa đêm thức giấc, bên tai con có tiếng niệm Phật, ngoài ra có nhiều hiện tượng khác con không tiện kể ra. Xin Sư phụ từ bi khai thị cho con?

Đáp: Niệm Phật đến mức quên là điều tốt, nếu muốn tham Tổ Sư Thiền, có thể tham câu “Niệm Phật là ai”. Tôi thường không cho người ta tham câu “Niệm Phật là ai” vì thấy không thích hợp, nhưng nếu niệm Phật đến cảnh giới này thì có thể tham câu này cũng được.

Hỏi: Con nghe Sư phụ day không được tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, suy nghĩ biết. Vậy con thỉnh kinh sách của Sư phụ dịch về xem, có thêm cái biết nữa không?

Đáp: Tôi đã thường nói là tôi không phải muốn cho người ta hiểu biết thêm nghĩa lý cao siêu, nếu cảm thấy lòng tin tự tâm chưa đầy đủ, chưa đến 100% mới cần xem kinh, hỏi pháp để tôi giải đáp khiến tăng thêm lòng tin, vì không đủ lòng tin thì không hy vọng kiến tánh. Nếu đã tin tự tâm 100% thì không cần xem, cứ thực hành tham thiền là được.

Hỏi: Ta hành giả tham thiền phải khắc sâu chữ TỬ trên trán?
Đáp: Ai bảo? Cái cần nhớ là nghi tình để cho miên mật, khi nào khởi nghi tình không được mới tạm ngưng để nhớ đến việc sinh tử, chứ không phải là cứ nhớ chữ TỬ hoài.

Hỏi: Kính hỏi Hòa thượng, cái phước có ai bán đâu mà mua! Người ta có tiền mua vàng bạc, nhà lầu xe hơi, nhưng cái phước thì mua làm sao được! Tại sao tôi đã sống chừng nấy tuổi, đã làm phước giúp người lại bị trả oán? Con người ai ai chẳng đầu đen máu đỏ? Hòa thượng thử nghĩ, nếu tôi không có tâm Phật thì không thể sống đến ngày nay, vì trải qua nhiều sóng gió, nhưng nay làm ơn bị trả oán, tôi xin Hòa thượng giải tỏa nổi ức trong lòng, khai thị làm thế nào để tôi được nguôi dạ mà không phải xảy ra việc đổ máu, khiến người thì phải nằm nhà thương, người thì đi tù?

Đáp: Có một ông làm quan đến Thừa tướng, hỏi một vị Thiền sư:

- Ăn thịt phải hay không ăn thịt phải?

Thiền sư đáp: Ăn thịt là cái lộc của ông, không ăn thịt là cái phước của ông.

Ông biết tại sao không ăn thịt lại là cái phước không? Vì không gieo ác nhân thì không chiêu ác quả, chẳng ăn cá thịt thì không bị người khác ăn lại. Về cái lộc, hễ trước kia có gieo nhân thì nay được hưởng lộc làm quan, nhưng trong lúc hưởng lộc, có thể vì cái lộc mà tạo thêm nghiệp sát sanh và sau này phải trả nợ thịt nợ mạng, đó là việc nhân quả.

Đối với tuổi thọ, nếu làm lành sống thọ là tốt, làm ác sống thọ là để chịu khổ chứ chẳng phải để hưởng phước. Ví như cõi Trời sống thọ chừng nào hưởng phước chừng nấy, còn ở Ngạ quỷ, Địa ngục thì càng sống dai chừng nào là tội nhiều chừng nấy, càng chịu khổ nhiều chừng nấy.

Nay nếu muốn dứt khổ thì dừng làm cho chúng sinh khổ nữa, vì bản thân mà giết hại chúng sinh, ăn thịt chúng sinh, làm sao giải thoát cái khổ được?

- Cám ơn Hòa thượng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Chín 2014(Xem: 9401)
Tánh thấy là tánh giác biểu lộ nơi sự thấy. Tánh giác thì vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay thế nên tánh thấy cũng vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay. Thế thì tại sao lại có ra cái thấy phiền não, sanh tử khổ đau? Cái thấy của chúng ta đã bị nhiễm ô bởi tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… để thành ra các tướng sai biệt đến độ tranh chấp nhau không thể hoà giải. Đó là cái thấy sai lầm.
28 Tháng Tám 2014(Xem: 9070)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
22 Tháng Tám 2014(Xem: 7645)
Đốn ngộ tiệm tu là một vấn đề căn bản quan trọng trong Thiền tông, vì đó cũng là con đường Thiền tông. Thiền sư Phổ Chiếu (1158-1210) trong Tu Tâm Quyết nói:
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6905)
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 10356)
Trong những lời dạy của Lục tổ trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài đã đề cập và trích từ nhiều kinh luận như Duy Ma Cật, Kim Cương, Đại Bát Niết Bàn, Thành Duy Thức Luận, Đại Bát Nhã…. Trong kinh này, ngài nói đến nhiều chủ đề của Đại thừa như Ba Thân Phật, Vô tướng, Vô trụ, Vô niệm, Thiền định, quy y, phát tâm, sám hối…
27 Tháng Bảy 2014(Xem: 14099)
Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh Pháp Hoa, là Như Lai Tạng trong kinh Lăng Nghiêm, Thắng Man, là Pháp Giới Tánh trong kinh Hoa Nghiêm, là Tánh Giác trong kinh Viên Giác, là Tánh Không trong kinh Đại Bát Nhã, là Thánh Trí Tự Giác trong kinh Lăng Già…
24 Tháng Bảy 2014(Xem: 15222)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dōgen Kigen) Nhật Bản thế kỷ mười ba là một nhà cải cách tôn giáo, một Phật tử thành tựu, một tư tưởng gia sâu sắc và một người viết văn sáng chói. Tác phẩm chính yếu của ngài, Shōbō-genzō, viết bằng một thể văn phức tạp, cách tân, được yêu thích trong thời gian gần đây không chỉ vì những thành tựu triết lý của nó mà còn do sự tuyệt hảo văn chương của nó, thuộc về những bản văn Thiền được quý chuộng nhất.
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 11973)
Chúng sanh mê lầm quên tâm chạy theo vật, hướng ra ngoài gọi là theo duyên, do đó bị cảnh duyên chuyển quên mất gốc, nhận lầm các pháp là thật có, nên gọi là cái thấy điên đảo. Điên đảo là cái thấy lộn ngược, cái giả cho là thật, cái thật thì không nhận thấy.
17 Tháng Bảy 2014(Xem: 6029)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu.
16 Tháng Bảy 2014(Xem: 11341)
Đây là nhắc nhở cho tất cả về ý nghĩa "Đưa Tâm Về Nhà". Bây giờ mình phải ngược dòng lưu chuyển để đưa tâm về nhà. Như đã nói, hiện tại mình đang ở đây nhưng tâm mình thì đang lang thang ở quê người, đó gọi là xa quê, xa nhà, là mất gốc.