Quyển Hạ

29 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 13013)

NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003

NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花

QUYỂN HẠ
Dịch giả: Dương Đình Hỷ

1201. Cha mẹ ở trong đám cỏ dậm.
Có ông tăng hỏi Thạch Thất:
- Thầy có qua Ngũ Đài Sơn không?
- Có qua.
- Vậy thầy có gặp Văn Thù không?
- Có gặp.
- Bồ tát Văn Thù có nói với thầy Phật pháp cao diệu gì không?
- Văn Thù nói “cha mẹ ngươi đều nằm trong mộ, dưới đám cỏ dậm.”
 (Bồ Đề linh quang)
Thiền không tìm thâm ảo, huyền bí, bình thường là đại đạo.

1202. Một phiến đá trước am.
Tuyết Phong Nghĩa Tồn đến tham học Đầu Tử Đại Đồng. Đầu Tử chỉ phiến đá trước am:
- Quá khứ, hiện tại, vị lai, tam thế chư Phật đều giảng pháp ở phiến đá này.
- Có nhiều vị Phật không giảng pháp ở phiến đá này mà giảng ở chỗ khác.
 (Bồ đề linh quang)
Phật ở khắp mọi nơi, mọi thời, mọi sự vật đều ẩn tàng Đạo, nếu nói tại chỗ này thì chỉ là ngộ ở một tầng cảnh giới.

1203. Mang trà lại.
Một ông tăng hỏi Linh Tham:
- Một hạt hoàn đơn có thể điểm sắt thành vàng; một câu chí lý có thể chuyển phàm thành thánh. Đệ tử đến đây xin thầy điểm.
- Không điểm
- Sao không điểm?
- Sợ ngươi rơi vào tâm phân biệt phàm thánh.
- Xin thầy chỉ thị.
- Thị giả! Mang trà ra.
 (Bồ đề linh quang)
Đắc đạo thành Phật là do minh tâm kiến tánh, toàn là nhờ mình tự ngộ. Đối với người chưa ngộ, không có cách nào điểm, chỉ có thể mang trà ra tống khách, đợi lần khác đến sẽ chỉ thị thiền cơ.

1204. Đánh thành một phiến.
Hương Lâm trụ trì Hương Lâm viện 40 năm, đến năm 80 tuổi thì viên tịch. Ông từng nói:
- Ta 40 năm qua đã đánh thành một phiến.
 (Bồ đề linh quang)
Đánh thành một phiến là chỉ đã chân chính trở về khuôn mặt xưa nay; từ đầu đến cuối trung thành ‘thủ nhất’. Các vị cao tăng thường thận trọng giữ gìn chánh niệm, chuyên nhất hộ đạo; thường sống ẩn cư; đoạn tuyệt mọi trần duyên. ‘Chỉ tại trong núi này, mây dầy không biết ở đâu’. Người từ tự nhiên tới, lại trở về tự nhiên. Quá trình tham thiền là quá trình trở về.

1205. Một, Hai, Ba, Bốn, Năm, đủ số.
Có ông tăng hỏi Bản Tịch:
- Cổ nhân nói người người đều có; đệ tử sống trong thế tục có không?
- Đưa tay ta coi.
Ông tăng duỗi tay ra, thiền sư chỉ ngón tay đếm:
- 1, 2, 3, 4, 5, đủ số!
 (Bồ đề linh quang)
Điều kiện để thành Phật cũng như ngón tay ai ai cũng đều có đủ.

1206. Ăn cơm đi.
Một hôm trong giờ ăn, Đạo U vào nhà ăn bạch chúng cáo thị:
- Có lời với đại chúng.
Chư tăng ngẩng đầu lên nghe.
- Ăn cơm đi!
 (Bồ đề linh quang)
Ăn cơm cũng đang ở trong thiền đạo, người thường không để ý nên Đạo U bạch chúng chỉ cơ.

1207. Phòng ngủ không người.
Có ông tăng hỏi Giáp Sơn:
- Làm sao đạt được cảnh giới Niết Bàn tịch tĩnh?
- Như trong phòng ngủ rộng lớn không người.
 (Bồ đề linh quang)
Niết Bàn là cảnh giới vô nhân, vô ngã; nếu suy nghĩ làm sao để vào thì không bao giờ vào được.

1208. Khách chưa về, nhớ cố hương.
Nhân Dõng thượng đường nói:
- Từng trận gió thu thổi qua rặng thông, khách chưa về, nhớ cố hương. Ai là khách chưa về? Chỗ nào là cố hương?
 (Bồ đề linh quang)
Bản tâm là cố hương là chỗ thiền khách trở về.

1209. Văn Thù và Phổ Hiền.
Động Sơn Thủ Sơ là cao đồ của Vân Môn. Một lần có một ông tăng hỏi:
- Lão thiền sư đã tu hành tới trình độ cao thâm; giả như các bồ tát.
Văn Thù và Phổ hiền đến thỉnh giáo thì thầy làm sao?
- Ta coi họ như trâu, lùa vào chuồng!
 (Bồ đề linh quang)
Cầu Phật, bồ tát là vọng niệm, vọng tưởng, phải đối trị như chăn trâu; coi sóc kỹ lưỡng.

1210. Ngoảnh mặt về Nam nhìn Bắc Đẩu.
Có ông tăng hỏi Huệ Thanh:
- Thế nào là tự thân, tự tâm?
- Ngoảnh mặt về Nam nhìn Bắc Đẩu.
 (Bồ đề linh quang)
Tự thân, tự tâm chỉ có tự nghiệm, tự giác mới triệt ngộ. Huệ Thanh bảo ông tăng hướng về Nam quay đầu nhìn về Bắc thể ngộ tự thân, tự tâm.
“Hồi đầu tức thị: là phản quán tự tánh.

1211. Về phòng sưởi ấm.
Trùng Hiển thượng đường nói:
- Giả sử nói đến kinh thiên động địa, trời rải hoa xuống cũng chẳng bằng về phòng sưởi ấm.
 (Bồ đề linh quang)
Ngôn ngữ văn tự chỉ trói buộc thiền. Nhiều lời càng dễ bị mê chấp, chẳng bằng về phòng hơ lửa sưởi ấm, điềm nhiên tự tại lại còn gần thiền cảnh hơn.

1212. Coi chừng chó dữ.
Ở pháp hội Lâm Tế, 2 ông tăng đến tham kiến, vừa giở mành lên thiền sư bèn hét lớn:
- Coi chừng chó dữ!
Hai ông tăng xoay đầu lại tìm kiếm, thiền sư bèn trở về phương trượng.
 (Bồ đề linh quang)
Tiếng hét của thiền sư khiến 2 ông tăng quay đầu lại tìm kiếm, tự ngộ tự tánh.

1213. Sinh tử đến.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Lúc sinh tử đến, làm sao để thoát?
Vân Môn đưa hai tay ra:
- Đưa sinh tử cho ta.
 (Bồ đề linh quang)
Người chưa ngộ hay thích nói về sinh tử, đối với thiền giả chân chính thì không có gì gọi là sinh tử.

1214. Cây nhà nào chẳng đón xuân.
Một cư sĩ hỏi Cư Nhân:
- Người tục gia có thể lãnh hội Phật pháp không?
- Tảng đá nào trăng không chiếu? Cây nhà nào chẳng đón xuân.
 (Bồ đề linh quang)
Phật quang chiếu khắp nơi, Phật tánh ở khắp chỗ.

1215. Phật tánh vốn tự đầy đủ.
Có ông tăng hỏi Mã Tổ:
- Phải lý giải thế nào để được đạo?
- Tự tánh vốn tự đầy đủ, chỉ cần trong thiện ác không bị dính líu thì đó là người tu. Giữ thiện, bỏ ác, tâm quán không tịnh, thần nhập vào định. Cứ thế mà làm. Còn như hướng ra bên ngoài mà tìm thì càng lúc càng xa đạo. 
 (Bồ đề linh quang)
Thiền ở trong tâm, đạo ngay dưới chân.

1216. Thị giả thuyết pháp.
Khi thiền sư Nhân Dũng thượng đường, thị giả đang thắp hương; thiền sư chỉ thị thị giả nói:
- Thị giả đã giảng pháp cho đại chúng rồi!
 (Bồ đề linh quang)
Thị giả thắp hương chính là tự tánh tự dụng. Có thể thể ngộ tự tánh thì đắc đạo thành Phật, không khác gì hiện thân thuyết pháp.

1217. Thế nào là Đạo?
Trần Tôn Túc hỏi một cụ tú tài:
- Tiền bối nghiên cứu kinh điển gì?
- Ta chuyên nghiên cứu kinh Dịch.
- Kinh Dịch nói “bá tánh dùng hàng ngày mà không biết”, cụ nói coi bá tánh không biết cái gì?
- Bá tánh không biết đạo vận hành của trời đất.
- Cái đạo ấy là thế nào?
Lão tú tài không lời đáp lại.
 (Bồ đề linh quang)
Sinh hoạt bản thân chính là Đạo. Lão tú tài “bất thức Lư Sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung”.

1218. Đi tới chỗ không biến đổi.
Tào Sơn là cao đồ của Động Sơn, sau khi đắc pháp rồi bèn hướng sư phụ từ biệt. Động Sơn hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Con tới chỗ không biến đổi.
- Nơi không biến đổi lại có đến, đi sao?
- Đến đến, đi đi chẳng có ảnh hưởng gì đến sự tồn tại của không biến đổi.
 (Bồ đề linh quang)
Trong tĩnh có động, trong động có tĩnh; lấy bất biến ứng vạn biến. Thiền cảnh là cảnh giới động tĩnh là một.

1219. Người trong mật thất.
Một ông tăng hỏi một lão thiền sư:
- Tình cảnh của người ẩn trong mật thất thế nào?
- Người ẩn trong mật thất không muốn người ta biết, sợ khách đến nên không lên tiếng. Tình cảnh của ông ta trừ ông ta ra thì chẳng ai biết.
 (Bồ đề linh quang)
Chúng ta có phải là người trong mật thất không? Hay trong tâm chúng ta có người trong mật thất? Nếu là vậy xin đừng lên tiếng.

1220. Cho ta một đồng.
Bố Đại đứng bên đường, có ông tăng hỏi:
- Hòa thượng đứng đây làm gì?
- Đợi một người.
- Đến rồi! đến rồi!
- Ngươi không phải là người đó.
- Phải làm sao mới là người đó?
- Cho ta một đồng.
 (Bồ đề linh quang)
Bố Đại nói đợi một người là chỉ cơ. Ông tăng tâm hãy còn mê chấp, phân biệt nên hòa thượng chỉ còn cách xin tiền để khai thị ông.

1221. Rồng trong nước sống.
Thiền sư Lương Sơn Duyên Quán là người đời Tống, trú ở núi Lương Sơn tỉnh Hồ Nam; phó pháp cho Đại Dương Cảnh Huyền. Ông có làm bài kệ:

梁 山 一 曲 歌
Lương Sơn nhất khúc ca
格 外 人 難 和
Các ngoại nhân nan hòa
十 載 訪 知 音
Thập tải phỏng tri âm
未 嘗 逢 一 個
Vị thường phùng nhất cá

Lương Sơn một khúc ca
Người ngoài khó biết hòa
Tri âm nếu muốn kiếm
Một người cũng chẳng ra.

Một hôm một học tăng thỉnh thị:
- Tri âm khó gập là một điều đáng tiếc, nhưng gia tặc khó đề phòng mới là mối lo của con. Xin sư phụ cho một lời.
- Nhận biết, hiểu thấu, biến hóa, vận dụng nó, cần gì phải đề phòng?
- Gia binh, gia tướng dễ xử dụng, nhưng gia tặc làm sao dụng?
- Mời nó ở vô sinh quốc.
- Chẳng lẽ chỗ ẩn thân lập mạng cũng không có sao?
- Rồng không ẩn ở nước chết.
- Thế nào là rồng ở nước sống?
- Mây nổi chẳng phà sương.
- Bỗng gặp mây nổi rồi mưa thì sao?
- Đừng để ướt cà sa lão tăng.
 (Tinh vân thiền thoại)
Vương Dương Minh là một tay cao thủ trong nhà Thiền. Ông nói:
- Đề phòng cướp ở trong núi dễ; đề phòng cướp ở trong tâm khó. 
Và:
- Tâm như quốc vương có thể ra lệnh; tâm như oan gia thật khó đề phòng.
Khi chưa đạt được thiền tâm thì vọng tâm thật khó đề phòng. Câu nói của Duyên Quán rất hay, giống như Gia Cát Lượng bẩy lần bắt, bẩy lần tha Mạnh Hoạch, mới có thể dứt tuyệt hậu hoạn.
Tâm trụ ở đâu mới tốt? Ở chỗ không trụ mà trụ. Tâm không có an trú tại ngũ uẩn của thân hoặc lục trần ở cảnh vì đó là nước chết không chứa được rồng. Rồng thật nổi mây rồi mưa. Không làm ướt áo cà sa của lão tăng, ý là căn tính lợi lạc không bị nhiễm nước bùn. Mặt trời có mọc, lặn; mặt trăng có tròn, khuyết. Chúng ta nên từ trong sinh diệt biết an trú ở chân tâm không sinh diệt.

1222. Chỉ trời, chỉ đất.
Một ông tăng đến bái phỏng Đạo Khâm, thưa:
- Đệ tử mới vào thiền viện xin thầy khai thị.
- Một tay chỉ trời, một tay chỉ đất.
 (Bồ đề linh quang)
Thiền sư dẫn tích Phật đản sinh (xem công án 60, 72, 507) để chỉ cho ông tăng tự phát hiện tự tánh.

1223. Không thể hiểu.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là chỗ tu hành của người xuất gia chân chính?
- Là chỗ không người hiểu được.
- Làm sao mọi người không hiểu được?
- Vậy ngươi hãy cố tìm hiểu cái không hiểu được.
 (Bồ đề linh quang)
Mọi nhận thức đều từ bất nhận thức mà ra. Trở về cái bất nhận thức (tức Không) chính là cái thiền cảnh “Không” mà ta muốn tìm.

1224. Một phiến đá trong không.
Có ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây qua là gì?
- Giống như một tảng đá từ không bay tới.
Ông tăng lạy tạ, thiền sư hỏi:
- Ngươi hiểu ý này không?
- Con không hiểu.
- May mà ngươi không hiểu nếu không đã bị tảng đá đập bể đầu rồi.
 (Bồ đề linh quang)
Hễ có một niệm thì niệm niệm theo nhau không cùng. Đó không phải là thiền cảnh. Phải nên “ nhấc lên được, cũng bỏ xuống được” thì sẽ không bị tảng đá trong không làm tâm mê, ý loạn, vỡ đầu chẩy máu.

1225. Ở bên bờ sông mà chết khát.
Tuyết Phong Nghĩa Tồn bảo đại chúng:
- Các ngươi ngày ngày học Phật, tham thiền phải nhớ rằng có người ngồi ngay bên cạnh mâm cơm mà chết đói, có người đến bên bờ sông nước chẩy cuồn cuộn mà chết khát. Đây chẳng phải là chuyện đùa.
 (Bồ đề linh quang)
Chúng ta mọi lúc đều ở trong Đạo, nhưng vẫn có người không biết điều đó, thậm chí còn đi ngược lại Đạo. Chúng ta hàng ngày chìm đắm trong sinh hoạt, có người bị sinh hoạt làm rối loạn thậm chí uổng phí cả một kiếp người không phải sao?

1226. Dùng nèo chỉ cơ.
Hòa thượng Bí Ma Nham ở Ngũ Đài Sơn tay thường cầm một cái nèo, thấy ông tăng nào đến lạy liền dùng nèo móc vào cổ hỏi:
- Ma quỷ nào bảo ngươi xuất gia? Ma quỷ nào bảo ngươi hành cước? Đáp được hay không đều chết dưới cây nèo này, nói mau! Nói mau!
Học tăng ít người trả lời được.
 (Bồ đề linh quang)
Trực tâm là Đạo, cứ vươn thẳng cổ ra để thiền sư móc.

1227. Cơ ngữ qua sông.
Lương Giới cùng Mật sư bá cùng qua sông. Lương Giới hỏi:
- Qua sông thế nào?
- Không làm ướt chân.
- Sư bá già rồi còn nói vậy!
- Còn ngươi thì nói sao?
- Chân không bị ướt.
 (Bồ đề linh quang)
Nói điên đảo làm lộ ra “ngã” chủ thể. Thật là chân ngộ vậy.

1228. Có khác gì khóc.
Ngưỡng Sơn lúc còn là chú tiểu, tụng kinh tiếng rất vang. Nhũ Nguyên la:
- Chú này đọc kinh như khóc.
- Đúng vậy, còn hòa thượng thì sao?
Nhũ Nguyên nhìn quanh không hiểu.
- Nều thầy như vậy thì có gì khác với khóc đâu?
 (Bồ đề linh quang)
Bản tánh tự nhiên, không bó buộc theo một cách nào cả.

1229. Tường Đông đánh tường Tây.
Một ông tăng hỏi Quy Nhân:
- Sinh hoạt của Linh Tuyền (pháp hiệu của Quy Nhân) thế nào?
- Tường Đông đánh tường Tây.
- Vậy làm sao qua ngày?
- Nồi không chân, lửa không khói.
- Sáng tối hai thời làm sao cúng dường?
- Ông lão quê thổi cơm không có gạo, buổi họp mặt bên bờ suối không có người đến dự.
 (Bồ đề linh quang)
Cách sinh hoạt của Linh Tuyền là tứ đại giai không.

1230. Đánh vỡ đáy thùng.
Lâm Tế từng nói:
- Khi ta chưa khai ngộ, thấy quanh mình đều là sơn đen, giống như bị cấm cố trong một cái thùng vậy.
 (Bồ đề linh quang)
Người sau nhân đó khi giải thoát được mê vọng hoát nhiên tỉnh ngộ gọi là phá vỡ đáy thùng. Bàn Khuê cũng có một câu kệ:
Đáy thùng cổ vỡ rồi
Cả một vòng đất trời!
Đáy thùng vỡ rồi, phía dưới là một vòng tròn, trời đất đều ở trong đó.

1231. Bao dung.
Có 2 chú tiểu tranh cãi, không ai nhường ai; chỉ còn cách tìm sư phụ làm trọng tài. Chú thứ nhất trình sư phụ lý do của mình. Sư phụ nghe rồi bảo:
- Ngươi đúng!
Chú ta nghe rồi vui vẻ đi ra.
Chú thứ hai trình ý kiến của mình, sư phụ nghe rồi bảo:
- Ngươi cũng rất đúng!
Chú này rất cao hứng đi ra.
Thị giả đứng hầu một bên, ngạc nhiên hỏi:
- Sư phụ bảo chú này đúng, chú kia cũng đúng, vậy thì ai sai?
Thiền sư cuời bảo thị giả:
- Ngươi cũng đúng!
 (Hảo tuyết phiến phiến)
Có thị phi là có đối đãi, không khế hợp với Đạo. Thiền tâm là bao dung. Kinh Hoa Nghiêm nói nếu trụ ở phân biệt sẽ làm hỏng mất thanh tịnh, ngu si tà kiến tăng, vĩnh viễn không thấy được chư Phật. Đối với người mới tu, bao dung là một loại học tập; còn đối với người khai ngộ, đã thấy được thực tướng của vạn pháp, biết Phật tánh của mọi người đều bình đẳng thì sự bao dung là lý đương nhiên.

1232. Phật là thế nào?
Có một ông tăng hỏi Diên Chiểu:
- Thế nào là Phật?
- Thế nào là không Phật?
Ông tăng thưa:
- Con không rõ lời huyền diệu, xin thầy trực tiếp chỉ thị.
- Nhà ở bờ biển Đông, mặt trời lên sẽ được chiếu sáng trước.
 (Bồ đề linh quang)
Phật ở mọi thời, mọi nơi, phản chiếu tự tâm sẽ thấy.

1233. Nở đã lâu rồi.
Một ông tăng hỏi thiền sư:
- Cây nở hoa không?
- Đã nở lâu rồi.
- Còn kết quả không?
- Đêm qua sương xuống làm rụng rồi!
 (Bồ đề linh quang)
Nở hoa, kết quả là bản tánh của cây. Chấp vào kết quả là còn mê vọng.

1234. Hoa sen nở trên đá.
Có ông tăng hỏi thiền sư Uẩn:
- Thế nào là thiền?
- Hoa sen trên đá, nước suối trong lò lửa.
- Thế nào là Đạo?
- Một cọng cỏ trên đỉnh Lăng Già.
- Thiền và Đạo khác biệt thế nào?
- Người bùn xuống nước, người gỗ mò tìm.
 (Bồ đề linh quang)
Thiền là ngộ ở trong tâm, ở bên ngoài nhìn không thấy, sờ không được.

1235. Chuyện cây bách có tặc cơ.
Đức Sơn Sơ Kỳ, Ẩn Nguyên sang Nhật Bản truyền giáo. Đây là một sự kiện trọng đại. Kể từ đời Liêm Thương Thiền từ Trung Quốc truyền sang Nhật Bản, ít có cao tăng đến Nhật. Chư Tăng Nhật Bản rất kính trọng mời ông trụ trì Bản Sơn Diệu Tâm Tự. Ẩn Nguyên có lần đến Hoa Viên Diệu Tâm Tự ở kinh đô hỏi:
- Khai sơn tổ sư của quý tự có để lại ngữ lục gì không?
- Không có ngữ lục, nhưng có để lại một câu “Chuyện cây bách có tặc cơ” (Xem công án 786)
Ẩn Nguyên kinh ngạc, kính phục thiền học của Quan Sơn hướng về tháp Quan Sơn mà vái lạy.
 (Bồ đề linh quang)
Chữ tặc trong tặc cơ chỉ người mạnh lấy đi vật của người khác. Ở đây chỉ thiền giả lấy đi vọng tưởng phiền não, khiến thiền sinh thấy được khuôn mặt xưa nay.

1236. Mười phương thế giới là tâm ngươi.
Có ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
- Tâm con có dạng thức gì?
- Chính mười phương thế giới là tâm ngươi.
- Nếu tâm con rộng lớn như thế thì thân thể con ở đâu? Chẳng lẽ không có chỗ để thân sao?
- Đó chính là chỗ để thân ngươi.
 (Bồ đề linh quang)
Tâm và thế giới hợp nhất tức là thiền cảnh.

1237. Tùy xứ an nhàn.
Hoa Nghiêm hỏi Thạch Môn:
- Cổ nhân nói: “Một người có thể làm tâm an ninh nhàn dật thì tự nhiên cùng Đạo hợp nhất”. Điều này có phải là chân lý không và cứ thế mà làm thì có đúng không? Xin thầy giải thích.
- Nếu hiểu đạo lý này có thể tùy xứ an ninh, bình hòa giống như một người ở thành thị nghe được chuyện lạ vẫn bình tĩnh. Không hiểu đạo lý này tâm cũng có thể an ninh, bình hòa nhưng giống như một người ở làng quê nghe được chuyện lạ thì kinh dị đi loan truyền khắp nơi.
Hoa Nghiêm nghe rồi có chút lãnh hội.
 (Bồ đề linh quang)
Tâm bình thường là Đạo, như người ngồi thuyền gặp sóng gió, nếu coi tất cả đều không thì dù có gập biến cũng không sợ hãi.

1238. Vô tâm gõ vô tâm.
Có một ông quan chỉ cái mõ hỏi Hồng Nhân:
- Cái này là cái gì?
- Vật để cảnh tỉnh người buồn ngủ.
- May tới chốn này!
- Thật là (người) vô tâm gõ (vật) vô tâm.
 (Bồ đề linh quang).
Khoảng không trong mõ là “vô tâm”. Người vô tâm là không vọng niệm. Vô tâm gõ vô tâm mới là vào thẳng cửa không.

1239. Trời sáng gà gáy.
Một ông tăng hỏi Nguyệt Luân:
- Phải tu hành thế nào để thấy khuôn mặt xưa nay?
- Không cần phải treo gương đá, hễ trời sáng là gà gáy.
 (Bồ đề linh quang)
Thấy khuôn mặt xưa nay là chỉ minh tâm kiến tánh, treo gương đá chỉ cầu Phật là hư vọng. Câu của thiền sư có nghĩa là ngộ rồi thì có thể kiến tánh thành Phật.

1240. Khởi công từ chỗ nào?
Triệu Châu và thủ tọa cùng đi thăm cầu đá Triệu Châu, Triệu Châu hỏi:
- Cầu này ai xây?
- Lý Dung thiết kế và xây.
- Xây từ chỗ nào?
Thủ tọa không lời đối lại, Triệu Châu bảo:
- Bình thời ngươi nói về cầu đá Triệu Châu rành rẽ lắm, sao hỏi ngươi chỗ hạ thủ lại không biết?
 (Bồ đề linh quang)
Chỗ nào là chỉ không gian. Trong Phật giáo chỗ nào chính là chỗ này; tất cả đều bắt đầu từ đây. Khởi điểm của Thiền ở đây, bây giờ, tự mình. Nếu lìa chúng thì thiền đạo cũng không tồn tại.

1241. Không chấp tướng.
Thiền sư Cảnh Sầm người Trường Sa là đệ tử của thiền sư Nam Tuyền, đàm thiền luận đạo, cơ phong mẫn tiệp; đồng đạo đều tôn xưng là hổ hòa thượng. Một tết trung thu, Cảnh Sầm và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt. Ngưỡng Sơn chỉ trời nói:
- Cái này mọi người đều có, chỉ vì vô minh nên không sử dụng được.
Cảnh Sầm không cho là phải:
- Nếu mọi người đều có, làm sao không có ai sử dụng được? May hôm nay cơ duyên hội hợp; vầng trăng sáng này chờ ngươi sử dụng. hãy thử xem nào!
- Dùng trăng sáng rất thú vị, mời pháp tọa dùng thử trước.
Cảnh Sầm không khách khí đạp ngã Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn không giận còn tán thán “Thật giống hổ”. Vì thế về sau mọi người đều gọi ông là Sầm Đại Trùng.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Ngưỡng Sơn nói trăng sáng bị mây che lấp tương tự tâm chúng ta bị vô minh, phiền não che lấp. Cảnh Sầm thì cho rằng chỉ cần có thiền thì mây tan trăng lộ. Đạp ngã Ngưỡng Sơn chỉ dưới ánh trăng thiền còn cần gì ngươi nói nhiều? Câu tán thán của Ngưỡng Sơn có nghĩa là thiền có thể tĩnh, có thể động, thiền lực như sư tử, hổ báo. 

1242. Chặt giun làm hai.
Đời mạt Đường, một ông tăng hỏi Diên Khánh:
- Một con giun bị chặt đôi, hai đầu đều động đậy, không biết Phật tánh ở đầu nào?
Diên Khánh không đáp, chỉ dang hai tay ra.
 (Bồ đề linh quang)
Diên Khánh dùng tay để diễn ý hai tay đều động, Phật tánh ở đâu? Phật tánh ở tâm, không đâu không có (Xem thêm công án 1954).

1243. Ngày nay, ngày mai.
Có ông tăng hỏi thiền sư Diễn Giáo:
- Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
- Ngày nay, ngày mai. 
 (Bồ đề linh quang) 
Ngày nay, ngày mai đều bình thường. Bình thường là Thiền. Người không ngộ nói nhiều vô ích, người lãnh hội ngày ngày đều ở trong Đạo.

1244. Trăng khuyết, trăng tròn.
Thạch Thất và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt. Ngưỡng Sơn hỏi:
- Khi trăng khuyết thì trăng tròn đi đâu? Khi trăng tròn thì trăng khuyết đi đâu?
- Khi trăng tròn thì trăng khuyết ẩn, khi trăng khuyết thì trăng tròn ẩn.
 (Bồ đề linh quang)
Cảnh trăng là cảnh thiền. Trong tròn có khuyết, trong khuyết có tròn (Xem thêm công án 346).

1245. Trú xứ của chân Phật.
Có ông tăng hỏi Quang Dũng:
- Chân Phật trú ở đâu?
- Tức thời không hình trạng, cũng không ở chỗ nào khác.
 (Bồ đề linh quang)
Chân Phật ở tự tánh cho nên nói không hình trạng, cũng không ở chỗ nào khác (vì ở khắp mọi chỗ).

1246. Không phải là Phật thì là ai?
Một lần, có vài pháp sư đến tham kiến Huệ Hải. Một ông hỏi:
- Muốn hỏi một vấn đề, thiền sư có chịu trả lời không?
- Bóng trăng dưới ao sâu, tùy ý nắm bắt.
- Thế nào là Phật?
- Đối mặt ao trong chẳng phải Phật thì là ai?
 (Bồ đề linh quang)
Ý thiền sư là trước mặt ta người người đều có tự tâm là Phật.

1247. Phật cũng là bụi.
Có ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi con quét sạch bụi trần, phiền não, thấy Phật rồi thì sao?
- Lúc đó ngươi thấy Phật cũng là bụi, là phiền não, cũng phải quét đi.
 (Bồ đề linh quang)
Có thấy là không phải chân không, cho nên chưa thấy chân Phật. 

1248. Bảo Phúc.
Có ông tăng hỏi Bảo Phúc:
- Thế nào là gia phong của hòa thượng?
- Mây trên trời xanh, nước trong bình.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
Bảo Phúc dùng lại câu nói của Dược Sơn (Xin xem công án 1021).

1249. Hưng Giáo.
Có ông tăng hỏi Hưng Giáo:
- Thế nào là Đạo?
- Cạo đầu vào chỗ hoang vu.
- Thế nào là người trong Đạo?
- Que cứt khô.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
Hưng Giáo dùng lại câu nói của Vân Môn (Xem công án 199).

1250. Phàm và thánh.
Có ông tăng hỏi Đức Sơn Tuyên Giám:
- Phàm và thánh khác nhau nhiều ít?
Đức Sơn bèn hét lớn.
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Phàm là chỉ cảnh giới của người đời, cũng là hiện tượng giới. Thánh là cảnh giới sau khi ngộ, cũng là bản thể giới. Đối với người kiến tánh thì phàm và thánh chỉ là một vì lìa hiện tượng thì không có bản thể. Câu ông tăng hỏi xuất phát từ tâm phân biệt. Đức Sơn hét lớn để cắt đứt vọng niệm của ông tăng.

1251. Đại ý Phật pháp.
Một ông tăng hỏi Cảnh Như:
- Đại ý Phật pháp là thế nào?
Thiền sư hét lớn.
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Lời giảng cũng tượng tự công án trên.

1252. Hừ!
Mỗi khi có thiền sinh nào hỏi về pháp, về thiền, về Đạo, Toàn Hoát đều hét lên:
- Hừ!
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Tiếng hừ trong đời thường có hàm ý cấm đoán, thiền sư ám chỉ câu của ngươi hỏi phát xuất từ vọng tâm chỉ làm trở ngại sự kiến tánh.

1253. Vô niệm.
Đại Châu nói:
- Vô niệm là ở tất cả mọi nơi đều vô tâm, không mong cầu đối với mọi cảnh giới không động niệm.
 (Thiền sư khải ngộ pháp) 
Đối với Đại Châu vô niệm là không bị ngoại cảnh hạn chế, không có tình thức quyến luyến, đối với ngoại cảnh hoàn toàn khách quan, không bị khích động. Cảnh giới này không thể dùng phương thức lý giải của thế giới nhị nguyên mà giải thích được.

1254. Nghiệp thức mang mang.
Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Chúng sinh nhân vì tâm bị ô nhiễm quá nghiêm trọng không biết tự kỷ Phật tánh, ngươi có biện pháp nào để biết nghiệp thức của họ ở đâu không?
- Con đương nhiên có biện pháp.
Chính lúc đó có một ông tăng đi qua. Ngưỡng Sơn kêu ông ta một tiếng, ông tăng ngoảnh đầu lại. Ngưỡng Sơn thưa:
- Thầy coi! Đấy là nghiệp thức mang mang không chỗ nắm bắt.
 (Bồ đề linh quang)
Trong cõi hồng trần, người người đều là cố nhân. Chỉ cần thức ngã, biết ngã, quên ngã, không bị ngã trói buộc thì mới chính thức vượt ra ngoài tam giới.

1255. Rõ mình, ngộ ngay trước mắt.
Tổ Tâm thượng đường bảo đại chúng:
- Chỉ rõ mình mà không lãnh ngộ sự trước mắt là người có mắt không chân. Lãnh ngộ sự trước mắt mà không rõ mình là người có chân không mắt. Hai loại người này thường có một vật để trong lòng. Có vật trong lòng thì trước mắt thường hiện ra tướng bất an, mọi chỗ đều trở ngại, không thông làm sao an ổn? Chư tổ đã chẳng nói qua sao “Chấp vào được mất là đi vào tà đạo. Cứ bỏ xuống hết, thuận theo tự nhiên thì chẳng có hơi thở đến, đi sai biệt”.
 (Bồ đề linh quang)
Mắt thấy hãy còn là hư, chân đạp là thật. Đối với thiền giả mắt và chân đều trọng, bước đi trong đạo.

1256. Ca Diếp múa.
Càn Đạt Bà Vương tấu nhạc, sơn hà đại địa đều vang tiếng đàn, Ca Diếp liền múa. Vương hỏi Thế Tôn:
- Ca Diếp là A La hán các lậu đều hết, sao hãy còn dư tập?
Thế Tôn đáp:
- Thật không còn dư tập, ngươi đừng báng pháp.
Vương lại đánh đàn ba lượt, Ca Diếp lại múa ba lần. Vương lại hỏi:
- Chẳng phải Ca Diếp múa sao?
- Thật không múa.
- Sao Thế Tôn lại vọng ngữ?
- Không vọng ngữ. Khi ngươi đánh đàn, sơn hà đại địa cỏ cây đều vang tiếng nhạc, chẳng phải sao?
- Dạ phải.
- Ca Diếp cũng vậy! Thật không có múa.
 (Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Diệu nhạc của Càn Đạt Bà Vương là đại lực của cảnh giới Bồ tát. Do đó sơn hà đại địa, cỏ cây đều vang tiếng nhạc và Ca Diếp thì múa. Vương tuy phát tâm thâm viễn nhưng trí tuệ chưa hoàn toàn thông suốt ngay trí tuệ của mình, cũng chưa rõ nên không hiểu Ca Diếp vô tâm mà múa. Lúc đó đáng nhẽ Thế Tôn phải đánh cho ông 30 gậy. Đây là cảnh giới động tĩnh là một, múa mà không múa.

1257. Dùng tay.
1- Một ông tăng hỏi Hương Nghiêm:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Hương Nghiêm thu tay vào lòng rồi dang hai tay ra.

2- Một ông tăng hỏi Lạc Kinh Hắc Giản:
- Thế nào là người trong mật thất?
Lạc Kinh lấy tay đấm ngực.
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Câu hỏi của hai ông tăng trên đều là hỏi về tự tánh. Hương Nghiêm và Lạc Kinh đều dùng động tác để trả lời. Động tác là chỉ bản thân biểu hiện, nhưng đây không phải là toàn bộ sinh mạng. Nếu chấp vào động tác là lạc vào hiện tượng giới, không hiểu được tự tánh là gì .

1258. Cơ kêu mổ.
Một ông tăng hỏi Giang Tây Lư Sơn Song Khê Điền Đạo Giả:
- Thế nào là cơ kêu mổ?
Sư lấy tay ra dấu mổ.
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Gà mẹ ấp trứng 21 ngày. Gà con từ trong kêu, gà mẹ mổ, gà con từ trong vỏ chui ra. Kêu mổ phải đồng thời. ông tăng hỏi dụng của cơ kêu mổ. Thiền sư dùng tay ra dấu mổ là chỉ thị, nếu ông tăng chưa siêu việt hiện tượng giới thì đây là sự trợ giúp rất tốt khiến ông thoát khỏi mê đắm mà thấy tự tánh (Xem công án 125).

1259. Mèo bắt chuột.
Hối Đường hỏi Thảo Đường:
- Trong Đàn kinh có công án gió động, cờ động ngươi giải thích thế nào?
- Con một điểm nhập thủ cũng chẳng có, xin thiền sư chỉ điểm.
- Ngươi có xem mèo bắt chuột không? Khi rình chuột mắt nó không chớp, bốn chân quỳ trên đất đợi cơ hội hành động. Mắt, tai, mũi đều để ý đến chuột, đầu đuôi đều cùng một hướng. Từ đầu đến cuối chỉ một mục đích. Do đó, trăm lần vồ trăm lần trúng. Nếu ngươi làm được như vậy tâm không tưởng gì khác: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tự nhiên thanh tịnh, tự mình thể hội. Bảo đảm trăm lần không sai.
Thảo Đường cứ y thế mà làm, qua một năm cuối cùng đại ngộ.
 (Bồ đề linh quang)
Thành hay bại là do “toàn thần quán chú” và “tâm viên ý mã”. Nhập thiền cũng không ngoại lệ.

1260. Phật tánh của hòa thượng.
Có ông tăng hỏi Ứng Thiên:
- Mọi người đều có Phật tánh, Phật tánh của hòa thượng ở đâu?
- Ngươi bảo cái gì là Phật tánh?
- Vậy hòa thượng là người không có Phật tánh.
- Chính là thế đó! Ta khoái quá.
 (Bồ đề linh quang)
Tất cả đều không; Phật tánh thường tương tùy.

1261. Ô, guốc ở đâu?
Một hôm Thiên Vương đến thăm Nam Ẩn, gập lúc trời mưa không ngớt. Khi chào hỏi xong, Nam Ẩn hỏi:
- Ta biết ông để guốc ở ngoài hành lang nhưng ta không biết ông để cái ô ở bên phải hay bên phải hay bên trái đôi guốc?
Thiên Vương không trả lời được, rất mắc cỡ bèn bái Nam Ẩn làm thầy.
 (Nhất vị thiền: quyển Phong)
Sau sáu năm theo thấy cuối cùng Thiên Vương đã đạt được yêu cầu của Nam Ẩn niệm niệm đều thiền.

1262. Một cọng cỏ.
Đức Phật và chúng đệ tử tản bộ ở nơi điền dã, thấy phong cảnh đẹp đẽ, chỉ một khoảng đất bảo:
- Chỗ này nên xây chùa.
Thiên đế thuận tay ngắt một cọng cỏ cắm xuống đất:
- Bạch Thế Tôn, chùa đã xây xong.
Đức Phật gật đầu mỉm cười.
 (Hảo tuyết phiến phiến)
Một cọng cỏ là một tòa Phật điện trang nghiêm chẳng trách Triệu Châu nói lão tăng lấy một cọng cỏ làm gậy kim cương; lấy gậy kim cương làm một cọng cỏ. Các bậc tu hành nói 3 ngàn uy nghi, 8 vạn tế hạnh đều từ cái ‘một’ này mà bắt đầu. Phải nên quý một cọng cỏ, một hạt gạo, một bát cháo. Nên biết nước trong thiên hạ đều từ một giọt nước Tào Khê mà ra.

1263. Cư sĩ có nhà không?
Thiên Nhiên đến thăm Bàng Uẩn, thấy một thiếu nữ đang ngồi nhặt rau ngoài cổng (Đó là Linh Chiếu, con gái Bàng Uẩn). Thiên Nhiên hỏi:
- Cư sĩ có nhà không?
Linh Chiếu bỏ rổ rau xuống, đứng dậy . Thiên Nhiên lại hỏi:
- Cư sĩ có nhà không?
Linh Chiếu nhấc rổ rau lên, bỏ đi.
 (Thiền cơ)
Câu hỏi ‘Cư sĩ có nhà không?’ lần thứ nhất hàm ý: ‘cư sĩ có thể ở nhà, có thể không ở nhà’. Lần thứ hai có nghĩa là cư sĩ (chỉ tự tánh) không chỗ nào là không ở.

1264. Từ phương Nam tới.
Viên Quang hỏi một ông tăng mới tới:
- Ngươi từ phương Bắc hay phương Nam tới?
- Từ phương Nam.
- Không rơi vào ngôn ngữ, nói đi!
- Con người Phước Kiến.
- Tham thiền đi!
 (Thiền cơ)
Không rơi vào ngôn ngữ ám chỉ vào thẳng tự tánh.

1265. Đệ tử có bệnh.
Một ông tăng thưa với Hoàng Thông:
- Đệ tử có bệnh, thỉnh thầy chữa!
- Mang bệnh ra đây ta chữa cho.
- Mời thầy chữa.
- Trả tiền thuốc đi!
 (Thiền cơ)
“Trả tiền thuốc đi” là ám chỉ ông tăng có phàm bệnh thiền sư sẽ cho thánh dược, ông tăng có thánh bệnh thiền sư sẽ cho phàm dược.

1266. Thầy của Chư Phật.
Thúy Vi ở Chung Nam Sơn hỏi Đơn Hà:
- Thế nào là thầy của Chư Phật?
- Thật đáng thương, cầm chổi để làm gì?
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Đơn Hà mắng Thúy Vi còn muốn người phục dịch cái gì, khiến Thúy Vi thể ngộ được pháp giới nhất như của tự tánh.

1267. Gánh Vác.
Huyền Sa và Đại Phổ chuyện trò với nhau. Huyền Sa nói:
- Chỉ dẫn cho một người hiểu rõ Đạo sinh hoạt thật khó.
- Đúng vậy, thật là khó!
- Khó ở chỗ nào?
- Ỡ chỗ hắn không chịu gánh vác.
 (Thiền sinh mạng đích vi tiếu)
Vì không chịu gánh vác nên không có khả năng tham dự vào sinh hoạt. Do đó làm sao mà khoái lạc được? Khoái lạc là một loại sinh hoạt thực tiễn không phải tìm cầu mà được.

1268. Trí Tạng và Lý Cao.
Thượng thư Lý Cao hỏi một ông tăng:
- Mã đại sư có lời dạy gì?
- Đại sư hoặc nói “Tức tâm tức Phật” hoặc nói “Phi tâm phi Phật”.
- Chưa quá bên này.
Lý Cao lại hỏi Trí Tạng . Trí Tạng gọi lớn:
- Lý Cao !
- Dạ!
- Cổ giác động.
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Bên này là chỉ cảnh phàm. Công án có thể có 2 giải thích:
Lý Cao nhận rằng ông tăng đối với lời dạy của Mã Tổ chỉ lý giải chứ chưa thể ngộ, cho nên nói ông hãy còn ở trong cảnh phàm.
Lý Cao nhận mình chưa liễu giải.
Cổ giác:cổ là cái trống, giác là tù và, là những dụng cụ trong quân đội để báo giờ. Trí Tạng dùng cổ giác để chỉ tác dụng của tự tánh. Vì tự tánh vô hình vô tướng nên lời nói không thể dùng để tả nhưng có thể dùng để chỉ đạo cho thiền sinh ngộ nhập tự tánh.

1269. Không rời pháp đường.
Dược Sơn hỏi Đạo Ngô:
- Ngươi từ đâu tới?
- Đi chơi núi tới.
- Không rời pháp đường, nói mau!
- Trên núi chim trắng như tuyết, dưới khe cá lội tung tăng.
 (Thiền ngộ dữ thực hiện)
Câu hỏi của Dược Sơn là song quan ngữ (một mặt chỉ tự tánh, một mặt chỉ pháp đường), nếu ngươi không rời pháp đường làm sao du sơn ngoạn thủy? Đạo Ngô không bị mắc bẫy rơi vào văn tự và trí giải, dùng cảnh sắc mà trả lời.

1270. Làm sao để thành Phật.
Một ông tăng hỏi Huệ Trung:
- Làm sao mới thành Phật?
- Tâm là Phật.
- Tâm này có phiền não không?
- Phiền não tự nhiên không khởi.
- Vậy là phải cắt đứt phiền não?
- Nếu cắt đứt phiền não thì là nhị thừa, phải không sinh phiền não thì mới là đại Niết Bàn.
 (Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)
Niết Bàn là chỉ tâm đạt tới cảnh giới thanh tịnh, tròn đầy không còn phiền não.

1271. Chánh pháp nhãn tạng.
Lâm Tế sắp di hóa bảo chúng đệ tử:
- Ta mất rồi, không được làm mất chánh pháp nhãn tạng của ta.
Đệ tử Tam Thánh bước ra thưa:
- Không dám làm mất đâu.
- Về sau có người hỏi ngươi, ngươi sẽ trả lời làm sao?
Tam Thánh lập tức hét to.
- Không ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị mất bởi con lừa mù này!
Lâm Tế nói rồi nhắm mắt an tọa, ly khai nhân thế.
 (Nhất vi thiền: quyển Nguyệt)
Chánh pháp nhãn tạng còn được gọi là thanh tịnh pháp nhãn. Chánh là trung chánh, không nghiêng về một bên; pháp là cái tâm thể trung chánh hiển hiện; nhãn là có thể chiếu soi mọi vật; tạng là tâm chứa mọi thiện pháp. Chúng ta tập quán dùng mắt thịt mà coi vạn tượng thế gian, rồi dùng thường thức mà phán đoán. Do nhiều nguyên nhân cá biệt, mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Nếu dùng chánh pháp nhãn tạng thì phải có tâm nhãn thanh tịnh, vô nhiễm, lấy tâm vô phân biệt mà quán sát sự vật. Chúng ta phải đóng con mắt thường, mở con mắt huệ, đứng trên quan điểm duyên khởi, tánh không mà quan sát sự vật thì mới xem thấy đước thực tướng của vạn vật.

1272. Một khúc tiêu thiền.
Giác A là người Nhật bản đầu tiên đến Trung Quốc học thiền đã được truyền chánh pháp. Sau đó ông cũng không đi khắp nơi du sơn ngoạn thủy, chỉ tìm chỗ thâm sơn cùng cốc mà ngồi tham thiền nhập định. Nếu có người tìm đến học hỏi ông chỉ lược thuyết vài câu. Sau đó ông lại dời đi chỗ khác, không để lại tung tích. Sau nhiều năm tham thiền ở Trung quốc, ông trở về nước. Thiên Hoàng nghe tiếng ông, mời ông vào Hoàng cung giảng pháp. Ông đứng yên lặng trước mặt Thiên Hoàng rồi rút ở trong tay áo ra một một ống tiêu. Ông thổi một điệu tiêu sau đó cung kính vái chào bỏ đi.
 (Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Giác A chỉ thổi một điệu tiêu thôi, không biểu thị gì khác. Do đó, mọi người không nhận ông đã đem thiền vào Nhật Bản, nhưng mỗi khi nghe tiếng chim hót ríu rít, tiếng suối róc rách, tiếng gió thổi qua lá rì rào . . . thì tiếng tiêu đó như phảng phất bên tai chúng ta.

1273. Trong rừng vắng.
Một hôm, Đức Phật ngồi thiền trong rừng vắng. Trừ tiếng gió thổi qua lá ra không có tiếng động nào khác; có khi ngay cả tiếng gió cũng không có nữa. Tất cả đều im lặng. Đột nhiên Ngài nghe có tiếng tranh cãi của một đôi nam nữ từ xa vọng lại. Không lâu thấy một thiếu nữ hoảng hốt chạy qua, không biết có Đức Phật đang ngồi thiền dưới bóng cây. Lại một lát sau, một chàng thanh niên chạy tới, trông thấy Đức Phật bèn hỏi:
- Ông có thấy một thiếu nữ chạy qua đây không? Cô ta đã trộm tiền của tôi.
- Đi tìm người thiếu nữ và đi tìm chính mình, điều nào quan trọng hơn?
Chàng thanh niên kinh ngạc, trong sát na đó như người tỉnh mộng.
 (Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Đánh mất chính mình để đi tìm vật dục thật là ngu xuẩn.

1274. Xuống giường đứng.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Triệu Châu xuống giường đứng yên.
- Có phải lão sư chỉ như vậy không?
- Ta còn chưa nói mà.
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
Triệu Châu xuống giường đứng là dùng động tác để chỉ thị. Ông tăng không hiểu nên hỏi lại tự tánh có phải là như thầy chỉ không? Tự tánh không có phạm vi, giới hạn, chỉ có mình tự thể nghiệm mà biết thôi, không thể phân biệt. Câu đáp của Triệu Châu có nghĩa là ta không có gì để chỉ điểm cả, bác bỏ kiến giải của ông tăng.

1275. Đào đất tìm trời.
Có ông tăng hỏi Thiện Chiêu:
- Đại đạo lúc bắt đầu thế nào?
- Đào đất bùn tìm trời xanh.
- Như vậy sao được?
- Hãy nhận thức lý u huyền!
 (Bồ đề linh quang)
Tìm ngược về khởi nguyên của Đạo là chấp mê, giống như đào đất mà tìm trời xanh.

1276. Xúc mục Bồ đề.
Một ông tăng hỏi Tuyền Châu:
- Thế nào là xúc mục Bồ đề? 
Sư lấy gậy đánh đưổi đi.
 (Thiền sư khải ngộ pháp)
“Xúc mục Bồ đề” là chỉ những gì mắt nhìn, không gì không là Bồ đề. Trong sinh hoạt hàng ngày không có gì không phải là do tự tánh biểu lộ; nhưng điều này phải do chính mình thể ngộ, không thể do người khác bảo cho biết vì những gì người khác nói hay chỉ đều là lý niệm không phải là thể nghiệm. Trong công án này Tuyền Châu lấy gậy đuổi ông tăng đi, nếu ông ngộ thì đó là đáp án của thiền sư, nếu ông không ngộ thì động tác của thiền sư có ý nghĩa là hãy bỏ vọng niệm đi.

1277. Huệ Minh nhấc bát.
Viễn Châu Mông Sơn Huệ Minh, đuổi theo Lư hành giả tới Đại Dữu Lãnh. Huệ Năng để y bát trên tảng đá, sư nhấc lên không được bèn thưa:
- Tôi đến vì pháp, không vì y bát, xin hành giả khai thị.
- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là khuôn mặt xưa nay của Minh thượng tọa?
Sư nghe rồi ngộ.
 (Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Huệ Minh và Huệ Năng cùng là đệ tử của Hoằng Nhẫn. Một người thô tục chỉ muốn đạt danh vị, còn một người là bậc chân tu. Khi Huệ Minh truy sát Huệ Năng, Huệ Năng để y bát lên trên tảng đá, Huệ Minh đến nhấc lên không được mới nói “Tôi đến vì pháp không vì y bát. Xin hành giả khai thị.” Đó là hồi đầu chuyển xứ. Chính sự hồi đầu này là cơ duyên khai ngộ. Có người ở tình cảnh này không chịu ngừng bước nên không có cơ hội mà tham ngộ. cũng giống như tên cướp Ưng Quật Ma La cầm dao bức Phật. Phật bảo “Ta đã ngừng rồi, sao ngươi còn chưa ngưng?”. Tên cướp đột nhiên ngộ đến sự khốn quẫn của thân mình, không hướng ngoại bôn ba mà hướng nội phản chiếu do đó giác ngộ.

1278. Mã Tổ gửi thư.
Mã Tổ sai người đem thư cho Quốc Nhất Đạo Khâm. Đạo Khâm mở thư ra chỉ thấy trong thư vẽ một vòng tròn. Đạo Khâm chấm vào vòng tròn một điểm, rối gửi trả lại. Trung quốc sư nghe được chuyện này phê bình:
- Khâm sư hãy còn bị Mã sư mê hoặc.
 (Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Mã Tổ thích đùa cợt người. Ông vẽ một vòng tròn gửi cho Đạo Khâm là đạo lý gì? Kỳ thực chẳng có đạo lý gì; chỉ là bình thường vẽ một cảnh giới tròn đầy cho Quốc Nhất. Quốc Nhất không ngờ đó là cái bẫy nên bị rơi vào. Ông Chấm 1 điểm vào vòng tròn là công phu của ông là chiếu cả bản lai diện mục. Nhưng điểm của ông còn bị vòng tròn bao vây. Ông chỉ chiếu chứ không thể hoạt. Trung quốc sư là người sáng mắt lợi khẩu nên bảo Khâm sư bị Mã sư mê hoặc. Thực ra cái bẫy của Mã sư đã bị Khâm sư khám phá, nhưng vẫn bị rơi vào. Trung quốc sư cũng vậy cũng ở trong bẫy nốt. Vòng tròn của Mã sư vẽ thiên vẽ địa, bất cứ ai cũng ở trong đó cả. nhưng ở trong đó đâu có sao? Chỉ cần thanh tịnh là được.

1279. Phùng trường tác hý.
Khắc Cần lên giảng đường nói:
- Lửa, chẳng chờ mặt trời mọc mới nóng; gió chẳng đợi trăng lên mới mát, chân hạc dài, chân vịt ngắn, thiên nga trắng, quạ thì đen, mọi sự đều hiển lộ. Nếu lãnh hội ở mọi nơi đều làm chủ, gập cơ duyên đều là thiền chỉ, giống như nghệ sĩ giang hồ có mang theo gậy trúc phùng trường tác hý. Có hạng người ấy chăng?
 (Bồ đề linh quang)
Vạn vật đều hàm thiền chỉ; mọi sự mọi nơi, mọi thời đều có thể tham ngộ; chỉ là nghệ sĩ giang hồ phùng trường tác hý ít thấy thôi.

1280. Gương cổ và thế giới.
Tuyết Phong bảo đại chúng:
- Các ngươi biết không, nhận thức và đối tượng khế hợp nhau; nếu thế giới vuông tròn một thước thì gương cổ cũng vuông tròn một thước. Nếu thế giới vuông tròn một trượng thì gương cổ cũng vuông tròn một trượng.
Huyền Sa Sư Bị chỉ lò lửa hỏi:
- Cái này lớn chừng nào?
- Gương cổ cũng lớn cùng cỡ.
 (Bồ đề linh quang)
Gương cổ (chỉ sự nhận thức) phản chiếu thế giới. Vạn sự vạn vật đều ở trong gương cổ.

1281. Phá chấp.
Bắc Dã là vị trụ trì ở Vĩnh Bình Tự, lúc trẻ thích vân du bốn phương. Năm 20 tuổi trên đường hành cước ông gặp một người hút thuốc, 2 người kết bạn vượt qua đường núi. Đến một gốc cây 2 người ngồi nghỉ mệt. Người bạn đồng hành đưa điếu thuốc thuốc cho ông. Vừa mệt, vừa đói, Bắc Dã nhận lấy và hút vài hơi. Sau đó ông khen vị thuốc rất ngon. Người kia bèn tặng luôn ống điếu và một ít thuốc cho ông. Sau khi người bạn đồng hành đi khỏi, Bắc Dã nghĩ bụng “Hút thuốc thích thật nhưng sẽ làm trở ngại thiền định, ta phải ngưng ngay để khỏi tích ác thành tập”. Do đó ông ném bỏ ống điếu và thuốc hút. Ba năm sau, ông bắt đầu nghiên cứu kinh Dịch. Lúc đó vào mùa đông, ông rất cần áo ấm, bèn viết thư nhờ người mang đến lão sư ở cách xa cả trăm dậm. Mùa đông đã qua gần hết mà áo ấm vẫn chưa nhận được, cũng chẳng có thư tín gì cả. Bắc Dã bèn bói một quẻ thì biết thư mình chưa đến. Quả nhiên không lâu nhận được thư của sư phụ, trong thư không hề đề cập đến chuyện áo ấm. Bắc Dã kinh dị nghĩ bụng “Nếu Dịch học có tác dụng như thế sẽ hủy hoại khóa trình thiền học của ta.” Do đó ông lại bỏ sự nghiên cứu kinh Dịch. Năm 28 tuổi ông lại thích thư pháp và làm thơ, ngày càng tiến bộ và được lão sư khen ngợi. Ông lại nghĩ: “Nếu ta không đình chỉ ngay ta sẽ thành một nhà thi họa, hay một thi sĩ chứ không phải là một thiền sư nữa.”
 (Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Bắc Dã viên tịch năm 1433 thọ 92 tuổi, suốt đời nỗ lực phá chấp tất cả mọi sự việc.

1282. Thiền gần.
Huyện lệnh Thành Đô là Phạm Mỗ nghe nói Viên Ngộ Khắc Cần đến Thành Đô trú ở Chiêu Giác Tự, bèn đến xin thiền sư chỉ con đường Đạo. Viên Ngộ bảo ông tham câu của Mã Tổ “Không phải là tâm, không phải là Phật, không phải là vật” là ý nghĩa gì?
Phạm Mỗ tham cứu rất lâu nhưng chẳng được gì, khóc thưa với Viên Ngộ:
- Xin thầy phương tiện chỉ cho con đường nào khiến con hiểu được Thiền.
- Ở đây ta có một cách rất giản tiện ngươi chỉ cần nghĩ nó là cái gì, không là cái gì?
Phạm Mỗ cuối cùng khai ngộ thưa:
- Nguyên lai Thiền không ngăn cách chút nào, ở ngay bên cạnh.
 (Bồ đề linh quang)
Thiền nói xa thì xa, nói gần thì gần. người cho là huyễn thì xa vạn lý, người biết bình thường thì ở ngay tâm.

1283. Chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.
Một hôm Thuyền Tử dừng thuyền ở bờ, ngồi chơi. Có một vị quan nhân hỏi:
- Việc hàng ngày của hòa thượng là gì?
Thuyền Tử giơ mái chèo lên hỏi:
- Hiểu không?
- Không hiểu.
- Dùng mái chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.
 (Bồ đề linh quang)
Chấp mê khó thấy chân Đạo, ngồi chơi (vô tâm) lại gần thiền cảnh.

1284. Báo danh khế ngộ.
Lương Toại đến thăm Ma Cốc. Ma Cốc thấy ông tới giơ cuốc lên cuốc cỏ. Lương Toại đến chỗ cuốc cỏ. Ma Cốc không thèm nhìn ông trở về phòng phương trượng, đóng cửa lại. Ngày hôm sau Lương Toại lại đến. Ma Cốc vẫn đóng cửa. Lương Toại gõ cửa. Ma Cốc hỏi:
- Ai?
- Lương Toại.
Vừa báo danh xong, Lương Toại hốt nhiên lãnh ngộ, thưa:
- Hòa thượng đừng lừa con, nếu con không đến bái phỏng hòa thượng thì đã bị Phật điển, kinh luận lừa dối một đời rồi. 
Ma Cốc mở cửa tiếp kiến.
Lương Toại về giảng xá nói với đại chúng:
- Những gì các ngươi biết ta đều biết, cái ta biết các ngươi không biết.
 (Bồ đề linh quang)
Tự báo danh, đột nhiên phát hiện tự ngã, nhận thức tự ngã dẫn đến đốn ngộ.

1285. Con chó có Phật tánh không?
 Trong công án “Con chó có Phật tánh không?” (Xem công án 1020), Vô Môn có bài kệ:

狗 子 佛 性
Cẩu tử Phật tánh
全 提 正 命
Toàn đề chánh mạng
才 涉 有 無
Tài thiệp hữu vô
喪 身 失 命
Táng thân thất mạng

Con chó Phật tánh
Nêu trọn chánh lệnh
Vừa nói có không
Vùi thây mất mạng.
 (Hân Mẫn dịch)
- Chữ vô giống như kiếm sắc chặt đứt hai bên (hữu, vô) siêu việt chân không diệu hữu xuyên suốt 48 tắc công án (trong Vô Môn Quan), như là lệnh bài vô tự, như quan tướng quân (Quan Vân trường) qua 5 ải chém 6 tướng, không qua thì không ngừng. 
 (Dương Tân Anh)
- Con chó, Phật tánh, vô là một. Khi trả lời vô, Triệu Châu đã vượt lên khỏi thế giới nhị nguyên của khái niệm. 
(Yamada)

1286. Đầu sào trăm trượng.
1- Một ông tăng hỏi thiền sư về công án “Đầu sào trămtrượng’ làm sao bước được bước nữa? (Xem công án 275), thiền sư kêu:
- A!
Ông tăng tức thời khai ngộ.
2- Một ông tăng được thiền sư cho công án ‘Đầu sào trăm trượng, làm sao bước bước nữa? Ông tham cứu 3 năm vẫn chưa ngộ. một hôm cưỡi lừa đi ngang 1 cây cầu độc mộc, không để ý, người và lừa đều rơi xuống sông. Do đó mà ông ngộ: 
- A! Nguyên lai đầu sào trăm trượng làm sao bước bước nữa là vậy!
 (Sinh hoạt thiền)
Trèo được 99 trượng rồi lên đến 100 trượng không phải là dễ. Lên đến nơi rồi không chịu buông tay mà nắm chắc lấy đầu sào làm sao bước bước nữa? Phải buông bỏ tất cả, ngay cả sinh mạng thì mới bước được bước nữa. Có ông tăng hỏi sư phụ:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Là cũng ý này: tất cả đều là không, không được chấp bất cứ một cái gì dù cái chấp đó là mạng sống, là Phật, là pháp thì mới được hoàn toàn giải thoát.

1287. Lưỡi người sống trong miệng người chết.
Có ông tăng hỏi Quy Nhân:
- Không nêu lên câu hỏi mà tự nói, làm sao lý giải?
- Lưỡi người sống trong miệng người chết.
- Không biết người nào có thể lãnh hội.
- Con trâu không sừng.
 (Bồ đề linh quang)
Người nói có miệng nhưng vô tâm, người ngộ hỗn nhiên viên dung.

1288. Nhà ngươi tự có con cháu.
Lúc Pháp Đăng là trụ trì Lam Viện, Đạo Tề là chủ quản kinh tạng. Một hôm Đạo tề đứng hầu một bên, Pháp Đăng bảo ông:
- Tạng chủ, công án ‘Ý tổ sư từ Tây sang’ ngươi hiểu sao?
- Chẳng Đông, chẳng Tây.
- Còn chưa thấm tới bờ.
- Con chỉ hiểu vậy, còn hòa thượng thì sao?
- Nhà ngươi tự có con cháu.
Đạo Tề ngộ ngay ý chỉ.
 (Bồ đề linh quang)
Nhà ngươi tự có con cháu, nhà mình (tâm) phải nên coi sóc.

1289. Con lừa.
Ích Châu Tông Mục thượng đường, có một ông tăng giơ tay nói:
- Hòa thượng là một con lừa.
- Ta bị ngươi cưỡi.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
Tâm cảnh đã triệt để an nhiên kiên cố như thành lũy thì không có ngoại lực nào có thể công phá được.

1290. Bốn lời nguyện lớn.
Bạch Vân Thủ Đoan thượng đường nói:
- Ông già Thích ca có 4 lời nguyện lớn: “Chúng sinh vô biên thề nguyện độ, phiền não vô biên thề nguyện đoạn, pháp môn vô biên thề nguyện học, Phật Đạo vô biên thề nguyện thành.” Pháp Hoa cũng có 4 lời nguyện lớn: “Đói thì ăn, mệt thì ngủ, lạnh mặc thêm áo, nóng thích gió mát thổi”.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
Người xuất gia phải giữ giới luật. Sinh hoạt hàng ngày bị câu thúc như cử chỉ phải nghiêm trang v . v . Đó là giai đoạn còn đang tu Thấy núi chỉ là núi. Khi đã ngộ rồi thấy núi lại là núi, sinh hoạt cứ tùy duyên không bị vật ngoại nhiễu loạn, tự do vô ngại.

1291. Thiền của Lão bà.
Ma Cốc, Bảo triệt, Nam Tuyền cùng hai ba người nữa đến yết kiến Kinh Sơn Đạo Khâm. Trên đường gập một bà lão. Ma Cốc hỏi:
- Đến Kinh Sơn đi lối nào?
- Cứ đi thẳng.
- Phía trước nước sâu có qua được không?
- Chân chẳng ướt nước.
- Sao bờ trên lúa tốt, bờ dưới lúa xấu vậy?
- Đều bị cua ăn hết.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
Học Thiền phải chuyên cần tinh tấn đừng sợ này sợ nọ thì mới có hy vọng thành công. Ở đây bà lão là một tác gia, bà dùng lối chơi chữ để ngụ ý. Trong tiếng Tầu con cua là “bàng giãi”. Tiếng đồng âm của bàng là bàng vụ là bị cảnh nhiễu loạn, của giãi là giãi đãi là lười, sợ khó mà lui.

1292. Pháp thân thanh tịnh.
 (Đàn Kinh)
Vạn sự, vạn vật đều do tự tánh mà sinh. Nếu nghĩ thiện thì làm điều thiện; nghĩ ác thì làm điều ác. Nhưng tự tánh vốn thanh tịnh như mặt trời bị mây đen che đi; bên trên là sáng, bên dưới là tối. Chỉ cần gió thổi mây tan: mặt trời lại hiện ra chói lọi. Mặt trời là tự tánh thanh tịnh, mây đen là vọng niệm, gió là trí huệ.

1293. Hư không không so sánh được.
Có ông tăng hỏi Cảnh Huyền:
- Người thông ngộ triệt để thì thế nào?
- Hư không không so sánh được.
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
- Trâu trắng phà ra tuyết, gà ác cưỡi ngựa ô.
 (Bồ đề linh quang)
Đối với người triệt ngộ tất cả đều viên dung, trắng, đen đều thông suốt.

1294. Xem múa rối.
Một hôm ngũ tổ Pháp Diễn bảo đại chúng:
- Hôm qua lão tăng vào thành thấy đám múa rối bèn lại xem, thấy các con múa rối diễn rất sinh động. Quan sát kỹ mới biết có người ở sau màn giật giây. Lão tăng không nhịn được cười hỏi:
- Trưởng sử tánh gì?
Không ngờ ông ta nói:
- Lão hòa thượng xem kịch thì cứ việc xem, còn hỏi tánh làm gì?
Lão tăng bị câu nói này không lời đáp lại được. Các ngươi có thể đáp thay cho ta không? Hôm qua ta ở đó bị thua thiệt hôm nay ở đây bù lại được rồi.
 (Bồ đề linh quang)
Người sau màn chỉ tự tánh. Mọi hành động của con người đều như con rối, do tự tánh điều khiển. Tự tánh phải thể nhận, không thể dùng lời mà tả được.

1295. Cuốn chiếu.
Một hôm Mã Tổ Đạo Nhất thăng đường. Đại chúng tụ lại để nghe pháp. Bách Trượng cuốn chiếu. Mã Tổ bèn xuống tòa giảng.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
Đại Đạo lìa ngôn ngữ, văn tự cho nên không cần phải nói.

1296. Ta không phải là ống loa.
Có một học tăng đến bái phỏng Thiết Chu, yêu cầu Thiết Chu giảng cho ông nghe Lâm Tế Lục .
- Ngươi tìm lầm người rồi, muốn nghe Lâm Tế Lục, tốt nhất là hãy đến Viên Giác Tự kiếm Hồng Xuyên.
- Không, con đã nghe Hồng Xuyên giảng rồi. Nghe nói thầy là truyền nhân của Trích Thủy hòa thượng, con muốn nghe thầy giảng. Thiết Chu chối từ hai ba lần không được đành dẫn học tăng ra luyện võ trường cùng luyện võ. Hai người luyện đến đổ mồ hôi hột mới ngưng. Thiết Chu dẫn ông tăng trở lại pháp đường.
- Thế nào ta giảng Lâm Tế Lục ra sao?
Ông tăng ngạc nhiên không thốt ra lời. Thiết Chu nhắc lại câu hỏi, ông tăng bất đắc dĩ đáp:
- Lâm Tế Lục của thầy chỉ là một bản kiếm phổ sao?
- Ta là kiếm khách, do đó ta chỉ đề xướng kiếm đạo. Ta tuy cùng Trích Thủy học Thiền nhưng ta không phải là ống loa.
- Nói vậy thì chư tổ xưa nay truyền pháp truyền tâm đều là ống loa cả sao?
- Truyền pháp, truyền tâm là truyền pháp truyền tâm, truyền loa là truyền loa.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Không phải là loa truyền, đó là phong cách đặc biệt của thiền sư. Nói đi nói lại chỉ là thiền vẹt không phải là truyền pháp truyền tâm. Phàm học thiền lý phải tự mình tiêu hóa trước, sau đó mới nói ra lời.

1297. Chân không diệu hữu.
Ngọc Tuyền theo học lâu ngày với Viên Ngộ Khắc Cần cùng Đại Huệ Tông cảo là đồng môn; tự nhận mình đã khai ngộ, không còn nghi hoặc nữa. Do đó bắt đầu giảng dạy Phật pháp. Các học tăng đổ xô tới tham học rất đông. Đại Huệ biết ông chưa triệt ngộ sợ ông chỉ lầm cho người sau, bèn viết thư bảo ông đến gập. ngọc Tuyền do dự được mất, không vội trả lời ngay. Đại Huệ bèn viết bảng ngoài cửa bảo cho tứ chúng hay. Ngọc Tuyền bất đắc dĩ phải đến gập Đại Huệ. Sau khi khảo nghiệm bèn trách:
- Kiến giải của ông như vậy mà dám xưng là pháp từ của lão sư Viên ngộ sao?
Ngọc Tuyền do đó trở về phòng tham cứu. Một hôm đến tham Đại Huệ, Đại Huệ hỏi:
- Ta muốn có một người không hiểu thiền làm quốc sư.
- Đệ có thể làm quốc sư.
Đại Huệ hét lớn đuổi ra. Sau đó, không lâu Đại Huệ bảo ông:
- Chỗ ngộ cũa Hương Nghiêm không phải ở nơi hòn đá văng vào gốc tre, chỗ ngộ của Câu Chi không phải ở đầu ngón tay .
Ngọc Tuyền nghe rồi, hốt nhiên thông đạt thiền pháp, lúc đó mới là triệt ngộ.
Một hôm, Đại Huệ lên toà giảng nêu lên công án Vân Môn giơ gậy lên thị chúng. Bỗng giơ gậy lên bảo: 
- Gậy không thuộc hữu, không thuộc vô, không thuộc ảo, không thuộc không. Dộng gậy xuống một cái, nói tiếp:
- Phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát đều hướng về chỗ đó, tùy theo căn tánh mình mà có thọ dụng, còn đối với nạp tăng muốn làm, không thể làm. Muốn tọa không thể tọa tiến lên một bước bị gậy làm lạc đường; lùi lại một bước bị gậy xuyên qua lỗ mũi. Hãy cùng gậy tương kiến nếu không sang năm lại có gậy khác làm náo loạn gió xuân, chính lúc đó phải làm sao?
Nói rồi xuống tòa bảo Ngọc Tuyền lên tòa giảng khai thị cho đại chúng.
Ngọc Tuyền nói:
- Lời hoà thượng vừa nói giống như cá mắc trong đầm, chim bệnh trong khóm lau, còn ta không như vậy.
Nói rồi giơ gậy lên:
- Gậy có thể Hữu, có thể Vô, có thể Ảo, có thể Không, phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát (dộng gậy xuống) hướng về chỗ đó. Còn như nạp tăng như rồng gặp nước, như hổ tựa non, muốn đi là đi, muốn ngồi là ngồi, tiến một bước thì càn khôn chấn động, lùi một bước thì cỏ rạp gió đi, nên nói không tiến, không lui làm gì?
Rất lâu lại thêm:
- Lúc nhàn, cầm kinh đứng dưới gốc tùng, cười hỏi khách tử đâu tới?
 (Nhất vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Hai đoạn pháp trên, Đại Huệ giảng chân không, Ngọc Tuyền giảng diệu hữu. Đại Huệ không thể không lau mắt cho vị đầu sào trăm trượng Ngọc Tuyền. Chưa ngộ mà nói ngộ, nếu không phải là ngu si thì là tự cao tự đại. người sáng mắt chỉ cần hai ba lời là hồ ly đã lòi đuôi cáo. Ngọc Tuyền do Đại Huệ chỉ thị nhận thức lại chính mình nên đã giác ngộ.

1298. Gia Cảnh.
Một ông tăng hỏi Hoằng Thông:
- Gia cảnh thầy thế nào?
- Cả người không đáng 5 phân tiền.
- Thật nghèo quá.
- Đời xưa đều vậy.
- Làm sao tiếp dẫn người học?
- Thấy gia cảnh giầu có còn là nghèo.
 (Bồ đề linh quang)
Nghèo chỉ tánh “Không”.

1299. Nhàn thần dã quỷ.
Phần Dương Thiện Chiêu một hôm bảo chư tăng:
- Hôm qua ta nằm mộng thấy cha mẹ đã qua đời muốn ta cúng vàng mã và rượu thịt. Ta thấy khó chịu đành phải theo phong tục mà mua đồ cúng tế. 
Cúng tế xong Phần Dương một mình, một chiếu uống rượu ăn thịt không coi ai vào đâu. Chư tăng coi không được chỉ trích:
- Hôm nay chúng tôi mới biết nguyên lai ông chỉ là một hòa thượng rượu thịt, làm sao có tư cách làm đạo sư chúng tôi.
Nói rồi cả bọn thu dọn hành trang bỏ đi. Chỉ còn lại 6, 7 người như Thạch Sương Sở Viên, Đại Ngu Thủ Chi v . v . là không đi. Bọn họ sau này đều trở thành những đại thiền sư.
Phần Dương cảm khái than:
- Chỉ tốn chút rượu thịt, vàng mã đã đuổi đi bao nhiêu nhàn thần dã qủy.
 (Bồ đề linh quang)
Thiền không giảng cứu hình thức. Nếu bị cành lá che khuất mà không thấy cây lớn thì làm sao vào thiền.

1300. Ý chỉ Hoàng Mai.
Có ông tăng hỏi Lục tổ:
- Người nào nhận được ý chỉ của Hoàng Mai?
- Người hiểu Phật pháp.
- Hòa thượng nhận được không?
- Ta không được.
- Vì sao hòa thượng không được?
- Ta không hiểu Phật pháp.
 (Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Ý chỉ Hoàng Mai là chỉ sự truyền pháp. Ai cũng biết y bát đã được Hoàng Nhẫn trao cho Huệ Năng. Ý chỉ Hoàng Mai đương nhiên là Lục tổ thể hội. Câu hỏi của ông tăng là một cái bẫy, Lục tổ thuận mồm chỉ thẳng, hiện tiền viên mãn, không chỗ quái ngại. Chỉ cần hiểu Phật pháp là được ý chỉ Hoàng Mai. Thiền là hiện thành, hiện tiền, không có gì là bí mật cả như mọi người đều được hưởng ánh mặt trời. Câu “Ta không hiểu Phật pháp” thật là cao minh. Có người hiểu Phật pháp liền bị rơi vào Phật pháp. Thích Ca Mâu Ni giảng pháp 49 năm nhưng không nói một lời. Lục tổ lấy Phật pháp đánh răng, xúc miệng, ngày ngày đều dùng há chẳng hiểu Phật pháp? Không có diệu pháp nào để được thì mới được A Nậu Đa la Tam Miệu Tam Bồ Đề. Muốn được cảnh giới đó thì phải có chỗ khẳng định. Do đó Lục tổ nói không có diệu pháp nào để được, ta không hiểu Phật pháp.

1301. Gió nhẹ thổi qua rặng tùng.
 Lại gần nghe mới rõ.
 (Hàn Sơn Thi)
Đối với người thường thì người nghe (chủ thể ) và gió nhẹ (đối tượng) là hai, nhưng đối với thiền giả thì chỉ là một. Vì vậy ‘lại gần’ là chủ thể sáp lại đối tượng cho đến khi hòa với nó làm một. Đó là quá trình vô tâm tự nhiên. Lấy vô tâm mà nghe, tiếng gió chính là tự kỷ. Đó là tự tha bất nhị vậy. Phương thức ‘lại gần’ này trong thiền học gọi là ‘sự tùng vấn tùng, sự cúc thính cúc’.

1302. Chân tâm bất muội.
Mộng Song quốc sư từng làm thầy của 7 triều Hoàng đế. Thọ nhiều ân điển của triều đình, cũng được tín đồ và dân chúng ngưỡng mộ. Trên đường vào kinh đi ngang Diệu Tâm Tự liền vào bái phỏng Quan Sơn. Quan Sơn nghe tin Mộng Song tới vội khoác chiếc cà sa rách nát chạy vội ra cửa nghinh đón. Hai người chuyện trò rất cao hứng. Tự viện của Quan Sơn rất nghèo không có gì để tiếp đãi quốc sư. Quan Sơn bất đắc dĩ lấy mấy phân tiền kêu thị giả mua vài cái bánh nướng cung dưỡng quốc sư. Quốc sư cảm kích tâm ý của Quan sơn không khách khí ăn hết bánh rồi đi. Bình thường Mộng Song vào cung đều có nhiều tùy tòng theo hầu. Một hôm, trong cung có chiếu mời, Mộng Song đi kiệu ngang qua Diệu Tâm Tự, thấy Quan Sơn đang cầm chổi quét lá, gom lại một đống để dành để nấu bếp, liền bảo thị giả:
- Tông môn ta bị Quan Sơn đoạt mất rồi.
Quan Sơn mỗi khi đến bái phỏng Mộng Song đều tại khe suối trước cổng chùa rửa chân cẩn thận để khỏi làm lấm bẩn Thiên Long Tự. Về sau Mộng Song sai các học tăng để một tảng đá bằng phẳng ở bên bờ suối để cho Quan Sơn dễ dàng rửa chân. Quan Sơn biết chuyện này than rằng:
- Quốc sư quả thật là quốc sư, tông phong của ông so với tảng đá này còn cứng hơn nhiều.
Hiện tảng đá này còn được giữ ở Đại Long Viện ở Diệu Tâm Sơn.
 (Tinh vân thiền thoại)
Phật pháp phải cung kính mà cầu, trong sinh hoạt mà tu. Quan Sơn thi hành triệt để, tự mình quét sân chùa, dùng lá quét để thổi nấu là tiếc phúc, khi bái phỏng đều rửa chân sạch sẽ là tôn kính chẳng trách được quốc sư khen ngợi.

1303. Lãnh hội học nhân.
Có ông tăng hỏi Duyên Đức:
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Nước, chim, cây, rừng.
- Học nhân chẳng lãnh hội.
- Vậy, hãy lãnh hội học nhân đi!
 (Bồ đề linh quang)
Thiền sư coi ‘tâm của cổ Phật’ cũng giống như nước, chim cây, rừng, đều là hư ảo, chỉ có người học tự ngộ mới thật sự là Thiền đạo

1304. Một giọt cũng không hưởng được.
Trí Thường và Nam Tuyền cùng hành cước. Một hôm định chia tay, đun trà rồi Nam Tuyền hỏi:
- Lúc trước cùng sư huynh thương lượng, ngữ cú đều đã biết. Về sau nếu có người hỏi ngộ đạo chuyện lớn làm sao đáp?
- Khoảng đất này nên cất am.
- Chuyện cất am sau này sẽ nói, còn chuyện lớn ngộ đạo phải làm sao?
Trí Thường đạp đổ siêu trà đứng dậy. Nam Tuyền hỏi:
- Sư huynh đã uống trà, đệ còn chưa uống mà?
- Nếu nói vậy, một giọt trà cũng không hưởng được.
 (Bồ đề linh quang)
Xét sự lý đến cùng chỉ là dung tục, càng uống trà lại càng hồ đồ.

1305. Hãy còn một quyết.
Liễu Đường Chân Giác là người kinh đô Đại Hòa. 17 tuổi xuất gia. 23 tuổi tham học Đại nguyên Tông Chân mà đại ngộ. 40 tuổi đi thuyền sang Trung Quốc tham học. Thuyền đi chưa được bao lâu, khi ra đến biển lớn bỗng nhiên gập sóng to gió mạnh. Mọi người trên thuyền đều thất kinh rối loạn, chỉ riêng có Liễu Đường bình tĩnh đoan tọa niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Tiếng niệm Phật của Liễu Đường làm mọi người bình tĩnh trở lại, nhiều người cùng niệm với ông; tiếng niệm Phật át cả tiếng sóng gió. Khi thuyền bình yên cập bến, mọi người trên thuyền đều tôn ông là Phật sống. Liễu Đường tiếp dẫn học nhân thường dùng câu ‘Vạn pháp trở về một, một trở về đâu’ làm cơ dụng (Xem công án 1040). Một hôm một học tăng hỏi về Động Sơn ngũ vị quyết (Xem công án 505). Liễu Đường giảng cặn kẽ, rồi hỏi:
- Hiểu rõ chưa?
- Con hiểu rồi!
- Tốt lắm! Nhưng ngoài ngũ vị quyết ra còn một quyết ngươi có hiểu không?
Ông tăng không biết làm sao trả lời. Liễu Đường bảo:
- Quyết này ngươi phải ghi nhớ, khi đến mọi nơi tham học không thể bảo cho người biết ngươi nghe giảng ngũ vị quyết ở nơi ta.
 (Tinh vân thiền thoại)
Chẳng nên tùy tiện lấy ống loa là một quyết để chỉ sự sử sự. Ngạn ngữ cũng có câu ‘thị phi chỉ là do lắm mồm’. Người ăn mật, ngọt nhạt thế nào chỉ mình biết, không thể dùng lời diễn hết ý.

1306. Uy đức và chiết phúc.
Thời Nam Bắc Triều, Tăng Trù trú ở Tung Sơn. Trong chùa tăng chúng khoảng trăm người hàng này thường dùng nước suối từ một hốc đá phun ra. Một hôm có một người đàn bà mặc quần áo rách rưới, hôi hám, tay cầm một cái chổi ngồi trên tảng đá trên suối nước, nghe tăng chúng tụng kinh. Mọi người coi bà ta là người phong cùi đồng hô đuổi bà ta đi. Bà ta thấy vậy rất tức giận dùng chân đạp vào suối nước. Suối nước lập tức khô cạn, bà ta cũng không thấy đâu nữa. Lúc đó mọi người đều kinh sợ, biết đã gây họa rồi, bèn đem sự tình kể cho Tăng Trù nghe. Tăng Trù mặt lộ tươi cười ra ngoài chùa miệng hô lớn tiếng ba lần:
- Ưu bà di! Ưu bà Di! Ưu bà di! (người phụ nữ học Phật tại gia)
Nguời đàn bà bèn xuất hiện. Thiền sư bảo bà ta:
- Chư tăng đang hành đạo, bà nên hộ trì, đừng gây rối.
Người đàn bà sẽ đạp chân vào suối, suối lại tuôn nước ra. Lúc đó đại chúng đều cảm kích uy đức thần dị của thiền sư. Về sau Tề Văn Tuyên Đế mỗi khi làm xong quốc sự đều dẫn vài vệ sĩ đến gập thiền sư hỏi đạo. Thiền sư cứ mặc Tuyên Đế đến đến, đi đi không hề đưa đón một lần. Chúng đệ tử hỏi:
- Bạch thầy, bệ hạ mỗi lần giáng lâm lễ Phật, đối với việc hoằng dương Phật pháp đều rất lợi ích. Thầy không đưa đón sợ người ta dị nghị.
- Lúc trước Tân Đầu Lư đón vua 7 bước, làm cho vua bị thọ nạn 7 năm. Ta tuy đức không dám sánh với người khác nhưng cũng không thể chiết phúc của Hoàng thượng.
 (Tinh vân thiền thoại)
Lấy con mắt phàm mà nhìn thì Tuyên đế là quốc vương, nhưng ở chân lý thì Tăng Trù là pháp vương đương thời. Quốc vương và Pháp vương ai đáng quý hơn? Trước Tăng Trù không lâu Đông Tán Huệ Viễn đề xuất ‘Sa môn chẳng kính Vương giả’. Ông lý luận ‘cà sa không phải là phẩm phục của triều đình, y bát chẳng phải là dụng cụ của nhà chùa sao?’
Tăng Trù không đưa đón vua cũng là ý đó.

1307. Ý Tổ Sư.
1- Một ông tăng hỏi Tam Bình:
- Tam thừa thập nhị phần giáo con không nghe, nhưng thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
- Phất tử lông rùa, trụ trượng sừng thỏ, đại đức chứa ở đâu?

2- Một ông tăng hỏi Phục Long:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Sao ngươi không thấy ngứa vậy?

3- Một ông tăng hỏi Long Vân:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao:
- Đêm qua mất trâu trong chuồng.

4- Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Triệu Châu gõ vào chân thiền sàng.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
1308. Ý Tào Khê.
Có ông tăng hỏi Mục Châu Trần Tôn Túc:
- Ý Tào Khê là gì?
- Lão tăng thích sân, không thích hỷ.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)

1309. Đại ý Phật pháp.
1- Có ông tăng hỏi Thần Đăng:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Ngồi thuyền sắt trên không, sóng bủa quanh đỉnh núi.

2- Có ông tăng hỏi Linh Vân Chí Cần:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
- Việc lừa chưa đi, việc ngựa đã tới.
- Con không hiểu.
- Ban ngày khó gập tinh linh.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)

1310. Đệ nhất nghĩa.
Có ông tăng hỏi Nam Thiền Khế Phiên:
- Thế nào là đệ nhất nghĩa?
- Sao không hỏi đệ nhất nghĩa?
 (Thiền ngoại thuyết thiền)

1311. Chư Tổ truyền gì?
1- Có ông tăng hỏi Sơn Huy:
- Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
- Ngươi hỏi ta, ta hỏi ngươi

2- Có ông tăng hỏi Nam Tuyền:
- Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
- Một, hai, ba, bốn, năm.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)

1312. Đường đi lên.
Có ông tăng hỏi Trường Sa:
- Thỉnh thầy chỉ cho con đường đi lên.
- Một lỗ kim, 3 thước chỉ.
- Làm sao hiểu đây?
- Vải Ích Châu, lụa Dương Châu.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)

1313. Vì người.
Một ông tăng hỏi Kim Luân Khả Quán:
- Theo tông thừa làm sao để vì người?
- Hôm nay ta chưa uống trà.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)

1314. Chính mình.
Có ông tăng hỏi Phúc Khê:
- Thế nào là chính mình?
- Ngươi hỏi gì?
 (Thiền ngoại thuyết thiền)

1315. Căn nguyên của pháp.
Một ông tăng hỏi Tuyết Nhạc:
- Thế nào là căn nguyên của Pháp?
- Tạ ơn chỉ thị.
 (Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1307 đến 1315: các câu đáp đều không ăn khớp với câu hỏi. Hỏi một đằng, trả lời một nẻo, mục đích là để phá trừ tri kiến.

1316. Tham thiền pháp khí.
Pháp Viễn Viên Giám lúc chưa chứng ngộ cùng Thiên Y Nghĩa Hoài nghe nói thiền phong của thiền sư Quy Tỉnh rất cao, cùng chúng bạn tất cả 8 người đến tham phỏng Quy Tĩnh. Lúc đó là mùa đông, tuyết rơi tơi bời. Quy Tĩnh vừa gập mặt là chửi rủa đuổi đi. Mọi người không chịu đi. Quy Tĩnh bèn lấy nước tạt, quần áo mọi người đều bị ướt. 6 người trong bọn không nhịn được, đều tức giận bỏ đi, chỉ có Pháp Viễn và nghĩa Hoài là quỳ mãi không đi. Không lâu Quy Tĩnh lại ra hét lớn:
- Các ngươi sao còn chưa đi? Chẳng lẽ đợi ta đánh cho vài gậy?
Pháp Viễn thành khẩn thưa:
- Chúng con 2 người từ ngàn dậm lại tham học, há vì một gáo nước tạt mà đi sao? Cho dù có dùng gậy đánh chúng con cũng không đi.
Quy Tĩnh bất đắc dĩ nói:
- Nếu thật đến tham thiền thì hãy đi quải đơn đi (quải đơn hay quải đáp là treo áo và túi đựng bát ở góc tăng phòng; ý là chấp nhận cho tạm trú).
Pháp Viễn quải đơn rồi từng giữ chức Điển tọa (nấu cơm). Có một lần chưa bẩm báo đã nấu cháo ngũ vị cung dưỡng đại chúng. Quy Tĩnh khi biết chuyện này rất tức giận:
- Lấy đồ của thường trú mà tư cúng đại chúng, ngoài việc phạt đánh đòn còn phải bồi hoàn phí dụng.
Nói rồi đánh Pháp Viễn 30 gậy, tịch thu y bát để trừ vào tổn thất. Sau đó đuổi Pháp Viễn ra khỏi chùa. Pháp Viễn tuy bị đuổi ra khỏi chùa nhưng không đi, mỗi ngày đều ngủ ở hành lang. Quy Tĩnh biết chuyện lại bảo:
- Hành lang cũng là công sở của thường trú, ngươi ngủ ở đó cũng phải trả tiền.
Nói rồi sai người tính tiền phòng. Pháp Viễn vẫn không tỏ vẻ khó chịu, vào phố tụng kinh cho người để kiếm tiền trả. Sau đó không lâu, Quy Tĩnh bảo đại chúng:
- Pháp Viễn quả thật là tham thiền pháp khí.
Bèn sai thị giả mời Pháp Viễn vào pháp đường, trước mặt đại chúng trao cho pháp y, đặt hiệu là Viên Giám.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Phù Sơn Pháp Viễn, chỗ đắc lực một đời là vì pháp nhẫn nại. Quy Tĩnh không cho ông quải đơn, mắng ông, đánh ông, lấy nước lạnh tạt ông, thậm chí bắt ông bán áo, mền để bồi thường, dù ngủ ở hành lang cũng bị tính tiền, đều không làm ông bỏ tâm nguyện, cho nên không lạ gì sau đó Quy Tĩnh tán thán ông.
Các học giả ngày nay gọi là tham học, nếu đãi ngộ ăn ở không tốt liền tức khắc bỏ đi, nếu không đủ lễ lạc liền phẫn hận bỏ đi, nếu so với Pháp Viễn thật đáng hổ thẹn.

1317. Hoành Trí Chính Giác.
Hoành Trí chủ trương Mặc chiếu thiền. Năm 7 tuổi ông có thể đọc cả ngàn câu kinh, 11 tuổi xuất gia, 14 tuổi thọ cụ túc giới, 18 tuổi đi tham học các nơi, ông hướng tổ phụ thưa:
- Nếu con không phát minh đại sự, nguyện không trở về.
Ông đến Hà Nam yết kiến Khô Mộc Pháp Thành ở Hương Sơn. Khi gập mặt Khô Mộc rất coi trọng ông. Một hôm ông nghe các hòa thượng tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa tới câu “phụ mẫu sở sinh nhẫn, tất kiến tam thiên giới” bỗng nhiên tỉnh ngộ, lập tức vào phòng phương trượng trình sở ngộ. Khô Mộc chỉ hộp hương hỏi ông:
- Trong đó là vật gì?
- Là tâm hạnh gì?
- Ngươi ngộ cái gì?
Hoành Trí dùng tay vẽ một vòng tròn trình lên rồi lại ném về sau.
- Gã nghịch bùn bao giờ mới thôi?
- Sai.
- Chớ thấy người mới được!
- Dạ, dạ.
Hoành Trí lại đến tham Đơn Hà. Đơn Hà hỏi:
- Trước không kiếp, tự kỷ là thế nào?
- Ếch đáy giếng uống trăng, canh ba chẳng dùng mành.
Hoành Trí yên lặng suy nghĩ, Đơn Hà đánh cho một phất tử:
- Nói lại không sai.
Hoành Trí bái tạ. Đơn Hà bảo:
- Sao không nói một câu:
- Hôm nay con mất tiền lại tạo tội.
- Ta không rảnh đánh ngươi, đi ra!
Hoành Trí từ nhỏ đã thông mẫn hơn người, khi khai ngộ mới 23 tuổi. Ông chủ trương Mặc chiếu thiền, ảnh hưởng rất cao xa. Trước khi mất ông có để lại một bài kệ:

夢 幻 空 花
Mộng ảo Không hoa
六 十 七 年
Lục thập thất niên
百 鳥 煙 沒
Bạch điểu yên một
秋 水 連 天
Thu thủy liên thiên

Không hoa, mộng ảo
Sáu mươi bẩy rồi 
Chim bay không vết
Nước thu liền trời.
 (Nhất vị thiền: Quyển Nguyệt)
Bài kệ diễn tả cảnh giới thiền bao la, tịch tĩnh, thống nhất.

1318. Nam phương có cái này không?
Vô Trước lúc còn trẻ, tại ngũ Đài Sơn cùng luận thiền với Bồ tát Văn Thù. Văn Thù đưa một tách trà bằng pha lê rất tinh xảo cho Vô Trước và hỏi:
- Nam phương có cái này không?
- Không.
Vậy sao? Người phương Nam dùng gì để uống trà?
Vô Trước biết Văn Thù không chỉ hỏi chuyện uống trà nên không đáp được, trong lòng bất an không có lòng thưởng trà, bèn từ biệt mà đi. Ra khỏi cửa Vô Trước hỏi đồng tử:
- Sư phụ ông nói trước 33 sau 33, vậy là bao nhiêu?
Đồng tử hô:
- Hòa thượng!
- Dạ!
- Tiếng ông đáp lại là mấy tiếng?
Vô Trước liền ngộ.
 (Bồ đề linh quang)
Một là ba. Một là trời đất, một là thiền tâm.

1319. Liễu tâm.
Đại nhân Lưu Thị Ngự đến bái phỏng Ngưỡng Sơn, hỏi:
- Liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh, thầy có thể chỉ cho con đạo lý này không?
- Nếu muốn liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh thì phải vô tâm mới được. Lúc đó không có vọng niệm để trừ, không có tâm để minh, không có tánh để kiến. Đó mới thực là trừ bỏ vọng niệm, chính thực minh tâm kiến tánh.
 (Bồ đề linh quang)
Tâm có thể dung nạp vạn sự, vạn vật, cũng là một phiến không gian yên lặng, trong trẻo.

1320. Hai cách nhìn.
Có lần Long nha viết một bài kệ:

學 道 如 鑽 火
Học Đạo như toàn hỏa
逢 煙 未 可 休
Phùng yên vị khả hưu
直 待 金 星 現
Trực đãi kim tinh hiện
歸 家 始 到 頭
Quy gia thủy đáo đầu

Học đạo như bật lửa
Thấy khói chưa thể ngưng
Chỉ đến khi lửa sáng
Tới nhà thì mới dừng. 

Thần Đỉnh đọc được bài kệ trên bèn làm 1 bài kệ, phản bác như sau:

學 道 如 鑽 火
Học Đạo như toàn hỏa
逢 煙 便 可 休
Phùng yên tiện khả hưu
莫 待 金 星 現
Mạc đãi kim tinh hiện
燒 額 又 燒 頭
Thiêu Ngạch hựu thiêu đầu

Học đạo như bật lửa
Thấy khói có thể ngưng
Chớ đợi khi lửa sáng
Đầu cổ đã cháy bùng.
 (Sinh hoạt thiền)
Bài kệ của Long Nha ý là người học đạo tham thiền thấy khói không thể ngưng. Phải tiếp tục cố gắng cho tới khi có lửa. Lúc đó mới được coi là công phu đã về tới nhà. Rõ ràng là thiền cảnh này chỉ mới tới cửa chứ chưa vào được nhà; hãy còn tu, chưa được giải thoát. Do đó Thần Đỉnh nói phản bác. Bài kệ của ông có ý là: đừng chấp vào một cái gì, ngay cả thiện pháp nếu không nó sẽ trở thành ác pháp. Thí dụ thuốc là một thiện pháp đối với người có bệnh, nhưng đối với người không bệnh nó sẽ trở thành ác pháp.

1321. Thi kệ luận đạo.
Một hôm Chứng Ngộ đến thăm Am Nguyên. Buổi tối trong lúc nói chuyện, Chứng Ngộ đề cập đến bài kệ của Tô Đông Pha (Xem công án 440) và khen ngợi:
- Không dễ gì đạt tới cảnh giới này.
Am Nguyên không đồng ý:
- Loại thuyết pháp này còn chưa thấy đường, nói gì đạt tới đích?
- Nếu không đạt tới cảnh giới đó làm sao viết được 2 câu:
Mầu sắc núi chính thân thanh tịnh
Tiếng suối reo chính lưỡi rộng dài.
như vậy, tin tức ấy từ đâu ra?
- Chỉ là gã ở ngoài cửa.
- Xin thầy chỉ điểm.
- Nên từ chỗ này dụng công tham có thể biết bản mạng ở đâu.
Chứng Ngộ cả đêm suy nghĩ, không sao ngủ được,bất tri bất giác trời đã sáng, bỗng nghe tiếng chuông, hoảng nhiên đại ngộ bèn làm bài kệ:

東 坡 居 士 太 饒 舌
Đông Pha cư sĩ thái nhiêu thiệt
聲 色 關 中 欲 透 身
Thanh Sắc quan trung dục thấu thân
溪 若 是 聲 山 是 色
Khê nhược thị thanh sơn thị sắc
無 山 無 水 好 愁 人
Vô sơn vô thủy hảo sầu nhân

Cư sĩ Đông Pha thật lắm lời
Ở trong thanh sắc muốn ra chơi
Nếu suối là thanh, non là sắc
Chẳng non, chẳng nước khéo buồn người.

Sau đó trình lên Am Nguyên. Am Nguyên bảo:
- Nói với ngươi là gã ở ngoài cửa.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Thiền không thể dùng lời, không thể dùng chữ mà tả được, cũng không thể nghĩ, chỉ có ngộ rồi mới thể nhận được. Chứng ngộ sau một đêm thâm tư, tiếng chuông sớm đã mở ra cánh cửa tâm ông. Cảnh giới của ông và của Tô Đông Pha bất đồng.

1322. Chó Thu Điền.
Chó Thu Điền là một loài chó quý của Nhật Bản. Sản địa là huyện Thu Điền ở miền Đông Bắc nước Nhật. Ngoài ngoại hình đẹp đẽ còn thông minh, đáng yêu. Bát Công là một con chó Thu Điền từ nhỏ đã được giao cho một vị giáo sư ở đại học Đông Kinh nuôi dưỡng. Vị giáo sư này là một người rất từ ái. Ông thường nói với vợ con:
- Người có nhân cách, chó cũng có khuyển cách, vì vậy các người nên tôn trọng khuyển cách của Bát Công.Cho thấy ông đầy lòng nhân đạo. Ông chăm sóc Bát Công rất cẩn thận. Ông thường bắt rận cho Bát Công, lại cùng tắm với nó nữa. Đêm nào trời mưa, ông đều thức dậy đi xem Bát Công có bị ướt không và lau khô rồi cùng ngủ với nó ở trường kỷ. Do đó vợ con thường than phiền là giáo sư quý Bát Công hơn cả vợ con. Để đáp lại khi giáo sư đi làm, Bát Công đưa ra tận bến xe, tới giờ tan sở Bát Công lại ra tận bến xe nghênh đón. Một ngày hè năm Đại Chính 14 sau khi đưa giáo sư ra bến xe, trở về nhà Bát Công trông có vẻ bồn chồn sủa lên những tiếng thảm thiết. Chính ngày hôm đó giáo sư đang diễn giảng thì bị tai biến mạch máu não mà qua đời. Thời gian tụ hội của giáo sư và Bát Công chỉ hơn một năm; nhưng Bát Công vẫn như trước, ngày ngày đều ra bến xe đợi giáo sư. Do nhiều duyên cớ, không ai chăm sóc, Bát Công trở thành chó hoang. Nhưng nó không rời bỏ khu giáo sư trú ngụ. Ban ngày nó đi quanh quẩn những nơi mà giáo sư đã dẫn nó đi. Đến chiều nó lại ra bến xe đứng đợi cho đến khi bến xe đóng cửa mới thôi. Quá 10 năm trời ngày nào cũng vậy Bát Công đều ra bến xe đợi chủ nhân vĩnh viễn không trở lại. 10 năm đối với loài chó cũng coi là già. Năm Chiêu Hòa thứ 10 người ta thấy Bát Công nằm chết cóng ở trước bến xe. Đến chết nó vẫn đợi chủ nhân trở về.
 (Nhất vị thiền: Quyển Phong)
Tuy là chó nhưng Bát Công có một trái tim Phật.

1323. Hiểu để làm gì?
Một học tăng hỏi Cảnh Sầm:
- Con phải đi hướng nào?
Cảnh Sầm đọc cho một bài kệ:

不 識 金 剛 體
Bất thức kim cương thể
卻 喚 作 緣 生
Khước hoán tác duyên sinh
十 方 真 寂 滅
Thập phương chân tịch diệt
誰 在 復 誰 桁
Thùy tại phục thùy hành

Chẳng biết kim cương thể
Tạo duyên sinh mà chi
Mười phương thật tịch diệt
Ai ở, lại ai đi?

- Đầu sào trăm trượng làm sao bước bước nữa?
- Núi Lương Châu, sông Phong Châu.
- Con không hiểu.
- Tứ hải, ngũ hồ đều là đất của nhà vua.
- Thế nào là tâm con?
- Thập phương thế giới là tâm ngươi.
- Vậy sao? Thế thì thân con ở đâu?
- Ở chỗ thân ngươi ở.
- Thân làm sao ở?
 - Nước biển lớn, sâu lại càng sâu.
- Không hiểu.
- Cá, rồng ra vào mặc lên xuống.
- Như lời thầy, thập phương thế giới là một hạt minh châu, con làm sao hiểu?
- Hiểu để làm gì?
 (Tinh Vân thiền thoại)
Qua vấn đáp của Cảnh Sầm và học tăng cho thấy thiền sư rất từ bi khai thị “Đầu sào trăm trượng làm sao bước nữa?” Núi Lương Châu, sông Phong Châu, cả thiên hạ, có chỗ nào cấm ngươi bước bước nữa? Nếu như ngươi hiểu được thì 4 biển, năm hồ chỗ nào mà chẳng ngao du được? Nếu hiểu được 10 phương thế giới đều ở tâm ngươi thì sao có thể nói thân không có chỗ ở? Học tăng hỏi làm sao hiểu? Cảnh sầm hỏi ngược lại Thiền để làm gì? Thiền không phải ở chỗ hiểu hay không hiểu mà là ngộ. Thế giới đều thuộc về ngươi, cần gì phải bước thêm bước nữa?

1324. Cho Phật A Di Đà ở tạm.
 Thiền sư Khiêu Thủy là trụ trì Thiền Lâm Tự, nhưng ông thường vân du bên ngoài, sinh hoạt như một vân thủy tăng. Mọi người đều gọi ông là Khiếu hóa tử Khiêu Thủy. Có một lần ông đến kinh thành dựng một gian nhà tranh ở bên cạnh nhà để xe của một phú ông, bán giép cỏ để mưu sinh. Phía bên kia đường là một người phu đánh xe ngựa. Một hôm, người phu xe chạy sang bảo:
- Hôm qua con đánh xe, đưa một tín đồ đến chùa lễ Phật. Tri khách sư cho con một bức tranh Phật A Di Đà, con xin tặng lại thầy để kết duyên.
- Cám ơn ý tốt của ông.
Khiêu Thủy rất cao hứng treo bức tranh lên vách và lấy bút đề một bài tán:

雖 嫌 斗 室 小 如 窩
Tuy hiềm đẩu thất tiểu như oa
借 住 與 你 阿 彌 陀
Tá trú dữ nễ A Di Đà
他 日 我 若 到 你 處
Tha nhật ngã nhược đáo nễ xứ
望 借 蓮 台 作 我 窩
Vọng tá liên đài tác ngã oa

Tuy rằng căn phòng con
Cho Di Đà tạm trú
Ngày nào tới Tây Phương
Mượn lại đài sen ngụ.

Nghe tin Đại Đăng quốc sư sắp mất, ông mang bức tranh đến cho:
- Nghe nói thầy sắp vãng sinh Phật quốc, không biết thầy có nhận biết chủ nhân Tịnh Độ không. Do đó đem tặng tranh để khi gập mặt khỏi bỡ ngỡ.
- Ngươi hãy giữ lấy làm kỷ niệm, tịnh độ ở trong tâm ta, Di Đà ở trong tánh. Ngươi chẳng nghe qua duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà sao?
Khiêu Thủy nghe rồi cười vui vẻ:
- Hãy để Phật Di Đà tạm trú ở phòng ta. Chúng ta hãy kiến lập Tịnh Độ trong tâm, Di Đà trong tánh.
Đại Đăng cũng cười mà mất.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Khiêu Thủy ẩn mình trong đám ăn mày để tham thiền. Ông treo tranh là cho Phật ở nhờ chứ không cúng dường. Mỗi người phải có tịnh độ của mình, Di Đà của mình. Như Đại Đăng biểu thị chỉ tự trú ở tâm tánh, không trú ở sự tướng, cho nên không nhận tranh tặng. Hai vị thiền sư cùng thở một lỗ mũi, do đó đều ha hả cả cười.

1325. Thùng phân lớn nhỏ.
Người hiện tại rất kính ngưỡng Kim Sơn hoạt Phật tức thiền sư Diệu Thiện, mất năm Dân quốc 22 tại Miến Điện. Hành tích thần dị, lại từ bi hỉ xả. Mọi nơi đều lưu truyền những việc khó làm, khó chịu đựng của ông. Bên cạnh Kim Sơn Tự, có một con hẻm nhỏ, có 2 mẹ con một bà lão sống bần cùng khốn khổ. Đứa con rất ngỗ nghịch thường mắng chửi mẹ. Diệu Thiện biết chuyện thường đến an ủi bà lão, cùng bà nói chuyện nhân quả luân hồi. Nghịch tử rất ghét thiền sư đến nhà; một hôm khởi ác niệm dấu một thùng phân ngoài cửa, đợi thiền sư tới bèn đổ lên đầu. Phẩn và nước tiểu thấm ướt khắp người thiền sư. Ông không tỏ vẻ giận dữ, đội thùng phân lên đầu ra bờ sông ở trước cửa chùa mới từ từ đặt thùng phân xuống. Mọi người chứng kiến đều cười sặc sụa. Diệu Thiện cũng không ngại bảo:
- Chuyện này có gì là đáng cười? Thân thể con người cũng là một thùng phân lớn, trên thùng phân lớn đặt một thùng phân nhỏ có gì là lạ?
Có người hỏi:
- Thầy không cảm thấy khó chịu sao?
- Không khó chịu chút nào, con trai bà cụ từ bi với ta, cho ta đề hồ quán đỉnh, ta thấy rất tự tại.
Về sau đứa nghịch tử bị lòng từ bi của thiền sư làm cảm động, ăn năn sám hối với thiền sư. Ông khai thị:
- Ơn dưỡng dục của cha mẹ nặng như núi, sâu như biển, đã không hiếu dưỡng lại còn đánh chửi thật là bất hiếu, sao có thể làm người?
Nghịch tử hối hận, trở thành hiếu thuận với mẹ, làng xóm đều hay.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Diệu Thiện là một nhân vật kỳ lạ trong thiền môn cận đại. ông khám bệnh nhưng không cho thuốc, cứu người khỏi ách nạn nhưng không dùng thần dị. Ông đưa cho một chén nước nói đó là canh Bát Nhã uống vào sẽ khỏi bệnh. Ông tát cho một bạt tai, tai nạn sẽ qua khỏi. Ông cũng tương tự như Tế Điên hòa thượng đời Tống. Ông coi thân người ta là thùng phân lớn, thêm một thùng phân nhỏ thì có gì là kỳ quái. Kỳ thực thùng phân đối với ông không hôi hám vì đạo đức từ bi, nhân cách trí tuệ của ông rất thơm tho.

1326. Khoái hoạt liệt hán.
Tánh Không người Hán Châu, xuất gia rồi tự hiệu Diệu Phổ Am Chủ, kết am ở Thanh Long Sơn. Thường ngày trừ lúc tu tập thiền định ra, thường thổi tiêu làm vui. Năm Kiến Nguyên, Dư Minh cử binh làm phản, binh biến làm chết nhiều người, bá tánh trốn chạy. Tánh Không cảm khái:
- Ta không thể không cứu!
Bèn vác trượng đến dinh giặc, tên đầu lãnh hét lớn:
- Ngươi là ai? định đi đâu?
- Ta là người xuất gia, đến sào huyệt bọn ngươi!
Tên thủ lãnh nổi giận, hạ lệnh chém đầu. Tánh Không không sợ hãi bảo tên đầu lãnh:
- Muốn chém đầu thì cứ chém, việc gì phải nổi giận. Nhưng ta còn chưa ăn cơm, chẳng nên để ta thành quỷ đói. Cho ta ăn một bữa cuối được không?
Đầu lãnh sai người đưa cơm, thịt heo và rau ra. Ông tụng niệm theo đúng nghi thức ở chùa, rồi ăn. Bọn giặc đứng bên coi đều cười. Ông lại bảo tên đầu lãnh:
- Ai viết văn tế cho ta? Nếu không có thì cho ta giấy bút để ta tự viết.
Bọn giặc mang giấy bút ra. Ông viết văn tế rồi đọc lên một lượt, sau đó lại nhắc đũa lên ăn tiếp. Ăn xong ông bảo đầu lãnh:
- Kiếp số tao ngộ ly loạn, ta là một khoái hoạt hán, nay chính là lúc cho ta một nhát đao. Chém! Chém! Chém!
Đầu lãnh thấy ông anh dũng không những không giết ông mà còn chắp tay tạ tội, sai người đưa ông về núi. Một giải Ô Trấn do đó thoát nạn. Đạo tục gần xa đều coi trọng ông.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Thiền biểu hiện ở phương diện tuệ giải dễ, nhưng ở phương diện từ bi thì khó.

1327. Nói hay không đều bị đánh.
Một hôm Đức sơn nói:
- Để trả lời câu hỏi Đạo là gì? Nếu có người đáp thế nào là Đạo ta sẽ đánh hắn 30 gậy, nếu không đáp được ta cũng đánh hắn 30 gậy.
 (Sinh hoạt thiền)
Đáp được là không đúng, đáp không được cũng là không đúng, bởi vì chân lý tuyệt đối không thể nói được. Vì không thể nói được nên chỉ có thể dùng phương thức mâu thuẫn; tỷ như kinh Kim Cương nói:”Thế giới phi thế giới mới gọi là thế giới”. Kinh Phật thường dùng thí dụ con của Thạch nữ để giải thích. Nói con của Thạch nữ rất anh tuấn, hay con của Thạch nữ không anh tuấn đều sai vì Thạch nữ là người phụ nữ không thể mang thai. Nói cách khác Giáp (nói được) và phi Giáp (nói không được) đều sai, đều đáng đánh 30 gậy. Thiền dùng phương thức mâu thuẫn này để biểu đạt không tánh.

1328. Đuổi đến thiên đường.
Nhất Hưu trên đường hành cước, gập trời tối bèn tá túc ở một nông trại. Đêm khuya bỗng bị tiếng than khóc làm tỉnh giấc, thì ra chủ nhân nhà hàng xóm bị bệnh qua đời. Nhất Hưu tự nhủ:
- Thật bất hạnh, ta phải đi tụng kinh cho ông ta.
Vì người chết lúc sinh tiền bắt cá, săn chim cho nên lúc bị bệnh thường bị sát nghiệp làm cho lo lắng chẳng an. Gia quyến mong Nhất Hưu siêu độ khiến người chết được lên thiên đường. Nhất Hưu tụng kinh xong viết chữ lên một mảnh giấy để vào tay người chết, bảo thân nhân:
- Tốt, người chết nhất định được lên thiên đường, quý vị đừng lo!
Mọi người rất cảm động thấy Nhất Hưu quan tâm, nhưng cũng hiếu kỳ muốn biết Nhất Hưu viết gì trên giấy, bèn mở ra đọc: Người này phạm tội sát sanh nặng như núi Tu Di, e rằng sổ trước bạ của Diêm Vương cũng không đủ chỗ để ghi.” 
Vợ người chết xem rồi hỏi Nhất Hưu vì sao trêu ghẹo mọi người?
- Thưa bà, ông nhà tạo sát nghiệp có nặng như núi Tu Di không?
- Con thừa nhận, nhưng không biết có cách nào siêu độ cho nhà con?
- Ta đã tụng kinh để tiêu tội, giải nghiệp cho ông ta rồi, sở dĩ ta viết thư cho Diêm vương là do lời yêu cầu của bà. Tội đại ác như vậy đáng đuổi lên thiên đường khiến cho Diêm vương khỏi nhọc công chép tội. Ông nhà mang thư này nhất định sẽ lên thiên đường.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Lời của Nhất Hưu thật là một lời giáo dục hay cho người đời.

1329. Gương cổ của bầy khỉ.
Một lần, Tuyết Phong và chúng đệ tử xuất hành trên đường gập một bầy khỉ. Tuyết Phong nói:
- Các người đừng coi thường chúng, mỗi con đều mang trên lưng một gương cổ, đều có linh tính. Các ngươi coi chúng ăn ngũ cốc của chùa mẫn cán biết bao?
Có ông tăng hỏi:
- Những súc sanh này không có trí tuệ của con người, giả sử có cũng là súc sanh, sao sư phụ nói chúng có gương cổ (trí tuệ của Phật)?
- Nếu nói vậy gương cổ của ngươi đã phủ đầy bụi.
- Thầy không đáp vào câu hỏi, ngay câu hỏi của con thầy cũng chẳng rõ.
- Thật xin lỗi, coi như ta sai có được không?
 (Bồ đề linh quang)
Vạn vật đều có Phật tánh. Phật tánh ở ngã, trí, mê, người bên cạnh không thể thâm nhập. Ông tăng này gương cổ bị bụi phủ, chỉ có thể để ông ta tự mình phủi đi mà thôi.

1330. Kéo tai.
Thiền sư Bố Đại người thời Ngũ Đại, ứng hóa ở huyện Phụng Hóa tỉnh Chiết Giang. Tự nhận trên khế hợp lý chư Phật, dưới khế cơ chúng sinh vì vậy xưng là Khế Thử, ngoại hiệu Trương Thinh Tử. ngày ngày Bố Đại phanh ngực lộ bụng, nói năng lung tung, vai vác túi vải (bố đại) tay cầm niệm châu du hóa bốn phương, gập người liền xin. Nhận được bất cứ vật gì đều thồn vào trong túi vải. người đời đều gọi là hoà thượng túi vải. Có một lần, vào giờ thọ trai ở Thiên Đồng Tự, tăng chúng xếp hàng vào phòng ngồi. Không biết Bố Đại từ đâu đi vào, cười cười ngồi ngay vào chỗ của phương trượng. Củ soát sư (ông tăng coi việc kiểm soát) hét lớn bảo ông đi xuống. Bố Đại mắc kệ. Hành đường sư cũng yêu cầu ông đi xuống, ông vẫn không động. Thấy phương trượng sắp tới, Củ soát sư vội chạy tới chỗ Bố Đại nắm tai ông kéo xuống. Nào ngờ Củ soát sưkéo tai ông lôi ra đến cửa trai phòng, tai thì dài ra nhưng ông vẫn ngồi yên tại chỗ bất động. Đại chúng thấy vậy đều trợn mắt nhìn, không thốt được ra lời. Trụ trì thấy tình cảnh ấy bảo củ soát sư:
- Cứ để ông ta ngồi ở thượng tọa, ta ngồi sau ông ấy được rồi!
Từ đó về sau, đến giờ độ trai, Bố Đại không khách khì đều ngồi ở thượng tọa.
Vào năm Lương Trinh Minh thứ 3, Bố Đại ngồi kết già trước điện Nhạc Lâm Tự thị tịch. Ông có để lại một bài kệ:

彌 勒 眞 彌 勒
Di Lặc chân Di Lặc
分 身 千 百 億
Phân thân thiên bách ức
時 時 示 時 人
Thời thời thị thời nhân
時 人 自 不 識
Thời nhân tự bất thức

Di Lặc thực Di Lặc
Phân thân trăm ngàn ức
Luôn luôn chỉ người đời
Người đời chẳng tự thức.
 (Tinh Vân thiền thoại)
Thiền sư Bố Đại du hí nhân gian, do bài kệ của ông mọi người đều nhận ông là Di Lặc. Bố Đại người mập mạp thường mỉm cười nên người đời cũng gọi ông là Hoan Hỉ Phật.

1331. Sơn đầu hỏa.
Sơn Đầu Hỏa là một thiền sư cận đại. Ông là một thi sĩ làm thơ bài cú tự do. Lúc còn nhỏ ông bị ám ảnh bởi bà mẹ tự sát, lớn lên em ông cũng tự sát, rồi các thi hữu thân thiết cũng qua đời. Ông cũng uống thuốc độc nhưng không chết. Không có nhà để trở về ông được phương trượng Báo Ân Tự thu nạp. Ông tự trách là người vô dụng xin trụ trì cứu. Trụ trì bảo ông:
- Chỉ có học tọa thiền mới có thể cứu được, nhưng tọa thiền cũng vô dụng.
- Nếu đã vô dụng sao còn tọa thiền?
- Vì vô dụng nên mới cần tọa thiền.
Ông hơi tỉnh ngộ, chết không đáng sợ bất tất cầu chết, sự hoàn tất bèn đi. Ông chưa đi vì sự chưa hoàn tất. Việc trong đời này của ông là sáng tác Bài cú. Từ đó ông vân du bốn phương sáng tác vô số những Bài cú mỹ lệ. Trích một vài bài cú của ông:
- Trong khoảng sinh tử, tuyết chẳng ngừng rơi.
- Già nhưng chưa chết nên cắt móng tay.
- Tiếng ve kêu, có phải là tìm chỗ chết?
- Côn trùng càng rỉ rả càng đoản mạng.
Bài cú cuối cùng của ông là:
- Đi thẳng về chỗ mây tuôn.
 (Nhất vị thiền:Quyển Phong)
Nhiều người không biết những Bài cú đẹp đẽ của ông là do ông đã thăng hoa những đau khổ của đời ông vậy.

1332. Đầu đồng, cổ sắt.
Có ông tăng hỏi Huệ Giác:
- Phật là thế nào?
- Vươn đầu đồng, cổ sắt.
- Là ý gì?
- Chim giơ mỏ, cá phùng mang.
 (Bồ đề linh quang)
Thiền sư dùng phản ngữ phản kích ông tăng khiến ông lãnh ngộ. Phật như người thường, ai ai cũng có thể thành Phật.

1333. Bài kệ của Thanh Tùng.

摩 訶 般 若
Ma ha Bát Nhã
非 取 非 捨
Phi thủ phi xả
若 人 不 會
Nhược nhân bất hội
風 寒 雪 下
Phong hàn tuyết hạ

Ma ha Bát Nhã
Không nắm, không lơi
Nếu người chẳng hiểu, 
Gió lạnh tuyết rơi. 
 (Thiền ngộ dữ thực hiện)
Đại trí tuệ (ma ha Bát Nhã) không nắm cũng không buông, không phân biệt. Nếu không hiểu điều này thì trong sinh hoạt sẽ cảm thấy lạnh lẽo. Nếu cứ lấy tâm bình thường mà coi thế sự thì sẽ được an nhiên tự tại.

1334. Không có tướng nam nữ.
Có ông tăng hỏi Hoàng Long:
- Thế nào là mật thất?
- Chỗ không mở.
- Người trong mật thất thì sao?
- Không có tướng nam nữ.
 (Công án thiền cơ)
Mật thất là chỗ tối tăm, khó mở, Ai ở trong đó? Là người không có tướng nam nữ. Người ở trong mật thất chỉ tự tánh, còn mật thất chỉ mê vọng trói buộc tự tánh. Vì tự tánh vô sắc, vô hình, vô tướng nênlàm gì có phân biệt nam nữ. 

1335. Vô lậu công đức.
Đại Điên hỏi Thạch Đầu:
- Cổ nhân nói có, nói không đều là phỉ báng, thỉnh thầy trừ.
- Một vật cũng không thì trừ cái gì?
 (Công án thiền cơ)
Nói không là không có, nói có là giả có vì mọi vật đều do nhân duyên giả hợp mà thành, khi duyên tán thì lại trở về không. Nói có nói không đều là không cả, không có một vật nào cả vậy thì trừ cái gì?

1336. Mật truyền.
Có ông tăng hỏi Huyền Ngộ:
- Thế là mật truyền tâm?
Thiền sư im lặng hồi lâu.
- Con vểnh tai để nghe sao thầy không nói?
- Đốt đèn lên.
 (Công án thiền cơ)
Bản tánh là không, không có vật gì, lời gì để truyền. Do đó thiền sư im lặng. Cùng một thể tánh là không thì cần gì phải truyền? Đã là không thì làm gì có một tâm ấn và một tâm để ấn? Vì khi có một hình tướng thì đều không phải là chân. Ông tăng không hiểu thiền cơ. Thiền sư có giảng cũng vô dụng, vì vậy thiền sư không lý đến ông, kêu thị giả thắp đèn.

1337. Trời xanh.
Nam Tuyền đến tham phỏng Hoàn Trung ở Đại Từ sơn (Hàng Châu), hỏi:
- Am chủ là thế nào?
- Trời xanh! trời xanh!
- Hãy tạm gác trời xanh qua một bên, am chủ là thế nào?
- Hiểu liền hiểu ngay! Đừng lo!
Nam Tuyền phất tay áo mà ra.
 (Công án thiền cơ)
Câu hỏi của Nam Tuyền là hỏi về tự tánh. Hoàn Trung đáp trời xanh là dụ cho hư không. Nam Tuyền không hiểu hỏi lại. Hoàn Trung đành phải nói hiểu liền hiểu ngay, không hiểu là không hiểu, chỉ rằng ông đã bảo am chủ, trời xanh đều là không, không khác. Nam Tuyền lúc đó còn chưa ngộ nên bỏ đi.

1338. Duy ngã độc tôn.
Có ông tăng hỏi Tòng Ỷ:
- Phật là thế nào?
- Không chỉ trời, không chỉ đất.
Tại sao không chỉ?
- Duy ngã độc tôn.
 (Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng là hỏi về bản thể giới. Phật là người đã giác ngộ, giác ngộ cái gì? Giác ngộ rằng mọi pháp đều do nhân duyên sanh, có khả năng dùng thể tánh không chiếu mọi cảnh. Tuy đối cảnh mà không khởi mê tình. Không chỉ trời, không chỉ đất vì Phật ở khắp nơi không thuộc vào tam giới. ông tăng lại thắc mắc vạn vật vốn đồng một thể, trời đất cùng một căn tại sao không chỉ? Ngộ vô vi chư pháp nbình đẳng, biết Phật tánh là chân ngã, siêu việt thế gian, có thể chiếu mọi cảnh nhưng không bị cảnh trói buộc. Chúng sanh mê vọng, chấp trước nên bị mê tình mà trôi lăn trong vòng ba giới.

1339. Hữu tánh vô ngôn.
Có ông tăng hỏi Trung Độ:
- Thỉnh hòa thượng lìa thanh sắc mà đáp.
- Người gỗ thường nói còn hữu tánh không thể nói .
(Công án thiền cơ)
Tất cả trần cảnh đều không thể lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc. Do đó ý của ông tăng là hòa thượng đừng tại hiện tượng giới, hãy lấy bản thể giới mà đáp. Người gỗ ở đây là chỉ người chưa chứng bản tánh rất thích giảng giải, những lời ông ta nói chưa đúng nghĩa, chỉ khiến tạo khẩu nghiệp. Người đã kiến tánh ngộ thể không, không thích và không thể nói. Đó là tâm cảnh “Một lần chết lớn” người đó bất cứ làm gì cũng không thấy hứng thú. Nhưng đó vẫn còn ở trình độ tiểu thừa hãy còn chấp pháp. Đó là “đao giết người” (dùng đao chặt đứt hiện nghiệp lưu thức) phải vượt qua để đạt tới “Kiếm cứu người” là làm tâm sống lại, nghĩa là đối với ngoại cảnh cũng biểu lộ hỷ nộ . . . như mọi người thường nhưng vì nội tâm đã giải thoát nên cảnh hiện đó, quên đó, không ghi nhớ, không phiền não.

1340. Rận từ đâu ra.
Một hôm, Tô Đông Pha và Trần Thiếu Du cùng ăn cơm. Hai người đều tài hoa, thường hay tranh luận. Hôm đó đang ăn, bỗng có một người đi ngang qua. Người ấy vì lâu ngày không tắm rửa, chí rận bò lổm ngổm. Tô Đông Pha bảo:
- Người này hôi quá, cáu ghét trên người đều sinh chấy rận cả. 
Trần Thiếu Du không cho là phải.
- Chẳng phái chấy rận từ bông sợi sinh ra sao?
Hai người đều cho mình là đúng, không ai nhường ai, tranh cãi không thôi. Sau đồng ý là nhờ Phật Ấn phân xử, ai thua phải đãi tiệc.
Tô Đông Pha háo thắng chạy tới Phật Ấn nhờ giúp, Trần Thiếu Du cũng tìm đến Phật Ấn nhờ giúp. Phật Ấn đều đáp ứng. Hai người yên tri, chờ Phật Ấn bình phẩm. Kết quả Phật Ấn nói:
- Con rận, đầu do cáu ghét sinh ra, còn chân do bông sợi sinh ra.
Thiền sư đã dàn hòa tuyệt hảo, có thơ rằng:

一 樹 春 風 有 兩 般
Nhất thụ xuân phong hữu lưỡng bàn
南 枝 向 暖 北 枝 寒
Nam chi hướng noãn Bắc chi hàn
現 前 一 段 西 來 意
Hiện tiền nhất đoạn Tây lai ý
一 片 西 飛 一 片 東
Nhất phiến Tây phi nhất phiến Đông

Một cây hướng gió có hai cành
Hướng Nam ấm cúng, hướng Bắc hàn
Trước mặt một đoạn Tây lai ý
Một phiến về Tây, một phiến Đông.
(Tinh Vân thiền thoại)
Bài thi này bảo chúng ta cái gì? Đó là vật ngã hợp nhất. Vật ngã là một thể. Ngoại tướng của sơn hà đại địa là nội tại của sơn hà đại địa. Đại thiên thế giới là nội tâm thế giới,. Giữa vật và ngã không có phân biệt, chẳng hạn như cùng tiếp thụ không khí, ánh nắng, nước, nhưng các lá đều có sinh cơ riêng, đều vô ngại cộng tồn trên cây.

1341. Kiếp phù sinh.
Đại thi hào Bạch Cư Dị rất kính ngưỡng đạo hạnh của Điều Sào thiền sư. Một lần đến tham phỏng, đọc một bài thơ hỏi đạo:

特 入 空 門 問 苦 空
Đặc nhập không môn vấn khổ không
敢 將 禪 事 問 禪 翁
Cảm tương thiền sự vấn thiền ông
爲 當 夢 是 浮 生 事
Vi đương mộng thị phù sinh sự
爲 復 浮 生 是 夢 中
Vi phục phù sinh thị mộng trung

Vào chốn không môn hỏi khổ, không
Dám đem thiền sự hỏi thiền ông
Nằm mộng chính là phù sinh sự
Phù sinh có phải là mộng không.

Điểu Sào thiền sư cũng đọc một bài thơ đáp lại:

來 時 無 跡 去 無 蹤
Lai thời vô tích khứ vô tung
去 與 來 時 事 一 同
Khứ dữ lai thời sự nhất đồng
何 須 更 問 浮 生 事
Hà tu cánh vấn phù sinh sự
只 此 浮 生 是 夢 中
Chỉ thử phù sinh thị mộng trung

Lúc đến không dấu, đi không vết
Đến và đi chuyện đó vốn đồng
Cần chi phải hỏi phù sinh sự
Phù sinh là mộng biết hay không?

Đời người như ảo như hóa, ngắn ngủi phù du, nhưng nếu thể ngộ được “vô sinh”, vượt lên đến và đi, đối đãi hạn chế thì sẽ cảm nhận được trong cõi bao la vô cùng và thời gian vô tận, sinh mạng là bất sinh bất diệt. Bạch Cư Dị về sau tìm được chỗ an thân, lập mạng trong Phật giáo, trở thành tại gia Phật tử, thường đi tham phỏng các vị cao tăng. Về già ông ăn chay trường, biến nhà thành chùa đặt tên là Hương Sơn Tự, tự gọi mình là Hương Sơn cư sĩ, lại say mê niệm Phật.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đọc thơ Bạch Cư Dị chúng ta còn thấy ông có ý tưởng sẽ làm tăng trong kiếp lai sinh. Ông có bài thơ tả tâm cảnh:

余 年 近 七 十
Dư niên cận thất thập
不 復 事 吟 哦
Bất phục sự ngâm nga
看 經 費 眼 力
Khán kinh phí nhãn lực
作 福 畏 奔 波
Tác phúc úy bôn ba
何 以 慰 心 眼
Hà dĩ úy tâm nhãn
一 句 阿 彌 陀
Nhất cú A Di Đà
朝 也 阿 彌 陀
Triêu dã A Di Đà
晚 也 阿 彌 陀
Vãn dã A Di Đà
縱 饒 忙 似 箭
Túng nhiên mang tự tiễn
不 離 阿 彌 陀
Bất ly A Di Đà
達 人 應 笑 我
Đạt nhân ưng tiến ngã
多 却 阿 彌 陀
Đa khước A Di Đà
達 也 作 麼 生
Đạt dã tác ma kinh
不 達 又 如 何
Bất đạt hựu như hà
普 權 法 界 眾
Phổ quyền pháp giới chúng
同 念 阿 彌 陀
Đồng niệm A Di Đà

Ta nay gần bẩy chục
Chẳng thích sự ngâm nga
Xem kinh ngại mỏi mắt
Tạo phúc sợ bôn ba
Để vỗ về tâm nhãn
Một câu A Di Đà
Sáng cũng A Di Đà
Chiều cũng A Di Đà
Dù rằng rất bận rộn
Chẳng lìa A Di Đà
Đạt nhân dù cười ta
Chẳng bỏ A Di Đà
Đạt rồi thì làm sao?
Không đạt lại thế nào?
Phổ quyền khắp pháp giới
Cùng niệm A Di Đà.

Bạch Cư Dị mới đầu tu Thiền, sau đó tu Tịnh, cuối cùng là Thiền Tịnh song tu. Sinh hoạt của ông thật phong phú.

1342. Thần xạ.
Thời chiến quốc có một người bắn tên rất giỏi tên là Kỷ Xương, ông lập chí làm Thần Xạ giỏi nhất thiên hạ. Khi ông biết người bắn tên giỏi nhất là Phi Vệ, ông liền vượt bao sông núi đến bái Phi Vệ làm thầy. Phi Vệ bảo ông:
- Trước hết ngươi hãy học không chớp mắt.
Ông về nhà nằm dưới khung cửi của vợ, nhìn con thoi qua lại không chớp mắt. Luyện tập 2 năm, ngay cả khi đi ngủ cũng không nhắm mắt. Thành công rồi Phi Vệ lại bảo ông:
- Ngươi hãy tập nhìn nhỏ thành to.
Trở về nhà, ông tìm một côn trùng nhỏ để lên lá cỏ treo ở thư phòng ngày ngày tập luyện. Ba tháng sau ông nhìn thấy con côn trùng to bằng con tằm, 3 năm sau ông thấy nó bằng cái bánh xe. Lúc đó ông lấy một cái kim nhỏ để vào cung mà bắn. Kim găm trúng ngực con côn trùng mà lá cỏ không hề rung động. Kỷ Xương vui mừng đến gập sư phụ. Phi Vệ bảo ông đã học hết áo bí rồi. Ông không những bắn bách phát bách trúng như sư phụ, mà ngoài trăm bước còn có thể bắn xuyên lá liễu. Thậm chí khi về nhà, vợ ông nói chuyện thao thao bất tuyệt. Ông lấy một lông đuôi gà để vào cung bắn rụng 3 sợi lông mày mà bà vợ không hề hay biết, vẫn không ngừng nói chuyện. Kỷ Xương rất cao hứng nghĩ rằng mình đã trở thành cao thủ đệ nhất thiên hạ, nhưng ông chợt nhớ rằng còn có một người cao minh hơn ông đó là sư phụ ông: Phi Vệ, nếu không trừ khử sư phụ làm sao ông có thể xưng là đệ nhất xạ thủ? Một hôm Kỷ Xương đi tản bộ nơi điền dã, từ xa thấy Phi Vệ đi tới. Không chậm trễ Kỷ Xương giương cung bắn. Phi Vệ cũng cảnh giác bắn cùng một lúc, 2 mũi tên chạm nhau trên không cùng rơi xuống đất. Cuối cùng Phi Vệ hết tên, Kỷ Xương còn một mũi. Kỷ Xương kêu to:
- Hãy nhận mạng!
Tiếng kêu chưa dứt tên đã bay ra, nhưng Phi Vệ đã nhanh tay bẻ một cành cây đưa ra trước ngực gạt mũi tên của Kỷ xương. Kỷ Xương đỏ mặt, cúi gầm đầu, không biết làm sao nhìn mặt sư phụ. Phi Vệ không trách ông còn bảo:
- Kỹ thuật bắn tên của ta và ngươi không phân hơn kém. Nếu ngươi muốn tiến thêm bước nữa hãy kiếm sư phụ ta là Cam Dăng lão nhân, người là xạ thủ vĩ đại nhất. Thuật xạ tiễn của chúng ta so với người chỉ là trò con nít. 
Kỷ Xương bái biệt sư phụ đi tìm Cam Dăng. Sau nhiều tháng cuối cùng ông đã gập Cam dăng ở đỉnh Hoắc Sơn. Khi thấy mặt ông rất thất vọng vì thấy đó là một cụ già tóc bạc phơ, lưng còng không có vẻ gì là một xạ thủ cả. Để trổ tài bắn tên của mình, Kỷ Xương giơ cung lên nhắm đàn nhạn bay qua, 5 con nhạn bị tên xuyên thành một xâu rơi xuống đất. Cam Dăng bảo ông:
- Tài nghệ ngươi cũng khá, nhưng chỉ dùng cung tên bắn chim thì hãy còn là sơ bộ của tiễn pháp, ngươi còn chưa học qua bắn mà không bắn của Tiễn Đạo.
- Bắn mà không bắn nghĩa là sao?
Cam Dăng dẫn ông tới một phiến đá dài nơi đỉnh núi.
- Ngươi hãy đến đây bắn tên cho ta coi!
Kỷ Xương bước lên phiến đá, nhìn xuống dưới phiến đá là một dòng nước chẩy cực mạnh, cảm nhận được phiến đá rung chuyển dưới chân, sợ đến chân phát run, không bắn tên được. Lúc đó một con chim nhỏ bay qua. Cam Dăng bảo:
- Ta cho ngươi thấy thế nào là tiễn đạo chân chính!
Lão nhân chỉ liếc mắt một cái, con chim liền rơi ngay xuống đất.
Kỷ Xương trợn mắt há mồm không nói ra lời, sau đó theo Cam dăng học tập 9 năm. Năm thứ 10 thì xuống núi, không hề nhắc đến chuyện bắn tên nữa. Mọi người chờ đợi ông trổ tài nhưng ông hầu như đã quên cả cung tên rồi. Có người hỏi ông:
- Sao không bắn tên nữa?
- Động đến cực điểm thì bất động, nói đến cùng thì không lời, bắn tên đến cực điểm thì không bắn.
Sau khi xuống núi 14 năm Kỷ Xương qua đời. Không ai thấy ông xử dụng cung tên. Truyền thuyết còn nói rằng có môt lần có một người bạn đến thăm ông mang theo cung tên để xuống bàn. Kỷ xương hỏi:
- Vật để trên bàn là cái gì? Dùng để làm chi?
Người bạn cười lớn tưởng Kỷ Xương nói diễu, nhưng khi Kỷ Xương nhắc lại câu hỏi 3 lần thì ông cảm thấy kính phục:
- Bây giờ ông thật là đệ nhất thần xạ trong thiên hạ. Chỉ có bậc đại sư như ông mới chân chính quên hết danh tướng và xử dụng.
(Hương Thủy Hải)
Đây là một chuyện chép trong sách Liệt Tử. Chuyện này khiến chúng ta liên tưởng đến chuyện bắn tên của Mã Tổ và Tuệ Tạng (Xem công án 391). Đệ nhất xạ thủ trong thiên hạ nguyên lai là một người có thể bắn xuyên phiền não, háo thắng, phân biệt của chính mình.

1343. Có đem theo lửa không?
Một hôm Quy Sơn theo Bách Trượng vào núi lao tác. Bách Trượng hỏi:
- Ngươi có mang theo lửa không?
- Có mang theo.
- Để ở đâu?
Quy Sơn nhặt một thanh củi, thổi phù phù 2 lần rồi trao cho Bách Trượng. Bách Trượng vui vẻ hỏi:
- Như con mọt đục gỗ, ngẫu nhiên thành chữ.
(Tinh Vân thiền thoại)
Lửa ở đây tượng trưng cho tự tánh. Bách trượng muốn Quy Sơn bới tro tìm lửa là muốn chỉ Quy Sơn phải tự mình giác ngộ tự tánh (Xem công án 1062). Chuyện này đâu có dễ, do đó Bách Trượng tự bới tro, bới sâu mới tìm được lửa. Thậm chí trong khi lao động cũng khuyến khích Quy Sơn đừng quên tự tánh. Câu nói “Ngươi có mang theo lửa không?” thật là từ bi, trí tuệ biết bao. Sinh hoạt thiền là như vậy.

1344. Đi tắm.
Một hôm Bách Trượng đi tản bộ thấy ông tăng chấp sự phòng tắm đang đun nước, liền thuận miệng bảo:
- Nước sôi rồi, đừng quên gọi trâu tắm nhé!
Nước sôi rồi, ông tăng chạy tới phương trượng mời Bách Trượng đi tắm, chưa kịp mở mồm Bách Trượng đã hỏi:
- Ngươi đến đây làm gì?
- Mời trâu đi tắm.
- Có mang theo giây thừng không?
Ông tăng không trả lời được.
(Tinh Vân thiền thoại)
Từ cổ các thiền sư không cần làm Phật, chỉ cần khai ngộ, đó là chỗ vĩ đại của các thiền sư vậy.

1345. Uống trà đi!
Có hai ông tăng đến tham Triệu Châu. Triệu Châu hỏi:
- Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
- Đi thuyền đến.
- Uống trà đi!
Triệu Châu lại hỏi ông tăng thứ hai:
- Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
- Đi bộ đến.
- Uống trà đi!
Viện chủ thấy lạ hỏi:
- Tại sao đi bộ đến, đi thuyền đến đều mời uống trà?
Triệu Châu gọi:
- Viện chủ!
- Dạ
- Uống trà đi!
 (Trung Hoa thiền phong để diễn biến)
Lục Tượng Sơn có để lại một câu “Thiên hạ vấn vô sự, người thường tự rối loạn”.
Vốn chẳng có chuyện gì, uống trà nóng là tốt rồi. Công án này là một thoại khác của công án số 1000, chi tiết có thay đổi đôi chút nhưng ý nghĩa thì đồng.

1346. Cảnh Thanh hôm nay thất lợi.
1- Một ông tăng đến tham Cảnh Thanh, Cảnh Thanh giơ phất tử lên. Ông tăng nói:
- Từ lâu nghe tiếng Cảnh Thanh nên đến bái phỏng nào ngờ thầy còn thủ đoạn này.
- Hôm nay ta thất lợi.

2- Một lần Cảnh Thanh hỏi Hà Ngọc:
- Ngươi từ đâu tới?
- Núi Thiên Thai.
- Ai bảo ngươi đến Thiên Thai?
- Thực là đầu hổ, đuôi rắn.
- Hôm nay ta thất lợi.

3- Một lần Cảnh Thanh im lặng đọc kinh, một ông tăng hỏi:
- Thầy đọc kinh gì?
- Ta học cổ nhân trừ trăm cỏ, ngươi biết chơi không?
- Trò này từ nhỏ con đã chơi qua.
- Hiện nay thì sao?
Ông tăng giơ nắm đấm lên, Cảnh Thanh nói:
- Hôm nay ta thua rồi.

4- Có ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
- Đầu năm có Phật pháp không?
- Có.
- Phật pháp đầu năm là thế nào?
- Ngày Nguyên đán mọi việc đều mới.
- Tạ ơn thầy chỉ giáo.
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.

5- Cảnh Thanh thượng đường ném gậy xuống đất bảo đại chúng:
- Chạm hay không chạm đến gậy đều bị ăn 20 gậy.
Một ông tăng lượm cây gậy đội lên đầu đi ra
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.

6- Cảnh Thanh thấy ông tăng đọc sách bèn hỏi:
- Ngươi đọc sách gì?
- Mời thầy xem.
- Một điểm chưa phân đã phân 3 rồi.
- Hôm nay vừa giống như gập vừa giống như chẳng gập người.
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.
(Bồ đề linh quang)
Lùi lại một bước, trời cao đất rộng, trong đó ẩn hàm thiền cơ sắc bén.

1347. Thể của Bát Nhã.
Triệu Châu hỏi Đại Từ Hoàn Trung:
- Bát Nhã lấy gì làm thể?
- Bát Nhã lấy gì làm thể?
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1348. Sự hướng thượng.
Có ông tăng hỏi Thúy Nham Lịnh Tham:
- Phàm có lời nói đều là ô nhiễm, thế nào là sự hướng thượng?
- Phàm có lời nói đều là ô nhiễm.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1349. Phương tiện.
Có ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
- Thế nào là phương tiện nhanh và dễ thành tựu?
- Nhanh và dễ thành tựu.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1350. Đại ý Phật pháp.
Đạo Ngộ hỏi Thạch Đầu:
- Thế nào làđại ý Phật pháp?
- Chẳng được, chẳng biết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1351. Một câu vì người.
Có ông tăng hỏi Ba Tiêu:
- Thế nào là môt câu vì người của Hòa thượng?
- Chỉ sự xà lê không dám hỏi.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1352. Không gì để thấy.
Có ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Thế nào là không ra cửa, không thấy Phật?
- Không gì để thấy.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1347 đến 1352 ba công án trên các thiền sư nhắc lại câu hỏi, 3 công án dưới các thiền sư trả lời mà như không trả lời, tất cả đều ám chỉ lời nói không diễn tả được chân lý.

1353. Quải Đơn.
Một ông tăng đến một chùa nọ xin quải đơn. Tri khách tăng hỏi:
- Ông đến bản tự quải đơn, có gì cúng dường?
Ông tăng không có tiền, cũng không có một vật gì, chỉ nói:
- Sư phụ, con chỉ có thân, khẩu, ý cúng dường thấy.
Tri khách tăng bước tới cho vài bạt tai, ông tăng xoa đầu. Tri khách tăng bảo:
- Xoa đầu cái gì? Ngươi chẳng đemthân, khẩu, ý cúng dường ta sao? Đầu ngươi là của ta, Xoa cái gì?
(Hương Thủy Hải)
Câu chuyện trên cho thấy tham học không phải là đơn giản; giác ngộ càng không đơn giản. Muốn ngộ phải nhẫn nại, buông bỏ tất cả, kể cả sinh mạng. 

1354. Phải biết tiếc phúc.
Sâm Hằng Thái Lang là một vị thôn trưởng rất thích giúp đỡ mọi người. vào tuổi trung niên, mắt ông bị bệnh. Mặc dù đã chữa trị nhiều cách, nhưng cuối cùng cũng bị mù. Bị mù rồi Sâm Hằng cảm thấy mình trở thành vô dụng, không có khả năng giúp đỡ dân làng nữa. Lại sợ làm phiền đến mẹ, vợ và 2 đứa con gái cho nên ông quyết định tự sát để giải thoát. Một hôm ăn cơm trưa xong, ông quyết định tự sát ngay hôm đó. Khi ông vịn tay vào bàn để đứng dậy thì tay chạm vào một hạt cơm vãi trên mặt bàn. Ông thuận tay đưa hạt cơm vào mồm nhai. Ông bỗng nhớ lại khi còn nhỏ mẹ ông dậy trước khi ăn phải thành kính cám ơn rồi mới ăn, phải biết quý trọng từng hạt cơm. Ông tự hỏi:
- Tại sao phải quý trọng từng hạt cơm?
Và ông chợt tỉnh ngộ:
- Một hạt gạo tuy nhỏ, nhưng có thể sinh ra biết bao hạt gạo khác; có thể nuôi sống người. Ta nay chỉ bị mù, lại có ý tự sát để trốn tránh, thật không sánh bằng hạt gạo.
Nghĩ thông rồi, ông bỏ ý định tự sát, bôn ba khắp nơi giúp đỡ mọi người, được dân chúng rất ái mộ.
(Hương Thủy Hải)
Một hạt trong bát cơm tuy nhỏ, nhưng cả bát cơm là do một hạt mà nên. Một hạt đem trồng ngoài ruộng sẽ cho lúa đầy đồng.
Trong tùng lâm, từ cổ đã có bài kệ đề tỉnh các ông tăng phải tôn trọng thọ thực.

Hạt gạo của thí chủ
To bằng núi Tu Di
Nếu không chuyên tu Đạo
Sẽ đội sừng mang da.

1355. Ngày nào cũng đẹp.
Tông Đán là truyền nhân đời thứ 3 của Trà Thánh Lợi Hưu. Ông lập một trà thất và thỉnh lão sư là hòa thượng Thanh Nham đến đặt tên. Đến ngày khai trương Tông Đán vì có việc gấp phải đi bèn viết lại vài chữ dặn đồ đệ chuyển lại cho thầy.
- Con xin lỗi, vì có chuyện gấp phải đi, xin để ngày mai gập
Thanh Nham đến không thấy Tông Đán bèn để lại một phong thư rồi đi. Thư vẻn vẹn có mấy chữ:
- Tỳ khưu lười, chẳng có ngày mai.
Khi Tông Đán trở về đọc thư xong vội chạy tới bái phỏng Thanh Nham tạ tội và viết một câu thơ:
- Niệm niệm ngày qua ngày, Ngày mai là ngày mai.
Kết quả là trà thất được đặt tên là Kim Nhật Am
(Nhất vị thiền:Quyển Phong)
Chúng ta nên biết rằng ngày hôm nay, giờ khắc này vĩnh viễn không trở lại. Chúng ta phải biết quý trọng giờ khắc này. Do đó “Niệm niệm ngày nay qua ngày nay” thì mới có thể thấy “Ngày nào trời cũng đẹp, dù mưa hay nắng, buồn hay vui, buông bỏ tất cả mọi tính toán, so đo.” Cát Xuyên Anh Trị có nói:
- Trời tạnh thích trời tạnh, trời mưa thích trời mưa. Có chuyện vui thì vui, không có chuyện vui cũng vui.
Đó là lời giải thích rất hay cho câu “Ngày nào cũng đẹp”

1356. Chánh tà.
Có ông tăng hỏi Đại Châu:
- Làm chánh là sao?
- Tâm đuổi theo vật là tà, vật từ tâm ra là chánh.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Khi “ngã” bị vật dục bao vây, bị vật cảnh chuyển thì “ngã” bị động. Nếu một người có thể từ bỏ được phân biệt thì chân ngã phát huy công năng, vật thành khách thể, ngã trở thành chủ thể, do đó có thể phát huy Bát Nhã chân quán.

1357. Siêu việt.
Một hôm Quy Sơn hỏi Vân Nham:
- Bồ đề lấy gì làm nền?
- Lấy vô vi làm nền.
Vân Nham hỏi ngược lại Quy Sơn:
- Bồ đề lấy gì làm nền?
- Lấy “không” làm nền, ngươi nghĩ sao?
- Ngồi thì nghe ngồi, nằm thì nghe nằm. Có một người nằm không ngồi. Nói mau ! Nói mau!
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Siêu việt khiến chúng ta trong mọi hoàn cảnh nhận thức rõ ràng không bị sắc tướng làm mê hoặc, không làm nô tài cho vật dục, có năng lực nhận lãnh trách nhiệm.

1358. Lễ như đàn bà.
Một ông tăng hỏi Đạo Ngô:
- Thế nào là chỗ sâu thẳm?
Đạo Ngô bước xuống thiền sàng vái như đàn bà.
- Ngươi từ xa tới, nhưng đáng tiếc ta không có câu trả lời cho ngươi.
(Zen and Zen classic)
Hành động và câu nói của Đạo Ngô là chỗ sâu thẳm.

1359. Pháp đường đổ.
Dược Sơn lúc sắp mất kêu lớn:
- Pháp đường sắp đổ kìa!
Chư tăng vội chạy lại ôm giữ cột nhà.
Dược Sơn giơ hai tay lên trời than:
- Các ngươi chẳng có ai hiểu ý ta!
Nói rồi mất.
(Zen and Zen classic)
Ôm giữ vật đang rơi là điên, sao không đẩy cho nó rơi luôn.

1360. Ý tổ sư.
Một ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Thạch Sương nghiến răng. Ông tăng không hiểu. Sau khi Thạch Sương mất, ông tăng hỏi Cửu Phong:
- Thạch Sương nghiến răng là ý gì?
- Nếu là ta thì thà là cắt lưỡi còn hơn làm xấu hổ đất nước.
Ông tăng lại hỏi Vân Cái. Vân Cái nói:
- Ta là kẻ thù của Thạch Sương sao?
(Zen and Zen classic)
Nếu đã chứng ngộ thì nói hay không đều là diễn tả chân lý.

1361. Giặt quần áo.
Nam Tuyền đang giặt quần áo, một ông tăng hỏi:
- Chẳng lẽ thầy còn chuyện tất yếu này?
Nam Tuyền giơ quần áo lên:
- Cái này biết làm sao?
(Thiền cơ)
Quần áo trỏ sự trói buộc, giặt quần áo là cởi trói.

1362. Thạch Lâu không có tai.
Một ông tăng hỏi Thạch Lâu:
- Con chưa biết bản sinh, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị.
- Thạch Lâu không có tai.
- Con tự biết không đúng.
- Chẳng lẽ lão tăng sai sao?
- Thầy sai ở chỗ nào?
- Sai ở chỗ ngươi không đúng.
(Thiền cơ)
Bản sinh chỉ khuôn mặt xưa nay. Thạch Lâu nói không có tai là ám chỉ ông tăng không nên hỏi; hỏi là dư thừa. Ông tăng hiểu điều đó nên nhận là mình không đúng. Câu ‘sai ở chỗ ngươi không đúng’ có nghĩa là đúng và sai đều là dư thừa.

1363. Không trồng tạp chủng.
Một ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Chuyện khẩn cấp của sinh mạng là gì?
- Không trồng tạp chủng.
(Thiền cơ)
Chuyện khẩn cấp chỉ khuôn mặt xưa nay, tạp chủng chỉ sự nhiễm trần.

1364. Bố mẹ đều mất.
Có một ông tăng đến tham phỏng Tánh Không; thiền sư dang hai tay ra, ông tăng tiến lên rồi thối lui. Tánh Không hỏi:
- Cha mẹ đều mất mà mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào sao?
Ông tăng cười ha hả.
- Tên ngốc giúp hòa thượng lo tang sự!
Ông tăng giở nón đi ra. Thiền sư kêu:
- Trời xanh! Trời xanh!
(Thiền cơ)
Thiền sư dang hai tay ra tỏ rằng tất cả đều minh bạch, tới tham phỏng làm gì?
Ông tăng bước tới rồi lại bước lui lại là biểu thị đã vượt lên phàm thánh. Cuối cùng thiền sư khuyên ông tăng phải nỗ lực tham thiền để đạt tới cảnh giới vô ngại.

1365. Méo mồm.
Một hôm, trong buổi tham thiền Pháp Chân bỗng nhiên làm miệng méo như bị trúng gió rồi hỏi:
- Có ai chữa được mồm ta không?
Đại chúng tranh nhau đưa thuốc, dân chúng được tin cũng liên tục đưa thuốc đến tặng nhưng thiền sư đều không nhận. Bẩy hôm sau, thiền sư tự dùng tay vả vào mồm khiến mồm trở lại như cũ, bảochúng đệ tử:
- Mấy hôm nay mồm bị méo, đến giờ cũng không ai đủ sức chữa cho ta.
(Thiền cơ)
Mồm ám chỉ tự tánh, méo mồm là tự tánh bị duyên trần ô nhiễm. Thuốc của tha nhân làm sao chữa được, chỉ có tự mình.

1366. Đập vỡ gương.
Trường Sinh hỏi Chí Cần:
- Thế nào là chân thường?
- Giống như gương luôn sáng.
- Còn có cảnh giới nào cao hơn không?
- Có.
Thế nào là cảnh giới cao hơn?
- Đập vỡ gương.
(Thiền cơ)
Chân thường, gương sáng là thánh cảnh, đập vỡ gương là trở về phàm.

1367. Đầu rơi xuống đất.
Một ông tăng hỏi Lục Thông:
- Thế nào là một kiếm?
- Đừng ngăn mũi nhọn.
- Đầu rơi xuống đất rồi thì phải làm sao?
- Ta đã nói rồi, đừng ngăn mũi nhọn thì làm sao rơi đầu?
(Thiền cơ)
Một kiếm chỉ xuy mao kiếm chặt đứt căn trần nhưng không chặt tự tánh. Thiền sư bảo đừng ngăn mũi nhọn là bảo ông tăng tự chặt đứt căn trần. Ông tăng chưa hiểu nên hỏi “đầu rơi xuống đất phải làm sao?”. Ở đây “đầu” chỉ phàm cảnh, rơi xuống đất chỉ thánh cảnh. Câu đáp của thiền sư là đừng trú mãi ở “thánh” cảnh hãy trở về “phàm “ cảnh.

1368. Cảnh giới Tung Sơn.
Một ông tăng hỏi Tung Sơn:
- Cảnh giới Tung Sơn là thế nào? (T)
- Mặt trời mọc từ phương Đông, mặt trăng lặn về phương Tây (P)
- Con không hiểu.
- Đông, Tây cũng không hiểu sao?
(Thiền cơ)

1369. Nhẩy ra khỏi tam giới.
Một ông tăng hỏi Thiên Long:
- Làm sao nhẩy ra phỏi tam giới? (P)
- Ngươi nay ở đâu? (TP)
(Thiền cơ)

1370. Chổi đuôi nai.
Một ông tăng hỏi Pháp Chân:
- Phật là gì?(T)
Thiền sư giơ chổi làm bằng đuôi nai lên hỏi:
- Hiểu không?
- Con không hiểu .
- Chổi đuôi nai!(P)
(Thiền cơ)

1371. Dụng tâm liền sai.
Một ông tăng hỏi Thủy Lục:
- Con dụng tâm chỗ nào?
- Dụng tâm liền sai.
- Vậy nếu không khởi một niệm thì sao? (T)
- Là một gã vô dụng. (P)
(Thiền cơ)

1372. Giữ mồm ăn cơm.
Một ông tăng hỏi Minh Chân:
- Đường đi lên, ngàn thánh chẳng truyền (T); không biết thầy truyền thế nào “
- Hãy giữ mồm mà ăn cơm. (P)
(Thiền cơ)

1373. Mất một đấu gạo.
Một ông tăng hỏi Huyền Nột:
- Thế nào là xúc mục Bồ đề? (T)
- Hòa thượng mất nửa năm lương. (P)
- Tại sao?
- Chỉ vì tìm cầu một đấu gạo (T).
(Thiền cơ)

1374. Diện bích chín năm.
Một ông tăng hỏi Tùy Chân:
- Đạt Ma diện bích chín năm là ý gì? (T)
- Ngủ không được. (P)
(Thiền cơ)

1375. Ngàn vạn núi.
Có ông tăng hỏi Long Tu:
- Trong ngàn vạn núi, núi nào là Long Tu? (T)
- Ngàn vạn núi. (P)
- Thế nào là người trong núi? (T)
- Đối diện ngàn dặm. (P)
(Thiền cơ)

1376. Ném một mảnh ngói.
Phổ Nguyện đi ngang vườn rau thấy một ông tăng đang trồng rau (P) liền nhặt một mảnh ngói ném qua (T). Ông tăng ngoảnh đầu nhìn. Thiền sư liền giơ một chân lên (T). Ông tăng không nói một lời. Thiền sư trở về phòng phương trượng, ông tăng đi theo hỏi:
- Thầy ném mảnh ngói có phải là đề tỉnh con không?
- Ta giơ chân lên là ngụ ý gì?
(Thiền cơ)

1377. Tám lõm, chín lồi.
Một ông tăng hỏi Tòng Y:
Thế nào là Thiên Bình? (T)
- Tám lõm, chín lồi. (P)
(Thiền cơ)

1378. Lìa thanh sắc.
Một ông tăng hỏi Thiệu Tu:
- Lìa thanh sắc, thỉnh thiền sư chỉ thị (T).
- Hãy từ trong thanh sắc ra và hỏi lại (P).
(Thiền cơ)

1379. Ăn rau đạo.
Một ông tăng hỏi Quế Sâm:
- Thế nào là thực phẩm chân chính của sa di? (T)
- Ngươi có thể ăn sao? (P)
- Muốn ăn rau đạo, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị (T).
- Ngậm chặt mồm lại. (P)
(Thiền cơ)

1380. Đãng tử về quê.
Một ông tăng hỏi Văn Ích:
- Đãng tử về quê thì sao? (T)
- Ngươi có gì cho hắn? (P)
- Không có gì cả (T).
- Sinh hoạt hàng ngày biết làm sao? (P)
(Thiền cơ)

1381. Người đá trong vò.
Một ông tăng hỏi Tông Huệ:
- Phật là thế nào? (T)
- Rõ rõ, ràng ràng (P)
Vạn duyên đều dứt thì sao? (T)
- Người đá trong vò (T), bán táo (P).
(Thiền cơ)

1382. Mất gối.
Một ông tăng hỏi Xứ Chân:
- Thế nào là chỗ chuyển thân của thầy? (T)
- Nửa đêm hôm qua mất cái gối! (P)
(Thiền cơ)

1383. Ngồi không.
Thạch Đầu hỏi Dược Sơn đang ngồi thiền:
- Ngươi ở đây làm gì?
- Chẳng làm gì cả. (T)
- Vậy là ngồi không?
- Nếu nói là ngồi không là có làm.
- Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
- Ngàn thánh cũng chẳng biết. (P)
(Thiền cơ)
(Xem thêm lời giảng ở công án 1500)

1384. Hoa sen trong lửa.
Một ông tăng hỏi Chân Tịch:
- Thế nào là rồng kêu (P) trong cây khô (T)? (TP)
- Hoa sen trong lửa (T).
- Thế nào là con mắt (P) trong đầu lâu (T)?
- Trâu bùn vào nước.
(Thiền cơ)
Trâu bùn vào nước: ám chỉ phải siêu phàm vượt thánh.

1385. Đốt đèn.
Một ông tăng hỏi Quảng Pháp:
- Thế nào là trước khi đốt đèn? (P)
- Sau khi đốt đèn. (T)
Thế nào là sau khi đốt đèn? (T)
- Trước khi đốt đèn (P)
- Thế nào là ngay khi đốt đèn? 
- Uống trà đi.
(Thiền cơ)
Đèn chỉ tự tánh, đốt đèn chỉ sự giác ngộ.

1386. Một ngụm nuốt hết.
Một ông tăng hỏi Vân Môn.
- Thế nào là một ngụm nuốt hết? (T)
- Ta ở trong bụng ngươi. (P)
- Sao thầy lại ở trong bụng con?
- Trả lời câu ta vừa hỏi.
- Nói làm sao đây?
- Đi ra!
(Thiền cơ)

1387. Không biết đau.
Một ông tăng hỏi Truyền Sở:
- Thế nào là một câu lúc lâm cơ? (T)
- Ngươi nói thử coi? (P)
- Thỉnh thầy nói.
- Đầu lâu (T) bị xuyên mà chẳng đau (P).
(Thiền cơ)

1388. Ăn gậy sắt.
Một ông tăng hỏi Nham Đầu:
- Thế nào là chủ nhân (T) của ba giới? (P)  (T)
- Ngươi còn biết ăn gậy sắt không? (P)
(Thiền cơ)

1389. Vòng vàng chưa mở.
Một ông tăng hỏi Đầu Tử:
- Một pháp (T) thấm nhuần khắp chúng sanh, thế nào là một pháp?
- Trời mưa rồi! (P)
- Vòng vàng (T) chưa mở thì sao?
- Mở rồi . (P)
(Thiền cơ)

1390. Hôm nay phơi lúa mạch tốt.
Một ông tăng hỏi Viên Trí:
- Vạn dậm không mây chưa chắc đã là bản lai thiên, thế nào là bản lai thiên? (T)
- Hôm nay phơi lúa mạch tốt. (P)
(Thiền cơ)

1391. Người khô hạc.
Bảo Phúc hỏi một ông tăng đến tham học:
- Ngươi tên gì?
- Con tên Hàm Trạch (đầm đầy nước) (P)
- Bỗng nhiên gập người tên Khô Hạc (cạn hết) thì phải là sao? (T)
- Ai là người Khô Hạc?
- Là ta.
- Thầy đừng lừa dối người.
- Là ngươi lừa dối ta.
(Thiền cơ)

1392. Mãnh liệt.
Hắc Thủy hỏi Hoàng Long:
- Tuyết rơi trên hoa lan thì thế nào? (T)
- Mãnh liệt. (P)
- Không mãnh liệt. (T)
- Mãnh liệt. (P)
- Không mãnh liệt. (T)
Hoàng Long bèn quơ gậy đánh, Hắc Thủy ngay đó đốn ngộ.
(Thiền cơ)

 1393. Tuỳ duyên, tùy vận.
Văn Trục nói:
- Lão tăng bình sinh chẳng có kiến giải gì, ngày ngày chỉ vậy mà trú ở đây, tuỳ duyên, tùy vận. Các ngươi vì bản lai không hai dạng.
Một ông tăng hỏi:
- Con và bản lai không là hai sao? (T)
- Ngàn sai, vạn biệt. (P)
Ông tăng mở miệng định nói, thiền sư liền bảo:
- Được rồi! Được rồi! Đừng hỏi nữa, hãy thể nghiệm ngàn sai, vạn biệt.
(Thiền cơ)

1394. Trời thu ấm áp.
La Sơn hỏi một ông tăng đến tham học:
- Ngươi từ đâu đến?
- Tứ Xuyên. Xin hỏi chuyện ngày nay phải làm sao? (T)
Thiền sư vung tay:
- Uống trà đi. (P)
Ông tăng không trả lời được, La Sơn bảo:
- Trời thu ấm áp. Đi ra!
(Thiền cơ)

1395. Hôm nay gió lớn, trăng lạnh.
Một ông tăng hỏi Thủ Sơn:
- Có một người hết tận phóng đãng lúc trước, thầy có tiếp không? (T)
- Người đó là ai? (P)
- Hôm nay gió lớn, trăng lạnh. (T)
- Trong tăng đường có mấy người ngồi hoặc nằm?(P)
Ông tăng không trả lời được, thiền sư bảo ông:
- Thật là lừa chết lão tăng .
(Thiền cơ)

1396. Trần dép cỏ.
Trần Tôn Túc có ngoại hiệu là Trần Dép Cỏ, một hôm đang đứng ở hành lang, bỗng có một ông tăng chạy tới hỏi:
- Trần Tôn Túc ở phòng nào bên đó? (T)
Trần Tôn Túc tháo dép đập vào đầu ông tăng . (P) Ông tăng vội chạy trốn. Thiền sư gọi:
- Hòa thượng!
Ông tăng quay đầu lại, thiền sư giơ tay chỉ:
- Đi về bên đó!
(Thiền cơ)

1397. Đập bát.
Triệu Châu giơ một cái bát lên bảo đại chúng:
- 30 năm sau nếu còn thấy lão tăng thì hãy cung dưỡng, còn nếu không thấy thì đập bát đi.
Một ông tăng thưa:
- 30 năm sau con dám nói là thấy lão sư. (T)
Triệu Châu bèn đập bát. (P)
(Thiền cơ)

1398. Tháng thứ hai.
Một ông tăng hỏi Tào Sơn:
- Ai là người chìm nổi trong bể sanh tử? (P)
- Tháng thứ hai. (PT)
- Còn muốn ra khỏi không?
- Còn muốn ra nhưng không có đường.
- Khi ra khỏi được ai tiếp đãi?
- Người mang cùm sắt.
(Thiền cơ)
Tháng 1 chỉ bản thể giới, tháng 2 chỉ hiện tượng giới. Ở đây tháng 2 chỉ phàm phu. Ra khỏi phàm là vào thánh. Cùm sắt chỉ sự ô nhiễm. Không có đường vì chỉ ỷ lại vào người khác. Nếu thấy rằng mình đang mang cùm sắt (ô nhiễm) thì có thể do một niệm mà tiến vào thắng cảnh.

1399. Trâu đất rống.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là trâu đất ở Tuyết Lãnh rống?
- Trời đất tối đen.
- Thế nào là ngựa gỗ Vân Môn hí?
- Sông núi chạy.
- Từ chuyện trên thỉnh thầy chỉ thị. (T)
- Sáng nhìn Đông- Nam, chiều xem Tây- Bắc. (P)
- Cứ thế mà lãnh hội thì thế nào? 
- Nhà bên Đông đốt đèn, nhà bên tây ngồi trong tối.
(Thiền cơ)
Trâu đất, ngựa gỗ chỉ tự tánh.

1400. Thấy Bát Nhã rồi.
Một ông tăng hỏi Đức Thiều:
- Có người thấy Bát Nhã, bị Bát Nhã buộc (T), có người không thấy Bát Nhã cũng bị Bát Nhã trói (P). Nếu đã thấy Bát Nhã sao còn bị Bát Nhã trói?
- Ngươi thấy Bát Nhã gì?
- Không thấy Bát Nhã sao vẫn bị Bát Nhã trói?
- Ngươi không thấy Bát Nhã ở đâu?
(Thiền cơ)

Từ 1368 đến 1400: các công án trên đều có cùng một cơ chế, thiền sinh hỏi phàm (P), thiền sư đáp thánh (T); thiền sinh hỏi thánh (T), thiền sư đáp phàm (P). tất cả đều nhằm mục đích giúp thiền sinh siêu việt phàm thánh. Nếu thiền sinh đang ở thánh, thiền sư kêu ông trở về phàm để ma luyện. Vì nếu thiền sinh cứ trú ở thánh thì bị thánh trói buộc không tiến lên được.
Thiền môn có 3 cửa mà người học phải vượt qua, sơ lược như sau:

Tại phàm Vào thánh Về phàm Đại tự tại 
Sơ quan Trùng quan Lao quan
Hiện tượng giới Bản thể giới Bản thể hiện Bản thể hiện
 tượng giới tượng vô ngại giới
 1  2  3  4

1- Hiện tượng giới
Hiện tượng giới nằm ở:
- thời gian: quá khứ + hiện tại + tương lai .
- không gian: trước sau, phải trái, trên dưới, Đông, Tây, Nam, Bắc.
- con người: 3 duyên
*ngoại duyên : 6 trần
*nội duyên : 6 căn 
*trung duyên : 6 thức

Các yếu tố này thúc đẩy nhau, hỗ tương duyên khởi tạo thành hiện tượng giới. Hiện tượng giới có các tính chất:
- hữu hạn
- sai biệt
- đối lập
- dục vọng thúc đẩy ý chí.
Dục vọng không được thỏa mãn trở thành phiền não, do đó sinh ra trăm kế, ngàn mưu để truy cầu. Dù được rồi sẽ hóa chán ngay. Từ sinh đến tử con người ở hiện tượng giới tự tìm phiền não mà không tự biết. Có phiền não thì hãy còn là phàm phu.

2- Bản thể giới.
Bản thể thể giới đứng ngoải: - thời gian
 - không gian
 - 3 duyên.
Nếu có thể một niệm siêu thoát liền vào Bản thể giới, kiến tự tánh. Tự tánh ai cũng có đầy đủ. Tự tánh từ xưa đến nay không sinh không diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng, không thuộc Hữu Vô, không kể cũ mới, không dài không ngắn, không to không nhỏ, vượt qua mọi hạn lượng, danh ngôn, tung tích, đối đãi. Đương thể tức là, động niệm liền sai. Giống như hư không không có giới hạn, không thể đo lường. Vì “vốn không một vật” nên nó có thể sinh ra vạn vật. Không chỗ nào là không có, có thể lớn, có thể nhỏ, có thể vuông, có thể tròn. Tất cả đều hiện thành. Lại giống như trăng trong nước. Chỗ nào có nước đều được phổ chiếu. Lại giống như giọt thủy ngân khi phân tán ra nhiều giọt, giọt nào cũng tròn. Cho nên tự tánh ai cũng có không hề thiếu chỉ vì bị hiện tượng giới che dấu; cũng như một hạt minh châu trong nước bị gió tạo thành sóng khiến không thấy. Thiền sư phải làm sao cho học tăng thấy? Đối với cái không thể nói thường là các thiền sư dùng phương pháp không nói mà nói. Nếu bất đắc dĩ phải nói thì từ những sinh hoạt thường ngày, mượn những cảm giác cụ thể của sự vật mà hình dung đến tự tánh không thể cảm giác, không thể nghĩ bàn. Nếu học tăng ngay đó tự ngộ tự tánh liền thấy tánh, phá được sơ quan, vào Bản thể giới.

Tự tánh có nhiều tên do ứng duyên mà lập:
- kinh Bồ tát giới gọi là Tâm Địa vì vạn thiện từ đó mà ra.
- kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề vì lấy giác làm thể, còn gọi là Niết Bàn vì đó là chỗ về của chư Thánh.
- kinh Kim Cương gọi là Như Lai vì không từ đâu đến.
- kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như vì chân thường bất biến.
- kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân vì báo, hóa thân nương dựa vào.
- luận Khởi Tín gọi là Chân Như vì bất sanh, bất diệt.
- kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là thể của 3 thân.
- kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì vì lưu xuất công đức.
- kinh Thắng Ứng gọi là Như Lai Tạng vì ẩn phục, hàm nhiếp.
- kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác vì phá tôi, độc chiếu.
Trong Thiền Tông có lúc gọi là:
- Diệu tâm vì hư linh, độc chiếu
- Vô đề bát vì tùy xứ sinh nhai.
- Xuy Mao Kiếm vì chặt đứt căn trần.
- Mâu ni châu vì giúp đỡ bần cùng.
- Chủ nhân ông . . . 

3- Bản thể hiện tượng giới.
Tức là ra thánh về phàm. Hiện tượng giới giống như vỏ trứng, thiền sinh phải tự mình mổ vỡ là phá được Sơ Quan, vào bản thể giới. Nhưng thiền sinh phải trở lại phàm để ma luyện. Nếu cứ trụ ở thánh thì sẽ bị “nước chết sát hại”. Do đó, thiền sư dùng phương pháp đánh, hét khiến thiền sinh ‘Tuyệt hậu tái tô” phát đại cơ, đại dụng “mai già hoàn hồn”. Đó là thiền sinh đã phá được Trùng Quan.

4- Bản thể hiện tượng vô ngại giới.
 Phá được Trùng Quan rồi hãy còn phàm thánh, ngộ mê, lý sự, thể dụng, không sắc, vô hữu, tối sáng, tâm cảnh, bồ đề phiền não, như lai chúng sinh . . . Do “đầu gậy trăm trượng bước bước nữa”, không ngừng tham chứng cho đến khi không thấy Phật, không thấy chúng sinh, trong ngoài thông suốt. Vào sắc giới không bị mắt mê hoặc, vào thanh giới không bị tai mê hoặc . . . là thiền sinh đã phá được Lao Quan nhận được tâm ấn.

1401. Giác ngộ.
Động Sơn hỏi thủ tọa một câu, thủ tọa trả lời nhiều lần nhưng đều không được chấp nhận. sau cùng đến lần thứ 96. Động Sơn bảo:
- Sao trước ngươi không nói thế “
Một ông tăng nọ, được nghe 95 câu trả lời của thủ tọa nhưng câu cuối cùng lại không nghe được. Mỗi lần gập trong nhà tắm ông đều năn nỉ thủ tọa nói cho ông nghe câu nói đó nhưng đều bi từ chối. Ba năm sau, thủ tọa bị ốm nặng. Ông tăng mang dao đến bảo thủ tọa:
- Ba năm qua, tôi năn nỉ ông nói, ông đều từ chối. nếu bây giờ ông vẫn không bảo cho tôi biết, tôi sẽ giết ông.
- Được rồi! Đợi một chút! Nhưng tôi bảo cho ông biết dù tôi có nói thì cũng chả có ích lợi gì cho ông.
Ông tăng lạy thủ tọa đi ra.
(Zen and Zen classic)
Khi ông tăng nhận được lời hứa sẽ được thỏa mãn điều ông muốn thì ông không còn muốn nữa: Ông đã giác ngộ. Giác ngộ là không còn muốn giác ngộ nữa.

1402. Tháp vô phùng.
Một ông tăng hỏi Thủ Sơ:
- Thế nào là tháp vô phùng? (Xem công án )
- Sư tử đá ở ngã tư đường.
(Zen and Zen classic)
Thủ Sơ muốn ông tăng vượt lên phàm, thánh.

1403. Người đánh xe.
Một ông tăng hỏi Thủ Sơ:
- Khi xe ngừng mà bò không ngừng thì sao?
- Sao không dùng người đánh xe?
(Zen and Zen classic)
Người đánh xe chỉ tự tánh.

1404. Chấp lời.
Một ông tăng hỏi Thiệu thiền sư:
- Môi, họng không động làm sao nói?
- Đợi ngươi bừa hết Càn Tử Sơn ta sẽ bảo cho ngươi biết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Thiền sư phá cái chấp vào lời nói của ông tăng.

1405. Diệt lục căn.
Một ông tăng hỏi Quảng Trừng:
- Làm sao diệt hết lục căn?
- Vụt kiếm vào không, không làm thương vật.
(Thiềng ngoại thuyết thiền)
Dùng kiếm trí tuệ chặt đứt mọi trói buộc.

1406. Tâm của cổ Phật.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Ba người đàn bà xếp hàng lạy.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1407. Đại ý Phật pháp.
Một ông tăng hỏi Phụng thiền sư:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Thíc Ca là quỷ đầu trâu, tổ sư là qủy mặt ngựa.
- Thế nào là ý Tây sang?
- Tường Đông đánh tường Tây!
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1408. Ý tổ sư.
Một ông tăng hỏi Đạo Ân:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Năm Phổ Thông thứ 8 gập Lương Quái, cho đến nay vẫn chưa có tuyết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1406 đến 1408: Các câu đáp đều ly kỳ không ngoài mục đích là cắt đứt sự suy nghĩ của người hỏi.

1409. Thạch Sương.
Thạch Sương đến thăm Đạo Ngô hỏi:
- Một trăm năm sau, nếu có người hỏi về tự tánh, con phải trả lời sao?
- Đạo Ngô gọi thị giả:
- Sa di!.
- Dạ!
- Đổ thêm nước vào tịnh bình.
Đạo Ngô quay lại hỏi Thạch Sương:
- Vừa rồi ông hỏi gì?
Thạch Sương nhắc lại câu hỏi, Đạo Ngô trở về phương trượng. Thạch Sương giác ngộ ngay đó.
(Zen and Zen classic)
Thành, trụ, hoại, diệt của vạn vật được thấy trong sự đổ thêm nước vào tịnh bình, trong sự nhắc lại câu hỏi, trong sự trở về phòng. Những động tác này người thường làm với sự vô ý thức, còn Đạo Ngô làm với sự tỉnh thức, chẳng trách Thạch Sương giác ngộ.

1410. Đừng tìm trong kinh.
Một ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây sang có trong Phật giáo không?
- Có.
- Ý đó là sao?
- Đừng tìm trong kinh.
(Zen and Zen classic)
Câu trả lời thật hay và rõ ràng. Chân lý trong kinh, nhưng đừng đọc kinh để tìm chân lý trong đó.

1411. Bện dép cỏ.
Động sơn hỏi một ông tăng:
- Ngươi từ đâu tới?
- Từ nơi bện dép cỏ.
- Người tự mình bện hay phải nhờ người?
- Nhờ người.
Hắn có dạy ngươi không?
- Nếu cứ theo lời hắn thì sẽ bện được dép tốt.
(Động Sơn Lục)
 Hắn chỉ tự tánh.

1412. Huyền Chi Hựu Huyền.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Thế nào là huyền chi hựu huyền?
- Lưỡi người chết.

1413. Cỏ bờ bên kia.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Ở bờ bên kia là cỏ gì?
- Cỏ không mọc.
(Động Sơn Lục )
 “Cỏ không mọc” cùng với ý “vạn dậm không tấc cỏ” (Xem công án 668).

1414. Chết rồi về đâu?
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Khi một ông tăng qua đời, ông về đâu?
- Sau khi thiêu, chỉ còn lại một cọng rau dút.
(Động Sơn Lục)
Động Sơn ám chỉ ‘Chủ nhân ông” trở về không.

1415. Phi lão hủ.
Động Sơn đến Kinh Triệu tham bái hòa thượng Hưng Bình. Hưng Bình bảo:
- Đừng lạy lão hủ.
- Lạy phi lão hủ.
- Phi lão hủ không nhận lạy.
- Phi lão hủ cũng không ngăn chận lạy.
(Động Sơn Lục)
Phi lão hủ chỉ tự tánh bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm.

1416. Tâm của cổ Phật.
Động Sơn hỏi Hưng Bình;
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Là tâm ngươi, không là gì khác.
- Mặc dầu vậy con còn nghi vấn.
- Nếu là thế,ngươi hãy đi hỏi người gỗ.
- Con có một câu không mượn lời chư thánh.
- Sao ngươi không nói thử coi!
- Không phải là việc của con.
(Động Sơn Lục)
Khi Hưng Bình nói là tâm ngươi, Động Sơn mới đầu nói là con còn nghi vấn, sau lại nói ‘không phải là việc của con’ là phủ định ngã mà trở thành tâm của cổ Phật.

1417. Bó củi nặng bao nhiêu?
Có một lần Tuyết Phong mang một bó củi ném xuống trước mặt Động Sơn. Động Sơn hỏi:
- Bó củi nặng bao nhiêu?
- Người cả thiên hạ cũng không giở lên được.
- Vậy sao nó lại ở đây?
Tuyết Phong im lặng không nói.
(Động Sơn Lục)

Bó củi ám chỉ tự tánh.

1418. Cuốc chết giun.
Một hôm Vân Cư đang làm ruộng vô ý cuốc chết một con giun. Động Sơn bảo:
- Ngươi phải cẩn thận.
- Con giun còn chưa chết.
- Việc nhị tổ về Nghiệp Thành ngươi nghĩ thế nào?
Vân Cư không trả lời.
(Động Sơn Lục)
‘Con giun còn chưa chết” chỉ túc nghiệp của con giun. Theo truyền thuyết Huệ Khả trước khi về Nghiệp Thành (tỉnh Hà Nam ngày nay) có nói là về để trả nợ. Ông về đó bị quan lại bắt bỏ ngục và sát hại. chuyện này ám chỉ bị hại là do trả quả tội nghiệp kiếp trước.

 1419. Ung Chính
Ung Chính được nhiều người công nhận là một vị hoàng đế đã khai ngộ. Ung Chính lên ngôi rồi đọc cuốn ngữ lục của Ngọc Lâm, vị thiền sư đã được tổ phụ ông là Thuận Trị sắc phong là quốc sư, thấy rằng Ngọc Lâm quả đã triệt ngộ. Ông bèn hạ chiếu vời Triệt hành giả là truyền nhân của Ngọc Lâm vào cung. Triệt hành giả (về sau là Thiên Tuệ Triệt Tổ) lúc đó đang ở Cao Mân Tự tham thiền. Lúc đó ông còn chưa khai ngộ, bị quan sai tìm đến, đưa về Bắc Kinh.
Ung Chính gập mặt Triệt hành giả bèn hỏi:
- Mặt mũi xưa nay khi cha mẹ chưa sinh ra như thế nào?
Triệt hành giả trì nghi (vì tâm sợ hãi trước mặt hoàng đế) giơ một nắm đấm lên. Ung Chính không đồng ý, nhưng thấy Triệt hành giả tham thiền lâu năm muốn thành toàn cho ông nên bảo:
- Ngươi hỏi lại trẫm đi!
- Xin hỏi Hoàng thượng thế nào là mặt mũi xưa nay lúc cha mẹ chưa sinh ra?
Ung Chính giơ nắm đấm lên. Triệt hành giả hốt nhiên đại ngộ.
(Báo Mỹ Phật Tuệ Tấn số 86)

Một người đã thấy tánh thì không bị lợi hại uy hiếp, ảnh hưởng đến kiến địa của mình mà phải do dự. Ung Chính chỉ cho ông “chính là cái đó”. Triệt hành giả tham thiền nhiều năm, hoặc giả cho rằng chỉ tiểu dân mới là “cái đó” đột nhiên phát hiện Hoàng đế “cũng là cái đó” do vậy đại ngộ. Vậy giơ nắm đấm lên là chỉ kiến tánh ư? Hoàn toàn không phải vậy. Lịch sử không ghi chép Ung Chính giác ngộ như thế nào? Nhưng ông quả là một vị đại tông sư. Khi ông tthấy Triệt hành giả đối tự tánh hãy còn do dự chưa quyết định tin hay không tin ở sự giơ nắm đấm lên. Ung Chính giúp ông theo nước đẩy thuyền. Giơ nắm đấm lên, giống như sấm nổ bên tai khiến nghi tình của Triệt hành giả bị đánh tan., thấy được tự tánh. Hành giả hàng ngày tu tâm phải làm sao không bị ngoại cảnh ảnh hưởng. Nói thì dễ, nhưng làm thì sao đây? Chúng ta phải kiên nhẫn dùng trí tuệ và từ bi hỷ xả đối diện nghịch cảnh mà đào luyện tâm.
(Chu Hữu Đường)

1420. Hai con quạ.
Một lần Động Sơn đang rửa bát thấy 2 con quạ đang tranh nhau ăn một con ếch. Một ông tăng cũng trông thấy hỏi:
- Tại sao lại đến tình trạng này?
- Chỉ lợi cho xà lê.
(Động Sơn lục)
Câu đáp của Động Sơn có nghĩa là ông tăng phải tự phản tỉnh.

1421. Người làm mặt nạ.
Một hôm, Xá Lợi Phất gập một người bạn cũ trên đường. Sau khi chào hỏi xong, rất kinh ngạc bảo:
- Xin lỗi tôi nói thật, khí sắc ông sao xấu thế! Sắc mặt hung dữ khó coi quá! Ông hãy bảo trọng!
Người bạn này sau khi nghe lời khuyên của Xá Lợi Phất liền suy nghĩ tại sao tướng mạo mình lại biến thành hung ác? Suy đi tính lại cuối cùng đã hiều: thì ra hàng ngày mình chế tạo các mặt nạ quỷ Dạ Xoa, La Sát, mặt xanh nanh vàng, không ngừng nghĩ đến những khuôn mặt khó coi không ngờ tướng mạo mình biến thành Dạ Xoa, La Sát. Thật đúng là tướng do tâm sanh, đáng sợ thật. Từ nay ta không làm mặt nạ Dạ Xoa, La Sát nữa mà sẽ điêu khắc các tượng Phật, Bồ Tát, ông quán tưởng Phật, Bồ Tát từ bi, thân thiết biết bao. Càng điêu khắc càng hoan hỉ, tướng mạo ông dần dần thanh thản.
Một hôm Xá Lợi Phất gập lại ông trên đường, không ngăn được hỏi:
- A! Tướng mạo ông làm sao lại biến thành từ bi, thanh thoát như vậy?
Bạn ông mỉm cười:
- Hiện nay, hàng ngày tôi điêu khắc tượng chư Phật và Bồ Tát đó!
(Báo Phổ Môn số 238)
Do đó, ta thấy tâm như một người nghệ sĩ có thể sáng tạo mọi vật. Tướng mạo chúng ta là do tâm chúng ta vì mọi người có thể chính mình là người sáng tạo. Khi tâm ta hoan hỉ từ bi tướng mạo ta sẽ thanh thản, khi chúng ta giận dữ tướng mạo sẽ hung ác. Vậy chúng ta nên tịnh hoá tâm linh để tâm trở thành thuần tịnh, thiện lương.
(Ma Già)

1422. Bài kệ của Bố Đại hòa thượng.

我 有 一 布 袋
Ngã hữu nhất bố đại
虛 空 無 障 礙
Hư không vô chướng ngại
展 開 遍 十 方
Triển khai biến thập phương
如 實 觀 自 在
Như thật quán tự tại

Ta có một túi vải
Hư không chẳng quái ngại
Mở ra khắp mười phương
Như thật quán tự tại.
(Báo Mỹ Phật tuệ tấn số 44)
Túi vải chỉ tâm đã khai ngộ, đối ngoại mười phương không chướng ngại, đối nội tất cả đều tự tại.
Mười phương thế giới của chúng sinh đều ở trong tâm ta, tâm ta và chúng sinh đồng tại, không đối lập.
(Thánh Nghiêm)

1423. Đại ý Phật pháp.
Có một lần, một ông tăng hỏi Bố Đại:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Bố Đại không nói một lời, bỏ túi vải xuống, khoanh tay đứng.
- Chỉ là thế thôi hay còn đạo lý cao thâm nào nữa không?
Bố Đại vẫn không nói một lời, lại khoác túi vải lên lưng mà đi.
(Cao tăng truyện)
Bỏ túi vải xuống là chỉ khám phá thế tình bỏ xuống vạn duyên (có thể xuất thế)
Khoanh tay mà đứng: lấy con mắt lãnh đạm mà nhìn thế gian, giải thoát tự tại.
Lại khoác túi vải lên lưng: có thể nhấc lên (có thể nhập thế).
Không nói một lời: ngôn ngữ không thể diễn tả được chân lý.
Hoạt cảnh trên biểu thị không chấp tướng mới gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, ngay đó đảm trách bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, bát nhã, thiền định (lục độ). Tự độ rồi độ tha. Không một chuyện gì là không đảm đương, cũng không chấp một tướng nào. Phàm phu có thể nhấc lên được (chấp tướng) nhưng không bỏ xuống được. Tiểu thừa bỏ xuống được (xuất thế) nhưng không nhấc lên được. Đại thừa bồ tát bỏ xuống được (xuất thế) cũng nhấc lên được (nhập thế) nhưng không chấp tướng. Bỏ xuống là không (chân đế) nhấc lên là Hữu (tục đế). Không hữu viên dung, chân tục bất nhị đó là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế, không lời nào có thể diễn tả được cho nên Bố Đại không nói.
Câu đại ý Phật pháp:
Mọi điều ác không làm: là bỏ xuống.
Mọi điều thiện đều làm: là nhấc lên.
Ý tự thanh tịnh: là không chấp tướng.
Đó là lời dạy của chư Phật.
(Hùng Uyển )

1424. Trên đường gập mãnh hổ.
Một ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
- Trên đường gập mãnh hổ, phải làm sao?
- Ngàn vạn người chẳng gập sao lại nhè nhà ngươi mà gập?
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là hành giả khi gập duyên ứng duyên thì phải làm thế nào?
Ngàn vạn người là chỉ những người có tu, có chứng, tâm đã thanh tịnh thì gập hay không gập mãnh hổ cũng không thành vấn đề. Vì tâm ngươi còn ô nhiễm, còn phân biệt nên mới bị phiền não.
Mãnh hổ ở đây chỉ nghịch cảnh. 
Tâm ông tăng chưa thanh tịnh, còn phân biệt nên mới thấy hổ là mãnh thú và thấy sợ hãi bị ăn thịt. Nếu tâm ông tăng thanh tịnh thì ông không thấy hổ là mãnh hổ, nếu hổ là chủ nợ của một kiếp quá khứ thì dù mất sinh mạng cũng phải trả; còn không thì chẳng hề hấn gì?
Thí dụ Hỏa Bảo Long rất hung dữ, Đức Phật lấy lòng từ bi nhập từ bi tam muội đã chiết phục được nó. 

1425. Đến tăng đường.
Động Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Có một người ở trong đám ngàn vạn người, không xoay lưng hoặc đối diện với một người nào, các ngươi nói mặt mũi hắn thế nào?
Vân Cư bước ra thưa:
- Hiện giờ con muốn đến tăng đường.
 (Động Sơn lục)
Câu của Động Sơn có nghĩa là phải siêu việt trước, sau.
Vân Cư nói là muốn đến tăng đường nhưng thực ra là không đến tăng đường.
Hai thầy trò đồng ý: tự tánh không lệ thuộc vào không gian.

1426. Hỏi, đáp không đúng cách.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Thế nào là hỏi, đáp đúng cách?
- Không từ miệng ra.
- Nếu có người hỏi, thầy có đáp không?
- Cho tới giờ chưa có người hỏi ta .
(Động Sơn lục)
Câu của Động Sơn có nghĩa là dùng không lời mà hỏi.

1427. Thuyết pháp.
Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Từ khi thầy xuất gia, thuyết pháp có bao người tin phục.
- Không một người tin phục.
- Tại sao không ai tin phục thầy?
- Vì mọi người đều có kiến thức của bậc vương giả.
(Động Sơn lục)
Thuyết pháp giống như trị bệnh. Trên thế gian này không có một thứ tiên dược nào có thể trị bách bệnh, có khi bệnh tự lành.

1428. Vì con mắc bệnh.
Một hôm khi chư tăng đều ra ngoài phổ thỉnh (lao tác), Động Sơn đi một vòng kiểm soát thấy một ông tăng còn ở tăng đường bèn hỏi:
- Sao ngươi không đi phổ thỉnh?
- Con mắc bệnh.
- Khi ngươi mạnh, có đi không?
(Động Sơn lục)
Phổ thỉnh không hạn chế ở việc làm ruộng. Ý của Động Sơn là không phải khi mạnh khỏe mới tu, vì người tu phải vượt lên các cảnh giới sinh, lão, bệnh, tử.

1429. Tự tại.
Một ông tăng hỏi Tuệ Tông:
- Phía trước là vực thẳm vạn trượng, phía sau là hổ báo, sài lang, chính lúc đó phải làm sao?
- Tự tại!
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có ý là một người đã tu tập không, vô tướng, vô nguyện tam muội được chân chính giải thoát tri kiến là đã khai ngộ. Lúc đó linh tri, linh giác của tâm hành giả chiêu cảm nhiều nghiệp duyên tới khiến thân không tự chủ được còn tâm thì hoang loạn bất định. Trong khốn cảnh đó làm sao mở con đường máu để ra?
Tuệ Tông bảo ông trong quá trình tu tập khi chủng chủng nghiệp duyên tới, hành giả đối cảnh loạn tưởng là do tập khí còn chưa dứt tận. Hành giả phải lấy tâm không mà đối diện với cảnh. Cảnh thuận không chạy theo nắm giữ, cảnh nghịch không lẩn trốn. Tâm không khởi một niệm thì sẽ an nhiên tự tại. Điều kiện tiên quyết để tự tại là buông bỏ mọi chấp trước (Xem các công án 1, 461).

1430. Phàm trần tục niệm.
Viện chủ đi thăm Thạch Thất trở về. Vân Nham hỏi:
- Ngươi đã đến Thạch Thất sao lại trở về tay không?
Viện chủ không trả lời được. Động Sơn đáp thay:
- Vì trong đó đã có người ở rồi.
- Vậy ngươi còn đến Thạch Thất làm gì?
- Không thể vì chặt đứt phàm trần tục niệm mà không đi.
(Động Sơn lục)
Chữ Thạch Thất ở đây là một song quan ngữ (có 2 nghĩa) Một là chỉ thiền sư Thạch Thất, một là chỉ động đá. Ở Du Huyện, Đàm Châu (tỉnh Hồ Nam ngày nay) có vô số thạch động. Những người sống trong các thạch động đều là các vị tu hành lánh xa trần thế, sống tự do. Ý của Động Sơn là chấp vào xa lánh trần thế cũng là mất tự do rồi.

1431. Tất cả đều do tâm.
1- Đại sư Cưu Ma La Thập lúc lên bẩy, đến chùa chơi, thấy 1 quả chuông lớn đặt trên đất, bèn nhấc lên. Khi đặt chuông xuống thầm nghĩ “Ta mới có 7 tuổi, làm sao lại có sức mạnh như thế này? Lại thử nhấc chuông lên thì không sao nhấc lên được nữa.

2- Cổ thư có chép Lý Quảng đời Hán khi đi đánh trận thấy trong đám bụi rậm bên đường có một con hổ bèn trương cung bắn. Mũi tên liền xuyên qua con hổ. Ông xuống ngựa xem thì ra không phải là con hổ mà là một tảng đá. Ông tự nhủ:”Ta mạnh như thế sao?” Bèn giơ cung bắn một phát nữa, nhưng tên không cắm vào đá được, nói gì đến xuyên qua!
(Tĩnh Không thuyết cố sự)
Hai truyện trên chứng minh rằng người ta khi không có vọng niệm thì bản năng có năng lực vô hạn định. “Nhất thiết duy tâm tạo” là chỉ đạo lý này.

1432. Đại Trí.
Đại Trí từ nhỏ đã rất hứng thú với các nghi thức Phật giáo. Một hôm thưa với bố mẹ:
- Con muốn xuất gia, độ cha mẹ tới bờ bên kia.
Cha ông vui vẻ:
- Con định tu chùa nào?
- Chùa Đại Từ.
Lúc đó ông mới bẩy tuổi, tục danh là Vạn Thập. Cha ông dẫn ông đến gập thiền sư Nghĩa Doãn. Nghĩa Doãn nhận thấy đứa nhỏ này là một bậc tài trí bèn nói:
- Hoanh nghinh, hoan nghinh!
Và lấy một cái bánh bao trên bàn đưa cho, tự mình cũng lấy một cái vừa ăn, vừa hỏi:
- Ngươi tên chi?
- Con tên Vạn Thập.
Trong tiếng Nhật vạn thập đồng âm bới bánh bao. Do đấy Nghĩa Doãn cười bảo:
- Bánh bao ăn bánh bao là sao?
- Giống như rắn lớn nuốt rắn nhỏ.
- Ngươi rất thông minh, nếu xuất gia ta sẽ đặt tên là Tiểu Trí.
Vạn Thập không trả lời chỉ lắc đầu. Nghĩas Doãn hỏi:
- Sao ngươi không nói:
- Tiểu Trí làm trở ngại Bồ Đề, xin thầy ban danh Đại Trí.
Nghĩa Doãn rất khâm phục Vạn Thập còn nhỏ mà ứng đối được như vậy bèn xuống tóc cho Vạn Thập, lưu giữ bên mình để dạy dỗ. Năm năm sau Nghĩa Doãn viên tịch, Đại Trí quyết định vân du các nơi để tham học. Bẩy năm sau ông vượt biển tới Trung Hoa, thăm các danh lam thắng cảnh và tìm học các vị danh tăng. Tài trí ông khiến mọi người ca ngợi. Đại Trí ở Trung Quốc không tìm được điều ông mong muốn; ông có viết một bài kệ tặng các ông tăng Nhật Bản tới Trung Quốc du học:

冷 暖 分 明 只 自 知
Lãnh noãn phân minh chỉ tự tri
男 兒 豈 可 欺 人 哉
Nam nhi khởi khả khi nhân tai
以 日 本 眞 金 之 貴
Dĩ nhật bản chân kim chi quý
博 易 大 唐 鍮 子 歸
Bác dịch đại đường thâu tử quy

Nóng lạnh mình tự biết
Nam nhi há lừa ai
Đem vàng thật đất nước
Đổi về thau của người.

Ý tưởng là cái mà mình định tìm kiếm kỳ thực là ở trong tâm mình.
Ông trở về nước, đến tham Doanh Sơn, Doanh Sơn hỏi:
- Khi đứa con trở về bên cha thì sao?
- Gương cổ chiếu gương cổ, không cần ánh sáng nào khác.
Đại Trí tu học với Doanh Sơn, sau cùng được khai ngộ.
(Thiền Tông dật sự)
Đối thoại của hai thầy trò có nghĩa là khi thầy và trò tương chiếu thì không phải là thầy chiếu trò hay trò chiếu thầy mà là ánh sáng giác ngộ của thầy trò hợp thành một thể phát sáng. Phật giáo do đó mà có truyền thừa.

1433. Người không bệnh.
Động Sơn bị bệnh, một ông tăng hỏi:
- Còn có người không bị bệnh không?
- Có.
- Người không bị bệnh ấy có đến thăm sư phụ không?
- Lão tăng có phận thăm hắn.
- Không biết sư phụ thăm hắn làm sao?
- Khi thăm không thấy có bệnh.
Động Sơn hỏi ngược lại:
- Khi ngươi mất rồi gập ta ở đâu?
Ông tăng không đáp được, Động Sơn đọc cho bài kệ:

學 者 恒 沙 無 一 悟
Học giả hằng sa vô nhất ngộ
過 在 尋 他 舌 頭 路
Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ
欲 得 忘 形 泯 蹤 跡
Dục đắc vong hình mẫn tung tích
努 力 殷 懃 空 裏 步
Nỗ lực ân cần không lý bộ

 Nhiều trò không một ngộ
Theo ngoài chẳng tìm trong
Muốn vong hình sạch vết
Thành khẩn bước trong không.
(Động Sơn lục)
Người không bệnh chỉ tự tánh (xem công án 649)
Ý nói sắc thân có bệnh có thể thấy, biết. Pháp thân không bệnh không thể thấy, biết.
(Tinh Vân)

1434. Ta có một câu nói.
Dược Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Ta có một câu chưa nói cho người!
Đạo Ngô thưa:
- Thầy đã tiết lộ rồi.
Về sau có ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Làm sao nói “một câu”?
Dược Sơn đáp:
- Không dùng lời.
Đạo Ngô nói:
- Sớm đã nói rồi.
(Thiền Tông đích lịch sử dữ văn hóa)
“Một câu” của Dược Sơn chỉ cái biết “không biết” hoặc “không thể biết” là cứu cánh thật tướng, không phân biệt, không cách nào hình dung được. Không thể nói nó là cái này hoặc cái kia; là thiện hoặc ác; là thị hoặc phi. Nói ra là phủ định nó. Khi Dược Sơn mở mồm nói ra, bất luận là khẳng định hoặc phủ định “một câu” của ông đã không tồn tại rồi. Đạo Ngô nhận xét sư phụ đã mâu thuẫn rồi, nhưng nhân loại không thể tránh được mâu thuẫn này.

1435. Thể lộ chân thường.
Đại Đăng (một thiền sư Nhật Bản) một hôm ngồi thiền một mình ở tăng đường, bỗng nghe tiếng người ở bên kia vách đọc câu nói của thiền sư Bách Trượng:
- Linh quang độc chiếu, hồi thoát căn trần, thể lộ chân thường, không chấp văn tự, tâm tánh bất thành, bản thân thành, lìa vọng duyên tức như, như Phật vậy. Ông hoát nhiên tỉnh ngộ bèn hướng sư phụ là Cao Phong trình kiến giải và được sư phụ chấp nhận.
(Hiện đại thiền nhập môn)
“Thể” trong câu “thể lộ chân thường” chỉ thế giới khách quan tự nhiên toàn thể. Khi tự mình biến thành “không” thì “thể” biến thành chính mình.

1436. Đã từng gập qua.
Động Sơn đến tham Nam Nguyên, vào pháp đường Nam Nguyên bảo:
- Đã từng gập qua.
Động Sơn bỏ đi, hôm sau lại tới, hỏi:
- Hôm qua mông ơn hòa thượng từ bi chỉ thị, nhưng không biết hòa thượng và con gập nhau ở đâu?
- Tâm tâm không gián đoạn, đều chẩy vào bể tánh.
- Con cơ hồ lỡ cơ hội tốt này.
(Động Sơn lục)
Câu của Nam nguyên có nghĩa là tâm ngươi và chân tâm không khác.

1437. Không bỏ một ai.
Động Sơn đến từ biệt Nam Nguyên, Nam Nguyên nói:
- Học nhiều Phật pháp, quảng thí ân trạch.
- Con không hỏi học nhiều Phật pháp, chỉ hỏi thế nào là quảng thí ân trạch?
- Không bỏ một ai.
(Động Sơn lục)
Ý của Nam Nguyên là khi có người học đặt câu hỏi phải hết sức trả lời.

1438. Theo tánh chìm nổi.
Một ông tăng hỏi Phong Huyệt Diên Chiểu:
- Khi theo tánh chìm nổi thì thế nào?
- Dẫn trâu vào chuồng!
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là: Khi khai ngộ vì tập khí hãy còn; nếu tâm tùy duyên ứng duyên, theo cảnh mà chìm nổi thì phải làm sao?
Diên Chiểu bảo phải dẫn trâu vào chuồng. Trâu chỉ Thể của tự tánh. Trâu không chịu vào chuồng, muốn ở ngoài rong chơi là còn dã tánh (tập khí, vọng tưởng) phải điều phục nó. Bằng cách nào? Trước dùng giác để nhận biết tập khí, vọng tưởng, sau dùng quán để loại trừ chúng. Tập khí và vọng tưởng đã trừ rồi thì trâu sẽ ngoan ngoãn vào chuồng.

1439. Ý Tây sang.
Vân Cư hỏi Động Sơn:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
- Sau này, xà lê có mái tranh che đầu, bỗng có người hỏi như vậy, thì trả lời sao?
- Con thực sai rồi!
(Động Sơn lục)
Ý của Động Sơn là nếu sau này ngươi không là viện chủ một tự viện lớn, chỉ là một am chủ ở một làng nhỏ. Ngươi không hỏi người mà bị người hỏi, ngươi có nghĩ đến chuyện này không? Bồ Đề Đạt Ma từ Tây phương xa xôi ngàn dặm đến Trung Thổ chỉ để thuyết giảng chân lý cho người, nhưng cái chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời mà diễn tả ra, nên ta nói không được.

1440. Trong cảnh khổ, không khổ.
Đời Đường có một vị thiền sư sống một mình trên núi. Vì không có dao kéo để hớt tóc nên đầu tóc bù xù, không có nhiều nước để tắm rửa, giặt giũ nên người ngợm cáu ghét, quần áo dơ bẩn. Có người gập mặt hỏi:
- Thiền sư, thầy việc gì phải tự làm khổ mình vậy?
- Ngươi thấy ta đầu tóc rối bù, nhưng phiền não ta đã đoạn tuyệt. Ngươi thấy ta bẩn thỉu, nhưng thân tâm ta đã thanh tịnh rồi. Ngươi thấy ta quần áo ty tiện, nhưng ta đã sớm khoác pháp y vô thượng để trang nghiêm sinh mạng rồi.
(Thanh tịnh lưu ly)
Trong sinh hoạt tuy thiếu thốn vật chất nhưng người ngộ thiền không thấy khổ não. Ở nơi khổ không thấy khổ; ở nơi vui không thấy vui, vì người ngộ đạo đã thấy được tính chất hư vọng của vui, khổ. Do vậy, dù ở đâu, lúc nào cũng tiêu dao, tự tại.

1441. Thủy táng.
Đời Tống, thiền sư Tánh Không rất hâm mộ cách thủy táng của Thuyền Tử. Ông có làm một đoản khúc để ca ngợi:

船 子 當 年 返 故 鄕
Thuyền Tử đương niên phản cố hương
沒 踪 跡 處 好 商 量
Một tung tích xứ hảo thương lượng
真 風 遍 寄 知 音 者
Chân phong biến ký tri âm giả
鐵 笛 橫 吹 作 教 坊
Thiết địch hoành xuy tác giáo phường

Theo làn gió gởi bạn bốn phương
Vi vu tiếng sáo để làm gương
Chẳng còn vết tích nào để lại
Thuyền Tử năm đó về cố hương.

Khi muốn nhập diệt ông bước lên một cái thuyền thúng có đục lỗ ở đáy; ngồi trên thuyền thổi sáo chờ nước tràn vào nhận chìm cả người và thuyền. ông có để lại bài kệ:

坐 脫 立 亡
Tọa thoát lập vong
不 若 水 葬
Bất nhược thủy táng
一 省 柴 火
Nhất tỉnh sài hỏa
二 省 開 壙
Nhị tỉnh khai khoáng
撤 手 便 行
Triệt thủ tiện hành
不 妨 快 暢
Bất phương khoái sướng
誰 是 知 音
Thùy thị tri âm
船 子 和 尙
Thuyền Tử hòa thượng

Tọa thoát lập vong
Gì bằng thủy táng
Củi lửa không dùng
Bớt được khai khoáng (đào huyệt)
Đi chẳng bận tâm
Không ngại khoái sướng
Ai kẻ tri âm?
Thuyền Tử hòa thượng!
(Thanh tịnh lưu ly)

1442. Bài kệ của Liên Trì đại sư.
Một hôm, một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thời mạt kiếp cái đó còn không?
- Hoại.
- Cái đó bị hoại vậy chúng ta cũng theo nó sao?
- Theo nó đi.
Theo Phật giáo, thế giới của chúng ta cũng phải tuân theo định luật thành, trụ, hoại, không. Tới thời mạt kiếp, thế giới hoại còn tự tánh thì sao? Ông tăng thắc mắc, Triệu Châu trả lời rồi cũng không chắc là mình đúng hay không, trong lòng bất an nên đi tứ xứ để tham cứu vì vậy mới có câu “Nhất cú tùy tha khứ, thiên sơn tẩu nạp tăng” (chỉ vì một câu theo nó đi, mà nạp tăng phải đi tham phỏng khắp nơi). Bích Nham Lục lại gán cho Đại Từ (xem công án (162).
Đến triều Minh, Liên Trì đại sư đọc công án này viết bài thi như sau:

趙 州 八 十 猶 行 腳
Triệu Châu bát thập do hành cước
祇 爲 心 頭 未 消 然
Chi vi tâm đầu vị tiêu nhiên
及 至 歸 來 無 一 事
Cập chí quy lai vô nhất sự
始 知 空 費 草 鞋 錢
Thủy tri không phí thảo hài tiền

Triệu Châu tám chục còn vân du
Chỉ vì một niệm vẫn chưa rõ
Đến khi trở lại không được gì
Mới biết phí tiền mua dép cỏ.
(Thanh tịnh lưu ly)
Bài thơ diễn tả tình cảnh lúc đó Triệu Châu đã 80 tuổi, trong lòng còn một vấn đề chưa rõ; không quản ngại đường xá diệu vợi, cố tìm cho được đáp án. Trải nhiều năm, trở về không tìm được điều mình muốn tìm, mới biết bôn ba tìm kiếm bên ngoài chỉ là vô ích. Ý của bài thi này là gì? Đó là nói về Đạo. Đạo không ở bên ngoài mà tại tâm chúng ta. Nếu chúng ta, tâm trí mê man cũng như Triệu Châu tứ xứ tìm cầu chỉ là phí thời gian. Trong thiền học phải trải qua 3 giai đoạn: khám phá, phóng hạ, tự tại.

1443. Bài kệ của Đàm Châu Long Sơn.

三 間 茅 屋 從 來 往
Tam gian mao ốc tòng lai vãng
一 道 神 光 萬 境 閑
Nhất đạo thần quang vạn cảnh nhàn
莫 作 是 非 來 辨 我
Mạc tác thị phi lai biện ngã
浮 世 穿 鑿 不 相 關
Phù sinh xuyên tạc bất tương quan

Nhà tranh lui tới có ba gian
Một đạo thần quang vạn cảnh nhàn
Chớ đem thị phi làm rộn mỗ
Phù sinh xuyên tạc chẳng tương quan.
(Thanh tịnh lưu ly)
Bài kệ mô tả người ngộ đạo siêu nhiên vật ngoại. Tuy rằng sống trong căn nhà tranh nhỏ bé, ăn mặc thô sơ nhưng nếu biết dùng trí tuệ quán chiếu công danh lợi lộc, thiện ác thị phi: tất cả đều là giả tạm, hư vọng thì tâm được an định. Lúc đó nhà tranh biến thành lâu đài, vật thực tầm thường trở thành cao lương, mỹ vị, vì tâm đã khế hợp với đạo. Những chuyện tranh danh đoạt lợi chẳng còn ảnh hưởng gì đối với người tu nữa. Con người sống trong trần thế có 2 thái độ: một là túng dục, chỉ lo hưởng thụ, hai là cấm dục coi dục vọng như rắn độc. Cả 2 thái độ cực đoan này người tu đều không theo mà theo con đường trung đạo là tiết dục.

1444. Bài kệ của Bàng bà.
Sau khi chôn cất mọi người trong gia đình (xem công án 279), Bàng phu nhân có lưu lại một bài kệ. Hành trạng của bà sau này ra sao thì không ai biết.

坐 臥 立 化 未 爲 奇
Tọa ngọa lập hóa vị vi kỳ
不 及 龐 婆 撤 手 歸
Bất cập Bàng bà triệt thủ quy
雙 手 撥 開 無 縫 石
Song thủ bát khai vô phùng thạch
不 留 踪 跡 與 人 知
Bất lưu tung tích dữ nhân tri

Ngồi, đứng, nằm, đi chẳng mấy kỳ!
Đâu bằng bà Uẩn ruỗi tay đi
Hai tay dang rộng không chạm đá
Tung tích tuyệt không để lại gì.
(Thanh tịnh lưu ly)

1445. Con không có mồm.
Một ông tăng hỏi Lỗ Tổ:
- Làm sao nói mà không dùng lời?
- Mồm ngươi ở đâu?
- Con không có mồm.
- Vậy lấy gì ăn cơm?
Ông tăng không trả lời được, Động Sơn trả lời thay:
- Hắn no rồi, còn ăn cơm cái gì?
(Động Sơn lục)
Ông tăng hỏi ý Lão Tử khi nói “bất ngôn chi giáo”. Lỗ Tổ hỏi ngược lại “mồm ngươi ở đâu?” là hỏi nói hay không nói. Câu của Động Sơn có nghĩa là hắn đã thông suốt Phật pháp rồi, không còn nghi vấn gì nữa. (xem thêm công án 633)

1446. Đi.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là đạo?
- Đi.
(Nhất vị thiền: Quyển Nguyệt)
Ý của Vân Môn là ngươi cứ đi làm mọi việc cho tốt, nhưng đừng chấp vào phương pháp và kết quả.
(John C.H. Wu)

1447. Chuyện chưa rõ.
Một ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Con có chuyện chưa rõ, thỉnh thầy chỉ thị.
Dược Sơn im lặng một lát rồi bảo:
- Nay ta bảo cho ngươi một lời không khó, nhưng khi ta nói rồi ngươi phải thấy ngay, nếu ngươi suy nghĩ thì là lỗi của ta.
(Thiền tông lịch sử dữ văn hóa)
“Một lời” ở đây chỉ kinh nghiệm nội chứng, không dùng lời mà diễn tả được. Tại sao? Vì ngôn ngữ chỉ là phù hiệu không phải là bản thân sự vật, chỉ là phương tiện để truyền thông mà thôi. Các thiền sư chỉ dùng ngôn ngữ để gợi dậy kinh nghiệm nội tại của người học.

1448. Truyền đăng.
Một hôm Huệ Khả bạch với tổ Đạt Ma:
- Con đã bặt hết mọi duyên rồi.
- Ngươi không đoạn diệt chứ?
- Không đoạn diệt.
- Lấy gì làm chứng.
- Con luôn tỉnh thức, không thể dùng lời mà nói được.
- Đó là sự truyền tâm của chư Phật, đừng nghi ngờ gì cả.
(Zen light)
Câu nói của Huệ Khả “con luôn tỉnh thức” chỉ rằng tâm ông luôn ở đây và bây giờ: nội tâm luôn thắp sáng. Lúc đó không có sự phân cách giữa chủ thể và đối tượng. Không có người truyền pháp và người nhận pháp, không có lời dạy (đăng) và không có sự giảng dạy (truyền đăng), chỉ có ánh sáng.

1449. Mười sự khai thị.
Có học tăng hỏi Tịch Thất:
- Xin hỏi sư phụ, trong thiền môn phải có những điều kiện gì để có thể vào thiền đạo?
- Trong hang sư tử không có thú khác, đường voi đi không dấu vết hồ ly.
- Tham thiền và không tham thiền bất đồng như thế nào?
- Đường sinh tử ngươi tự coi, người sống ở trong người chết.
- Học thiền có ích gì?
- Đừng hiềm nhạt không có vị, ăn no rồi tiêu vạn kiếp tai nạn.
Học tăng nghe rồi tham thiền khởi lòng đại tín. Một hôm dẫn khoảng 10 người quỳ xin Tịch Thất chỉ thị tham thiền pháp yếu. Thiền sư thấy đại chúng thành tâm bèn khai thị:
- Người học thiền nên chú ý 10 sự sau:
1- Nên biết sinh tử là việc lớn, vô thường đến mau, không thể đánh mất chánh niệm.
2- Trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi kiềm thúc thân tâm, không phạm luật nghi.
3- Không chấp, không kiến, không khoe mình, tinh tiến dũng cảm, không đọa tà đạo.
4- Nhiếp 6 căn, chánh niệm, im hay nói lìa xa vọng tưởng.
5- Nhiệt tâm cầu đạo, linh minh bất muội giáo hóa chư ma.
6- Bỏ ngủ quên ăn, đứng trên vách cao vạn trượng, thẳng lưng tiến bước.
7- Nghiên cứu ý Tây lai, người niệm Phật là ai, cái gì là bản lai diện mục?
8- Tham thoại đầu công phu miên mật, không cầu chứng thành.
9- Tâm an ổn, dù trải vạn kiếp cũng không nhị tâm.
10- Đại tâm không lùi bước, thấu suốt Bồ Đề, nêu cao Phật đạo.
10 đại sự trên các ngươi có hiểu không?
Chư tăng nghe rồi hoan hỉ, không ai không thệ nguyện phụng hành.
(Tinh Vân thiền thoại)
Mười điều khai thị của Tịch Thất hà chỉ dùng cho Thiền tông sao? Bất cứ pháp môn nào cũng đều nên như thế.

1450. Ba lần bị đánh.
Lâm Tế họ Hình tên Nghĩa Huyền, người Nam Hoa, Tào Châu, từ nhỏ thông minh hơn người. Khi xuống tóc, thọ giới cụ túc, rất ham mộ Thiền tông. Theo học Hoàng Bá 3 năm, công phu cực thuần khiết.
Thủ tọa nói:
- Tuy là hậu sinh, cùng chúng chẳng đồng.
Lại hỏi:
- Ngươi ở đây bao lâu rồi?
- Ba năm rồi!
- Đã tham vấn chưa?
- Chưa, cũng chẳng biết hỏi gì?
- Sao ngươi không hỏi đại ý của Phật pháp là gì?
Lâm tế bèn đi hỏi, hỏi chưa dứt câu Hoàng Bá đã đánh. Khi trở lại Thủ tọa hỏi:
- Tham vấn thế nào?
- Hỏi chưa dứt lời, hòa thượng đã đánh, đệ tử không hiểu ý thế nào!
- Ngươi đi hòi nữa đi!
Lâm Tế lại đi hỏi, Hoàng Bá lại đánh. Như thế ba lần hỏi, ba lần bị đánh. Lâm Tế đến thưa với Thủ tọa:
- Nhờ lòng từ bi của thượng tọa, đệ tử ba lần đi hỏi, 3 lần đều bị đánh, tự hận chướng duyên, không lãnh hội được ý sâu của hòa thượng, nay đến từ biệt để đi.
- Trước khi ngươi đi, hãy đến giã từ hòa thượng.
Lâm Tế vái lạy mà lui. Thủ tọa bèn đến chỗ Hoàng Bá bạch rằng:
- Ông sư trẻ đến thỉnh giáo hòa thượng là một vị rất có căn cơ; khi hắn đến từ biệt xin sư phụ chỉ dạy, sau này hắn sẽ là một cây lớn, cấp bóng mát cho nhiều người.
Sư đến từ biệt, Hoàng Bá bảo:
- Ngươi chẳng cần đi đến nơi nào khác, chỉ cần tới Cao An chỗ ở của Đại Ngu hắn sẽ giảng cho ngươi.
Sư đến Đại ngu, Đại Ngu hỏi:
- Từ đâu đến?
- Từ Hoàng Bá.
- Hoàng Bá có câu gì chỉ dạy?
- Đệ tử 3 lần hỏi đại ý của Phật pháp là gì, cả 3 lần đều bị đánh, không biết có lỗi gì?
- Hoàng Bá thật là lão bà tâm thiết, mệt sức vì huấn luyện ngươi mà ngươi còn đến đây hỏi có lỗi hay không?
Nghe lời nói đó Lâm tế bỗng nhiên đại ngộ :
- Nguyên lai, thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản như vậy.
Đại Ngu nắm lấy sư hỏi:
- Tên tiểu quỷ đái dầm này, lúc đến còn hỏi có lỗi, không lỗi, nay lại nói thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản như vậy! ngươi thấy được đạo lý gì, nói mau! nói mau!
Sư đấm vào sườn Đại Ngu 3 đấm. Đại Ngu đẩy sư ra:
- Thầy ngươi là Hoàng Bá, không can dự gì đến ta.
Sư từ biệt Đại Ngu, trở lại Hoàng Bá. Hoàng Bá thấy sư đến bèn hỏi:
- Cái gã này đến đến, đi đi, bao giờ mới xong?
- Chỉ vì thầy là lão bà tâm thiết.
Chào hỏi xong bèn đứng hầu một bên. Hoàng Bá hỏi:
- Ngươi đi đâu?
- Theo lời khuyên từ bi của thầy, con đến tham Đại Ngu.
- Đại Ngu nói sao?
Sư kể lại đầu đuôi, Hoàng Bá bảo:
- Ta mà gập, thì sẽ cho hắn một trận.
- Việc gì phải đợi, cho ngay bây giờ.
Sư đánh Hoàng Bá một chưởng.
- Gã điên này dám đến đây mà nhổ râu cọp.
Sư hét lên, Hoàng Bá gọi:
- Thị giả! dẫn gã điên khùng này vào tham đường, mau!
Về sau Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Lâm Tế được Đại Ngu dạy hay được Hoàng Bá dạy?
- Lâm tế không những cưỡi đầu cọp mà còn nắm đuôi cọp nữa.
(Lâm Tế lục)
Lúc học với Hoàng Bá, Lâm tế công phu rất thuần khiết, nghĩa là giữ giới luật rất nghiêm về thân, khẩu, ý. Do đó tâm đã không còn vướng mắc vào 18 giới, sẵn sáng để giác ngộ. Hoàng Bá 3 lần đánh Lâm tế để thúc đẩy sự giác ngộ đó, nhưng thất bại. Lâm tế đã ở vào trạng thái chín mùi “gậy trúc trăm trượng chỉ cần thêm một bước nữa”. Hoàng Bá đánh Lâm Tế ngụ ý: chân lý tuyệt đối không thể dùng lời mà diễn tả được và cái chân lý đó ngươi phải hướng vào trong mà tìm chứ không thể tìm ở phòng phương trượng.
Đánh mắng vốn là hành vi thô lỗ. Nhưng các vị thiền sư dùng để truyền đạt, thậm chí còn nói phương thức này là lão bà tâm thiết. Đánh lại thầy, thầy không những không nổi giận còn chấp nhận, đó là sự hồi báo ân tình. Theo cái nhìn thế tục thì đó là “yêu cho roi, cho vọt” của bà mẹ hiền. Thiền giả đã siêu việt hình tượng nên đó là sự biểu lộ thiền tâm.
(Tinh Vân)

1451. Động Sơn tham Bách Nham.
Động Sơn cùng Mật sư bá (đệ tử Vân Nham) đến tham Bách Nham (đệ tử Dược Sơn). Bách Nham hỏi:
- Từ đâu tới?
- Hồ Nam.
- Quan sát sứ họ gì?
- Không biết họ.
- Tên gì?
- Không biết tên.
- Còn tại chức không?
- Còn.
- Còn đi tuần tra không?
- Không.
- Tại sao không?
Sư phất tay áo đi ra. Sáng sớm hôm sau Bách Nham thượng đường kêu 2 người lại:
- Hôm qua lão tăng đối xà lê ngữ chẳng đầu cơ, cả đêm không an. Giờ thỉnh xà lê hạ một chuyển ngữ, nếu hợp ý thì lão tăng xin mời các vị dùng cháo và cùng qua hạ.
- Thỉnh hòa thượng hỏi.
- Sao không tuần tra?
- Vì quá cao quý.
Bách Nham bèn mời 2 người dùng cháo và cùng kết hạ.
(Động Sơn lục)
Quan sát sứ là 1 viên quan do Trung ương ủy quyền đi tuần tra các địa phương; ở đây dùng để chỉ sự xuất nhập của pháp thân.

1452. Duy Ma cật và Phó Đại Sĩ.
Lâm Tế thượng đường nói:
- Một người ở trên đỉnh núi không có đường đi; một người ở ngã mười đường không biết đi về hướng nào? Ai ở trước? Ai ở sau? Không làm Duy Ma Cật, không làm Phó Đại Sĩ. Các ngươi đứng đã lâu rồi, hãy bảo trọng.
(Lâm Tế lục)
Người trên đỉnh núi chỉ người tu hành, dứt bỏ mọi ràng buộc với thế gian. Người ở ngã mười đường chỉ bậc Bồ Tát ở cõi ta bà. Duy Ma Cật còn gọi là Tịnh Danh cư sĩ là cư sĩ Ấn Độ ưa sống ẩn dật. Phó Đại Sĩ còn gọi là Thiện Huệ đại sĩ, vốn tên Truyền Ông là cư sĩ Trung Hoa thời Nam Bắc Triều nổi tiếng về những hoạt động Phật sự. Câu nói của Lâm Tế là muốn dung hoà 2 cách sống.
(Paul Demiéville)

1453. Ông tăng do dự.
Một ông tăng hỏi Lâm Tế:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Thiền sư hét lên, ông tăng bèn lạy. Thiền sư bảo:
- Ông tăng này có thể nói chuyện được đây.
Một ông tăng khác hỏi:
- Sư xướng gia khúc tông phong nào?
- Ta ở nơi Hoàng Bá 3 lần hỏi Phật pháp, 3 lần bị đánh.
Ông tăng do dự. Sư bèn hét, sau đó vừa đánh vừa nói:
- Chẳng lẽ đóng đinh vào hư không hay sao?
(Lâm Tế lục)
Ông tăng do dự chứng tỏ còn suy nghĩ, không tự tin. Câu trả lời phải ngay tức khắc. Câu nói của Lâm Tế có nghĩa là tất cả đều là không, những câu hỏi đều vô ích, nhất là từ một ông tăng do dự.
(Paul Demiéville)

1454. Động Thủy chẩy ngược dòng.
Long Nha hỏi Động Sơn:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Đợi Động Thủy chẩy ngược, ta sẽ nói cho ngươi biết.
(Động Sơn lục)
Tự tánh không thể diễn tả bằng lời.

1455. Hợp đạo.
Động Sơn thượng đường bảo:
- Đạo vô tâm hợp người, người vô tâm hợp đạo. Muốn hiểu ý này thì một người già, một người chẳng già.
Về sau có ông tăng hỏi Tào Sơn:
- Thế nào là một người già?
- Chẳng nuôi dưỡng.
- Thế nào là một người chẳng già?
- Cây khô.
Ông tăng lại đem chuyện này hỏi Tiêu Dao. Tiêu Dao đáp:
- Tam tòng, lục nghi.
(Động Sơn lục)
Câu nói của Động Sơn là chỉ sự liên quan giữa người và Đạo. Không nuôi dưỡng bề ngoài chỉ là một người vô dụng, nhưng thâm ý là chỉ một người có khả năng hoằng Đạo. Cây khô là chỉ lúc Đạo không được quảng bá đến mọi người. Tam tòng là chỉ tam tòng tứ đức của phụ nữ, lục nghi là 6 nghi thức mà các cung nữ đời Đường phải tuân theo.

1456. Không khởi một niệm.
Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi không khởi một niệt niệm thì sao?
- Núi Tu Di.
(Zen and Zen classic)
Ý của Vân Môn là khi ta không khởi một niệm thì tâm ta đã lìa hiện tượng giới vào được bản thể giới. Núi Tu Di là trung tâm điểm của một tiểu vũ trụ. Trên đỉnh là trời Đế Thích, phía dưới là 4 Thiên vuơng, chung quanh bao bọc bởi 8 núi, 8 biển.

1457. Một ngày ăn hết bao nhiêu.
Hoàng Bá nhân vào phòng bếp hỏi phạn đầu:
- Ngươi đang làm gì?
- Đương lựa gạo cho chư tăng.
- Một ngày ăn hết bao nhiêu?
- Hai thạch rưỡi (=149Kg)
- Có nhiều quá không?
- Sợ còn chẳng đủ.
Hoàng Bá bèn đánh phạn đầu.
(Lâm Tế lục)
Tự tánh vốn tự đầy đủ, không thừa cũng không thiếu.
(Paul Demiéville)

1458. Bán gạo.
Lâm Tế hỏi:
- Viện chủ từ đâu về?
- Đi bán gạo vàng về.
- Bán hết không?
- Bán hết.
Lâm tế dùng gậy vạch một vạch trước mặt rồi hỏi:
- Cái này có bán được không?
Viện chủ hét lên, thiền sư bèn đánh. Không lâu Điển tọa đến. Thiền sư đem truyện trên ra kể. Điển tọa nói:
- Viện chủ không rõ ý sư phụ.
- Ý ngươi thì thế nào?
Điển tọa vái lạy, thiền sư cũng đánh.
(Lâm Tế lục)
Trong tự tánh không có trị giá (quý tiện, nhiều ít (Yanagida)
(Dẫn theo Paul Demiéville)

1459. Văn Thù sống.
Lâm Tế thượng đường nói:
- Có một đám người học, đến Ngũ Đài Sơn để cầu thấy Văn Thù, sớm đã sai rồi. Ngũ Đài Sơn không có Văn Thù. Các ngươi muốn gập Văn Thù ư? Rất giản dị, ngay trước mắt. Nếu các ngươi đầu cuối không khác. Mọi chốn không ngại. Đó chính là Văn Thù sống vậy.
(Minh tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Người hướng ngoại mà tìm Văn Thù không biết rằng người đang tìm Văn Thù chính là Văn Thù.

1460. Thiền và Giáo.
Một ông tăng hỏi Tuyết Phong:
- Thế nào là Pháp thân?
- Ta vẫn biết nghiệp do khẩu sanh (khẩu nghiệp) nhưng tại sao ngươi lại phải nhai que cứt khô (càn thỉ quyết) vậy?
(Zen and Zen classics)
Ý của Tuyết Phong là câu hỏi này chỉ là giả đò, là lý luận, là hư ảo, không phải là Đạo. Pháp thân có thể phân làm tổng tướng và biệt tướng, thể và dụng; nhưng những chuyện này chỉ làm cho người lành mạnh sinh bệnh.

1461. Ngọc thô.
Một ông tăng hỏi Huyền ngộ:
- Mang ngọc thô đến tham thầy thì sao?
- Không phải vật báu nhà mình.
- Vật báu nhà mình là gì?
- Không mài dũa không thành vật báu.
(Công án thiền cơ)
Ngọc thô là ngọc chưa mài dũa chỉ người tu, khi mài dũa xong thì trở thành ngọc quý chỉ người ngộ. người tu còn phiền não là tập khí và nghiệp thức. Trừ bỏ được phiền não thì tự tánh hiển hiện. Thể tánh của chúng ta không từ ngoài tới mà tự đầy đủ. Do đó đem một khối ngọc thô đến để làm gì? Khối ngọc thô đó hiển nhiên là ngoại tại, đại biểu cho tập khí, không phải là tự tánh bồ đề. Do đó thiền sư bảo không phải là vật báu nhà mình, vì vật mang đến mang đi không phải là chân tâm của ngươi. Chỉ có nội tâm mới là vật báu nhà mình. Nhưng trừ được phiền não mới là đi được nửa đường, mới thấy thể không còn chưa về đến nhà. Nếu ngưng trệ ở không thì vẫn còn bị trầm luân.

1462. Biết ca vũ không?
Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Bọn trẻ vừa ca vừa múa trên đồng cỏ, nay còn không?
Linh Chiếu bước xuống tòa giảng vừa ca vừa múa, sau đó hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Con không hiểu?
- Ngay cả nhịp chân theo bài hát ngươi cũng không làm được sao?
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của thiền sư là ngươi đã phá được ngã chấp chưa? Ông tăng không ca, vũ theo thầy vì hoặc là ông ca không hay, múa không khéo . . . Nói tóm lại là ông sợ bị mất mặt. Sợ mất mặt là còn ngã chấp. Phá được ngã chấp rồi thì người, sự, vật ở ngoại cảnh không còn ảnh hưởng đến tự tâm nữa.

1464. Lạy ông tăng này.
Trường Khánh thượng đường; đại chúng tụ tập lại để nghe pháp. Thiền sư lôi một ông tăng ra bảo đại chúng:
- Đại chúng hãy lạy ông tăng này!
Lại nói:
- Ông tăng này có chỗ nào tốt mà bảo đại chúng lạy?
Đại chúng không ai đáp được.
(Công án thiền cơ)
Thiền sư bảo đại chúng lạy ông tăng là hàm 2 ý:
1- Phá trừ cái tâm cống cao ngã mạn của đại chúng.
2- Trong tương lai ông tăng và đại chúng đều sẽ thành Phật.
Nhưng đại chúng không hiểu lý lẽ này. Người thường chỉ chấp tướng bên ngoài luôn phân biệt ta người, cao thấp, nhưng đối với người tu giải thoát thì phải lấy tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỉ, xả) mà đối diện chúng sinh.

1465. Nước sạch, bẩn.
Động Sơn lúc mới hành cước gập một bà lão gánh nước trên đường, ông xin nước uống. Bà lão bảo:
- Ta sẽ cho ông nước uống, nhưng trước hết hãy trả lời câu hỏi của ta: nước có bao nhiêu bụi?
- Vốn không có bụi.
- Đi, đi! Đừng làm bẩn nước của ta.
(Động Sơn lục)
Nước có bao nhiêu bụi? là bà lão nêu lên vấn đề đương thời quan niệm thân người nữ có ngũ chướng không thể thành Phật được. Động Sơn trả lời “vốn không có bụi là ông viện dẫn quan điểm của Huệ Năng trong Pháp bảo đàn kinh: tự tánh vốn tự trong sạch thì làm gì có bụi. Câu nói của bà lão là chấp nhận quan điểm này.

1466. Đệ nhất cú.
Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Thế nào là đệ nhất cú?
- Đừng lầm danh ngôn.
- Vậy thầy không có phương tiện sao?
- Con quạ nuôi sẻ nhỏ.
(Công án thiền cơ)
Cùng một câu hỏi, ông tăng Giáp hỏi, thiền sư đáp một cách, ông tăng Ất hỏi thiền sư lại đáp một cách khác. Đại khái đó là do trực giác của thiền sư nhận định ông tăng này học tập tới đâu, có những khuyết điểm gì, tập khí ra sao v . v . Nói tóm lại là nhận biết Thể tính của ông. Trong công án này ông tăng thích giảng giải, lấy quan niệm của mình phát biểu ý kiến. Do đó thiền sư mới khuyên ông “Đừng lầm danh ngôn”. Người tu, ở hiện tượng giới phải biết bảo hộ chính mình thì mới phát huy được linh tri, diệu dụng trả lời bất cứ câu hỏi nào của người. Trong quá khứ có nhiều tăng ni, đại đức thật tu, thật chứng dùng lời để diễn tả cảnh giới ấy lưu lại cho người sau tham chiếu. Nhưng nếu dùng lời lẽ đẹp đẽ nhưng nội dung không thật, tham nhiều ngày giờ cũng chẳng đạt được cảnh giới gì thì sao chỉ dạy cho người? Linh Chiếu đề tỉnh ông tăng, đối với ngươi mà nói thì “Đệ nhất cú” là đừng lầm danh ngôn, chưa đi hết đường đâu biết cứu cánh? Đừng cho là thế này, thế kia, đừng lầm danh cú. Thực tế, thiền sư đã mang tập khí của ông tăng ra giảng rồi, nhưng ông tăng vẫn chưa vừa lòng, cho rằng câu đáp của thiền sư quá thô thiển nên mới hỏi thêm “Chẳng lẽ thầy không có pháp nào hé lộ một chút cho con sao? Sao lại đem câu “Đừng lầm danh ngôn” ra làm gì? Trong thiền tông, thiền sư nói một câu nếu học nhân không hiểu, thiền sư không có cách nào nói tiếp. Chúng ta biết người tu thiền chứng được không tướng là đi được nửa đường. Lúc đó hành giả phủ định tất cả mọi tướng đối với người, sự, vật của ngoại cảnh tâm không tương ứng đạt tới cảnh giới định. Hành giả trú ở cảnh giới không vọng tưởng nên chỉ một câu là giảng hết, không dùng tới câu thứ hai. Câu nói: “Con quạ nuôi sẻ nhỏ” có ý là ngươi còn chưa có tuệ giác, giống như sẻ nhỏ, thấy quạ đen lầm là tổ chim, vì vậy để quạ nuôi dưỡng.
Nhưng nếu cứ trú ở không thì sẽ dẫn tới đoạn diệt, vì vậy hành giả lại phải quay lại phàm. Lúc đó, hành giả đã có định lựcnên đối với người, sự, vật của ngoại cảnh có khởi pháp tương ứng nhưng không bị quái ngại. Đó mới chính là cảnh giới viên dung không hữu bất nhị vậy.

1467. Pháp Dung và Tứ tổ.
Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Ngưu Đầu chưa gập Tứ tổ thì thế nào?
- Làm thầy người!
- Sau khi gập thì sao?
- Không làm thầy người.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng là muốn biết tình cảnh trước và sau khi ngộ; ông mượn tình cảnh của Ngưu Đầu để hỏi. Trong quá trình tu thiền, giai đoạn đầu tiên là phải ngộ không là vào thánh cảnh, sau đó lại phải trở lại phàm cảnh để chứng ngộ không hữu bất nhị thì mới được tự tại vô ngại. Ngưu Đầu lúc chưa gập Tứ tổ ông đã chứng được tự tánh không. Cảnh giới này không học từ bên ngoài mà do tự quán tâm, tự tâm ngộ không. Đối với người, sự, vật của ngoại cảnh không cảm thấy hứng thú. Có người đến tham phỏng cũng không đứng dậy chào hỏi, cho nên người ta đã gọi ông là Dung lười. Lúc đó, tuy ông đã phá được ngã chấp nhưng ông vẫn nghĩ rằng có một pháp để tu là tọa thiền, một quả để chứng là Định. Nhưng chân lý không ở tọa hay ở định mà là trong mọi sinh hoạt hàng ngày không đời định. Sau khi được Tứ tổ chỉ thị ông không trú ở không, trở lại phàm để chứng ngộ không hữu bất nhị. Ông hiểu rằng không có một pháp nào để tu vì còn một pháp là còn bị trói buộc, không được giải thoát. Nếu pháp đã không có thì đâu còn thầy nữa?

1468. Bài kệ của Kim Bích Phong.

若 人 欲 拿 金 碧 峯
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong
除 非 鐵 鍊 鎖 虛 空
Trừ phi Thiết luyện tỏa hư không
虛 空 若 能 鎖 得 住
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
再 來 拿 我 金 碧 峯
Tái lai nả ngã Kim Bích Phong

Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ phi khóa sắt khóa hư không
Hư không có thể đem khóa lại
Lại đây, mà bắt Kim Bích Phong.
(Thanh tịnh lưu ly)
Xem công án 706.

1469. Viết chữ lên quạt.
Động Sơn viết chữ Phật lên quạt. Vân Nham trông thấy bèn viết thêm chữ Bất. Động Sơn bèn sửa lại thành chữ Phi. Tuyết Phong thấy vậy bèn thu lấy quạt. Hưng Hóa đáp thay cho Động Sơn:
- Ta không như ngươi!
(Động Sơn lục)
Ý của Vân Nham là không viết, không tưởng tới Phật. Động Sơn chữa thành chữ Phi ý là không viết không tưởng đến chữ Bất. Câu của Hưng Hóa có nghĩa là Động Sơn khen ngợi hành động của Tuyết Phong.

1470. Bó củi.
Một lần, Tuyết Phong vác một bó củi đến trước mặt Động Sơn, ném xuống.
Động Sơn hỏi:
- Nặng chừng nào?
- Toàn thế giới không ai nhắc lên được.
- Vậy sao ngươi lại vác được đến đây?
Tuyết Phong im lặng không trả lời.
(Động Sơn lục)
Bó củi ở đây ám chỉ tự tánh.

1471. Cuồng tâm.
Một ông tăng hỏi Thụy Châu Đạo Kiền:
- Người người đều hết lời thỉnh ích, không biết thầy giúp đỡ cách nào?
- Ngươi nói coi Đại Nhạc còn cần thêm tấc đất nào nữa không?
- Vậy đi khắp bốn biển tham học là vì cái gì?
- Diễn Nhã điên đầu, tâm tự cuồng.
- Còn có người không cuồng chăng?
- Có.
- Thế nào là người không cuồng?
- Đường bỗng sáng mà mắt không mở.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng hỏi có người trước và sau khi ngộ đến hỏi, thầy chỉ họ thế nào? Thiền sư chỉ trả lời trường hợp sau khi ngộ, Nếu có trí tuệ Bát nhã rồi, còn cần gì đi hỏi ai nữa? Nội tâm chính là đạo tràng, cần gì phải đi đâu xa? Ông tăng hỏi tiếp: Vậy sao còn đi tham phỏng? Ý là vì tập khí chưa hết, nhận thức chưa tinh nên cần chỉ điểm.
Thiền sư dẫn tích Diễn Nhã Đạt Đa soi gương không thấy lông mi trên mặt cho là ma quỷ trêu ghẹo, phát cuồng. Đầu dụ cho chân tâm, đầu trong gương dụ cho vọng tâm. Nhận vọng tâm làm chân, tự mình điên cuồng. Ông tăng hỏi tiếp làm thế nào để không điên cuồng? Thiền sư bảo ông đừng nhìn cảnh bên ngoài, xoay vào trong mà quán chiếu vọng tâm. Dùng trí tuệ Bát nhã mà phá những vọng tướng khởi lên từ vọng tâm.

1472. Không phải là ngựa tốt.
Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Dưới gốc cây bồ đề, cứu độ chúng sinh, thế nào là cây Bồ đề?
- Giống cây khổ luyện.
- Vì sao giống cây khổ luyện?
- Không phải là ngựa tốt đâu cần bóng roi!
(Công án thiền cơ)
Mỗi vị Phật thường kết duyên với một loại cây. Phật Thích ca giác ngộ và thuyết pháp dưới gốc cây Bồ đề; trong tương lai Phật Di Lặc sẽ thuyết pháp dưới gốc cây Long Hoa.
Ông tăng không nhận biết cây Bồ đề nên đưa ra câu hỏi. Trong thế gian có nhiều người khi gập một chuyện gì không biết, cảm thấy phiền não muốn giải quyết ngay, không thể bỏ xuống được. Trái lại có người có thể bỏ xuống được; chờ cơ duyên đến có thể giải quyết được phiền não ấy. Trong thực tế cây Bồ đề và cây khổ luyện hình dáng rất khác nhau. Tại sao thiền sư lại bảo giống nhau? Ý của thiền sư là ở hiện tượng giới chúng ta vì chấp vào danh tướng nên thấy cây Bồ đề và cây khổ luyện khác nhau; nhưng ở bản thể giới chúng đều trở về không nên không khác. Trong thiền học phân biệt ba loại trí tuệ:
1- Trí tuệ thế gian: tức trí thông minh.
2- Trí tuệ xuất thế gian: ngộ được tánh không.
3- Trí tuệ xuất xuất thế gian: ngộ được không hữu bất nhị.
Câu nói của thiền sư có nghĩa là ông tăng còn chưa hiểu (còn ở trong trí tuệ thế gian, chưa ngộ 2 loại trí tuệ kia) vì nếu là con ngựa tốt chỉ cần giơ roi lên là nó đã chạy rồi, còn ngựa ngu thì phải đánh đến chẩy máu nó mới chịu chạy.

1473. Về nhà.
Một ông tăng hỏi Nguyên An:
- Con muốn về nhà thì sao?
- Nhà tan, người mất, ngươi về đâu?
- Vậy là không về?
- Mặt trời lên tuyết trước sân tan, bụi trong phòng ai quét?
(Công án thiền cơ)
Tiểu thừa quán pháp thấy pháp là do nhân duyên hòa hợp nên biết pháp là không, không có tự thể. Vì vậy phủ nhận tất cả mọi pháp. Đây là ngộ không mới đi được nửa đường. Đại thừa quán nhân duyên hòa hợp là không nên không phủ nhận sự tồn tại của pháp nhưng không bị pháp chuyển. Ông tăng nêu lên câu hỏi khi đã ngộ không nhưng những tập khí vi tế (về nhà) vẫn còn thì phải làm sao? Tuyết ngoài sân và bụi trong phòng là chỉ tập khí. Dùng trí tuệ (mặt trời) để trừ tập khí (tuyết ngoài sân). Nhưng ai quét bụi trong phòng? Chẳng tự mình làm còn nhờ cậy ai?

1474. Duy Ma Cật.
Một ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
- Duy Ma Cật có phải là Kim Lật như lai không?
- Phải.
- Vậy sao lại ngồi dưới nghe Thích ca thuyết pháp?
- Ông ấy không tranh ta người.
(Công án thiền cơ)
Duy Ma Cật là Phật bất động ở Diệu Hỷ thế giới, thị hiện ở cõi ta bà để giúp Phật Thích ca cứu độ quảng đại chúng sinh. Kim Lật như lai chỉ cho người học không trụ ở vô vi, hữu vi mặc nhiên nhập pháp môn bất nhị. Ông tăng hỏi thập phương thế giới vốn không có một pháp để thuyết, cư sĩ Duy Ma cật có pháp thân sao lại ngồi nghe pháp? Thiền sư đáp ngã chấp chưa phá thì mới có phân cao thấp. Nếu biết bản tánh là một, chúng sinh vốn đồng một thể, làm gì còn phân biệt ta (Duy Ma Cật) người (Thích ca)?

1475. Thiền sư lạy đệ tử.
Một hành giả hỏi Cảnh Thông:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
Cảnh Thông bèn lạy hành giả; Hành giả hỏi:
- Thiền sư vì sao lại lạy tục nhân?
- Ngươi không biết đạo tôn trọng đệ tử.
(Công án thiền cơ)
Hành giả hỏi thế nào là Phật pháp, Phật pháp dùng làm gì? Phật pháp bao gồm thiện pháp thế gian, xuất thế gian, xuất xuất thế gian. Phật pháp chân chính là giúp người đời ngộ pháp. Nếu đã ngộ rồi còn học Phật pháp làm gì? Người ngộ rồi vẫn phải học Phật pháp vì lợi ích chúng sinh. Chúng sinh có bệnh gì, biết dùng pháp nào để trị (có 8 vạn 4 ngàn pháp môn). Kinh nói “Phật thuyết nhất thiết pháp duy trị nhất thiết tâm”. Nếu chúng ta đã vô tâm thì đâu cần pháp nào nữa, nhưng đối với người đang tu để trừ tâm bệnh cần phải có món thuốc để trị.
Thiền sư lạy hành giả là để phá ngã chấp cho ông, khiến ông có thễ ngộ được bình đẳng tính trí. Ai cũng có Phật tánh, đệ tử cũng có khả năng thành Phật, đừng chấp ngã mà sinh cống cao ngã mạn.

1476. Đổ tể cung dưỡng.
Một hôm có một đồ tể đến thỉnh Huyền Tố đến nhà để cung dưỡng. Thiền sư vui vẻ đi. Đại chúng đều kinh ngạc. Thiền sư bảo:
- Phật tánh bình đẳng, hiền ngu không khác, nếu có thể độ được, ta liền độ.
(Công án thiền cơ)
Phật và chúng sinh vốn không sai biệt, đều cùng một thể. Phật là người đã giác, chúng sinh là người còn mê. Chúng sinh vì vô minh mà tạo nghiệp; nghiệp lực che lấp tự tánh của chúng sinh. Đồ tể là người tạo sát nghiệp, là một ác nghiệp rất nặng. Muốn độ ông phải là một người có năng lực tương đương. Thiền sư là người này vì ông có đại nguyện từ bi độ tất cả mọi người có thể độ, không phân biệt nghiệp nặng hay nhẹ. Đồ tể muốn mời thiền sư về nhà để cung dưỡng là có một thiện niệm, từ đó sẽ khởi thiện tâm. Thiện niệm này không phải bỗng nhiên mà có mà là do túc nghiệp; trong quá khứ đồ tể đã gieo một nhân tốt. Đây là 1 cơ hội tốt để hướng về đạo.

1477. Giơ lên, hạ xuống.
1- Đức Phật giơ tay lên hỏi A Nan:
- Tay ta thế nào?
- Thế Tôn giơ tay lên.
Đức Phật hạ tay xuống, hỏi:
- Hiện tại thì sao?
- Thế Tôn hạ tay xuống.
- Ngươi thật điên đảo.

2- Một ông tăng hỏi Linh Vân:
- Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Thiền sư giơ phất tử lên.
- Phật xuất thề rồi thì sao?
Thiền sư giơ phất tử lên.
Ông tăng không hiểu về thuật lại cho Tuyết Phong. Tuyết Phong nói:
- Ngươi hỏi lại đi, ta bảo cho.
- Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Tuyết Phong giơ phất tử lên.
- Phật xuất thế rồi thì sao?
Tuyết Phong hạ phất tử xuống.
Ông tăng lạy tạ, Tuyết Phong bèn đánh.
(Công án thiền cơ)
Rõ ràng chưa xuất thế và xuất thế rồi là hai sự kiện khác nhau sao Linh Vân lại cùng giơ phất tử lên? Linh Vân dạy ông tăng đừng khởi tâm phân biệt. Ông tăng không hiểu đi hỏi Tuyết Phong. Tuyết Phong giơ lên, hạ xuống hợp với ý của ông tăng nên lạy để tạ ơn. Tuyết Phong thấy ông quá chấp vào cảnh nên đánh cho ông tỉnh.

1478. Không giơ phất tử.
Một ông tăng hỏi Tuyết Phong:
- Giơ trùy hay phất tử lên đều không phải là tông thừa, hòa thượng phải làm sao?
Tuyết Phong giơ phất tử lên.
Ông tăng cúi đầu đi ra.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là giơ trùy hay phất tử lên không phải là tâm pháp của Thiền tông. Nếu bỏ phất tử đi, thiền sư lấy gì dạy người? Giơ phất tử lên là chỉ thiền cơ. Ông tăng không hiểu khởi tâm phân biệt vì hãy còn pháp chấp. Để phá cái chấp này cho ông, thiền sư lại giơ phất tử lên. Ông tăng hiểu cơ ý nên cúi đầu đi ra.

1479. Không tu.
Lúc trước, có một ông tú tài, đọc vài quyển ngữ lục của chư tổ, cho rằng mình đã đại ngộ, đến tham Quy Tông nói mình đã đạt cảnh giới vô tu, vô đắc, vô chứng rồi. Tông chỉ mỉm cười. Khi tú tài cáo từ, Tông đưa ra đến cửa bảo:
- Áo bông của các hạ sao lại có chỗ rách ở lưng vậy?
Tú tài hoang mang hỏi:
- Ở đâu! ở đâu vậy?
- Đúng là một người không tu, không đắc, không chứng vậy!
Tú tài đỏ mặt, đi mất.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Có người nói “Thiền là ngộ, không phải là tu. Thiền là đốn, không phải là tiệm. Thiền gọi là thiền chỉ đến Lục tổ là ngưng, từ đó về sau chỉ là giáo không phải là thiền.” Vì giáo là tiệm tu, từng bước từng bước tiến lên có tu, có đắc, có chứng; mà thiền là ngộ rồi liền nghỉ, ở đâu, lúc nào chỉ tùy duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu dao. Câu nói này nghe qua rất cao diệu, nhưng trong thực tế, sợ rằng không phải. Vì có tông và giáo nên mới có phân biệt đốn, tiệm, ngộ, tu. Nghiên cứu giáo lý, thấy được bản tánh gọi là giáo, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật gọi là tông. Cả hai đều cùng đạt mục đích không khác, cho nên cổ nhân có nói “giáo là thiền có tiếng, thiền là giáo không tiếng”. Nếu nói ngộ rồi liền nghỉ thì sao Lục tổ ngộ rồi còn phải ẩn tu hàng mười mấy năm trời?

1480. Tu Bồ Đề giảng Bát Nhã.
Tu Bồ Đề ngồi thiền trong động vắng, trời Đế Thích rải hoa cúng dường. Tu Bồ Đề hỏi:
- Ai rải hoa?
- Tôi là trời Đế Thích kính trọng tôn giả giảng Bát Nhã hay nên rải hoa cúng dường.
- Tôi còn chưa nói pháp.
- Tôn giả không nói, tôi không nghe đó là chân Bát Nhã.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Câu truyện trên cho thấy không nói, không nghe mới là chân chính nói, nghe.

1481. Không trú ở không.
Vân Tế đến tham Nam Tuyền, hỏi:
- Người không biết Ma Ni châu, nhưng Như Lai Tạng thâu được, thế nào là Như Lai Tạng?
- Cùng đến, đi với ngươi.
- Không đến, đi thì sao?
- Cũng vậy.
- Thế nào là châu?
Nam Tuyền gọi:
 - Vân Tế!
 - Dạ!
 - Đi, ngươi không hiểu lời ta.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Câu nói của Nam Tuyền “Cùng đến, đi với ngươi” là chỉ vọng niệm đến đi, không ngừng. Vân Tế hỏi nếu trụ ở không, không động thì sao? Nam Tuyền bảo cũng sai. Khi Nam Tuyền gọi, Vân Tế dạ, nhưng không hiểu người dạ là ai. Do đó, Nam Tuyền mắng, đuổi đi. Chỉ trú ở không mà không biết bản lai diện mục thì chỉ là châu, mà không phải là bảo châu. Muốn được châu thiệt thọ dụng phải biết bản lai diện mục, sau đó bảo nhiệm chu đáo trừ tận tập khí. Thường trú trong không chỉ luyện thành đất, gỗ, kim thạch, là nước chết trong hồ, là bệnh chứ không phải là Đạo.

1482. Trăng tròn, trăng khuyết.
Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Khi trăng chưa tròn thì thế nào?
- Nuốt 2, 3 cái.
- Tròn rồi thì sao?
- Nhổ ra 7, 8 cái.
(Công án thiền cơ)
Trăng chỉ tự tánh. Ông tăng hỏi khi tự tánh không thanh tịnh, vọng thức hãy còn thì tình trạng thế nào? Thiền sư đáp nuốt 2, 3 cái. 2+3=5 là chỉ 5 căn. 5 căn không thanh tịnh hòa hợp với 5 trần và 5 thức khởi pháp tương ứng do đó phát sinh vô lượng phiền não, cần phải loại trừ. Tại sao thiền sư không đề cập đến thức thứ 6? 5 thức trên không thanh tịnh là bởi vì thức thứ 6 còn phân biệt. Nếu thức thứ 6 thanh tịnh thì 5 thức trên sẽ không tạo nghiệp nữa. Nhổ ra 7, 8 cái. 7, 8 chỉ thức thứ 7 và thức thứ 8. Khi thức thứ 7 thanh tịnh sẽ biến thành bình đẳng tính trí, phá được ngã chấp. Khi những chủng tử chưa chín của thức thứ 8 bị loại trừ hết thì thức thứ 8 sẽ biến thành đại viên cảnh trí, hành giả chứng được 3 thân, 4 trí, thành tựu Phật đạo (xem thêm công án 346)

1483. Áo mẹ sanh.
Trời lạnh, ở Thiên Đồng Tự Mật Vân Ngộ thiền sư sai thị giả tặng áo bông cho các lão túc để tránh lạnh. Một lão túc bảo thị giả:
- Ta tự có áo mẹ sanh, không cần áo bông.
Thị giả về thưa lại với Mật Vân Ngộ. Ngộ bảo:
- Ông tăng này dường như có chỗ ngộ, chỉ sợ không thật, hãy thử coi.
Bèn sai thị giả đến hỏi:
- Trước khi mẹ sanh, mặc áo gì?
Ông tăng không trả lời được. Ngộ khuyên nên tham câu nói trên. Ba năm sau ông tăng viên tịch, vẫn chưa đáp được. Khi trà tỳ, xá lợi vô số. Đại chúng kinh ngạc tán thán. Ngộ nói:
- Cả chục đấu xá lợi chẳng bằng một chuyển ngữ, các ngươi thử đáp coi!
Đại chúng không đáp được.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Công án này cho thấy một câu tương tự không phải là chân ngộ, hỏa thiêu có xá lợi không phải là chứng đạo, cần phải tự thức bản tâm, tự thấy bản tánh.

1484. Phật là thế nào?
1- Một ông tăng hỏi Quy Tông:
- Phật là thế nào?
- Chính là ngươi.

2- Một ông tăng hỏi Huệ hải:
- Phật là thế nào?
- Người nói chuyện trước mặt, không là Phật thì là ai?

3- Tụ đại phu hỏi Tố Ngọc:
- Phật là thế nào?
Tố Ngọc lên tiếng gọi:
- Đại phu!
- Dạ!
- Chính là thế đó, không là gì khác.
Tụ đại sư có chỗ tỉnh. Dược Sơn nghe được chuyện này bảo:
- Tụ đại phu bị chôn ở núi Tố Ngọc.
Đại phu nghe câu của Dược Sơn rất nghi hoặc bèn đến tham Dược Sơn. Dược Sơn bảo:
- Có nghi cứ hỏi .
- Phật là thế nào?
Dược Sơn lên tiếng gọi:
- Đại phu!
- Da!
- Là cái gì?
Đại phu liền đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Dược Sơn phủ nhận Tố Ngọc là để trắc nghiệm xem Tụ đại phu có để gót chân trên đất không? nếu là chân ngộ thì dù Phật xuất thế cũng không nghe, không thấy. Còn nếu không ngộ thì sẽ theo người mà chuyển gót. Thủ pháp của Tố Ngọc và Dược Sơn là một. Khi các thiền sư lên tiếng gọi, Tụ đại phu đều dạ, liền hiểu ngay người lên tiếng là Phật không là ai khác. Dược sơn lại thêm là cái gì? là xác nhận sự đáp ứng đó là Phật (tham khảo thêm các công án 253, 337, 708, 732, 736, 881, 918).

1485. Méo mồm.
Có một vị cổ đức trúng gió, mồm bị méo. Thị giả cười bảo:
- Hòa thượng cả ngày mắng Phật, mắng tổ, hôm nay bị quả báo rồi.
- Ngươi theo ta hàng 10 năm rồi mà xem ta như vậy sao? Nên biết tất cả nghiệp chướng trên thân tổ sư như hoa trong không, như trăng trong nước. Tuy trả quả mà như không trả quả, muốn trả thì trả, muống không trả thì không trả.Ngươi thấy mồm ta méo hay không méo?
Vừa nói vừa lấy tay vả vào mồm, mồm trở lại bình thường như cũ. Lại bảo:
- Ngươi chấp tướng chúng sinh, ở trong không tạo nghiệp chướng tưởng, ở không trả quả tạo trả quả tưởng. Đó là nghiệp chướng.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Do trên, ta có thể biết tất cả nghiệp chướng là do tâm. Tâm nếu là không thì không có gì gọi là chướng, không có gì gọi là trả quả, không trả quả. Có trả quả là do không trả quả.

1486. Thần thông.
Ma Cốc và bạn đồng học sau khi ngộ Đạo rồi, cả bọn 5 người cùng đi hành cước tham phỏng. Trời nắng gắt 5 người khát nước bèn vào một quán trà bên đường, gọi 5 ly trà. Bà lão bán trà thấy 5 vị hòa thượng bèn hỏi:
- Các vị đi đâu?
- Đi tham thiện tri thức.
Bà già bưng trà ra rồi bảo:
- Trà ở đây chỉ người có thần thông mới uống được, người không thần thông không uống được.
5 vị thiền sư tuy đã đại ngộ nhưng thần thông chưa phát, nhìn nhau không dám nâng ly lên uống.
Bà già thấy vậy cười ha hả:
- 5 con chim ngốc này hãy coi bà bà trình thần thông uống trà!
Nói rồi nâng ly lên uống cạn một hơi.
5 người hoảng nhiên đại ngộ, cùng thưa:
- Hôm nay mới là ngày chúng tôi chân chính ngộ đạo; chúng tôi ở trong thần thông mà không biết thần thông, còn tìm bên ngoài. Hôm nay nếu không gập bà bà thì đã sai lầm một kiếp.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Tầm thường nhật dụng chính là thần thông diệu dụng.

1487. Khai, thị, ngộ, nhập.
Thời mạt Thanh, Phát Tổ thuộc dòng Lâm Tế, đạo phong truyền xa. Các người có tên tuổi như Nguyệt Hà, Sở Tuyền đều mộ danh đến theo sư tham cứu. Một hôm sư thượng đường bảo chúng:
- Đây là nơi truyển Phật trường, đào luyện long tượng, không bảo các ngươi đến để ăn, ngủ, chợp mắt. Hôm nay ta muốn khảo sát các ngươi xem ai là bậc hào kiệt, anh tài. Yếu chỉ của kinh Pháp Hoa là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến. Ý chỉ huyền ảo, lịch đại tổ sư đều tuyên dương như hoa như gấm. Mọi người đọc xong không ai là không tán thán. Nhưng đó là của các vị tổ sư, không phải là của các ngươi. Căn cứ vào những lời, những chữ trên để ngộ thì thật vô ích. Hôm nay ta muốn chính các ngươi từ trong lòng nói ra xem ai có chân tri kiến.
Nói rồi rút một thẻ điểm danh ra:
- Sở Tuyền! ngươi nói trước: “Khai” làm sao khai?
Tuyền không đáp được.
- Ngươi ở đây nhiều ngày làm cái gì? Tham thiền như thế chỉ là trò con nít, uổng phí thời gian, bao giờ mới xuất đầu lộ diện? Quỳ xuống! Tham!
Sư sai Duy Na đốt hương, đánh bảng bảo đại chúng tham. Quẻ hương cháy hết. Duy Na đánh bảng khai tĩnh. Sư hỏi Sở Tuyền:
- Làm sao khai?
Tuyền vẫn không đáp được. Sư thở dài:
- Tham thiền như vậy, chừng nào mới được!
Lại ra lệnh quỳ tham tiếp.
Que hương thứ hai cháy hết, Tuyền vẫn không đáp được, sư vẫn không cho nghỉ, trách rằng:
- Hôm nay không đáp được, sẽ bảo ngươi quỳ ở đây tới chết.
Lại ra lệnh tiếp tục quỳ tham.
Đáng thương cho Sở Tuyền, tâm như lửa đốt, quỳ đến tê chân, mồ hôi rỏ giọt nhìn que hương thứ 3 đã cháy hết. Duy Na đánh bảng khai tĩnh. Sở Tuyền hốt nhiên tỉnh ngộ lớn tiếng thưa:
- Có rồi! Có rồi! Khai được rồi!
- Làm sao khai?
- “Khai” ra bản hữu.
- Thị?
- “Thị” ra bản vô
- Ngộ cái gì?
- Ngộ vô hữu vô.
- Là người gì?
- Vào ra vô ngại.
Sư nghe rồi khen ngợi:
- Tốt, rất sảng khoái. Nếu không buộc các ngươi dụng công thì bao giờ mới xong. Hôm nay không uổng công ngươi quỳ 3 que hương.
Tổ rất cao hứng, lại gọi:
- Nguyệt Hà, ngươi nói làm sao khai, thị, ngộ, nhập?
Hà không suy nghĩ, đáp ngay:
- Con xin mượn 4 câu của Sở huynh để trả lời.
- Mượn thế nào?
- “Khai” ra bản hữu là lý pháp giới, “thị” ra bản vô là sự pháp giới, “ngộ” vô hữu vô là lý sự vô ngại pháp giới, “Nhập” xuất vô ngại là sự sự vô ngại pháp giới.
Sư khen ngợi:
- Tốt lắm! So với Sở Tuyền còn hơn. Nơi đây không uổng là tuyển Phật đường. Hôm nay tuyển được 2 vị tôn Phật.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Đây chính là:
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Người xưa không ngại khó, ngại khổ cho nên mới có thành tựu.

1488. Nghiệp chướng.
Một ông tăng hỏi một vị cổ đức:
- Nghiệp chướng là thế nào?
- Vốn không.
- Vốn không là thế nào?
- Nghiệp chướng .
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Không ở đây không phải là ngoan không hoặc đoạn diệt không mà là tất cả sự việc. Tâm vốn thông linh vô ngại chỉ vì mê cảnh chấp tướng mà thành chướng, chấp tướng mà tạo nghiệp. Trải nhiều kiếp nghiệp tích thành tập khí. Nếu biết tướng vốn không thì chướng cũng không, nghiệp cũng không, nghiệp chướng cũng không nốt.

1489. Tụng kinh.
Chi hòa thượng nghe nói có ông tăng hàng ngày tụng 100 bộ kinh Kim Cương bèn sai thị giả vời đến, hỏi:
- Nghe nói mỗi ngày ông tụng 100 bộ kinh Kim Cương có phải không?
- Dạ phải!
- Ông có tham ý kinh không? 
- Dạ không .
- Ông nên tụng mỗi ngày một bộ, tham cứu Phật ý; nếu ngộ được một câu thì như nếm một giọt nước biển, mà biết được vị của trăm sông.
Ông tăng nghe lời. Một hôm tụng đến câu “nên biết như thế, thấy như thế, tín giải như thế, chẳng sinh pháp tướng “ liền có chỗ ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu) 
Nhiều người học Phật, thấy Phật nói tụng kinh công đức không thể nghĩ bàn, nghĩ rằng càng tụng nhiều công đức càng lớn. Công đức này tích tụ có thể dẫn đến khai ngộ. Không biết rằng tụng mà không hiểu ý thì khác gì con vẹt học nói tiếng người, làm sao mà khai tâm kiến tánh? Tụng nhiều chỉ là gieo thiện nhân, chờ quả phúc mà thôi.

1490. Chư Phật không dối.
Hoàng Bá sau khi xuất gia rồi, nhận rằng phải buông bỏ mọi ân tình, đạt đến vô vi thì mới là chân chính báo ân. Do đó trong 30 năm tu học không hề về thăm nhà một lần. Nhưng trong thâm tâm ông rất nhớ thương mẹ già. Năm ông 50 tuổi trên đường đi tham phỏng, bất tri bất giác hướng về cố hương. Mẹ ông rất tưởng nhớ con đã xuất gia, nhưng chẳng có tin tức gì, thương nhớ khóc lóc khiến mắt bị mù luôn. Để tưởng niệm con bà lập một quán trà bên đường, chiêu đãi các vân thủy tăng, mời họ về nhà, rửa chân cho họ để tỏ lòng kính lễ. Ngoài ra còn một nguyên nhân nữa là chân trái của Hoàng Bá có một nốt ruồi lớn. Mắt bà đã bị mù nên hy vọng trong khi rửa chân, vạn nhất có thể nhận ra con chăng. Hôm đó Hoàng Bá tiếp thọ mẫu thân chiêu đãi. Một mặt để mẹ rửa chân, một mặt thuật sự tích Phật xuất gia, hy vọng mẹ sẽ khởi tín tâm. Hoàng Bá chỉ đưa chân phải cho mẹ rửa. Hoàng Bá 2 lần về nhà. Tuy thấy khó lìa bỏ nhưng ông cố nén đau thương lên đường hành cước. Hàng xóm không nhịn được mách cho bà mẹ biết người kể truyện Phật xuất gia chính là đứa con mà bà ngày đêm mong nhớ. Bà như phát cuồng nói:
- Chả trách tiếng nói giống tiếng con ta.
Nói rồi đuổi theo đến bờ sông, không may lúc đó Hoàng Bá đã lên thuyền và thuyền đã rời bến. Bà mẹ lỡ bước rơi xuống sông bất hạnh bị chết đuối.
Hoàng Bá đứng ở bờ bên kia thấy mẹ lỡ bước bị chết đuối không nén được bi thương, khóc rằng:
Một con xuất gia, 9 tộc lên trời, nếu không được vậy chư Phật đã nói dối.
Bèn quay trở lại, làm lễ hỏa táng cho mẹ. Khi hỏa táng dân làng đều thấy hình ảnh của bà mẹ bay lên không.
(Tinh Vân thiền thoại)
Hoàng Bá Hy Vận người Phúc Kiến, xuất gia ở Giang Tây thọ pháp với Bách trượng Hoài Hải, nhưng giác ngộ và được ấn chứng ở nơi Nam Tuyền. Hoàng Bá không phải là không hiếu thuận. Gọi là hiếu có 3 bậc:
1- Tiểu hiếu: phụng dưỡng cha mẹ.
2- Trung hiếu: quang tông, diệu tổ
3- Đại hiếu: độ cho cha mẹ siêu thăng.
Hoàng Bá độ cho mẹ siêu thăng là đại hiếu vậy.

1491. Thấy sắc là thấy tâm.
Một ông tăng hỏi Huệ Chân:
- Thấy sắc là thấy tâm, chư pháp vô hình làm sao thấy?
- Một nhà có chuyện, trăm nhà bận rộn.
- Con không hiểu, xin thầy chỉ thị.
- 3 ngày sau coi lại.
(Công án thiền cơ)
Công án này nêu lên 2 vấn đề:
1- Kiến sắc tức kiến tâm, nhưng tâm vô hình làm sao thấy?
2- Khi có phiền não làm sao giải quyết?
Khi ngoại cảnh có nhân duyên tới, ta khởi tâm tương ứng thì A lại da thức sẽ phản ánh cảnh bên ngoài (thí dụ một ngọn núi). A lại da thức có công năng y tha khởi tánh (do cảnh bên ngoài mà khởi tự tánh) ở trường hợp này là kiến tánh, nếu ở ngoại cảnh là âm thanh thì tự tánh sẽ là văn tánh. Nhờ kiến tánh mà ta nhận biết hình ảnh trong A lại da thức là ngọn núi. Tiếp đó thức thứ 7 sẽ trắc lượng nó to, nhỏ. Thức thứ 6 sẽ phân biệt nó với các ngọn núi khác. Do đó mà sinh tâm. Bởi vậy mới nói kiến sắc là kiến tâm.
Thiền sư nói một nhà có sự là chỉ căn trần thức hòa hợp; trăm nhà bận rộn là chỉ 18 xứ khởi tác dụng sẽ sinh ra chư pháp.
Vấn đề thứ hai nếu ta giải quyết ngay thì sẽ khó tránh được sai lầm. Thiền sư bảo để 3 ngày sau sẽ coi lại. Phiền não phát sinh là do một nhân ở trong quá khứ, ta không thể thay đổi được. Nhưng nó cần có trợ duyên thì mới sinh ra quả phiền não được. Nhưng ta biết duyên có thể thay đổi bởi thời gian, không gian. Nên 3 ngày sau trở lại thì duyên đã biến đổi có thể không tạo ra quả nữa, hoặc có tạo thì cũng là một quả mới không phải là quả cũ.

1492. Tham gần đừng tham xa.
Lúc trước, có một ông tăng tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là thế nào?” Tham đã nhiều năm mà vẫn chưa khai ngộ. Về sau gập một vị đại đức bèn xin vị này từ bi chỉ thị phương tiện. Đại đức hỏi :
- Ông Tham thoại đầu nào?
- Tôi tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là thế nào?”
- Ông tham quá xa, hãy tham gần hơn.
- Làm sao tham gần?
- Không cần biết mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh, hãy tham khi một niệm chưa sanh thì sao?
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Chúng ta thường coi Đạo là xa vời, ngộ đạo khó khăn. Đạo không ở đâu xa, ngay trước mắt. Khi ngôn ngữ chưa hình thành, một niệm còn chưa sanh chính tại lúc đó hồi quang “là cái gì?” nếu mãnh tỉnh, thì đó là ngộ đạo.

1493. Kiếm sắc.
Một ông tăng hỏi Toàn Hoát:
- Kiếm sắc trảm thiên hạ, ai là người bị chém?
- Ám (tối tăm)
Ông tăng lại hỏi nhiều câu nữa. Thiền sư bảo:
- Tên độn căn này! Đi ra!
(Công án thiền cơ)
Ý của ông tăng là bát nhã chặt đứt những gì? Thiền sư trả lời ám, là chỉ những trần cấu trong tâm. Khi tâm đã trừ hết mọi tập khí rồi thì tự tánh sẽ hiển hiện. Thể của tự tánh là không, nó tự tại, vô ngại, đầy đủ công đức vô lậu, không tham, sân, si, mạn, nghi. Chúng ta phải làm sao để được minh tâm kiến tánh? Khi chùng ta không khởi một niệm (không nghĩ thiện, không nghĩ ác) còn có một cái giác tri, cái giác tri đó chính là tự tánh. Chúng ta nhận biết được cái giác tri đó thì gọi là kiến tánh.

1494. Đạo thường.
Nghiêm Dương tôn giả trên đường gập một ông tăng, giơ gậy chống lên hỏi:
- Là cái gì?
- Không biết.
- Một cây gậy chống cũng không biết?
Nghiêm Dương hạ gậy xuống, chọc đất một hồi, lại hỏi:
 - Còn biết không?
- Không biết.
- Một lỗ đất cũng không biết.
Lại vác gậy lên vai, hỏi:
- Hiểu không?
- Không hiểu.
- Cầm ngang gậy cau đi vào nơi ngàn vạn núi.
(Thiền tông trí tuệ dữ phong tư)
Nếu đã không biết thường thì làm sao biết vật thường (gậy chống), sự thường (lỗ đất), thường hành (gánh). Nhưng một khi đã biết, thì tất cả đều quay về thường đạo.

1495. Mạt hậu cú. 
Một hôm, một ông tăng đến thỉnh Ích Ngũ Tổ Diễn:
- Thế nào là mạt hậu cú? (câu nói sau cùng)
- Sư huynh ngươi hiểu “mạt hậu cú”, ngươi đi tìm hắn mà hỏi.
Ông tăng y lời đến gập sư huynh gập lúc sư huynh đi núi về đang rửa chân, bèn hỏi:
- Thế nào là “mạt hậu cú?”
Sư huynh vốc nước rửa chân, rửa mặt, hỏi:
- Mạt hậu cú cái gì?
Ông tăng trở lại vừa khóc, vừa mách tổ.
- Ta nói ngươi biết hắn biết mạt hậu cú!
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Ông tăng này không phải là một người thường. Ông là một bậc anh tài dám vuốt râu cọp, cùng đại tông sư pháp chiến. Từ công án trên chúng ta có thể rút ra mấy điểm sau:
1- Ngộ đạo không khó, chỉ cần coi tất cả cảnh vật như hoa trong không, như trăng trong nước, không thể nắm bắt. Tâm không, không ô nhiễm, không thủ, không xả.
2- Khi công phu tâm có thể thâu, có thể phóng. Trong sinh hoạt hàng ngày linh hoạt vận dụng, luôn phản tỉnh, phản chiếu.
3- Thấy Đạo rồi thì bảo nhiệm chu đáo, bảo nhiệm mà không trụ vào đâu phải như Quy Tông nói “như mắt có một hạt bụi, không hoa rơi loạn” (hạt bụi dụ cho bảo nhiệm) Còn chấp vào bảo nhiệm thì vẫn chưa được giải thoát.

1496. Vật ngã bất nhị.
Cư sĩ Phùng Tế Xuyên thấy ở trên tường am Minh Nguyệt có họa một cái đầu lâu, bèn đề một bài kệ ở bên cạnh:

屍 在 這 裏
Thi tại giá lý
其 人 在 何
Kỳ nhân tại hà
乃 知 一 靈
Nãi tri nhất linh
不 居 皮 袋
Bất cư bì đại.

Nơi đây thây chết
Còn người đâu ta
Tánh linh nếu biết
Chẳng mặc áo da.

Thiền sư Đại Huệ tới am, trông thấy, không đồng ý bèn viết thêm một bài kệ nữa:

即 此 形 骸
Tức thử hình hài
卽 是 其 人
Tức thị kỳ nhân
一 靈 皮 袋
Nhất linh bì đại
皮 袋 一 靈
Bì đại nhất linh.

Chính đây hài cốt
Chính đây người ta
Áo da linh tánh
Linh tánh áo da.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Bài kệ 1: chỉ ngộ thường lý sắc thân không phải là chân ngã, tánh linh mới là chân ngã, thường trụ bất diệt, có thể lìa khỏi nhục thể, tự do đến đi, không bị nhục thể trói buộc cho nên mới nói “nếu biết tánh linh, chẳng mặc áo da”. Còn chưa ngộ vật ngã bất nhị, tánh tướng một thể.
Bài kệ 2: Người chân ngộ biết một là tất cả, tất cả là một. Không phân biệt tự tha, vật ngã.

1497. Rồng kêu trong cây khô.
Một ông tăng hỏi Hương nghiêm:
- Thế nào là Đạo?
- Rồng kêu trong cây khô.
Thế nào là người trong Đạo?
- Con mắt trong đầu lâu.
Ông tăng không hiểu đi hỏi Thạch Sương:
- Rồng kêu trong cây khô là sao?
- Do còn vui.
- Con mắt trong đầu lâu là sao?
- Do còn thức.
Ông tăng vẫn chưa hiểu đi hỏi Tào Sơn:
- Rồng kêu trong cây khô là sao?
- Huyết mạch chẳng đoạn.
- Con mắt trong đầu lâu là sao?
- Trời bất tận.
- Người nào nghe được?
- Tận đại địa chưa có ai là không nghe.
- Không biết rồng kêu là ở điển tích nào?
Không biết ở điển tích nào, nhưng người nghe thẩy đều mất mạng.
Lại đọc cho một bài kệ:

枯 木 龍 吟 真 見 道
Khô mộc long ngâm chân kiến đạo
髑 髏 識 盡 眼 初 明
Độc lâu thức tận nhãn sơ minh
喜 識 盡 時 消 息 盡
Hỷ thức tận thời tiêu Tức tận
當 人 那 辨 濁 中 清
Đương nhân na biện trọc trung thanh

Rồng kêu là kiến Đạo
Con mắt là sơ minh
Hỷ, thức, tiêu tức, tận
Chẳng phân trọc trong thanh.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Rồng kêu trong cây khô và con mắt trong đầu lâu là chỉ chân không diệu hữu. Đại đạo không lời nhưng không có gì là không nói được; không biết nhưng không gì là không biết. Khi thức biến thành trí thì không còn phân biệt trọc và thanh nữa.

1498. Tình và vô tình.
Hoàng Sơn Cốc hỏi Hối Đường:
- Hữu tình và vô tình cùng viên chủng trí, câu nói này có thật không?
- Câu nói này là thật nhưng từ miệng ông ra thì không thật.
- Tại sao vậy?
Hối Đường không trả lời, lấy một cái đũa đánh con chó đang nằm dưới gầm bàn. Con chó kêu oẳng một tiếng rồi chạy đi. Hối Đường lại lấy đũađánh xuống bàn một cái rồi nói:
- Chó là loài hữu tình, đánh một cái liền chạy. Bàn là vật vô tình mặc cho đánh vẫn ở lại. Tình và vô tình sao thành một thể?
Hoàng Sơn Cốc không biết làm sao trả lời. Hối Đường lại bảo: 
- Núi có thần núi, sông có thần sông, cây có thần cây, hoa có thần hoa. Sơn hà đại địa diệu dụng vô tận. Tạp trúc xanh xanh là bát nhã. Hoa vàng xum xuê là diệu đế. Do đó tình và vô tình cùng viên cảnh trí.
Nghe Hối Đường nói, Hoàng Sơn Cốc đầy bụng nghi ngờ vì thấy thiền sư trước sau mâu thuẫn. Hối Đường kết luận:
- Nếu có suy nghĩ thì không phải là thiền đạo, làm sao hiểu vạn vật là chính mình?
Hoàng Sơn Cốc cuối cùng khế ngộ.
(Tinh Vân thiền thoại)
Sinh công thuyết pháp đá cũng gật đầu. Đó là hữu tình thuyết pháp cho vô tình nghe. Ở cõi Tịnh độ, chim chóc, hoa lá cây rừng đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Đó là vô tình thuyết pháp cho hữu tình nghe. Nhìn nước chẩy, hoa rụng, khiến chúng ta cảm thấy vô thường. Do đó, chúng ta không nên cảm thấy cô độc, phân biệt tình và vô tình. Chúng ta phải điều hợp vì tất cả đều là tự tánh lưu lộ. Hoa hương, điểu ngữ tất cả đều không dấu diếm gì. Tâm nhãn còn chưa mở sao?

1499. Tu gì?
Một ông tăng đến tham Tề An. Tề An hỏi:
- Tọa chủ tu gì?
- Kinh Hoa Nghiêm.
- Kinh chỉ mấy loại pháp giới?
- Nói rộng thì vô tận pháp giới, nói tóm thì chỉ có 4 loại.
Tề An giơ phất tử lên:
- Đây thuộc loại pháp giới nào?
Ông tăng trầm ngâm suy nghĩ.
- Tư mà biết, lự mà giải chỉ là đồ quỷ. Dưới ánh mặt trời, đèn hết chiếu sáng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Ngộ là chuyện của riêng mình, tự mình tâm địa phát sáng, không phải do trí giải, nghe người khác nói chẳng ích lợi gì.

1500. Ngồi không.
Một hôm Dược Sơn đang ngồi tĩnh tọa, lão sư là Thạch Đầu trông thấy bèn hỏi:
- Ngươi đang làm gì?
- Không làm gì cả.
- Vậy là ngươi ngồi không?
- Nếu ngồi không thì là đã làm.
- Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
- Dù thánh nhân tới cũng trả lời không được.
Thạch Đầu rất tán thưởng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Xem đối thoại trên, chúng ta thấy trong sinh hoạt hàng ngày không thể chấp vào danh trạng, vì nó sẽ rơi vào phân biệt, dẫn tới đau khổ. Phân biệt là công cụ tốt để xử lý sinh hoạt hàng ngày; nhưng đó chỉ là xử lý sự vật, không thể xử lý sinh hoạt tánh linh. Vì có phân biệt nên luôn luôn có đối lập, tự tha, vật ngã. Cảnh chẳng bao giờ ngưng, ta luôn luôn ham muốn và phải tranh đấu để đạt được những dục vọng ấy. Đó là căn nguyên của bất an và thống khổ.

1501. Sơn hà đại địa từ đâu ra?
Một ông tăng hỏi Vân Cư:
- Sơn hà đại địa từ đâu sinh ra?
- Từ vọng tưởng sinh ra.
- Vậy có thể từ vọng tưởng sinh ra một đính vàng không?
Vân Cư không thể trả lời được, muốn bỏ đi nhưng ông tăng không chịu muốn thiền sư giải đáp vấn đề này. Hai người tranh luận không thôi.
Đương thời Vân Môn Khuông Chân nghe được chuyện này bình luận:
- Chỉ là dây leo.
(Thiền thị thập ma)
Theo đạo lý mà nói câu trả lời của Vân Cư không sai vì sắc tức là không, không tức là sắc. Sơn hà đại địa là do nhân loại điên đảo vọng tưởng mà ra. Nhưng như ông tăng hỏi nếu cứ vọng tưởng có thể sinh ra một đính vàng thì trên thế giới này vàng không còn giá trị gì nữa. Câu bình luận của Khuông Chân có nghĩa là muốn biết sơn hà đại địa có phải là do vọng tưởng sinh ra không thì phải tự mình thể nghiệm và chứng thực, chứ không phải dùng lời tranh luận, chỉ là lọai dây leo. Tương tự hai người đứng bên cạnh một cái bàn, trên có đặt một chén nước. Một người nói chén nước này nóng, người kia nói chén nước lạnh. Hai người tranh luận không thôi, ai cũng nói mình đúng, người kia sai. Làm sao giải quyết? Thực tế rất giản dị, chỉ cần uống một ngụm nước là biết ngay nước nóng hay lạnh.

1502. Là Cái gì?
Phật tổ đang ngồi, bỗng thấy có 2 người khiêng một cái đầu heo đi ngang qua, bèn chỉ cái đầu heo hỏi mọi người chung quanh:
- Cái này là cái gì?
Mọi người đều cười ồ cả lên, lại có người còn nói:
- Chẳng phải Phật là bậc có đầy đủ trí huệ sao, chẳng lẽ ngay cả cái đầu heo cũng không biết?
Nhưng Phật vẫn trịnh trọng nói:
- Cũng nên hỏi qua.
Trong lịch sử một ngàn năm cũng chỉ là một chớp mắt. Mã Tổ sau khi được Hòai Nhượng chỉ dẫn, khai ngộ và trở thành một vị đại tôn sư, trụ trì ở Khai Nguyên Tự, Giang Tây. Đương thời người bốn phương tụ lại để nghe vị thiền sư ở phương Nam thuyết pháp có gì xảo diệu không? Nhưng mọi người lấy làm ngạc nhiên cả 3 năm trời Mã Tổ rất ít khi giảng kinh thuyết pháp; nhưng mỗi khi thị giả mang cơm chay tới, Mã Tổ đều giơ cái bánh nướng lên hỏi đại chúng:
- Là cái gì?
Đại chúng đều cảm thấy lạ. Bánh nướng ai chẳng biết, sao mỗi ngày Mã Tổ đều hỏi? Chẳng lẽ có hàm ý gì? Chẳng lẽ giơ cái bánh nướng lên là thuyết pháp? Mà thuyết pháp gì? Mọi người đều nghĩ không ra .
(Thiền thị thập ma)
Từ câu hỏi “Là cái gì?” giúp chúng ta phản quán tất cả mọi hiện tượng mà tìm ra căn nguyên, do tướng vào thể, do văn vào nghĩa, lãnh hội chân nghĩa của Phật pháp.

1503. Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.
Có một hàn sĩ lên kinh ứng thí. Trong khi chờ đợi, ra ngoại ô du ngoạn để tiêu khiển. Mải xem phong cảnh, chiều xuống lúc nào không hay. Vừa mệt vừa khát nhìn phía trước ông thấy một ngôi chùa nhỏ, bèn vào xin tá túc qua đêm. Hàn huyên xong, vị trụ trì bưng ra mời khách một chén trà xanh. Vị hàn sĩ uống một hơi cạn chén trà, cảm thấy vị trà như cam lộ, trên thế gian này không có thức uống nào bằng. Về sau vị hàn sĩ thi đậu, được bổ làm quan to. Tuy ông đã thưởng thức rất nhiều danh trà, nhưng không có loại trà nào bằng vị trà nơi chùa cũ. Một hôm, không nhịn được, ông dẫn vài tùy tùng quay trở lại chốn xưa. Sau khi cảm tạ vị trụ trì, ông nâng chén trà lên uống. Ông phát giác vị trà đã biến đổi, không còn thơm ngọt như cũ. Ông lấy làm lạ bèn hỏi trụ trì. Vị trụ trì bảo ông:
- Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.
(Thiền thị thập ma)
Tuy cùng uống một loại trà, nhưng tâm cảnh đã khác. Lần thứ nhất là một vị hàn sĩ, vừa mệt vừa khát đương nhiên chén trà xanh phổ thông cũng trở thành cam lồ. Lần thứ hai, đã là một vị quan to, ăn toàn cao lương, uống toàn danh trà, cho nên trà xanh phổ thông sẽ thành vô vị. Trên thế gian này nhiều sự tình cũng đều như vậy: xấu, tốt; đúng, sai; đẹp, xấu trong mọi tình huống đều chỉ vì tâm cảnh bất đồng tạo thành phân biệt. Chỉ cần bảo trì được một loại tâm bình hòa thì thế giới trước mắt chúng ta sẽ dần dần hiển hiện bộ mặt chân thật.

1504. Tọa thiền.
- Đạo do tâm ngộ há ở ngồi sao?
(Thiền thị thập ma)
Đối với nhiều người tu thiền là tĩnh tọa. do đó tham thiền trong khi tĩnh tọa gọi là tọa thiền. Quan niệm này có đúng không? Trong công án 1011, Hoài Nhượng hỏi Mã Tổ:
- Khi xe không đi, ngươi đánh xe hay đánh bò?
Câu trả lời rất giản dị, ai cũng biết là phải đánh bò. Ở đây bò chỉ tâm, cái xe là chỉ tọa thiền. Nếu muốn ngộ sự bí ảo của thiền phải bắt đầu từ chỗ sâu thẳm của tự tâm tức là con bò, chứ không phải là từ cái xe. Trong xã hội ngày nay nhiều người chỉ chú trọng đến hình thức mà không để ý gì đến nội dung. Thậm chí có người coi nhập định quán hơi thở là tham thiền. Nếu tâm không ngộ không thông hiểu ý nghĩa ảo diệu của thiền, dù nhập định chỉ tức lâu bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là khô mộc thiền, không có lợi ích gì. Tỷ dụ như trong công án trên, xe không đi đánh xe bao lâu cũng vô ích.

1505. Không cách.
Tuyết Phong 3 lần đến Đầu Tử, 9 lần đến Động Sơn, đắc pháp nơi Đức Sơn, sau thành đạo ở Ngao Sơn trấn, đệ tử có 1.500 người. Thiền tông có 5 tông thì 2 tông Vân Môn và Pháp Nhãn là tử tôn của Tuyết Phong. Một hôm ông hỏi một ông tăng:
- Từ đâu đến?
- Vừa rời Chiết Trung.
- Đi thuyền hay đi bộ đến?
- Cả 2 đều không dùng.
- Sao tới được đây?
- Có gì ngăn cách?
Tuyết Phong giơ gậy đánh, ông tăng bỏ chạy; mười năm sau trở lại; Tuyết Phong lại hỏi:
- Từ đâu đến?
- Hồ Nam.
- Từ Hồ Nam đến đây bao xa?
- Không cách.
Tuyết Phong giơ gậy lên hỏi:
- Có cách cái này không?
- Nếu cách tức là không đến đây được.
Tuyết Phong cũng đánh, ông tăng bỏ chạy. Ông tăng này sau đó ngồi ở đạo trường mắng chửi Tuyết Phong. Một ông tăng đồng tham hỏi ông:
- Tuyết Phong có câu gì mà ông mắng chửi vậy?
Ông tăng bèn thuật lại câu chuyện trên. Bạn đồng tu bèn chỉ cho ông chổ sai lầm. ông tăng đó về sau thường bi thống, rơi lệ hướng về đạo trường của Tuyết Phong sám hối.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Tông chỉ của thiền là một pháp chẳng lập. Học nhân bất tri bất giác rơi vào khái niệm là có gián cách là có phân biệt cho nên mới nói là còn mang một sợi tơ là chưa được giải thoát. Ông tăng trong công án trên vẫn còn chấp vào không cách mà không tự biết.

1506. Phật tánh.
Khi Triệu Châu đã ngoài trăm tuổi, một hôm Triệu Vương và Yến Vương đến tham phỏng. Triệu Châu ngồi yên không đứng dậy. Yến Vương hỏi:
- Nhân Vương đáng tôn quý hay Pháp Vương đáng tôn quý?
- Ở Nhân Vương thì Nhân Vương tôn, ở Pháp Vương thì Pháp Vương tôn.
Hai vương thán phục, bái Triệu Châu làm thầy.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Yến Vương muốn đánh Triệu Vương để cướp địa bàn, nhưng có người biết coi thiên tượng bảo Yến Vương:
- Triệu Châu có thánh nhân cư trú, nếu đánh sẽ thua.
Yến Vương nghe lời bèn hòa với Triệu Vương, lại hỏi Triệu Vương:
- Ở Triệu Châu có vị thánh nhân nào chăng?
- Cách đây 120 dậm ở Quán Âm Viện có vị lão thiền sư có minh nhãn.
Hai người cùng đến xem thử.
Câu đáp của Triệu Châu biểu thị chân như Phật tánh, vô tướng pháp thân ở Nhân Vương tối tôn quý, ở Pháp Vương cũng tối tôn quý.

1507. Đánh thành một phiến.
Hương Lâm Trừng Viễn thiền sư khi được 80 tuổi bảo viên tri phủ sở tại:
- Lão tăng sẽ đi hành cước.
Một viên quan đứng cạnh nói:
- Vị lão tăng này điên rồi! 80 tuổi mà đi hành cước, đi đâu chứ?
Mọi người đều nghi hoặc; khi trở về chùa thiền sư bảo đại chúng:
- Lão tăng 40 năm mới đánh thành một phiến.
Nói rồi viên tịch.
(Thìền thị thập ma)
Câu chuyện trên cho thấy tham thiền công phu cao thâm như Hương Lâm Trừng Viễn mà cũng phải mất 40 năm trời mới đánh thành một phiến cho thấy tu hành không phải là dễ. Do đó, ngộ rồi là phải bảo nhiệm tức là đánh thành một phiến.

1508. Không gián đoạn.
Đồng An hỏi Động Sơn:
- Chư vị thánh nhân có pháp gì để an thân lập mạng?
- Giữ tâm niệm không gián đoạn.
- Còn có pháp nào cao hơn không?
- Có.
- Là công phu gì?
- Tâm niệm không theo gián đoạn.
(Thiền thị thập ma)
Đối với một số người tâm niệm không gián đoạn và tâm niệm không theo gián đoạn là đồng nghĩa. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại thì không gián đoạn bao hàm ý phải tu hành, còn không theo gián đoạn là mặc nhiên đạt được cảnh giới không gián đoạn.

1509. Uống trà đi.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là Đạo?
- Uống trà đi!
(Thiền thị thập ma)
Lịch sử ghi lại chuyện này là Triệu Châu trà, về sau biến thành trà thiền nhất vị; còn ảnh hưởng trực tiếp đến trà đạo của Nhật Bản. Như chúng ta thấy uống trà là một chuyện bình thường, phổ thông chẳng lẽ trong đó có hàm chứa thiền lý thâm ảo gì chăng? Từ xưa đến nay có biết bao người uống trà, nhưng ngộ đạo thì có mấy người? Ý của Triệu Châu là dùng tâm bình thường mà uống trà thì đó là Đạo. Nhưng thế nào là tâm bình thường? Có phải là tâm thái chúng ta trong sinh hoạt thường ngày không? Không phải. Tâm bình thường là tâm không tìm kiếm huyền ảo, kỳ đặc, nhưng ở trong đơn giản, phác thực của sự sinh hoạt hàng ngày thể nhận được chân tướng của tâm.
Mã Tổ Đạo Nhất đã giảng rất rõ:
- Tâm bình thường là tâm không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm, không thánh.
Như vậy tâm bình thường không có ở điên đảo, phiền não, vọng tưởng, si mê, cũng không có ở thiền định tu tâm thần kỳ mà ở tại sinh hoạt bình thường.

1510. Thư mẹ.
Thiền sư Huệ Tâm, lúc 15 tuổi còn là một tiểu sa di, vì thông minh lanh lợi, được Hoàng đế triều kiến và ban nhiều tặng phẩm. Ông gửi tặng phẩm vua ban về quê tặng lại mẹ để tỏ lòng hiếu kính. Mẹ ông gửi cho ông một lá thư, trong viết: “Con gửi cho mẹ những phẩm vật Hoàng Đế ban cho con. Mẹ đương nhiên rất vui, nhưng khi mẹ cho con xuất gia làm tăng là mong con trở thành một thiền nhân có tu, có chứng chứ không phải mong con sống trong trường danh lợi. Nếu con chỉ ham hư vinh thì đã trái với nguyện vọng của mẹ. Mẹ hy vọng khi con nhận được thư này hãy ghi nhớ trong lòng thế nào là chân tham, thật học.” Sa di Huệ Tâm nhận được thư mẹ, lập chí làm một vị hoằng pháp độ chúng học theo kinh Hoa nghiêm.”nguyện vì chúng sinh lìa khổ, chẳng màng sự an lạc của chính mình”, không truy cầu danh lợi nữa.
Huệ Tâm được mẫu thân làm cho cảm động, nhờ người nhắn mẹ năm tới sẽ xin phép sư phụ về quê thăm viếng. Không lâu, mẹ ông lại gửi cho ông một lá thư nữa: “Mẹ cho con xuất gia, nhập đạo; con đã thuộc về Phật môn, thuộc về chúng sinh, con không thuộc về riêng mẹ nữa. Từ nay trở đi con phải là Phật tử, hiếu kính sư trưởng, thân cận tam bảo, không chỉ nghĩ đến mẹ. Năm tới về thăm mẹ, con phải nhớ như vậy.
(Tinh Vân thiền thoại)
Huệ Tâm được mẹ dạy dỗ hai lần, tinh cần học đạo, phát tâm lập nguyện sau trở thành một vị tăng bảo chân chính.

1511. Lão bán dầu.
Một hôm Triệu Châu đến Đầu Tử Sơn ở Thư Châu thăm Đầu Tử. Hai người gập nhau trên đường. Triệu Châu hỏi:
- Ông có phải là Đầu Tử sơn chủ?
- Muối, trà, dầu, tùy ý mua.
Triệu Châu không ngó tới, đi về chùa, Đầu Tử tay cầm một bình dầu theo sau. Triệu Châu trách:
- Nghe danh Đại Đồng đã lâu, gập mặt chỉ là một gã bán dầu.
- Ông chỉ thấy gã bán dầu, không thấy Đầu Tử. Nghe danh Triệu Châu đã lâu nguyên lai chỉ là một tục nhân.
- Ta là gã tục nhân sao? và thế nào là Đầu Tử?
Đầu Tử giơ bình dầu lên:
- Dầu, dầu.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đầu Tử trước khi mất có nói:
- Nếu tháp của ta có mầu hồng, ta sẽ trở lại.
Một trăm năm sau, khi các tín đồ tu sửa tháp thấy xá lợi có mầu hồng mã não, gập lúc Nghĩa Thanh đến quải đơn. Mọi người đều nói thiền sư Đại đồng đã trở lại. nghĩa Thanh có làm một bài tụng:

白 雲 鎖 不 住
Bạch vân tỏa bất trú
青 峯 以 何 收
Thanh phong dĩ hà thâu
月 色 籠 寒 塔
Nguyệt sắc lung hàn tháp
松 聲 半 夜 秋
Tùng thanh bán dạ thu.

Mây trắng chẳng thể khóa
Núi xanh lấy gì thu
Ánh trăng rải tháp lạnh
Thông reo giữa đêm thu.
Thế nào là Đầu Tử? Dầu, củi, gạo, muối trong sinh hoạt hàng ngày là pháp mạch trôi chẩy của Đầu Tử.

1512. Mặc kệ nó.
Nơi một chùa kia, có một đứa nhỏ con nhà nghèo khổ, được vị trụ trì từ bi thâu nhận, cho làm việc trong vườn rau. Nhiều năm trôi qua, đứa nhỏ lớn lên và trở thành viên đầu (ông tăng coi việc trồng rau). Một hôm ông bảo một vị sư huynh:
- Đệ thấy các sư huynh mỗi ngày đều tham thiền nhập định; đệ cũng muốn tập không biết có được không, xin sư huynh trình với sư phụ.
Vị sư huynh này trình lại cho sư phụ hay.
Vị trụ trì thấy khó quá vì ông tăng không biết chữ, chẳng đọc qua một quyển kinh nào, lại còn phải bận rộn chăm sóc vườn rau đâu có lúc nào rảnh để ngồi thiền tĩnh tu, bèn thuận miệng bảo:
- Mặc kệ nó.
Nào ngờ vị viên đầu nghe được câu này rất phấn khởi. Mỗi ngày khi làm việc đều niệm thầm câu này chẳng kể trời mưa, trời nắng, khi ăn, khi ngủ. Về sau ông cảm thấy dù không niệm tâm tánh cũng tự nhiên yên tĩnh. Mỗi khi gặp phiền não hay vọng tưởng ông lại niệm “Mặc kệ nó “. Vài năm sau, một hôm ông đang tưới rau, bình tưới bỗng vỡ làm ướt cả người. ông bỗng nhiên ha hả cười lớn vì ông cảm thấy thân tâm thanh tịnh như hư không, các tâm niệm điên đảo vọng tưởng biến mất không còn tung tích.
(Thiền thị thập ma)
Chỉ cần mặc kệ vọng tưởng, mặc kệ phân biệt, tự tánh quang minh tự nhiên hiển lộ.

1513. Cầu độc mộc.
Thần Sơn bảo Động Sơn:
- Dù đến nơi đâu, nếu có bạn tốt thì không bị lạc. Thỉnh sư cho một lời.
- Sư huynh có thái độ ấy sao thành công được?
Câu Động Sơn khải thị khiến Thần Sơn tỉnh ngộ, từ đó lời nói khác thường. Khi 2 người gập cây cầu độc mộc; Động Sơn qua rồi, nhấc mộc kiều lên gọi:
- Qua mau! Qua mau!
- Giới xà lê!
Động Sơn bèn hạ mộc kiều xuống.
(Động Sơn lục)
Bạn tốt ở đây chỉ thiện trí thức, dù bạn tốt cách nào cũng không được nhờ cậy mà phải trông vào chính mình. Động Sơn nhấc mộc kiều lên là hỏi không có mộc kiều làm sao qua?

1514. Tâm bất biến.
Một hôm trời rất nóng, có một văn sĩ đến chùa thăm một vị thiền sư. Vào đến phòng thiền sư cảm thấy nóng bức đến toát mồ hôi, bèn hỏi:
- Thiền sư, sao phòng nóng quá vậy?
- Tâm tĩnh tự nhiên mát.
(Thiền thi thập ma)
Trong đời sống: sinh, lão, bệnh, tử, biệt ly, địa vị thăng trầm, của cải trồi sụt và chủng chủng phiền não đều là do tâm có sai biệt. nếu ta nắm lấy then chốt của vấn đề là cảnh chuyển mà tâm không chuyển thì tất cả mọi phiền não đều bị tiêu diệt.

1515. Cao Phong.
Một hôm Tổ Khâm hỏi Cao Phong:
- Ban ngày ngươi có làm chủ được không?
- Làm được.
- Trong mộng có làm chủ được không?
- Làm được.
- Không mộng, không tưởng, không thấy, không nghe, chủ ở đâu?
Cao Phong không trả lời được bèn đến Lâm An tu hành. Một hôm bạn đồng tu làm gối đầu rơi xuống đất phát ra tiếng. Cao Phong hoát nhiên đại ngộ bèn làm một bài kệ, trong đó có 2 câu:
Nguyên lai chỉ là người lúc trước
Nếu không đổi lúc trước làm sao trở về.
(Thiền thị thập ma)
Làm chủ là giữ được tâm bình thường. Khi không nghe, không thấy là không khởi một niệm làm sao bảo nhiệm tâm bình thường? Sách thiền không ghi chép cao Phong ngộ gì. Nhưng từ tâm bình thường chúng ta có thể suy đoán ông đã ngộ “Mộng tỉnh là một, ngủ và định là một” nên đã thấy được bản lai diện mục.

1516. Phật Di Lặc.
Động Sơn kể cho vân Cư chuyện Nam Tuyền hỏi ông tăng nghiên cứu kinh Di Lặc Hạ Sanh..
- Di Lặc bao giờ hạ sanh.
- Trên trời không có Di Lặc, dưới đất cũng không có Di Lặc.
Vân Cư theo đó hỏi:
- Nếu trên trời không Di Lặc, dưới đất không Di Lặc, không biết ai đặt tên Di Lặc?
Động Sơn bị hỏi khiến thiền sàng rúng động, bảo:
- Ưng xà lê, khi ta ở nơi Vân Nham từng hỏi lão sư; khiến hỏa lò chấn động. Hôm nay bị ngươi hỏi cả mình toát mồ hôi.
(Động Sơn lục)
Di Lặc ở đây chỉ tâm.

1517. Pha tương.
Động Sơn hỏi Vân Cư:
- Ngươi làm gì đó?
Pha tương.
- Dùng bao nhiêu muối?
- Liên tục cho vào từng chút.
- Vị thế nào?
- Được lắm.
(Động Sơn lục)
Ý của Vân Cư là tu hành thì phải chuyên cần tinh tấn.

1518. Nhập định.
Khâm sơn, Nham Đầu, Tuyết Phong cùng ngồi thiền. Động Sơn bưng trà ra. Khâm Sơn nhắm mắt lại. Động Sơn hỏi:
- Ngươi đi đâu?
- Nhập định.
- Định vốn không cửa, từ chỗ nào vào?
(Động Sơn lục)
Định chân chính không ra, không vào, không tĩnh, không loạn.

1519. Sự kỳ lạ.
Một hôm A Nan bạch Phật:
- Hôm nay vào thành con thấy một sự kỳ lạ.
- Sự kỳ lạ gì?
- Khi vào thành con thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa,khi ra thành thì thấy vô thường.
- Hôm qua ta vào thành cũng thấy một sự kỳ lạ.
- Là sự kỳ lạ gì?
- Ta thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa, khi ra thành cũng thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa.
(Chỉ nguyệt lục)
Phật giáo cho rằng tất cả mọi sự vật trên thế gian đều không cố định, đều ở trong tiến trình: thành, trụ, hoại, không.

1520. Bài kệ phó pháp của Ca Diếp.
Sau khi kết tập kinh điển xong, Tôn giả Ca Diếp cảm thấy mình già yếu, định đến núi Kê Túc sơn nhập định để đợi Phật Di Lặc. Tôn giả vời ngài A Nan lại bảo:
- Tôi không còn trụ thế lâu nữa, nay đem chánh pháp giao cho ông, ông phải giữ gìn cho khéo. Hãy nghe bài kệ của tôi:

法 法 本 來 法
Pháp pháp bản lai pháp
無 法 無 非 法
Vô pháp vô phi pháp
何 於 一 法 中
Hà ư nhất pháp trung
有 法 有 不 法
Hữu pháp hữu bất pháp.

Bản lai pháp mỗi pháp
Không pháp khôngphi pháp
Trong một pháp mà sao
Có pháp có không pháp.
(Chỉ nguyệt lục)
Câu 1: Học pháp phải học bản lai pháp.
Câu 2: Không có pháp cũng không có gì không là pháp
Câu 3: Hà tất trong một pháp
Câu 4: Phân ra cái này là pháp, cái kia là phi pháp.

1521. Đốt Bích Nham Lục.
Đại Huệ Tông Cảo người chủ xướng tham thoại đầu là một vị thiền sư trứ danh đời Tống. Từ nhỏ ông đã tỏ ra thông minh mẫn tiệp. 13 tuổi học ở trường làng, một hôm cùng bạn đùa nghịch ném nghiên mực qua cửa sổ, chẳng may trúng vào mũ thầy, chỉ còn cách bồi thường và về nhà tự học. Thủa thiếu thời ông nói: “Đọc sách thế gian chẳng bằng đọc sách xuất thế gian”. Bèn xin xuất gia ở Huệ Vân Viện. Năm 17 tuổi xuống tóc, rất thích đọc các bộ ngữ lục của Thiền tông. Ông thường nghi ngờ tại sao thiền từ một người truyền pháp là tổ Đạt Ma, tại sao lại phân thành 5 tông”. Năm 19 tuổi vân du tham phỏng chư thiền đức, sau gập Viên Ngộ Khắc Cần. Viên Ngộ bảo ông tham câu “Núi Đông đi trên nước.”Ông trình 49 đáp án đều không được Viên Ngộ chấp nhận. Một hôm Viên Ngộ thượng đường bảo đại chúng:
- Nếu có người hỏi ta về công án “Núi Đông đi trên nước” thì ta sẽ đáp “Gió thơm từ phương Nam tới, điện các đều mát mẻ.
Đại Huệ nghe câu nói trên có chỗ sở ngộ, bèn trình lên Viên Ngộ. Viên Ngộ bảo:
- Ông đạt được cảnh giới này không phải là dễ, nhưng tiếc là còn chết đi nhưng chưa sống lại. Đó là đại bệnh.
- Con được thế này cũng là khoái hoạt, không mong muốn được gì nữa.
Viên Ngộ bảo ông trú ở Mộc đường sinh hoạt cùng với các vị cư sĩ. Ngày ngày cùng mọi người nói chuyện gia thường và đều vào phòng sư phụ độc tham không dười 3, bốn lần. Mỗi lần Viên Ngộ đều đưa câu hỏi hữu cú vô cú ra. Đại Huệ vừa mở miệng, Viên Ngộ đều bảo không phải. Như vậy được nửa năm, tâm đại Huệ không còn vọng niệm. Một hôm ăn cơm, giơ đũa lên mà không và. Viên Ngộ cười bảo :
- Gã này đã được Hoàng dương một thiền.
- Đạo lý này giống như con chó đứng trước chảo mỡ nóng., muốn liếm không được, bỏ đi cũng không được.
- Thí dụ của ông rất hay
Đại Huệ vẫn chưa triệt ngộ. lại nửa năm nữa trôi qua, một hôm ông lại hỏi Viên Ngộ:
- Nghe nói lúc trước Hòa thượng có hỏi Ngũ Tổ Pháp Diễn về hữu cú, vô cú. Không biết Ngũ Tổ trả lời ra so?
Viên ngộ chỉ cười không trả lời.
- Hòa thượng thường trả lời mọi người, sao nay không nói?
- Ta hỏi “hữu cú,vô cú như dây leo cây ý là thế nào?” Ngũ Tổ đáp “Theo nhau vậy”.
- Con hiểu rồi!
Viên Ngộ bèn đặt nhiều câu hỏi để khảo nghiệm, Đại Huệ đều trả lời trôi chảy, không ngần ngại.
- Ông đã biết ta không lừa dối ông.
Không lâu, phân tọa mời Đại Huệ thuyết pháp.
Về sau khi Viên Ngộ đã viên tịch, Đại Huệ một hôm đem bản khắc để in Bích Nham Lục của sư phụ ra hỏa thiêu. Đây là 1 việc làm chấn động thiền giới. Đối với người thường thì đây là một hành động phản nghịch, khi sư diệt tổ.
(Nhất vị thiền:Quyển Nguyệt)
Đại Huệ có nỗi khổ tâm khi phải đem đốt bản khắc Bích Nham Lục của sư phụ. Mặc dầu thiền chủ trương bất lập văn tự, nhưng lúc đó những người học thiền chỉ chúi đầu vào đọc những sách thiền như Bích Nham Lục, cố tìm những bí ẩn, những lý giải trong các câu nói của các thiền sư, hoặc nghiên cứu những động tác, hành động của các thiền sư coi đó như một loại văn tự, mà chẳng chú trọng đến sự thực sự tu hành. Đại Huệ đốt bản khắc là để phá cái chấp tệ hại đó.
(200 năm sau người ta thu thập những tài liệu còn sót lại để tái tạo bộ Bích Nham lục mà chúng ta được đọc ngày nay.)

1522. Không tướng nhân, ngã.
Pháp Hội Linh Thứu có 500 tỳ khưu có đầy đủ 5 thần thông, nhưng chưa đắc pháp nhẫn. Vì có túc mạng thông nên họ đều thấy trong quá khứ mình đã giết cha, hại mẹ, cùng phạm những trọng tội khác; nội tâm hoài nghi mình không thể chứng được pháp thậm thâm. Do đó, Văn Thù, theo thần lực của Phật, tay cầm kiếm sắc bức Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Ngưng! Ngưng! Không được phản nghịch, không được hại ta. Nếu ta bị hại là do thiện mà bị hại. Văn Thù! Xưa nay vốn không ngã nhân. Nếu nội tâm thấy có ngã nhân thì ta tất bị hại.
Do hoạt cảnh trên, 500 tỳ khưu ngộ bản tâm như mộng, như ảo, trong mộng ảo không có tướng nhân, ngã, không có phụ mẫu. 500 vị đồng thanh tán thán Văn Thù:
- Văn Thù đại sĩ thâm đạt đến tận nguồn gốc, tự tay cầm kiếm sắc bức Phật. Kiếm, Phật một tướng không hai, không tướng, không sinh làm sao có giết?
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Do sự chỉ điểm của Văn Thù, 500 vị tỳ khưu hiểu rằng không có tướng nhân, ngã thì làm gi có người làm hại, người bị hại và vật làm hại; do đó chứng được vô sinh pháp nhẫn.

1523. Khâm Sơn.
Khâm Sơn đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
- Từ đâu đến?
- Từ Đại Từ đến.
- Còn thấy Đại Từ không?
- Thấy.
- Thấy trước “sắc” hay sau “sắc”?
- Thấy phi trước sau.
Động Sơn im lặng. Về sau Khâm Sơn bảo mọi người:
- Ta lìa sư phụ quá sớm, không hiểu hết ý người.
(Động Sơn lục)
 “Sắc” ở đây dẫn từ kinh Kim Cương:
“Nếu lấy sắc cầu ta, 
Lấy âm thanh cầu ta, 
Đó là hành tà đạo, 
Không thể thấy Như Lai”.
Khâm Sơn trả lời đúng nên Động Sơn im lặng chấp nhận.

1524. Hoa Nghiêm Hưu Tĩnh
Hoa Nghiêm Hưu Tĩnh đến bái phỏng Động Sơn, hỏi:
- Con không có lý lộ, bị vọng niệm lừa dối.
- Ngươi nghĩ có đường ấy sao?
- Con thừa nhận chưa khai ngộ.
- Ngươi vọng tưởng ở đâu?
- Đó là điều con muốn hỏi.
- Vậy ngươi hãy hướng nơi vạn dậm không tấc cỏ mà đi.
- Con nên đến đó sao?
- Bất luận đi đâu, ngươi đều nên đi.
(Động Sơn lục)
Hoa Nghiêm hỏi Động Sơn làm sao trừ vọng niệm, Động Sơn bảo ông hãy trụ ở tự tánh (vạn dậm không tấc cỏ, xem công án 668).

1525. Tứ ân, tam hữu.
Động Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Trong các ngươi có ai không đáp ứng tứ ân, tam hữu không?
Đại chúng không ai trả lời.
- Nếu không theo tôn chỉ này thì không thể giải thoát khỏi thống khổ của sanh tử. Bất luận đi đâu, mọi thời khắc tâm đều không xúc vật, thường không gián đoạn, sẽ được tương ứng. Phải nỗ lực, đừng nhàn nhã qua ngày.
(Động Sơn lục)
Tứ ân là “ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân chúng sanh; tam hữu là tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Trên báo tứ ân, dưới cứu 3 giới là lý tưởng của con nhà Phật.

1526. Ngựa Ích Châu ăn cỏ, bò Mục Châu no.
(Thanh tịnh lưu ly)
Theo thường lý, câu nói này vô lý vì Ích Châu và Mục Châu là 2 địa phương khác nhau sao có thể dung hợp làm một?Do vì chúng ta đối với sự tướng có quan niệm đối đãi, cá biệt không thể dung hợp hóa, chỉnh thể hóa mà quán chiếu toàn thể. Do đó mà trước mắt chúng ta l2 chủng chủng chướng ngại. Nhưng đối với người giác ngộ có thể đem thời, không mâu thuẫn chướng ngại điều hòa lại những sai biệt ta người, vật ngã thì thấy thế giới là viên dung, thống nhất.

1527. Không vọng tâm.
Vương cư sĩ là một người giữ gìn giới luật rất nghiêm khắc, lời nói, hành động đều rất thận trọng; ai nấy đều kính ngưỡng. Nhưng về sau có một bạn đồng tu phát hiện có khi chiều xuống là cư sĩ đi đến chỗ yên hoa, liễu ngõ. Chẳng lẽ Vương cư sĩ cũng không thoát khỏi nữ sắc? Mọi người bàn tán sau lưng cư sĩ. Có một người háo sự, lén đi theo cư sĩ để coi hư thực ra sao. Quanh co qua nhiều ngõ hẻm cuối cùng đến một căn nhà Thuý Hoa Viên, nhiều cô nương xinh đẹp thấy Vương cư sĩ đều thỏ thẻ tiếng oanh ân cần chào hỏi, dẫn cư sĩ lên lầu. Bạn đồng tu cũng len lén theo sau, tới nơi ông thấy một cảnh tượng làm kính sợ. nguyên lai bầy cô nương huyên náo cười cợt lúc nãy người người đều ngồi ngay ngắn trước Phật đường trang nghiêm im lặng nghe Vương cư sĩ nói pháp.
(Thanh tịnh lưu ly)
Vương cư sĩ ở trong bùn mà không nhơ, trong lửa đỏ mà trồng sen thanh tịnh, biến dục não thành mát mẻ; trong vọng cảnh mà định lực không dao động. Thật là một vị thiền giả tùy duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu dao.

1528. Vô dư Niết Bàn.
Tôn giả Phạm Chí chứng đắc thần thông, có thể biết túc mạng của mọi người; chẳng hạn chỉ xương cốt của một người nào đó cho ông, ông có thể nói cho biết ngay người đó là ai, chết vào năm, tháng nào. Một hôm, Phật chỉ một bộ xương bảo ông xác nhận. Phạm Chí ngưng thần coi xét rất lâu trên trời, dưới đất, 10 phương 3 thế mà không biết là ai, cũng không biết trú ở đâu. Phật khai thị cho ông:
- Đây là một người đã chứng ngộ Niết Bàn, tinh thần ông đã đến chỗ vô thủy, vô chung, vô nội, vô ngoại, quang minh thế giới; có thể vô sinh, vô tử; khế cơ, khế lý quảng biến 10 phương, quán thông pháp giới. Do đó ông không có cách nào từ hài cốt của ông ta mà nhận ra vì ông ta chính là Đông phương Thế giới, Phổ Hương Sơn, Nam Ưu Đà Diên tỳ khưu.
(Thanh tịnh lưu ly)
Câu chuyện trên cho thấy các vị A La Hán chứng đắc Vô Dư Niết Bàn không thể từ nhục thân sinh diệt mà nhận ra được, vì họ đã nghiệp tận, báo tức không còn bị phàm thân quái ngại nữa.

1529. Xá Lợi Phất.
Xá Lợi Phất khi mới ngộ đạo gập Mục Kiền Liên ở trên đưởng. Mục Kiền Liên hỏi:
- Xá Lợi Phấy! có phải ông đã tìm được con đường thoát vòng sinh tử không? Sao tướng mạo ông trang nghiêm như một bông sen vậy?
- Không sai.
Về sau Xá Lợi Phất về quê nhà nhập diệt. Đệ tử ông là Quân Đầu đem hài cốt đến gập Phật khóc lóc thảm thiết. Phật khai thị ông:
- Quân Đầu, sư phụ ngươi nhập Diệt, công đức vô lậu giới định và trí huệ thâm sâu của ông ấy có bị tiêu diệt không?
- Dạ không!
- Nếu tất cả thống khổ đều diệt, tất cả công đức thanh tịnh đều không mất, vậy ngươi còn khóc làm gì?
Quân Đầu nghĩ lại bèn ngưng khóc.
(Thanh tịnh lưu ly.)
Sinh mạng của chúng ta ở thế gian này không quan trọng; quan trọng là ở công đức giới định huệ và bồ đề thiện căn. Hữu dư sinh mạng có tận nhưng vô dư huệ mạng thì thường còn.

1530. Bài thi của Mã Tổ Đạo Nhất.

爲 道 莫 還 鄉
Vi đạo mạc hoàn hương
還 鄉 道 不 成
Hoàn hương đạo bất thành
溪 邊 老 婆 子
Khê biên lão bà tử
喚 我 舊 時 名
Hoán ngã cựu thời danh

Mải Đạo quên quê cũ
Về quê Đạo chẳng thành
Bên suối một bà cụ
Gọi tên lúc tuổi xanh.
(Thanh tịnh lưu ly)
Mã Tổ ngộ đạo rồi, trở về cố hương, thân bằng cố lý đều lại thăm. Có một bà cụ sau khi gặp mặt nói:
- Thì ra là thằng nhỏ nhà họ Mã đã trở về.
Bà cụ là hàng xóm, đã thấy Mã Tổ từ nhỏ cho đến khi trưởng thành. Tuy bây giờ đã là một vị thiền sư nhưng dưới mắt bà cụ thì vẫn chỉ là đứa nhỏ nhà họ Mã. Thiền sư nhân đó cảm khái viết bài thi trên. Bài thi khải thị chúng ta không nên chìm đắm trong quá khứ êm đềm, đừng hạn chế tâm thức trong không gian nhỏ hẹp như ếch ngồi đáy giếng, phải mở rộng tầm con mắt. Đại trượng phu chí ở bốn phương, bốn bể đều là huynh đệ tu hành, không chỉ hạn chế ở quê hương.

1531. Bài kệ của Thần Chiếu Bản Như.

處 處 逢 歸 路
Xứ xứ phùng quy lộ
頭 頭 達 故 鄉
Đầu đầu đạt cố hương
本 來 現 成 事
Bản lai hiện thành sự
何 必 待 思 量
Hà tất đãi tư lương.
神 照 本 如
Thần Chiếu Bản Như

Đường về khắp mọi chốn
Nơi nơi đều cố hương
Xưa giờ tự hiển hiện
Cần gì đợi tư lương.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Tự tánh ở khắp mọi nơi, mọi sự việc đều là tự tánh hiển lộ, không cần phải suy tư để tìm ra nó.

1532. Tâm bất sinh.
Có một người bị bệnh cùi muốn xuất gia, xin Bàn Khuê xuống tóc. Thiền sư đồng ý và tự mình cử hành nghi thức thế độ. Lúc đó, viên quan lại được Lãnh chúa sai đến phụ giúp Bàn Khuê tỏ ý bất mãn sao một vị cao tăng tôn quý lại tiếp xúc với một người bệnh không tinh khiết như vậy. Bàn Khuê bảo ông:
- Ta thấy tâm ông còn bẩn hơn người này!
(Thiền dữ nhân sinh)
Có sự phân biết sạch bẩn, giầu nghèo, sang hèn, v . v . là còn ở trong thế giới hiện tượng của nhị nguyên đối đãi. Nếu có thể trở về cái tâm lúc chưa phân biệt, thì đó là cái tâm chưa bị ô nhiễm. Cái tâm ấy, Bàn Khuê gọi là tâm bất sinh.

1533. Người thợ lò rèn.
Có một người thợ lò rèn vì nuôi dưỡng gia đình, phải gắng sức làm việc mỗi ngày, cảm thấy rất khổ sở. Một hôm có một vị cao tăng đến hóa duyên, ông thuận mồm hỏi vị cao tăng này con đường thoát khổ. Vị cao tăng chỉ cho ông pháp môn niệm Phật: hễ mỗi lần dùng búa nện xuống thanh sắt lại niệm một tiếng Phật, mỗi động tác kéo bễ lại niệm một tiếng Phật. Từ đó người thợ rèn cảm thấy sinh hoạt rất có ý nghĩa, ngày ngày làm việc rất vui vẻ. Vài năm sau tâm ông đã đạt tới tịnh độ pháp giới. Một hôm ông đọc bài kệ:

叮 叮 噹 噹
Đinh đinh đang đang
百 煉 成 鋼
Bách luyện thành cương
太 平 將 至
Thái bình tương chí
我 往 西 方
Ngã vãng Tây phương

Đinh đinh! Đang đang!
Luyện mãi thành gang
Bình an sẽ đến
Ta về tây phương.

Nói xong liền mất.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Sự chứng ngộ không phải do suy nghĩ, hoặc dưỡng tĩnh mà là ở trong thực hiện sinh hoạt mà không bị sinh hoạt kháng chế. Đó là tĩnh tâm, là chân không diệu hữu nhập vô sinh pháp nhẫn vậy.

1534. Nguy hiểm.
Đời Đường, một hôm thi sĩ Bạch Cư Dị đến bái phỏng Điểu sào thiền sư, thấy thiền sư trú ở trên cây, bèn nói:
- Chỗ ở của thiền sư rất nguy hiểm.
- Nếu so sánh thì chỗ ở của thái thú còn nguy hiểm hơn.
- Chỗ ở của đệ tử có gì nguy hiểm?
- Tự mình không ngừng khởi tâm động niệm, nơi nơi bị cảnh chuyển, giống như củi để gần lửa, khiến cho mình lo lắng không tự tại, lại không nguy hiểm sao?
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Tự tại là chân chính tỉnh giác, chân chính tự do, chân chính từ trong hư ảo mà giải thoát.

1535. Cây bách thành Phật.
Có ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Cây bách trước sân.
Nhiều ông tăng hỏi câu hỏi này nhiều lần, Triệu Châu đều lập lại câu trả lời. Một hôm, một ông tăng hỏi:
- Cây bách có Phật tánh không?
- Có.
- Vậy cây bách lúc nào thành Phật?
- Đợi hư không rơi xuống đất, sẽ thành Phật.
- Hư không lúc nào rơi xuống đất?
- Lúc cây bách thành Phật.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Câu đáp của Triệu Châu “Đợi hư khôngrơi xuống đất sẽ thành Phật” là khẳng định cây bách cũng là khẳng định tự kỷ. Vấn đề này không cần truy vấn thêm vì chỉ tạo tranh luận không khế hợp với Đạo. Dưới con mắt thiền giả một cái cây, một cọng cỏ đều khẳng định sự tồn tại của nó. Thái độ trọng tự nhiên của người xưa thực người ngày nay khó theo kịp. Thiền giả coi chủng chủng hiện tượng của khí thế giới là một loại thần tánh tự mình khẳng định. Tuy chúng là một vật vô tình, nhưng có thể thuyết pháp cho hữu tình nghe; tương đối hỗ tương khẳng định sự tồn tại của nhau. Do đó biểu hiện ra tinh thần đại từ, đại bi không còn khởi tâm phân biệt vô tình và hữu tình.

1536. Giáo pháp.
Một ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Thế nào là giáo pháp chân chính?
- Giáo là tâm.
- Tâm con còn phiền muộn làm sao liễu ngộ để giải thoát?
- Gió cuốn mây phiền, thái hư vắng lặng.
- Làm sao triệt ngộ thanh tịnh?
- Một vầng hạo khiết chiếu sáng vạn dậm.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Hãy bỏ xuống tất cả lợi hại, được mất, thân thế, địa vị v . v . thì tâm sẽ được an nhiên tự tại.

1537. Mê.
Triều Đường, thiền sư Vô Nghiệp nói:

迷 者 不 了
Mê giả bất liễu
即 爲 境 惑
Tức vi cảnh hoặc
一 爲 境 惑
Nhất vi cảnh hoặc
流 轉 不 窮
Lưu chuyển bất cùng.

Bị cảnh mê hoặc
Người mê không xong
Một khi mê hoặc
Trôi hoài chẳng ngưng.
(Thiền ngộ không nhân tâm) 
Một khi đã bị mê thì càng mời gọi nhiều phiền não tới, không bao giờ được yên. Để đối trị chúng ta nên dùng lòng từ bi làm cơ sở tu hành, trên báo tứ ân, dưới độ tam đồ.

1538. Bài thi của Hà Sơn Thủ Thần.

終 日 看 天 不 舉 頭
Chung nhật khán thiên bất cử đầu
桃 花 爛 漫 始 抬 蛑
Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu
饒 君 更 有 遮 天 網
Nhiêu quân cánh hữu già thiên võng
秀 得 牢 關 即 便 休
Tú đắc lao quan tức tiện hưu.

Cả ngày nhìn trời, đầu chẳng ngửng
Thấy đào tươi thắm,ngó coi chơi
Dù có che trời bằng thiên võng
Rõ được lao quan rồi mới thôi.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Lao quan là cửa thứ 3 mà người tu phải vượt qua.

1539. Sơn thần thọ giới.
Đời Đường Tung Nhạc nguyên Khuê là một vị cao tăng, sau kết am cỏ ở phía nam Tung Nhạc. Một hôm có một vị Sơn thần đến xin thọ giới. Thiền sư bảo:
- Ngươi cầu giới, tức đã được giới.
- Nhưng con vẫn muốn thiền sư chính thức truyền giới, thâu con làm đệ tử.
- Được, khi ta truyền ngũ giới cho ngươi, giới nào ngươi giữ được thì nói giữ được.Giới nào không giữ được thì nói không giữ được.
Ngươi có giới dâm được không?
- Con đã có vợ, phải làm sao?
- Không phải ý này, mà là không tà dâm.
- Giữ được.
- Ngươi có thể giữ được giới không trộm cắp không?
- Con là Sơn thần tài vật không thiếu, cần chi phải trộm cắp?
- Không phải ý này, mà là nếu ngươi tốt gập người xấu ngươi cũng có thể tha thứ; nếu ngươi không tốt gập người tốt ngươi cũng có thể làm hại.
- Giữ được.
- Ngươi có thể giữ giới không giết không?
- Con nắm quyền bính xử phạt không thể không giết sao?
- Không phải ý này, mà là không có đức hiếu sinh.
- Giữ được.
- Ngươi có giữ được giới không uống rượu không?
- Giữ được.
Lễ truyền thọ ngũ giới đã hoàn tất.
(Thiền giới không nhân tâm)
Qua công án trên chúng ta thấy giới là để bồi dưỡng Tĩnh. Có thể Tĩnh thì không giả, là vô tâm. Tâm vô tâm là chân tâm. Lúc đó sẽ có óc sáng tạo, tự do, giải thoát.

1540. Một ông tăng lanh lợi.
Đời Đường, Nam Tuyền trú ở am cỏ. Một hôm có một ông tăng đến tham phỏng. Nam Tuyền bảo:
- Ta phải lên núi làm việc, đến bữa ngươi cứ tự nhiên thổi cơm ăn và mang cho ta một phần.
Đến bữa ông tăng thổi cơm ăn, rồi lên giường nằm ngủ một giấc. Nam Tuyền không thấy ông tăng mang cơm tới bèn trở về am. Thấy ông tăng đang ngủ ngáy khò khò; Nam Tuyền cười cười leo lên giường ngả mình bên cạnh ông tăng. Được một lúc, ông tăng tỉnh giấc. nam Tuyền bảo:
- Lúc trước ta có gặp một ông tăng lanh lợi, hoạt bát, cho đến nay chưa gặp lại.
Nói rồi giơ phất tử vẩy vẩy trước mặt ông tăng:
- Ông tăng lanh lợi ấy có giống cái này không?
- Không giống.
- Sao biết? Ngươi gập hắn ở đâu?
- Nếu thầy muốn biết con gặp hắn ở đâu thì hãy bỏ phất tử xuống.
- Ta chứng thực ngươi có cặp mắt trí tuệ.
(Thiền ngữ không tâm nhân)
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nếu chúng ta không tự tại thì liền mất tự do. Ông tăng trên là một người lanh lợi, không sợ hãi, tự do tự tại nên mới tự nhiên thỉnh thiền sư bỏ phất tử xuống.
(Đây là một thoại khác của công án 241)

1541. Địa ngục.
Để trả lời câu hỏi của một ông tăng về địa ngục. Triệu Châu bảo:
- Ta không vào, thì ai vào mà cứu ngươi?
(Thiền thú 60)
(Xem công án 71) Triệu Châu là một vị thiền sư rất khôi hài, lưu lại không biết bao nhiêu là chuyện thú vị. Phật có 10 danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu hiện một đức tính. Nếu là hiện đại, Phật cũng nên có thêm một danh hiệu nữa là khôi hài đại sư thì mới khế hợp với người hiện đại tự do, tự tại. Dưới con mắt nhà thiền, vạn pháp đều do tâm tạo. Những gì tâm tạo đều là ảo tướng. Người bình thường chấp ảo là thật nên mới cho là có thiên đường, địa ngục thật, vì vậy mới có vấn đề đặt ra câu hỏi:
- Thiền sư là bậc cao tăng sao vào địa ngục được?
Nhưng trong tâm thiền sư ngay khái niệm về địa ngục còn không có thì làm gì có vấn đề vào hay không vào? người chấp có địa ngục sẽ tự sáng tạo ra những cảnh thân bị dìm dưới nước sâu, bị lửa đốt. Vì vậy, Triệu Châu mới khôi hài:
- Ta không vào thì ai vào cứu ngươi?

1542. Tỷ thí.
Triệu Châu sau khi tranh luận với Văn Viễn, thừa nhận:
- Được! Ta thua rồi, mang bánh trái ra đây .
(Thiền thú 60)
Văn Viễn là thị giả của Triệu Châu. Triệu Châu rất thích đùa cợt với ông. Có một lần Triệu Châu đi nhà cầu, thấy Văn Viễn đi ngang bèn gọi:
- Văn Viễn!
- Dạ.
Văn Viễn định chạy lại, Triệu Châu bảo:
- Không thể thuyết pháp cho ngươi ở nhà cầu.
Khiến Văn Viễn cười suýt bể bụng.
Trong công án này (xem công án 1074) khi Triệu Châu nói:
- Ta là con lừa!
Và Văn Viễn nói:
- Con là con nhặng!
Hai người không phải chỉ nói khơi khơi mà thực sự họ đã chứng ngộ vật ngã là một, chủ khách đồng thời dung hợp vô ngã không tính. Cuối cùng, Triệu Châu phục Văn Viễn đã khéo nghĩ “Con ở trong đó độ hạ” bèn nhận là mình thua. Thực ra thắng hay thua có gì phân biệt? Cổ nhân nói thắng cũng vui, thua cũng thích. Vì vậy người thua được ăn bánh. Người thường coi phân là bẩn, là thối; nhưng đối với con nhặng không có những quan niệm về sạch bẩn, thơm thối thì đó là kho lương thực, là nơi tiêu dao khoái lạc.

1543. Ngươi rất khỏe.
Mã Tổ bảo ông tăng đến tham Thạch Đầu:
- Ngươi rất khỏe có thể vác một đống củi từ Nam Nhạc về Đây.
(Thiền thú 60)
 (Xem công án 888) Ông tăng trên đường đi, tâm không bỏđống củi xuống được nên Mã Tổ mới cười ông là rất khỏe. Trong công án trên khi Thạch đầu bảo:
- Mã đại sư có giống đống củi này không?
Là ám chỉ pháp thân bình đẳng, tạo cơ hội cho ông tăng bầy tỏ kiến địa của mình. Rất tiếc ông tăng tâm như đống củi đã hạnh phụ tâm ý của Thạch Đầu.

1544. Giết trâu.
Buổi tiểu tham đêm Trừ tịch, Bắc Thiền bảo đại chúng:
- Năm cùng, tháng tận chẳng có gì cho các ngươi lão tăng thổi cơm nấu canh, thịt một con trâu trắng; đốt củi sưởi ấm; đại chúng cùng ăn, cùng hát dân ca.
Nói rồi xuống tòa giảng, đi về phòng phương trượng.
Tới khuya, Duy Na vào phòng phương trượng thưa:
Lính huyện đến bắt hòa thượng. –Tại sao?
- Hòa thượng giết trâu mà không nộp thuế.
Thiền sư ném mũ xuống đất, nhẩy xuống thiền sàng, ôm chặt Duy Na la lớn:
- Có trộm, có trộm.
Duy Na nhặt mũ đội lại lên đầu thiền sư:
Trời lạnh, trả lại hòa thượng.
Thiền sư ha hả cười lớn. Duy Na đi ra.
(Thiền thú 60)
Thiền giả giống như con nít chơi trò diễn kịch. Bắc Thiền có lòng từ bi muốn mọi người cùng ăn thịt trâu trắng. Đáng tiếc thịt trâu trắng chỉ có thể tự ăn. Phật tánh phải tự kiến, tự ngộ. Sư phụ có lòng đem ngộ kiến tặng đồ đệ cũng không thể làm được. Vì trâu trắng chỉ có thể tự giết, tự nấu, tự ăn nên Duy Na chạy đến phòng phương trượng vấn tội nói lính huyện đến bắt vì tự giết trâu mà không nộp thuế. Hai người náo loạn một lúc rồi sao? độc giả hãy tự thể hội?

1545. Ăn xong, uống trà.
Có người hỏi Thể Ẩn:
- 12 giờ một ngày làm sao tu?
- Mặc áo, ăn cơm.
- Còn việc nào khác không?
- Có.
- Là việc gì?
- Ăn xong, xin một chén trà.
(Thiền thú 60)
Tu hành là mặc áo, ăn cơm; lại nữa đừng quên ăn xong uống một chén trà. Đó là “Tâm bình thường là Đạo” của thiền tông Trung Hoa. Đây là giai đoạn đã ngộ. nếu ngay từ đầu đã nói mặc áo, ăn cơm là đạo thì là dối người. người ngộ đạo thưởng trăng, ngắm hoa, du sơn ngoạn thủy . . . đều là đạo. Đối với người chưa ngộ thì tụng kinh, lễ Phật, tọa thiền, trì giới . . . mới là Đạo. 2 hạng người trên như trâu và ngựa chẳng hợp.
Có một người tiều phu mang một ít dưa lên núi kiếm củi. Ông mang dưa ra ăn. Cắn một miếng thấy không ngọt bèn vứt ngay xuống đất. Lại thử quả thứ hai, thứ 3 . . . đều không vừa ý, vứt cả xuống đất. ông than:
- Chẳng có quả nào ăn được!
Ông bắt đầu đốn củi. một lúc sau mồ hôi ra ướt cả lưng, khát không thể nhịn được, lại không có nước uống đành nhặt một quả dưa đã vứt xuống đất lên ăn tạm .
- Cũng không đến nỗi!
Chiều tới, khi tiều phu xuống núi, những quả dưa vứt trên đất đã chui hết vào bụng.
Tu hành cũng vậy từ “Không có quả nào ăn được” tiến hóa đến “quả này cũng không đến nỗi” . . . “đại khái cũng được “ . . .

1546. Phật pháp.
Thị giả Hội Thông một hôm muốn từ biệt ra đi. Điểu Sào thiền sư hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Hội Thông này vì pháp xuất gia, chẳng được hòa thượng từ huấn, nay đi khắp nơi để học hỏi Phật pháp.
- Nếu là Phật pháp thì ở đây ta cũng có chút ít.
- Phật pháp của hòa thượng là gì?
Thiền sư rút một sợi tơ từ trong áo ra thổi phù. Hội Thông tức khắc lãnh ngộ huyền chỉ.
(Thiền thú 60)
Công án này là một thoại khác của công án 89 . Phật pháp được coi là chân lý tối cao, là tâm pháp giải thoát. Điểu Sào thiền sư chưa hề đối mặt Hội Thông nói qua. Hội Thông là một người có đạo tâm, vì Điểu Sào thiền sư không bảo cho ông nên ông chỉ còn cách đi nơi khác tìm minh sư. Không ngờ khi Hội Thông đã tuyệt vọng lại nghe Điểu sào thiền sư nói: “Nơi đây ta cũng có chút Phật pháp” khiến ông lại hy vọng lại còn háo kỳ: tại sao thiền sư lại bảo có một chút Phật pháp? Do vậy Hội Thông để hết tinh thần quán chú. Ai ngờ Điểu Sào thiền sư không nói gì chỉ rút một sợi tơ từ trong áo giơ lên thổi phù một cái. Tiếng thổi tuy nhỏ nhưng đối với Hội Thông thì như tiếng sấm đập vào tâm ông: nguyên lai, Phật pháp không xa, ở ngay cạnh mình, nơi nơi đều có. Cổ nhân nói: “Đại đạo ở ngay trước mắt”. Điểu Sào thiền sư từ trước vốn không nói Phật pháp nhưng trong sinh hoạt mỗi cảnh, mỗi vật, mỗi lời, mỗi hành động không gì không là chỉ bầy Phật pháp.

1547. Đừng kêu loạn.
Vân Môn đến tham phỏng Sơ Sơn Nhân. Nhân hỏi:
- Ở chỗ đắc lực, hãy nói một câu.
- Nói to lên.
Nhân lớn tiếng hỏi lại:
- Hôm nay đã ăn cháo chưa?
- Ăn rồi.
- Đã ăn rồi còn kêu loạn lên làm gì?
(Thiền thú 60)
Vân Môn Văn Yển là sáng tổ của dòng thiền vân Môn, là một thiền sư có khẩu tài. Trong công án này Sơ Sơn muốn Vân Môn nói ra ngộ kiến của mình. Nếu Vân Môn mở cái hộp nói của mình ra thì nói 3 ngày đêm cũng chưa hết ý. Nhưng ông dùng một phương pháp cao minh hơn không đáp mà đáp. Hỏi ngộ kiến của người khác thì cũng giống như lớn tiếng kêu loạn. Để trả lời Sơ Sơn có nhiều cách:
1.- Trả lời thẳng vào câu hỏi như: các pháp đều không.
2.- Dùng thể ngữ trả lời: như giơ một ngón tay lên, hay vẽ một vòng tròn.
3.- Dùng 1 câu vô ý thức để diễn tả, không thể dùng lời nói như 3 cân gai, cây bách trước sân . . .

1548. Sư tử gỗ cắn người.
Vân Môn đút tay vào miệng sư tử gỗ, kêu lên:
- Cắn chết ta! Cứu mạng!
(Thiền thú 60)
Công án này tình tiết rất ngắn nhưng đầy kịch tính. Con sư tử bằng gỗ này là toàn thể vũ trụ cụ thể hiển hiện, là tam thế, thập phương chư Phật, là vô tận trí tuệ, vô tận chân lý. Con sư tử gỗ của Vân Môn dũng mãnh vô tỷ cắn chết người thiên hạ; cũng như Vân Môn bị nó cắn một miếng, một đời dùng hoài không hết, trước khi chết còn không nhịn được cười: “Cắn tốt lắm!”

1549. Mời uống trà.
Để trả lời ông tăng mới đến, ông tăng đã đến và Viện chủ Triệu Châu đều bảo:
- Mời uống trà.
(Thiền thú 60)
Xem chi tiết công án 1000. Trà có công dụng làm tỉnh người. uống trà là một chuyện bình thường, nhưng từ miệng Triệu Châu nói ra nó có một hàm ý: uống trà là trở về thân cận và không xa lìa bản lai diện mục; đó mới là chân chính làm tỉnh người. Đương nhiên các học tăng khi gặp Triệu Châu vị tất đã hiểu ý này. Cũng chẳng sao vì Triệu Châu đợi xem phản ứng của họ để biết trình độ của họ. Trong công án này, 2 ông tăng trên là 2 ông phàm tăng không nghi và cũng không khởi nghi tình, theo lời thiền sư giăm giắp đi uống trà. Đó là những người thật thà thiền sư không nỡ đùa tiếp. Đến viện chủ thì đặc biệt hơn, ông hé thấy mật ý của Triệu Châu liền khởi nghi tình nên mới đặt câu hỏi. Triệu Châu thấy ông có tư cách để đùa bèn lên tiếng gọi:
- Viện chủ!
- Dạ!
Viện chủ ứng tiếng dạ, rõ ràng là chỉ cho viện chủ Phật tánh ở nơi này, cái ông hỏi chính là cái này. Về sau Triệu Châu lại nói :
- Mời uống trà.
Đó là thiền sư khôi hài,tin chắc 2 người sẽ nhìn nhau mà cười lớn. Thực ra, Triệu Châu mời các ông tăng uống trà là tỏ lòng khiêm nhượng, thân thiết; vì chỉ cần nhìn ánh mắt, cử chỉ, khí độ, không cần đến lời nói, thiền sư đã có thể biết công phu thâm, thiển của họ rồi.

1550. Văn Thù cưỡi sư tử.
Có ông tăng đến tham Tỳ khưu ni Liễu Nhiên. Liễu Nhiên hỏi:
- Sao ngươi mặc áo rách vậy?
- Tuy vậy, nhưng là sư tử con.
- Là sư tử con sao bị Văn Thù cưỡi?
Ông tăng không trả lời được.
(Thiền thú 60)
Đây là một cuộc pháp chiến dùng cơ phong chuyển ngữ. Đương trường thiền sư tìm một lối ra; Đối phương dùng câu nói ấy mà chuyển ra ý nghĩa từ thủ trở thành công, trong công có thủ. Mục đích là hỗ tương ấn chứng kiến địa, đo lường hư thực. Một vị thiền sư giỏi không những có kiến địa tồt mà còn phải có năng lực, do được huấn luyện về cơ phong chuyển ngữ có thể lên võ đài. Cơ phong chuyển ngữ có khi thấy là vô nghĩa, phản nghĩa, có khi là tỷ dụ, hư hư thực thực, linh hoạt vô cùng. Trọng yếu là người nói và người đáp không chấp vào văn tự. Trong công án này, Liễu Nhiên dùng một câu hỏi, nhường đối phương đáp. Ông tăng trả lời rất hay. Sư tử tượng trưng cho trí tuệ quang minh vô lượng của Phất tánh không bị bề ngoài rách rưới ảnh hưởng. Liễu Nhiên đưa ra chuyển ngữ công kích bản lai Phật tánh dũng mãnh sao bị người cưỡi? ông tăng không đáp được. Chúng ta hãy thử đáp thay cho ông:
1.- Không phải đâu! là sư tử cưỡi Văn Thù.
Đó là đảo ngược chủ khách phá ngữ pháp của Liễu nguyên và hiển lộ Phật tánh.
Hoặc có thể chuyển ngữ pháp của Liễu Nhiên:
- Sư tử lớn cưỡi sư tử con thì có gì là lạ!
Đó là đem Văn Thù chuyển thành Phật tánh.
Hoặc:
- Sư tử của bà chạy đi đâu rồi?
Đó là chuyển ngữ thủ thành công.
Đây là do chúng ta suy nghĩ về sau. Còn đương trường câu trả lời phải như lửa xẹt, không có thì giờ suy nghĩ thì bại là cái chắc.

1551. Làm sao thành Phật?
Một ông tăng hỏi huệ Trung:
- Làm sao để thành Phật?
- Bỏ cả Phật và chúng sanh xuống thì lập tức giải thoát.
- Bỏ cả xuống thì làm sao tương ứng với Phật?
- Không có thành kiến thiện, ác tự nhiên có thể thấy Phật tánh.
- Thấy Phật tánh rồi làm sao chứng được Phật thân?
- Ngươi phải vào cảnh vực Tỳ Lô Giá Na.
- Làm sao tới được thanh tịnh Pháp thân?
- Không cầu thành Phật.
- Cứ như thầy nói thì Phật là gì?
- Tâm là Phật.
- Tâm có phiền não, làm sao thành Phật?
- Để phiền não tự nhiên đi.
- Cứ như thầy nói, chẳng là đoạn diệt thì là vô ký không sao?
- Nếu dùng đoạn diệt trừ phiền não thì là nhị thừa, để phiền não không sanh mới là đại Niết Bàn.
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Qua đoạn đối thoại trên chúng ta thấy không là bỏ xuống thành kiến, chấp trước, tham dục, chỉ trích của người khác về mình, oán hận, bất mãn khiến tâm linh chân chính phát xuất tự do, trí huệ. Đó là giác, là thiền, là con đường thành Phật.

1552. Tránh nóng.
Tào Sơn bảo ông tăng đứng cạnh:
- Người ngộ đạo dù trời nóng đến đâu cũng không bị ảnh hưởng.
- Dạ phải.
- Nay nếu trời rất nóng, ngươi đi đâu để tránh?
- Vào trong vạc nước sôi trong lò để tránh.
- Như vậy làm sao tránh?
- Chúng khổ không thể tới đó.
Tào Sơn im lặng không nói nữa.
(Thiền thú 60)
Trong công án này nóng chỉ thống khổ, phiền não của người đời. Thống khổ và phiền não không thể tránh được. Phải vào thẳng trung tâm của nó để thấy rõ nó là sản phẩm do tâm tạo. Vạn pháp do tâm tạo, hiểu được đạo lý này thì nóng trở thành mát chỉ trong một niệm. người thể ngộ được điều này thì chúng khổ không thể tới được. Tào Sơn im lặng vì ông tăng nói đúng, không có chỗ nào sơ hở để đả kích. Tuy vậy, đây là kiến giải do ông tự chứng nghiệm hay chỉ là nói mồm; phải chờ quan sát rồi mới biết.

1553. Đơn Hà đốt tượng.
Ở Huệ Lâm Tự, trời lạnh, Đơn Hà đem tượng Phật bằng gỗ ra đốt. đại chúng vặn hỏi, ông nói:
- Ta đốt để tìm xá lợi.
Tượng gỗ làm gì có xá lợi?
- Vậy, sao còn trách ta.
(Thiền thú 60)
Người thường lễ Phật để sám hối hay cầu xin. Nhà thiền không chú trọng đến việc lễ Phật mà nỗ lực tìm Phật tánh ở nội tâm. Vậy thiền giả không lễ Phật sao? Không phải vậy, đối với người đã thấy Phật tánh, nơi nơi đều thấy Phật, lễ tượng Phật nào có trở ngại gì. Nếu có lễ thì cũng là lễ với tâm không chấp, không cầu. Chỉ Đơn Hà mới có gan đem tượng Phật ra đốt. Chúng ta không thể bắt chước Đơn Hà nếu không cũng như chó con thấy sư tử nhẩy cũng nhẩy nếu không chôn thây mất mạng thì cũng trầy da tróc vẩy. Cũng đừng học theo Nam Tuyền chém mèo, hễ gập mèo đâu là giết đó. (Xem thêm công án 50)

1554. Dưới núi có hổ.
- Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ngươi phải cẩn thận, lão tăng hôm nay đã bị nó cắn một miếng đấy.
(Thiền thú 60)
Xem chi tiết công án 1012. Con hổ ở đây chỉ phiền não, vọng niệm, thành kiến. Con hổ ăn thịt người; phiền não, vọng niệm, thành kiến cũng có thể giết người. Hoàng Bá giả tiếng hổ gầm là nói con là hổ, là phiền não. Bách Trượng giả bộ giơ búa lên chém là bảo sao không chặt đứt phiền não đi? Hoàng Bá biết thầy thử mình bèn thoi lại một quả, ý nói sư phụ làm vậy sao được vì phiền não cũng là tự tánh hiển lộ. Bách trượng nhận được cú đấm rất vui và khen ngợi Hoàng Bá.

1555. Lâm Tế ngủ.
Lâm Tế đang ngủ ở Tăng đường, Hoàng Bá vào trông thấy, lấy gậy gõ vào giường. Lâm Tế mở mắt ra thấy Hoàng Bá liền nhắm mắt lại ngủ. Hoàng Bá lại lấy gậy gõ vào giường một cái rồi sang phòng bên, thấy thủ tọa đang ngồi thiền, bèn nói:
- Ở gian trước gã tiểu tử đang ngồi thiền, còn ngươi ngồi đây vọng tưởng cái gì?
- Ông già này làm gì vậy?
Hoàng Bá lấy gậy gõ vào giường một cái rồi ra.
(Thiền thú 60)
Lâm Tế ngủ thì Hoàng Bá lại nói là đang thiền, thủ tọa thiền thì Hoàng Bá lại nói là đang vọng tưởng; thế có phải là điên đảo không? Câu trả lời là không. Thường thì người ta cho ngủ là trạng thái vô tri, vô giác, có thể tạo mộng. Còn thiền là tâm từ phù trầm tới tỉnh thức nhất tâm, nhất cảnh cho tới định vô tâm, vô niệm.
Lâm Tế là người đã đại ngộ, tỉnh và mộng là một. Tỉnh thì dĩ nhiên là tốt, nhưng hôn trầm cũng không sao. Người đại ngộ không thích tỉnh cũng không ghét hôn trầm; dù tỉnh hay mộng người đó đều có một loại thần chí thanh tỉnh gọi là Đạo Cộng Định xuyên suốt tỉnh mộng, khiến lúc nào cũng làm chủ được mình. Do đó khi Lâm Tế bị Hoàng Bá gọi tỉnh, lại nhắm mắt ngủ lại. Còn Thủ tọa ở đây có lẽ là Mục Châu Trần Tôn Túc, một cao đồ của Hoàng Bá. Hoàng Bá nói Lâm Tế đang tọa thiền sao ngươi lại ngồi đây vọng tưởng? là lừa dối Trần Tôn Túc. Cứ cho là Trần Tôn Túc ngồi thiền để trừ vọng tưởng đi. Vọng tưởng, niệm đầu cũng là Phật tánh phù trầm du hý, không có gì là không tốt. Câu nói của Hoàng bá là một ngữ bệnh, do đó Trần Tôn Túc nói thẳng:
- Ông già này nói bậy gì đó? 
Hoàng Bá không chiếm được tiện nghi chỉ còn cách gõ vào giường tỏ ý chấp nhận rồi ra.
Xem lại công án 552, lời bình của 2 tác giả khác hẳn nhau.

1556. Viên Chân bảo Châu.
Thế Tôn giơ một viên bảo châu cho 5 vị thiên vương xem và hỏi có mầu gì? Năm vị thiên vương mỗi người nói một mầu khác nhau. Sau đó Thế Tôn cất viên bảo châu đi, xoè bàn tay không ra hỏi mầu gì? 5 vị thiên vương thưa:
- Trong tay Thế Tôn không có châu thì sao nói có mầu gì được?
- Sao các ngươi mê muội thế! Khi ta giơ viên bảo châu ra thì các ngươi nói xanh, vàng, đen, đỏ, trắng. Khi ta giơ viên chân bảo châu ra thì các ngươi lại không biết.
5 vị thiên vương hoảng nhiên đại ngộ.
(Thiền thú 60)
Nhìn viên bảo châu, mỗi thiên vương nói ra một mầu là tỷ dụ cho mọi người đều có cái nhìn khác nhau đối với một sự vật, chỉ thấy một cách hạn hẹp, cho đó là chân lý. Nói theo Thiền môn thì là mỗi người ở chỗ thể nghiệm của mình chỉ thấy một phần của Đạo, nhưng nghĩ là mình thấy được toàn phần, là cứu cánh rồi, còn những người khác là không đúng. Do đó mà sinh ra nhiều Tông, Phái. Khi Thế Tôn giơ bàn tay không ra nói là viên Chân bảo châu là chỉ Phật tánh ai ai cũng có, nó vô hình, vô tướng, gán cho nó một danh từ là chấp tướng, càng lìa xa nó.
Xem thêm công án 1017.

1557. Không thiếu gì.
Thanh Nguyên Hành Tư hỏi Hy Thiên:
- Ngươi từ đâu tới?
- Tào Khê.
- Đem gì tới?
- Không đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì.
- Vậy đến Tào Khê làm gì?
- Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Hy Thiên hỏi lại Hành Tư:
- Tào Khê đại sư có nhận biết hòa thượng không?
- Nay ngươi có nhận biết ta không?
- Làm sao dùng nhận thức mà biết hòa thượng được?
- Trong đám vô số sừng, chỉ cần một con kỳ lân là đủ.
(Thiền thú 60)
Khi Lục tổ sắp viên tịch, Hy thiên mới 13 tuổi. Hy Thiên hỏi tổ:
- Hòa thượng qua đời rồi con biết nương tựa vào ai?
- Tầm tư.
Kết quả là sau khi Lục tổ mất, Hy Thiên thường tìm nơi vắng vẻ tọa thiền suy tư. Về sau có người hỏi:
- Ngươi ngốc tọa ở đây để làm gì?
- Khi Hòa thượng lâm chung có bảo tôi tầm tư.
- ngươi hiểu lầm rồi, tổ bảo ngươi đi tìm sư huynh Hành Tư đó!
Do đó Hy Thiên mới đến tìm Hành Tư.
Khi Hành Tư hỏi:
- Mang gì đến?
Hy Thiên hiểu là hỏi về tự tánh nên đáp: 
- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì?
Biểu thị tự tánh vốn tự đầy đủ, vốn chưa mất bao giờ, không cần mang tới vì nó ở khắp càn khôn, vũ trụ.
- Nếu đã vậy, sao còn phải tới Tào Khê?
- Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Tuy tự tánh vốn tự đầy đủ nhưng người phàm tục bị vọng tưởng chấp trước che mất nên cần có minh sư chỉ cho biết sự tồn tại của nó.
Xem thêm công án 1060.

1558. Ngón tay thần kỳ.
Có ông tăng hướng ngũ Phong Thường Quán từ biệt. Thường Quán hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Ngũ Đài Sơn.
Thường Quán giơ một ngón tay lên bảo:
- Nếu ngươi gập văn Thù thì tới đầu ngón tay này gặp ta.
Ông tăng không biết đáp làm sao.
Lại một ông tăng khác đến từ biệt. Thường Quán bảo:
- Ngươi đến đạo tràng khác đừng hủy báng lão tăng, nói lão tăng ở đây.
- Con không nói Hòa thượng ở đây.
- Ngươi nói ta ở đâu?
Ông tăng giơ một ngón tay lên.
- Ngươi trả lời như vậy là sớm đã hủy báng lão tăng rồi.
(Thiền thú 60)
Thường Quán giơ một ngón tay lên là chỉ Phật tánh. Phật tánh ở khắp mọi nơi kể cả đầu ngón tay của Thường Quán. Do đó bất kể ông tăng thấy văn Thù ở đâu cũng không lìa đầu ngón tay này. Ông tăng có thể trả lời:
- Văn Thù ở trên đầu ngón tay này nhìn con mỉm cười.
Thấy Văn Thù là kiến Phật tánh. Nếu ông tăng giác ngộ thì đầu ngón tay có ngũ Đài Sơn, có Văn Thù giơ ngón tay lên . . .
 Ông tăng thứ nhì có truyện trước làm gương, biết ngón tay diệu dụng vô cùng, vì vậy khi Thường Quán hỏi:
- Ngươi nói ta ở đâu?
Bèn giơ ngón tay lên.
Đáng tiếc, ngón tay Thường Quán giơ lên là đúng, nhưng ông tăng giơ lên lại là họa hổ thành khuyển. Thiền thể ngộ phải từ tâm ra chứ không phải bắt chước từ bên ngoài. Ông tăng thứ hai mặc dầu rất mẫn tiệp nhưng cũng không thoát khỏi tội danh hủy báng. Thế nào là hủy báng? Đó là trên sự thật lại để thêm hư giả, chấp vào khái niệm làm ô nhiễm bản lai diện mục. Đó là hủy báng, Hủy báng lớn nhất của con người là chấp ngã. Từ chấp ngã mà trôi lăn vào hố cát lún rất khó tự thoát ra được.

1559. Hạt châu huyền huyền.
Có ông tăng hỏi Phổ Thông Phổ Minh:
- Phật tánh là thế nào?
- Không cần hỏi, ngươi không có Phật tánh.
- Mọi sinh vật, ngay cả côn trùng cũng có, sao con lại không có?
- Vì ngươi chỉ tìm bên ngoài.
- Hạt châu huyền huyền là sao?
- Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
(Thiền thú 60)
Hạt châu huyền huyền là chỉ Phật tánh. Khi một người chấp trước tưởng từ danh cú tìm ra tung tích của Phật tánh thì không thể thấy được. Vì vậy Phổ Minh bảo ông tăng đừng hỏi, nhưng ông tăng không nghe cứ hỏi tiếp. Vì vậy, Phổ Minh mới bảo thẳng ông:
- Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
Ông tăng nhận rằng xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, đó là kiến thức đọc từ kinh điển mà ra chứ không phải tự chứng ngộ. ngay Phật tánh của mình còn chưa chứng ngộ mà nói xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh chẳng là hoang đường sao?

1560. Trâu tốt không cần người chăn.
Động Sơn tuần thị ngoài đồng gặp thượng tọa Lương đang dắt trâu. Động Sơn bảo:
- Phải để ý con trâu này, đừng để nó ăn lúa ruộng.
- Nếu là trâu tốt thì không ăn vụng lúa.
(Thiền thú 60)
Các thiền sư Trung Quốc phần lớn tham gia lao động, thậm chí tự mình cầy cấy. người hiện tại, nhiều người bị bệnh tật như mắt hoa, đầu váng, mệt mỏi, mất ngủ, lo lắng, v . v . Nếu có thể cải biến sinh hoạt tham gia tác vụ chắc chắn không còn những bệnh trên. Chăn trâu là công việc bình thường của nhà nông, nhưng dưới con mắt của nhà Thiền thì đâu đâu cũng là thiền.
- Coi chừng trâu đừng để nó ăn vụng lúa.
Là chỉ phải coi sóc tâm, đừng để tâm viên ý mã, tác quái. Câu trả lời của thượng tọa Lương rất khí phách, rất có chất lượng. Một người đã thấy Phật tánh, đã thưởng qua thiền vị thì sẽ không bao giờ quên được. giả sử ngẫu nhĩ mê chạy theo vật, nhưng một khi phát hiện liền hồi quang phản chiếu cùng Phật tánh đánh thành một phiến. Công phu càng sâu thì ngay niệm đầu ăn cỏ còn không sinh thì hà tất phải lo.

1561. Tùy chứng cho thuốc.
Văn Thù bảo Thiện Tài Đồng Tử:
- Hái bất cứ cái gì là thuốc đưa ra đây.
Thiện Tài Đồng Tữ hái một nhánh cỏ đưa ra, Văn Thù giơ lên bảo đại chúng:
- Cái này có thể giết người, cũng có thể cứu người.
(Thiền thú 60)
Thuốc dùng để trị bệnh, bệnh nào phải dùng thuốc nấy. Đối với bệnh nhân thì thuốc có tác dụng chữa bệnh, nhưng khi đã lành rồi nếu còn dùng nữa thì thuốc sẽ trở thành chất độc. Trong đời thường danh tiếng, tiền tài, quyền lực có thể cứu người nhưng cũng có thể giết người. Phật pháp cũng vậy nếu khéo xử dụng thì có thể giúp chúng sanh lìa khổ, được vui; nếu không biết xử dụng thì Phật dược sẽ trở thành Phật độc
Xem thêm công án 112.

1562. Quốc sư bao nhiêu tuổi?
Quốc sư Huệ Trung họ Vệ, người Chi Giang, Kinh Châu, đắc pháp nơi ngũ Tổ Hoàng Mai. Tùy Dạng Đế, Đường Cao Tông đều hạ chiếu vời sư, nhưng sư không tới. Đến thời Võ hậu dùng sư lễ thỉnh, sư mới về kinh. Một hôm, Võ hậu thưa:
- Thiền sư bao nhiêu tuổi?
- Không nhớ.
- Tại sao lại không nhớ?
- Cái thân sanh tử tuần hoàn này chẳng biết khởi từ đâu, tận lúc nào, nhớ làm gì? Huống chi tâm này trôi hoài liên tục không gián cách, thấy vọng tưởng khởi diệt như bọt nước có đó rồi mất đó. Từ thức ban đầu đến động diệt tướng đều như vậy, biết năm tháng nào mà nhớ.
(Thiền tông đích lịch sử dữ văn hóa)
Võ hậu nghe rồi, cúi đầu tin nhận.

1563. Con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch hỏi Tam Thánh Huệ Nhiên:
- Ngươi tên chi?
- Huệ Tịch.
- Huệ Tịch là tên lão nạp.
- Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng Sơn ha hả cười lớn.
(Thiền thú 60)
Đối với thiền giả đã chứng ngộ, tâm không còn vấn đề nào tồn tại. Chú ý, khai ngộ không phải là kiếm được tất cả mọi đáp án, mà là tất cả mọi vấn đề đều biến mất không còn hình bóng.
- Ngươi tên chi?
Xin lỗi, đây không phải là vấn đề, nhưng thầy đã hỏi con tùy tiện mà đáp:
- Con tên Huệ Tịch.
Cái gì? ngươi nói Huệ Tịch là tên ngươi, vậy ngươi bảo ta đã đoạt tên ngươi sao? Nếu vậy ta không lấy nữa, nhường tên này cho ngươi.
- Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Đã vậy, con tên Huệ Nhiên, nhiều người cũng gọi con vậy. Dù thầy có gọi con là chó con, mèo con, rùa đen, heo mập con cũng không phản đối. Thực ra, thầy gọi con là gì đối với con vô quan, ngay chính con cũng còn chưa tìm thấy con, còn ngại gì thầy đặt tên.
Xem thêm công án 51.

1564. Trộm quả.
Có ông tăng mới đến tham học, vừa lễ xong Trần Tôn Túc hét lên:
- Xà lê, sao ngươi lại ăn trộm quả của thường trú.
- Con vừa tới, sao hòa thượng lại bảo con ăn trộm quả?
- Lại còn nói, tang vật rành rành.
(Thiền thú 60)
Rõ ràng là ông tăng không ăn trộm quả, nhưng Trần Tôn Túc gán một chuyện không có lên mình ông tăng là có thâm ý. Người thế gian coi mọi sự việc hư ảo: danh lợi, khoái lạc, thống khổ, v . v. là có thật. Xin hỏi tự biết mình không ăn trộm vì sao phải phân biện?
Thứ nhất là ông chấp ngã. Ngã bị ngộ nhận phải giải thích.
Thứ hai: ông thấy bị ngộ nhận là không tốt, không vui, ngã không thích cảm giác này.
Thứ ba: ông cho sự chỉ trích của trần Tôn Túc là thật nếu ông không giải thích thì bị mang danh ăn trộm.
Chỉ một câu nói, Trần Tôn Túc đã làm ông tăng lộ nguyên hình. Đợi ông nói xong, Trần Tôn Túc bảo: Tang vật rành rành, ý nói ngươi chưa giác ngộ, không đánh mà khai. Chắc ông tăng sau lần tham học này sẽ khắc cốt ghi tâm cảnh giác tự ngã. Sẽ có một ngày ông thấy rõ, lúc đó ông sẽ lớn tiếng:
- Đúng rồi, con là trộm, trộm quả để ăn.
Xem thêm công án 636.

1565. Bí mật nơi ngươi.
Minh thượng tọa sau khi được Lục tổ khai thị, mồ hôi ra cùng mình, khóc lạy thưa rằng:
- Ngoài thiền môn tâm pháp này còn mật ý gì nữa không?
- Hôm nay ta nói cho ông thì chẳng phải là mật, ông tự phản chiếu tự tâm thì mật ở nơi ông.
(Thiền thú 60)
Đạo Minh lúc khai ngộ, toàn thân xuất mồ hôi. Đó là một sự kiện đáng lưu ý. Thân và tâm có quan hệ mật thiết, một thể lưỡng diện. Tâm khai ngộ là một sự kiện kinh thiên động địa, thân không thể không phản ứng. Nếu một người nói mình đã khai ngộ mà thân không có chút phản ứng thì đó chỉ là ý thức lướt qua, chưa hẳn là hoàn toàn khai ngộ, cần tinh tiến thêm. Như lời Lục tổ nói hãy tự phản quán tự tâm, tất cả ảo bí đều ở trong đó.

1566. Đường Thạch Đầu trơn.
Đặng Ẩn Phong đến tham Thạch Đầu 2 lần. Đến nơi, hỏi tông chỉ của Thạch Đầu là gì? Lần thứ nhất Thạch đầu ngẩng đầu nhìn trời than:
- Trời xanh!
Lần thứ hai, Thạch Đầu hứ 2 tiếng.
Ẩn Phong không đáp được về trình Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
- Ta đã chẳng bảo ngươi đường Thạch đầu trơn lắm sao?
(Thiền thú 60)
Trời xanh dụ cho hư không, chỉ tự tánh. Có một khoảng thời gian thiền gia ưa dùng từ giả tá này. Thạch Đầu dùng từ này lần đầu rất hoàn mỹ, nhưng nếu dùng lại lần thứ hai thì sẽ là chấp tướng. Do đó lần thứ hai Thạch Đầu không dùng mà chỉ hứ hai tiếng. Tiếng hứ vô nghĩa nhưng đồng âm với Hư nên cũng chỉ tự tánh.
Ẩn Phong sau hai lần thất bại này, trở về cố gắng tu tập, sau trở thành một vị thiền sư nổi tiếng.
Xem thêm công án 1019.

1567. Cây bách trước sân.
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?
- Cây bách trước sân
(Thiền phong để diễn biến)
Tại sao hỏi “ý Tây sang” mà lại đáp “cây bách trướic sân”? Câu đáp là toàn bộ pháp, cưa không được, cắn không đứt, có thể giải thích cho rõ không? Có thể. Cổ nhân không chịu giải thích vì cái đó đã hiện thành. Nếu hiểu đem Phật pháp nhân cách hóa thì không cần phải giải thích, đã không nghi thì sẽ không tái nghi. Có một chuyện cũ có thể giải thích công án cây bách trước sân. Đời Tống, có một lần một vị quan Đề Hình đến hỏi Phật pháp với ngũ tổ Diễn. Ngũ tổ Diễn hỏi:
- Đề Hình có đọc qua hai câu thơ Tiểu Diễm không?
- Là hai câu nào?
- Là hai câu này:
Cô nàng gọi mãi những vô ích
Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi.
Xem công án 293.
Thơ Tiểu diễm là một bài thơ tình, kể chuyện có một vị tiểu thư dắt một con a hoàn đi xem hội. Tiểu thư liếc thấy người yêu ở gần đó, bèn lớn tiếng gọi:
- Tiểu Ngọc! Tiểu Ngọc!
- Tiểu thư, có chuyện gì?
Tiểu thư không đáp. Có chuyện gì vậy? Chả có chuyện gì cả, chỉ là tiểu thư hy vọng tình lang nghe được tiếng và biết nàng đang ở đó. Chỉ là vậy thôi. Nếu còn chưa rõ thì xin kể thêm một chuyện nữa. Có một vị thiền sư mỗi lần giảng pháp xong, sắp bước xuống tòa giảng đều hỏi:
- Mọi người hiểu không?
Mọi người đều không trả lời, chỉ rằng không hiểu. Thiền sư gõ xuống bàn “cạch’ một tiếng. Tiếng “cạch’ đó và “cây bách trước sân” hoàn toàn giống nhau, chỉ là một loại âm thanh mà thôi.
Xem thêm công án 246.

1568. Cưỡi lừa không chịu xuống.
Xưa có một ông tăng cưỡi lừa, hỏi chư tăng đi đâu? Chư tăng đáp:
- Tới đạo trường.
- Chỗ nào chẳng là đạo trường!
Chư tăng xúm lại đánh và mắng:
- Gã này chẳng có đạo lý gì cả, tới đạo trường mà còn cưỡi lừa.
(Thiền thú 60)
Chư tăng đánh ông tăng đó vì ông nói chỗ nào cũng là đạo trường còn đi đâu chứ. Nói vậy thì ngươi đang ở đạo trường mà còn cưỡi lừa là không lễ phép gì cả, đáng đánh. Cao thâm hơn thì là ông tăng cưỡi lừa biết cách cưỡi và cũng biết cách xuống; dùng đôi chân của mình mà đi. Đã biết chỗ nào cũng là đạo trường thì nơi chư tăng đến cũng là đạo trường; lời chẳng khế hợp với pháp. Cưỡi lừa không chịu xuống hình dung một người đối với một sự việc tốt nhưng vì chấp trước đã biến tốt thành xấu. Tỷ dụ như muốn thành tựu, bất kể là học nghiệp hay sự nghiệp, tự mình cố gắng đạt tới thành công, nhưng thành công rồi lại tự cao, tự đại. Đó là cưỡi lừa mà không chịu xuống. Đối với người tu đó là tình trạng tương đương ngộ cảnh không chịu ra khỏi. Vào được mà ra không được để phát huy đại cơ, đại dụng, không thể tiến lên cao hơn, đối với chúng sanh vô ích.

1569. Hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang.
Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ:
- Ai là người không cùng vạn pháp là bạn?
- Đợi ngươi hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang ta sẽ bảo.
(Thiền thú 60)
Câu trả lời của Mã Tổ có nghĩa là tự tánh không thể dùng lời mà nói được. Nhưng nói thẳng ra như thế thì không thú vị, không làm chấn động người nghe; phải nói như Mã Tổ mới có sức mạnh lôi cuốn. Xét kỹ thì một hớp cạn nước tây Giang không phải là không thể làm được vì Phật pháp có giảng hạt cải đựng núi Tu Di, đả phá sự chấp trước không gian có to, nhỏ của con người. Lục tổ cũng có nói ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ, có thề sinh ra vạn pháp. Tự tánh khi nhỏ thì không có gì ở trong, khi lớn thì không có gì ở ngoài nó. Sơn hà đại địa đều ở trong tự tánh. Do đó hớp một ngụm cạn hết nước tây Giang thì cũng chẳng có gì là lạ. Câu nói của Mã Tổ xét về phương diện phủ định thì tự tánh không thể dùng lời để diễn tả được, xét về phương diện khẳng định thì tự tánh là chân lý tuyệt đối không có lớn nhỏ sai biệt. Nhưng điều trọng yếu ở đây là câu nói của Mã Tổ như ngón tay chỉ cho Bàng Uẩn thấy mặt trăng. Câu nói hợp thời, hợp chỗ khiến Bàng Uẩn khai ngộ. Nếu đem câu nói này dùng như một khẩu quyết khai ngộ đưa cho người khác ở chỗ khác, lúc khác thì chưa chắc đã làm cho họ giác ngộ. Thời tiết, nhân duyên là xử dụng đúng lúc, đúng sự, đúng lời, là kỹ năng cơ bản của thiền sư.
Xem thêm công án 988.

1570. Vừa rồi là khóc, bây giờ lại cười.
Bách Trượng bị Mã Tổ bóp mũi trở về liêu phòng buông tiếng khóc lớn. bạn đồng môn hỏi có phải nhớ nhà hay bị ai mắng chửi gì không mà lại khóc. Bách Trượng bảo:
- Ta bị sư phụ bóp mũi đau quá.
- Giữa hai thầy trò có chuyện gì vậy?
- Ngươi đi mà hỏi sư phụ.
Ông tăng đi hỏi Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
- Hắn biết mà, đi hỏi hắn sao lại hỏi ta?
Ông tăng trở lại kể cho Bách trượng. Bách Trượng cười ha hả. Ông tăng không hiểu hỏi:
- Vừa mới khóc, sao giờ lại cười?
- Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
(Thiền thú 60)
Người vừa mới ngộ, khóc lớn là hiện tượng bình thường. Các nghi hoặc tích lũy áp chế giờ tiêu tan như sương buổi sớm. Lại có người sau khi ngộ lại cười như điên. Phương pháp tốt nhất là sau đó ngủ một giấc, tỉnh dậy nếu thấy ngộ kiến không còn thì đó là giả ngộ, qua rồi thì thôi, không vì quá vui mà phát cuồng là tốt rồi; Chỉ cần còn núi xanh thì không sợ thiếu củi đốt. Nếu ngộ kiến còn thì đó là chân chánh khai ngộ. Đồng môn hỏi sao vừa mới khóc giờ lại cười? Bách trượng nói:
- Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
Đó là câu hỏi vì câu hỏi., là câu trả lời tốt nhất. Nếu ông tăng cảnh tỉnh thì ngay đó có thể khai ngộ. Thiền sư không phải là không có hỷ, nộ, ai, cụ mà là tình cảm đơn thuần, đến thì đến, đi thì đi do đó khóc rồi liền cười, không như người thường khóc rồi phải một thời gian sầu thảm không thể lập tức cười ngay được.
Tiến thêm một bước nữa, đau thì khóc, vui thì cười, tất cả đều tự nhiên không bị tập tục, lễ tiết, kinh nghiệm làm ô nhiễm chỉ là bình thường tâm là Đạo, đơn giản như vậy thôi.
Xem thêm công án 615.

1571. Không phải, không phải, đều không phải.
Có ông tăng tham Đại Huệ Tông cảo, vừa bước vào phòng Đại Huệ bèn thét:
- Không phải! Đi ra!
Ông tăng nghe lời đi ra, Đại Huệ nói thêm:
- Thật là tên tiểu tử không có khí lượng, vì một câu nói đã bị người đuổi ra, là nô tài cho ngôn ngữ.
Ông tăng thứ nhì bước vô phòng:
- Không phải! Đi ra!
Ông tăng này rút kinh nghiệm từ ông tăng trước, không đi ra mà tiến lại gần Đại Huệ.
- Đã nói với ngươi không phải rồi, còn đến gần ta cầu gì?
Bèn giơ gậy lên đánh đuổi ra.
Ông tăng thứ ba biết chuyện hai ông tăng trên vừa bước vào phòng đã chủ động nói ngay:
- Hai ông tăng vừa rồi không rõ ý sư phụ.
Đại Huệ đổi chiêu thức mới, cúi đầu hư một tiếng. Ô ng tăng không biết nói sao. Đại Huệ lại giơ gậy vừa đánh vừa bảo:
- Ngươi còn nói ngươi rõ ý ta.
(Thiền thú 60)
Người ta hướng ông cầu đạo ông mắng đuổi ra, đánh đuổi ra, ông có từ bi không? Chính những hành động này biểu thị thủ đoạn cao minh, từ bi của tông cảo. Thiền không phải là nhét cho đầy não một số giáo tài cho thiền sinh là có thể cho họ tốt nghiệp. Thiền sư yêu cầu thiền sinh phải có tâm nhẫn nại. Chờ tới khi thiền sinh đã chuẩn bị đầy đủ rồi thiền sư mới châm ngòi dẫn hỏa. Một điều nữa là phải đợi đúng thời cơ, nếu ra tay sớm quá sẽ không có công hiệu. Trong công án trên chúng ta có thể thấy thủ đoạn linh hoạt của Đại Huệ Tông cảo. Khi thời cơ của thiền sinh chưa tới thì không cần phải nói nhiều. Điều cần yếu là gieo cho họ một chủng tử nghi tình, làm lay động nhận thức cương ngạnh của họ, đợi tới đúng lúc sẽ ra tay hành động.

1572. Vịt trời bay đi rồi.
Bách Trượng là thị giả của Mã Tổ, một hôm cùng tản bộ với Mã Tổ, thấy một bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ hỏi:
- Là con gì?
- Vịt trời.
- Bay đi đâu?
- Bay đi rồi.
Mã Tổ bỗng nhiên bóp mũi Bách Trượng. Bách Trượng bị đau kêu lên một tiếng.
- Ngươi còn nói bay qua rồi!
Bách Trượng lập tức khai ngộ.
(Thiền thú 60)
Đối với thiền sư mà nói không đâu không là thiền, trong bất cứ hoàn cảnh nào, trước một cảnh vật nào thiền sư cũng có thể chỉ thị thiền tâm cho đệ tử. Tương tự như tiểu thuyết kiếm hiệp, một đại kiếm sư không cần có kiếm trong tay, chỉ với một cọng cỏ cũng có thể lấy đầu kẻ địch giữa chốn thiên binh vạn mã. Mã Tổ há lại không biết vịt trời sao? Bách Trượng thiếu cảnh giác. Mã Tổ đã rút thiền kiếm ra rồi mà ông còn đáp là vịt trời, ngay thiền cơ cũng không biết. Nếu là pháp chiến Bách Trượng đã bị kiếm xuyên tâm rồi. Mã Tổ cầm sát nhân kiếm chính là muốn giết đi những chấp trước của đệ tử, khiến ông khai ngộ. Nhát kiếm của Mã Tổ như hư như thật; nếu như đối phương phản ứng lại thiền cơ. Mã Tổ sẽ cười lớn, chấp nhận ông có cơ cảnh thấy chiêu chiết chiêu. Mã Tổ lại đưa ra chiêu mới.
- Bay đi đâu?
- Bay đi rồi!
Đối với hiện tượng giới câu đáp của bách trượng là đúng. Nhưng câu hỏi của Mã Tổ hàm 2 ý: một là hỏi về hiện tượng, một là hỏi về bản thể. Vịt trời tượng trưng cho Phật tánh. Phật tánh lại bay tới bay đi ư?
Không, Phật tánh là như như bất động, nhưng vì người thường chấp vào hiện tượng nên đánh mất bản tánh. Câu hỏi của Mã Tổ có ý là Phật tánh đi đâu? nếu Bách Trượng đáp:
- Con ở đây.
Thì cũng đúng được 60%, nhưng còn chấp vào Văn tự. Nhưng nếu Bách Trượng lợi hại hơn, im lặng không nói chỉ nhìn Mã Tổ thì đạt được 70%. Nếu Bách Trượng lợi hại hơn nữa giơ tay đánh mã Tổ một đấm thì đó là tiên hạ thủ vi cường đạt được 80%, là kiến địa, là có khí phách. Đáng tiếc, lúc đó Bách Trượng còn chưa khai ngộ. Mã Tổ đột nhiên biến chiêu, bóp mũi Bách Trượng. Bị đau Bách Trượng tức khắc cảm thụ sự tồn tại của chính mình. Lúc đó Mã Tổ nói:
- Ngươi còn nói vịt trời bay đi rồi!
Ý nói Phật tánh chính ở đây, do đó ngươi mới cảm thấy đau.
Xem thêm công án 1041.

1573. Thiền sư vô tình vô nghĩa.
Giản thiền sư lúc chưa khai ngộ. Có một lần ở bờ sông, trông sang bờ bên kia thấy Đức Sơn Tuyên Giám. Giản thiền sư chắp hai tay lại hướng Đức Sơn chào:
- Thiền sư mạnh giỏi!
Đức Sơn đang cầm một cái quạt trong tay, bèn giơ quạt lên vẫy vẫy. Giản thiền sư hốt nhiên khai ngộ, bèn xoay mình đi, cũng không ngoảnh đầu lại nhìn Đức Sơn một cái.
(Thiền thú 60)
Chuyện khai ngộ này thật thần kỳ khôn lường, giống như võ hiệp tiểu thuyết kể những võ công kỳ lạ. Cách một con sông, Đức Sơn chỉ giơ quạt vẫy vẫy khiến Giản thiền sư khai ngộ là sao? Thích Ca giơ cành hoa lên, Ca Diếp mỉm cười’ Mã Tổ bốn chữ tức tâm, tức Phật làm Đại Mai khai ngộ. Đó chẳng phải cũng thần kỳ sao? Nếu chúng ta giơ cành hoa lên, vẫy vẫy quạt, nói tức tâm, tức Phật để khai thị mọi người, nếu không bị mọi người gọi là điên thì cũng là may lắm rồi còn nói chi đến việc giúp mọi người khai ngộ. Câu nói tức tâm, tức Phật là một câu nói có công hiệu trác việt khi mọi người chưa biết đến nó, nó có một sức sống mới mẻ, mạnh mẽ, lại thêm sự quan sát giỏi của Mã Tổ về căn khí và thời tiết nhân duyên của đệ tử khiến nó trở thành phương tiện thù thắng. Nhưng khi nó trở thành tri thức phổ biến thì nó đã mất đi sô lực đặc biệt của nó. Các thiền sư cao minh không có một khẩu quyết bất biến, mà có thể từ những bình phàm hoặc những câu nói thông thường chuyển thành có ý nghĩa đặc biệt đối với đối tượng. nếu chấp có một khẩu quyết vạn năng có thể trị bất cứ bệnh gì, bất cứ Trương tam, Lý Tứ nào cũng giơ một ngón tay thiền lên thì chỉ là một thiền sư mù. Đức Sơn Tuyên Giám giỏi quan sát đệ tử, do đó chỉ vẫy quạt đã làm Giản thiền sư khai ngộ. Hành động này chỉ hữu dụng lúc đó, chỗ đó, người đó. Nếu tái sử dụng sẽ không có hiệu quả. Trong công án này Giản thiền sư khai ngộ rồi, xoay mình mà đi, không thèm ngó lại. Đối với người thường mà nói thật là vô tình, vô nghĩa, ngay một tiếng cám ơn cũng không có. Sai! Giữa thiền sư với nhau, những nghi thức thế tục có cũng tốt, không có cũng không sao. Hai người không có tri tâm, có đa lễ cũng chẳng ích lợi gì. Giản thiền sư xoay mình mà đi là chân chính báo đáp ơn khai ngộ của Đức Sơn vậy.

1574. Đều là hý luận.
Có vị ngoại đạo lại tham vấn Thế Tôn:
- Mọi sự tình đều là vĩnh hằng có phải không?
Thế Tôn im lặng.
- Vậy, mọi sự tình đều không vĩnh hằng có phải không?
Thế Tôn vẫn im lặng.
- Thế Tôn, ngài là bậc giác ngộ, chuyện gì ngài cũng biết, sao ngài không trả lời con?
- Vấn đề của ông toàn là hý luận, bảo tôi làm sao trả lời.
(Thiền thú 60)
Người đời không biết những lo lắng đều xuất phát từ vọng tưởng. Thường và vô thường là vấn đề hình nhi thượng. Đức Phật nhận rằng chỉ lo suy tư về hình nhi thượng thì đối với phiền não, thống khổ chẳng có ích lợi gì, hơn nữa đắm mình vào hình nhi thượng cũng là phiền não, thống khổ. Các pháp vốn không thường và vô thường; các pháp chỉ theo bản lai diện mục triển hiện trung thực. Nhưng con người khi nhận thức các pháp thường dùng thường và vô thường, lời nói, khái niệm gán vào, khiến nhân loại chỉ nhận thức lời nói, khái niệm đã tự cách biệt với bản lai diện mục.
Thế Tôn đối với loại vấn đề này im lặng không nói; kỳ thực ngài chỉ rất rõ ràng: hãy rời bỏ ngôn ngữ, khái niệm, trở về lúc nhân loại chưa có ngôn ngữ, khái nghiệm thì sẽ rõ không cần hỏi ta những hý luận trong không mà có. Đáng tiếc vị ngoại đạo không hiểu ý không lời của Thế Tôn, lại còn gắng hỏi: 
- Vì sao ngài không trả lời con?
- Vì câu ông hỏi chỉ là hý luận.
Con người sống trong hý luận, từ nhỏ đã học nói “ngã” là hý luận thứ nhất. Từ đó trên tất cả mọi sự vật đều an lập ngôn ngữ, như thêm nước vào cho cá nhưng cá không biết, như không biết tên loài hoa X nhưng bạn vẫn ngửi được mùi thơm của nó, không phải sao?

1575. Cách tiếp khách của Triệu Châu.
Một hôm Chân Định Súy Vương đến thăm, Triệu Châu ngồi yên trên thiền sàng hỏi:
Đại Vương hiểu không?
- Không hiểu.
- Lão nạp tử nhỏ ăn chay, nay không còn khí lực xuống thiền sàng.
Vương càng kính trọng. Hôm sau Vương sai một vị tướng quân đến truyền lời hỏi thăm. Triệu Châu xuống thiền sàng tiếp.
Thị giả hỏi:
- Hôm qua, Hòa thượng thấy Đại vương đến, không xuống thiền sàng, hôm nay tướng quân đến, tại sao lại xuống thiền sàng?
- Ngươi không biết đâu!Đệ nhất đẳng nhân đến,ta ở thiền sàng tiếp. Trung đẳng nhân đến, ta xuống thiền sàng tiếp. Mạt đẳng nhân đến, ta ra tận ngoài tam quan tiếp.
(Thiền thú 60)
Chân Định Súy Vương là huynh đệ của Hoàng đế, là một nhân vật cao quý, là mục tiêu cho nhiều người nịnh hót. Nhưng Triệu Châu vẫn lạnh lùng ngồi trên thiền sàng hỏi Vương có hiểu tại sao mình không xuống thiền sàng không? Chư pháp bất động, không đến không đi, không đi không đến, không trên không dưới. Đó là giáo huấn không lời của Triệu Châu. Đáng tiếc ý nghĩa quá cao, do đó Súy Vương không hiểu, do đó Triệu Châu phải hạ thấp xuống một tầng để Súy Vương hiểu. Đối với một người có địa vị cao như Súy Vương quen được mọi người kính trọng; Triệu Châu vì lòng từ bi đối đãi ngược lại mong chấn động được đối phương. Súy Vương đến cầu giáo, nên Triệu Châu chỉ Đạo. Tướng quân đến để truyền lời, nên Triệu Châu lấy lễ mà tiếp. Cuối cùng, Triệu Châu nói người hạ đẳng đến thì ra tận ngoài tam quan tiếp, chỉ là khôi hài.
Xem tiếp công án 481.

1576. Một sợi cũng không.
Tĩnh Cư Ni Huyền Cơ tham Tuyết Phong. Phong hỏi:
- Từ đâu tới?
- Đại Nhật Sơn.
- Mặt trời đã mọc chưa?
- Nếu mọc đã tan tuyết núi.
- Cô tên chi?
- Huyền Cơ.
- Một ngày dệt được bao nhiêu?
- Một sợi cũng không.
Huyền Cơ lạy rồi ra, đi được ba bước Tuyết Phong bảo:
- Cà sa của cô lê đất kìa?
Huyền Cơ quay đầu lại nhìn, Tuyết Phong nói:
- Tốt lắm! Một sợi cũng không.
(Thiền thú 60)
Tuyết Phong trong công án này không phải là Tuyết Phong Nghĩa Tồn, lai lịch của ông còn chưa rõ, Huyền Cơ theo truyền thuyết là nữ đệ tử của Vĩnh Gia Huyền Giác. Tuyết Phong nhân Huyền Cơ ở núi Đại Nhật đến nên dùng lối chơi chữ mà hỏi:
- Mặt trời đã mọc chưa?
hàm ý đã thấy Phật tánh chưa?
Tĩnh cư ni đáp:
- Nếu mọc sẽ làm tan tuyết núi.
Câu đáp rất mẫn tiệp. Cô cũng dùng lối chơi chữ mà đáp lại vì tuyết núi là tên của Tuyết Phong, nên cô đã chiếm được thượng phong mặc dù hơi kiêu ngạo. Tuyết Phong lại dùng tên cô Huyền Cơ (máy dệt) để hỏi:
- Một ngày dệt được bao nhiêu?
là hỏi công phu của cô thế nào?
- Một sợi cũng không.
Là câu trả lời tuyệt diệu, một mũi tên hạ hai điêu, chứng tỏ cô rất có khẩu tài.
Nhưng khi Tuyết Phong bảo áo cô lê đất thì cô ngoảnh lại xem, tỏ rằng tâm cô hãy còn quái ngại không phải một sợi cũng không như lời cô nói.
Xem thêm công án 1069.

1577. Ta là con lừa.
Tây Mục thượng đường. Một cư sĩ giơ tay nói:
- Hòa thượng là con lừa!
- Lão tăng bị ngươi cưỡi.
Cư sĩ im lặng bỏ đi. Ba hôm sau trở lại thưa:
- Ba hôm trước con làm giặc.
Tây Mục giơ gậy đuổi đi.
(Thiền thú 60)
Ta là con lừa, rồi sao? Nói ta là Hoàng đế, là vĩ nhân có ích lợi gì? Nói ta là tên ti tiện, tội đồ thiên cổ thì có tổn hại gì? Từ bản chất mà nói chư Phật vì chúng sanh cùng một Phật tánh. Từ đức Phật đến con kiến nhỏ cũng bình đẳng. Thiền sư không tham cầu được người khen ngợi. Gọi ta là con lừa, ta thuận nước đẩy thuyền, để ngươi cưỡi, có sao đâu? Con lừa là chỉ vô tâm, vô vi, nhậm vận, tự nhiên; cưỡi lừa là hữu tâm, hữu vi, tạo tác, nhân tạo. Tây Mục dùng gậy đuổi cư sĩ đi là bảo ông hãy giữ mồm, trở về tâm mà phản quán tự tánh.

1578. Gương cổ của Tuyết Phong.
Tuyết Phong nói:
- Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
Tam Thánh hỏi:
- Lịch kiếp tự tánh vốn vô sanh, sao hòa thượng lại gọi là gương cổ?
- Vì bị bẩn.
- Hòa thượng thoại đầu cũng chẳng biết.
- Tội lỗi! Lão tăng trụ trì bận rộn.
(Thiền thú 60)
Phật tánh không thể dùng lời nói được, thiền sư vì độ người không thể không nói. Không phải là Tuyết Phong không biết thoại đầu mà là từ bi độ chúng sanh. Sự thực Phật tánh không bẩn, sạch để miêu thuật quan niệm siêu việt. Nhưng ở hiện tượng giới Phật tánh của chúng sanh quả thật nhơ bẩn, cần phải lau chùi, như bài kệ của Thần Tú rất ích lợi cho người mới tu. Khi Tuyết Phong bảo:
- Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
chẳng phải là bảo chúng sanh đều bình đẳng sao?

1579. Chúng sanh vốn là Phật.
Bạch Ẩn nói:
- Chúng sanh vốn là Phật như nước và băng; lìa nước không băng, ngoài chúng sanh không có Phật. Không biết thân cận chúng sanh, tìm chi vô thường ở xa.
(Danh tăng trí tuệ ngữ lục)
Nếu tâm khởi một niệm từ bi, phải chú ý bồi dưỡng nó chẳng hạn như thích tụng kinh, lễ Phật v . v . đó là tác dụng của Phật Tâm. Phật chính ở trong tâm ta.

1580. Học Phật là học chính mình.
Đạo Nguyên nói:
- Học Phật là học chính mình, học chính mình là quên chính mình, quên chính mình là chứng vạn pháp vậy.
(Danh tăng trí tuệ ngữ lục)
Con người đều có mê hoặc, khi phán đoán thị phi phải làm sao cùng nội tâm phối hợp. Chỉ cần nương Phật tâm chỉ dẫn là ra khỏi đường mê.

1581. Thiền định.
Nga Sơn nói:
- Phật pháp tuy nhiều nhưng không ngoài Giới, Định, Huệ. Người tu giới thiếu định và huệ. Người tu huệ thiếu định và giới. Người tu thiền định đủ cả giới, định, huệ.
(Danh tăng trí huệ ngự lục)
Thế Tôn từ trong thiền định mà lãnh ngộ chân lý, trừ bỏ được mọi tạp niệm. Cho nên tọa thiền là chánh truyền của Thế Tôn, có năng lực phổ độ chúng sanh.

1582. Kho báu nhà mình.
Đại Châu Huệ Hải mới đến Giang Tây tham Mã Tổ. Tổ hỏi:
- Từ đâu tới?
- Từ Việt Châu Đại Vân Tự tới.
- Đến có chuyện gì?
- Đến cầu Phật pháp.
- Ở nhà có kho báu không muốn, lang thang ở ngoài không chịu về nhà, thật là kỳ quái! Nơi đây một vật ta cũng không có, cầu Phật pháp cái gì?
Đại Châu lạy hỏi:
- Cái gì là kho báu của Huệ Hải?
- Nay ngươi hỏi ta là kho báu nhà ngươi, tất cả đều đầy đủ, không thiếu gì, xử dụng tự tại, việc gì hướng ngoại tìm kiếm?
Huệ Hải nghe xong, liền minh bạch Phật tánh, hướng Mã Tổ lễ tạ.
(Thiền thú 60)
Kho báu nhà mình tức là Phật tánh; cái mà Đại Châu muốn tìm chỉ là biết rõ điều này. Một khi thân tự thấy rồi, về sau không còn nghi hoặc nữa. Đó là kiến tánh. Đại Châu khi mới gập Mã Tổ không lạy, biểu thị chưa chấp nhận Mã Tổ cho đến khi Mã Tổ nói về kho báu nhà mình; Đại Châu biết là Mã Tổ đã nói đến trọng điểm, liền quỳ ngay xuống, lạy xin chỉ giáo. Cái lạy này không phải ai cũng tùy tiện nhận được. Tiếp được phải có bảo cụ để truyền. Con người giống như một phú ông có tiền của dấu ở một nơi nào đó mà không biết, trong tay không có một xu. Khi khai ngộ là thấy được của dấu, biết mình là phú ông.

1583. Núi Tu Di.
Một hôm, một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi không nghĩ, có sai lầm không?
- Núi Tu Di.
- Đã nói không nghĩ, thầy còn thêm núi Tu Di vào làm gì?
- Bỏ cả xuống!
- Đã không nghĩ, làm sao bỏ xuống?
- Vậy hãy nhấc lên và mang đi!
(Thế giới nhất hoa)
Con chó sủa gâu gâu, con gà gáy tẻ tè te, con mèo gừ meo meo. Mọi con vật đều hiểu đúng tiếng của chúng. Tiếng nói đúng của ngươi là gì?
Mở miệng ra là đã sai rồi; ngậm miệng lại cũng sai nữa. Ngươi có thể làm được gì? nếu ngươi giữ im lặng Vân Môn sẽ đánh ngươi 30 gậy. ngươi nói gì? nếu bỏ cả xuống, thì tất cả đều thuộc về ngươi.

1584. Vô ngại.
Một hôm, một ni cô đến tham thiền sư Sùng Sơn, hỏi:
- Thế nào là pháp?
- Vô ngại.
- Vô ngại nghĩa là sao?
- Tại sao ngươi mặc quần áo?
Ni cô cởi truồng đi ra.
(Thế giới nhất hoa)
Cái cây hiểu công việc của cây; dòng nước hiểu công việc của nước. Công việc của thiền sư, của ni cô là gì? nếu chấp vào lời ngươi sẽ vào địa ngục nhanh như tên, nếu tiêu hóa lời ngươi sẽ giết hết chư Phật, Bồ tát. Ngươi chọn cách nào? Bỏ cả xuống, ra tiệm và uống trà đá.

1585. Ngươi cần chi?
Phật dạy tất cả các pháp để độ tất cả tâm, khi không giữ tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp?
(Thế giới nhất hoa)
Tâm sanh, pháp diệt. Khi pháp hiện thì yêu thích chán ghét, đến đi, sống chết đều xuất hiện. Khi tâm diệt thì tất cả đều diệt, lời nói chữ viết cũng đều diệt. Mở miệng ra là một sự sai lầm lớn. ngươi có thể làm gì? Bỏ cả xuống! Đừng cắn câu. Khi đói chỉ ăn, khi khát chỉ uống.

1586. Thế giới nhất hoa.
Đây là một tuyển tập gồm 365 công án của thiền sư Sùng Sơn người Đại hàn. Trong tập này có nhiều công án chúng tôi đã dịch, chúng tôi không lập lại, chỉ dịch phần bình luận:

1- Ngày nào cũng tốt. (Xem công án 982)
Thời gian qua như một mũi tên. Nghĩ thì hôm qua, hôm nay hiển hiện, không nghĩ thì mọi ngày đều biến mất. Hôm nay trời tốt hay xấu? Nhìn lên bầu trời mãi mãi xanh.

2- Phật mặt trời, Phật mặt trăng. (Xem công án 986)
Đầu hướng trời, hai mặt (mặt trời, mặt trăng) hướng đất. Xuân đến muôn hoa nở. Đông sang tuyết rơi nhiều. Trẻ con thích lửa ấm.

3- Vòng tròn của Tư Phúc (Xem công án 168)
Trái đất xoay quanh trục của nó và xoay quanh mặt trời. Xuân, hạ, thu, đông cũng xoay vần; ngươi được gì? Bỏ xuống! Chỉ nhìn, nghe, làm.

4- Lông mày Thúy Nham (Xem công án 127)
Gương sáng không có thích hay không thích. Đỏ đến đỏ hiện, trắng đến trắng hiện. Đừng dùng mồm, hãy dùng gương.

5- Không chỉ một đường (Xem công án 984)
Khuôn mặt xưa nay của Triệu Châu hiển hiện rõ ràng nhưng không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Cái nào là Triệu Châu thật? Nếu muốn hiểu Triệu Châu thật hãy đi hỏi cây tùng.

6- Chẳng nhầm nhân quả (Xem công án 1071)
Ai có thể điều khiển được người có 3 đầu, 7 chân? Nếu ngươi có một cái mồm, ngươi không điều khiển được hắn. Nếu ngươi có thể tìm thấy một cái sừng thỏ thì họa may.

7- Con chó không có Phật tánh (Xem công án 1020)
Im thì tốt hơn là thiêng. Khi mở mồm, ngươi đã làm một sự sai lầm lớn, nhưng dùng sự sai lầm này để độ chúng sanh thì đó là thiền.

8- Một ngón tay thiền (Xem công án 1078)
Ai có thể điều khiển con rắn có chân mang vớ? Nếu ngươi không có ngón tay, ngươi có thể điều khiển nó.

9- Rợ Hồ không râu (Xem công án 115)
Ba năm sau khi mất, Đạt Ma trở về Tây phương đem theo cây gậy và một chiếc dép. Ông không chết bao giờ. Bây giờ ông ở đâu? Coi chừng bước chân.

10- Niêm hoa vi tiếu (Xem công án 1183)
Hoa mỉm cười, mặt Phật đỏ.

11- Triệu Châu rửa bát (Xem công án 1073)
Điểm tâm vào buổi sáng, ăn trưa vào buổi trưa, ăn cơm chiều vào buổi chiều. Sau bữa cơm, ngươi có biết công việc của mình không? Vậy hãy làm đi.

12- Hề Trọng làm xe (Xem công án 192)
Trên vòm trời rộng mây hiện và biến. Mọi sự đều đã rõ ràng.

13- Phật Đại Thông Trí Thắng (Xem công án 193)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Mọi chúng sanh đều có Phật tánh. Do đó mọi vật đều đã là Phật. Nếu một người muốn trở thành Phật thì đã sai lầm lớn rồi. hãy cẩn thận.

14- Thanh thoát cô bần (Xem công án 154)
Con chó đã ăn tâm thanh thoát, chạy vòng vòng Đông rồi Tây.

15- Triệu Châu khám phá am chủ (Xem công án 195)
Hai am chủ giết Triệu Châu và nhét thân ông vào hũ rượu.

16- Đức Sơn bưng bát (Xem công án 196)
Ba con chó nối đuôi chạy vòng đuổi nhau, đánh hơi tìm thức ăn.

17- Nghe tiếng chuông mặc áo thất điều (Xem công án 197)
Tâm ngươi và thế giới này, cái nào lớn hơn? Mở mồm ngươi không tìm thấy hướng, ngậm mồm mất luôn hướng. Nghe tiếng chuông hãy đến pháp đường.

18- Ba lần gọi của Quốc sư (Xem công án 198)
Nội thương cháu, cháu chịu nội chỉ vì muốn ăn kẹo.

19- Ba cân gai (Xem công án 124)
Lầm lớn! Lầm lớn! Động Sơn không hiểu 3 cân gai, nhưng 3 cân gai hiểu mắt Động Sơn.

20- Tâm bình thường là Đạo (Xem công án 1085)
Không ăn 3 ngày ngươi chỉ muốn thực phẩm. Đi trong sa mạc ngươi chỉ muốn nước. Đứa bé khóc vòi mẹ. Mọi việc đều rõ ràng: trên trời nhiều sao, trên núi nhiều cây.

21- Đại lực sĩ (Xem công án 209)
Người ăn quá nhiều, phải tập luyện. Nếu ngươi khát, tìm một cái giếng, nếu mệt hãy đi ngủ.

22- Que cứt khô (xem công án 199)
Vân Môn thối mồm, ngươi làm sao cho hết mùi? dẫn ông ta vào phòng tắm và súc miệng cho ông.

23- Hạ cây phướn xuống (Xem công án 104)
Trời không mây nhưng sét đánh cột cờ. Ca Diếp và A Nan đều thất nghiệp.

24- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác (Xem công án 1024)
Lục tổ có 2 mắt, Huệ Minh có 2 tai. Mỗi người có một mồm. Họ cùng thấy, nghe nhưng lời thì khác. Một người đi về Bắc, một người đi về Nam.

25- Lìa ngôn ngữ (Xem công án 200)
Mở mồm ngươi không có lưỡi, mở mắt ngươi không có con ngươi. Làm sao giải quyết? Ngươi phải đi Giang Nam và hỏi chim Chá Cô.

26- Đệ tam tọa nói pháp (Xem công án 203)
Thế giới này và cuộc sống con người như một giấc mộng. Hai người nói về giấc mộng. Khi nào họ tỉnh? 3 giờ sáng, ở ngoài nhà gà gáy tẻ tẻ te.

27- Một được, một mất (xem công án 202)
Hành động của 2 ông tăng rất rõ. Lời Pháp Nhãn là một sai lầm lớn. Ngươi làm sao sửa lại? Ngươi có biết tuổi của Pháp Nhãn không? Đi mà hỏi cây tùng trước chùa.

28- Long Đàm thổi tắt đèn.
Thiên nhiên đã dạy chúng ta nhiều việc, tại sao ngươi cần các bộ kinh? Nếu ngươi đạt khuôn mặt xưa nay, ngươi sẽ ném hết kinh Phật vào lửa; rồi thế giới của ngươi sẽ vẹn toàn.

29- Tâm động. (Xem công án 85)
2 ông tăng không có vấn đề gì cả. Lục tổ đã phạm một sai lầm lớn vì một lần tổ nói “Vốn không một vật”. Vậy tâm ở đâu? Gió và cờ có thể điều khiển 2 ông tăng nhưng tâm điều khiển Lục tổ.

30- Tâm là Phật (Xem công án 245)
Không Mã Tổ, không Đại Mai, không Phật, không tâm, rồi sao? Ngươi có thấy trời, cây? Ngươi đã hiểu rồi. Bỏ cả xuống.

31- Triệu Châu khám phá lão bà. (Xem công án 111)
Triệu Châu có mắt, tai, mũi, lưỡi và thân nhưng ông không có xương. Làm sao ông từ Ngũ Đài Sơn xuống lại trở về Ngũ Đài Sơn? Lão bà không có mắt, không mồm, không tay làm sao bà chỉ đường đến Ngũ Đài Sơn? Thật là buồn cười ghê ha! ha! ha!

32- Ngoại đạo hỏi Phật (Xem công án 147)
Cây, nước, đất, trời không lời nhưng chúng dạy chúng ta trọn vẹn. Nếu ngươi không hiểu chánh đạo, chánh mạng, sự thật ngươi phải hỏi mặt trời, mặt trăng.

33- Trí không phải là đạo (Xem công án 239)
Con chó, con mèo, con gà hiểu công việc của chúng. Con người không hiểu công việc của con người. Bây giờ người đương làm gì? Hãy làm đi.

34- Thiến Nữ ly hồn (Xem công án 213)
Tham, sân, si, dục, vui, buồn, cái nào là chân tâm? Nếu ngươi không có tâm chúng đi đâu? Một cái hiện, 2 cái hiện, vạn vật xuất hiện. Một cái diệt, tất cả diệt.

35- Trên đường gập người đạt đạo (Xem công án 204)
Cây hiểu thời tiết, núi hiển mùa. Mọi vật hiển tình trạng và hành động của chúng. Chỉ có con người là ngu muội. Xuân tới cỏ xanh, Đông sang tuyết trắng.

36- Cây bách trước sân (Xem công án 246)
Huấn luyện là một việc khó cho Đạt Ma. Ông khai nhãn cho nhiều người nhưng ông thì mất mạng. Sau khi ông mất 3 năm, ông tìm lại được thân và ông đi về Tây. Giờ ông ở đâu? Trời xanh lơ, tùng xanh lam.

37- Con trâu qua cửa (Xem công án 291)
Đuôi trâu giết hết chư Phật, chư tổ và tất cả chúng sanh. Đuôi trâu ở đâu? Ngươi có thấy nó không? Ngươi có nắm được nó không? Nó đã qua rồi.

38- Đá đổ tịnh bình (Xem công án 210)
Quy Sơn không tốt cũng không xấu, quá man dại ông phải giữ cho tâm trong sáng. Bộ tay ông đi nghỉ hè hay sao?

39- Tâm đệ tử chẳng an (Xem công án 1008)
Đạt Ma quá ngu. Tại sao ông ngồi bích quán 9 năm? ông có tâm hay không? nếu ông vô tâm ông đã mất mạng rồi. Nhị tổ đạt được cái gì? Nếu ngươi hiểu chuyện này thì đi uống trà đi.

40- Thiếu nữ xuất định (Xem công án 205)
Đầu không thể cầm bút, mắt không thể nghe thấy, mồm không thể nhìn trời. Đàn ông không thể sanh con. Tay có công việc của tay, chân có công việc của chân. Hãy hiểu đúng công việc của ngươi. Khi gà gáy sáng thân chỗi dậy.

41- Cây gậy của ba Tiêu (Xem công án 206)
Mọi súc vật hiểu rõ chánh đạo và hành động đúng. Chỉ có con người là còn ngu si. Thỏ thích ăn cà- rốt, chuột thích ăn phô- mai.

42- Cây gậy của Thủ Sơn (Xem công án 211)
Vốn không có danh và tướng. Khi tâm sanh, danh và tướng sanh. Nếu ngưới chấp vào danh và tướng, ngươi không thể ra khỏi địa ngục. Khéo dụng danh tướng ngươi sẽ thành Phật.

43- Người ấy là ai? (Xem công án 207)
Nếu ngươi không làm gì cả, cả thế giới thuộc về ngươi. Nếu ngươi làm một gì đó thì ngươi đã mất mạng rồi. Nếu muốn gập Thích ca hãy vào nhà bếp, nếu muốn gập Di Lặc hãy vào buồng tắm.

44- Chẳng có thánh gì cả (Xem công án 1025)
Lương Võ Đế hiểu Bồ Đề Đạt Ma, Bồ Đề Đạt Ma không hiểu Lương Võ Đế. Câu trả lời “không biết” của Bồ Đề Đạt Ma nuốt trọn vũ trụ. Làm sao ngươi thoát ra? Mở mắt và lắng tai:Đạt Ma ngồi thiền ở Thiếu lâm 9 năm.

45- Tuyết đầy chén bạc (Xem công án 117)
Cái ngươi nhìn và cái ngươi nghe là bạn thật của ngươi.

46- Cảnh Thanh kêu mổ (Xem công án 125)
Vỗ tay 3 lẩn tuyệt! tuyệt! tuyệt! Gà con nói chào ông, ông khỏe không?

47- Bách Trượng ngồi một mình (Xem công án 119)
Cẩn thận! đừng chấp vào lời, một hành động tốt hơn vạn lời.

48- Thân bầy gió vàng (Xem công án 154)
Nếu ngươi hiểu thời tiết bên ngoài, ngươi biết sẽ phải mặc gì, mặt trời thì xa còn gió thì mạnh.

49- Củ cải to của triệu Châu (xem công án 126)
Triệu Châu mạnh hơn trời. Nam Tuyền trở thành củ cải. Củ cải lớn hơn Triệu châu và rơi đè lên người ông. Triệu Châu kêu lên: Cứu tôi! Cứu tôi!

50- Định thượng tọa (Xem công án 595)
Cái gì không phải là Phật pháp? nếu ngươi tìm thấy ngươi đã là Phật. Nếu ngươi tìm thấy Phật pháp, ngươi trở thành ngu si. Lâm tế rất ngu, một hành động là đủ, đâu cần đến 3. Định thượng tọa hiểu mình có 2 mắt và 1 mồm.

51- Trước sau 33 (Xem công án 128)
Văn Thù ngu si, Vô Trước khôn khéo. Chỉ là trò đùa về ngôn ngữ. Ai được, ai thua? ngươi có thấy khuôn mặt xưa nay của Văn Thù không? Ngươi có thấy cái mũi xưa nay của Vô trước không? là cùng hay là khác? Chư Phật và chư Tổ không thể nhá được câu trước 33, sau 33 của Văn Thù.

52- Một cành hoa (Xem công án 167)
Mở mồm, lầm lớn. ngậm mồm cả vũ trụ và ngươi không bao giờ xa cách. Thức dậy! Thức dậy! ngươi nhìn thấy gì, nghe thấy gì bây giờ? Đi hỏi chó, mèo; chúng sẽ chỉ cho ngươi.

53- Đợi trời sáng hãy đi (Xem công án 54)
Đến tay không, đi tay không. Có một vật rõ ràng không lệ thuộc vào sanh tử. Ai sống? Ai chết? Sống và chết như mây nổi. nếu ngươi bỏ được đám mây trong tâm ngươi thì khuôn mặt xưa nay xuất hiện rõ ràng trước mặt ngươi. Đêm có tối, ngày có rạng.

54- Nơi mát mẻ (Xem công án 981)
Lời của Động Sơn rất mạnh. Ông hiểu tình hình và hành động. Nóng và lạnh ở bên trong hay bên ngoài. Nếu ngươi tìm thấy câu trả lời đúng, ngươi đạt được khuôn mặt xưa nay của Động Sơn.

55- Ta có thể đánh trống (Xem công án 40)
Bỏ xuống tất cả những lời nói và suy tư. Nếu ngươi kiểm soát, sự kiểm soát này sẽ giết ngươi. Ngươi có nghe tiếng trống của Đầu Tử không? Nặng bao nhiêu cân? Nếu ngươi biết ngươi đã là thầy của Phật.

56- Cầu đá Triệu Châu (Xem công án 74)
Phi cơ bay trên trời phải có mục tiêu, xe lái trên đường phải có chỗ đến. Chó, mèo chạy nhẩy tốt hơn là phi cơ và xe hơi.

57- Cây gậy hóa rồng (Xem công án 78)
Lời Vân Môn là một sai lầm lớn. Lưỡi câu của ông mắc trong chính mồm ông. Ai gỡ cái lưỡi câu này? Chỉ có ai trả lời được 3 câu hỏi mới gỡ được. (3 câu hỏi của Sùng Sơn:
1- Làm sao ngươi biến cây gậy thành rồng?
2- Con rồng này làm sao nuốt mọi vật?
3- Nếu nó nuốt tất cả, làm sao ngươi thấy vạn vật?

58- Vòng tròn của Nam Tuyền (Xem công án 142)
Nam Tuyền trở thành điên như núi Tu Di. Ông muốn bắt một con cá to, nhưng không làm được. Quy Tông và Ma Cốc hiểu tâm ông nhưng ông không hiểu tâm họ. Họ đi đâu? Đông, Tây, Nam, Bắc?

59- Thùng cơm của Kim Ngưu (Xem công án 156)
Nếu ngươi rảnh, đi coi chớp bóng, nếu ngươi mệt đi khiêu vũ. Nếu ngươi không có gì để làm, lễ Phật rồi Phật sẽ mỉm cười với ngươi.

60- Bánh Hồ (Xem công án 160)
Vân Môn nói bánh Hồ nhưng sao chỉ có bánh? Nếu ngươi có kẹo, mì, coca hãy đưa cho Vân Môn rồi ông ta sẽ ấn chứng cho ngươi.

61- Mọi âm thanh đều là Phật thanh (Xem công án 129)
Vốn không có ngôn ngữ, văn tự. Đã sai lầm rồi, ai mà sửa lại được? Nếu ngươi muốn hiểu hãy đi hỏi 1 đóa hoa hay 1 cái cây. Chúng sẽ cho ngươi câu trả lời đúng.

62- Trẻ sơ sinh (Xem công án 161)
Khi trẻ khóc, mẹ cho bú. Triệu Châu thích bóng, nhưng quả bóng đã giết ông. Bỏ cả xuống, nhìn rõ, nghe rõ. Liễu lục, hoa hồng.

63- Tiếng cọp của Đồng Phong (Xem công án 187)
Chó đuổi theo xương; cọp nhai người. Vô tâm tất cả thuộc về ngươi, hữu tâm ngươi mất tất cả. nếu ngươi bị lạnh, dùng thuốc cảm. Nếu ngươi bị sốt dùng thuốc giải nhiệt.

64- Cửa kho (Xem công án 186)
Lục tổ nói vốn không một vật. Vân Môn nói mọi người tự có ánh sáng. Hai câu nói này là đồng hay dị? Mọi người đều có 2 mắt, một mồm.

65- Thể dụng của Bát Nhã (Xem công án 123)
Chân lý không có ngôn ngữ, văn tự. Pháp thật không có danh tướng. bát Nhã từ đâu ra? Dụng của nó là gì? Chỉ làm. Khi mệt thỉ ngủ, khi đói thì ăn.

66- Ba chuyển ngữ của Triệu Châu (Xem công án 164)
Lục tổ nói: “Vốn không một vật”, kinh nói chúng sanh đều có Phật tánh. Ai làm ra Phật? Ai đúng? Nếu ngươi có Phật tánh Phật sẽ giết ngươi. Nếu ngươi không có Phật tánh, Phật cũng sẽ giết ngươi. Ngươi phải làm sao? Uống trà đi!

1587. Núi này không có đường vào.
Động Sơn Lương Giới khi đi hành cước, lạc đường, ngẫu nhiên tới chỗ ẩn cư của Long Sơn hòa thượng. Động Sơn vái chào. Long Sơn hỏi:
- Núi này không có đường, ngươi làm sao vào?
- Chuyện không có đường tạm gác lại, hòa thượng làm sao vào?
- Ta không biết mây nước.
- Hòa thượng ở núi này bao lâu?
- Không biết.
- Vì sao không biết?
- Ta không vì trời, người mà đến.
(Thiền thú 60)
Núi này chỉ Phật tánh. Phật tánh không có phương pháp nào để vào, vì vậy gọi là cửa không cửa. Thiên hạ không có một kỹ xảo nào bảo đảm học nhân nhất định thấy Phật tánh, chỉ nương vào tu hành vị tất sẽ chứng ngộ. càng nỗ lực tu hành cầu khai ngộ thì khai ngộ lại càng xa. Động Sơn hỏi hòa thượng làm sao vào? Long Sơn đáp ngay đi ta còn không biết thì làm gì còn vấn đề vào hay không vào. Hòa thượng hay núi ở đây trước là hỏi Phật tánh và vô minh cái nào có trước. Long Sơn đáp không biết là phủ quyết vấn đề trong không sinh hữu. Thời gian là quan niệm của người phàm chúng ta. Đối với Phật tánh, thời gian không tồn tại. Cũ, mới, thường tồn, biến đổi . . . đều là những khái niệm tương đối. Lấy khái niệm tương đối để mô tả tuyệt đối là chuyện hoang đường.

Bộ tranh chăn trâu.
Từ thế kỷ 12, xuất hiện 2 bộ tranh chăn trâu: 1 của Phổ Minh thiền sư, 1 của Quách Am sư viễn. Bộ tranh và các bài tụng sau đây là của Quách Am sư viễn.

1588. Tìm trâu.

茫 茫 撥 草 去 追 尋
Mang mang bạt thảo khứ truy tầm
水 闊 山 遥 路 更 深
Thủy khoát sơn diêu lộ cánh thâm
力 盡 神 疲 無 所 覓
Lực tận thần bì vô sở mịch
但 聞 楓 樹 晚 蟬 吟
Đản văn phong thụ vãn thiền ngâm

Vạch cỏ mênh mang mong tìm lối
Non xa, sông rộng, đường thêm sâu
Rặng phong ve chiều kêu rộn rã
Sức cùng, lực tận, thấy gì đâu?

Tranh vẽ người chăn đứng ở nơi hoang dã, tay cầm sợi dây thừng, xem bộ bồn chồn, do dự không biết đi về hướng nào để tìm trâu, là tài sản mà ông rất tự hào, đã chạy mất. Người chăn là người tu, cảm thấy mình đánh mất bản tánh chân thật, bất biến do đó có khát vọng tìm về, chỉ có thế tâm mới an định. Đó là giai đoạn người tu không biết đi theo đường nào. Có người tin tưởng mình tìm được. Có người nửa tin, nửa ngờ cho nên tìm được một lúc lại ngừng, ngừng một lúc lại tìm.

1589. Thấy dấu.

水 邊 林 下 跡 偏 多
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
芳 草 離 披 見 也 麼
Phương thảo ly phi kiến dã ma?
縱 是 深 山 更 深 處
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
遼 天 鼻 孔 怎 藏 他
Liêu thiên tỵ khổng chẩm tàng tha

Mé nước, bờ rừng nhiều vết dẫm
Cỏ thơm tan tác thấy không nào?
Trong khoảng non cao và vực thẳm
Mũi hếch lên trời, dấu được sao?

Tranh vẽ người chăn tìm thấy vết chân, nhưng chưa thấy trâu. Có vết chân đi về phía Đông, có vết chân đi về phía Tây, có vết chân đi được một quãng thì biến mất, có vết chân đi về Đông rồi lại vòng qua Tây. Nhìn những dấu chân này người chăn biết được trâu quanh quẩn đâu đây, nhưng đi đâu để tìm thì là cả một vấn đề.
Đây là giai đoạn người tu tìm được thầy, hoặc đọc được một bộ kinh Phật đề cập đến việc tu hành. Ông tin tưởng Đức Phật và chư Tổ đã từng thể nghiệm Phật tánh và lưu lại những lời giáo huấn, và ông biết họ cũng như ông chỉ là một người thường, do đó ông nghĩ ông cũng có thể làm được. Nhưng ông vẫn chưa biết làm cách nào, và cách nào là tốt nhất.

1590. Thấy trâu

黃 鶯 枝 上 一 聲 聲
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh
日 暖 風 和 岸 柳 青
Nhật noãn phong hòa ngạn liễu thanh
只 此 更 無 回 避 處
Chỉ thử cánh vô hồi tỵ xứ
森 森 頭 角 畫 難 成
Sâm sâm đầu giác họa nan thành

Trên cành Hoàng oanh hót lảnh lót
Nắng ấm, gió hòa,bờ liễu xanh.
Chỉ là không còn nơi trốn nữa
Rừng rậm, đầu sừng khó vẽ thành.

Tranh vẽ người chăn sau một khoảng thời gian tìm kiếm, đã thấy sau một thân cây lớn, cái đuôi trâu thò ra. Ông cao hứng lắm mặc dù lúc đó ông vẫn chưa nắm được trâu. Sự thực thì ông cũng chưa nhìn rõ mặt trâu.
Đây là giai đoạn người tu thấy được bản tánh.

1591. Được trâu.

竭 盡 精 神 獲 得 渠
Kiệt tận tinh thần hoạch đắc cừ
心 強 力 壯 卒 難 除
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
有 時 纔 到 高 原 上
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
又 入 煙 雲 深 處 居
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư

Đem hết tinh thần mới bắt được
Tâm cường lực tráng khó trừ ghê
Cao nguyên có lúc vừa lên tới
Lại tìm vào chỗ khói mây về.

Tranh vẽ người chăn đã dùng dây thừng xỏ mũi trâu. Hiện tại trâu đã ở trong tay người chăn. Nhưng trâu hãy còn dã tánh muốn sút thừng để chạy ra ven đường ăn cỏ, do đó người chăn phải dùng roi để điều phục nó.
Đây là giai đoạn người tu đã tự chứng ngộ toàn thể tự tánh, nhưng phiền não, tập khí hãy còn trong tâm. Khi hành giả gập một chuyện kích thích phiền não sẽ nổi dậy. Hành giả phải nỗ lực tu hành, giữ giới cho nghiêm (roi, dây thừng). 

1592. Chăn trâu.

鞭 索 時 時 不 離 身
Tiên sách thời thời bất ly thân
恐 伊 縱 步 入 埃 塵
Khủng y túng bộ nhập ai trần
相 將 牧 底 純 和 也
Tương tương mục đắc thuần hoà dã
鞭 鎖 無 拘 自 逐 人
Tiên tỏa vô câu tự trục nhân

Roi thừng mỗi lúc chẳng lìa thân
Chỉ sợ chân kia lấm bụi trần
Cùng nhau chăn được thuần hòa vậy
Không roi mà cũng theo chủ nhân.

Tranh vẽ người chăn, một tay nhẹ nắm dây thừng, một tay cầm roi, có lúc đi trước, có lúc đi bên cạnh trâu. Một lúc nào đó trâu có thể muốn ngừng lại bên đường để gậm cỏ non, nên người chăn phải cảnh giác. Trâu đã ngoan ngoãn nghe lời nên người chăn không phải đánh đập mạnh bạo nữa. Nhìn bề ngoài người chăn và trâu không tốn nhiều sức lực.
Đây là giai đoạn người tu bồi dưỡng định lực. Nếu vào sâu được định cảnh thì có thể bứng hết gốc rễ của phiền não và tập khí.

1593. Cưỡi trâu về nhà.

騎 牛 拖 邐 欲 還 家
Kỵ ngưu đà lê dục hoàn gia
羌 笛 聲 聲 送 晚 霞
Khương địch thanh thanh tống vãn hà
一 拍 一 歌 無 限 意
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
知 音 何 必 鼓 唇 牙
Tri âm hà tất cổ thần nha.

Cưỡi trâu chầm chậm trở về nhà
Khương địch vi vu tiễn chiều tà
Bao ý hàm trong ca và phách
Tri âm hà tất hé môi ra.

Tranh vẽ người chăn tự tại cưỡi trên lưng trâu, tuy thừng còn sỏ mũi, và roi thì người chăn gài trên lưng, nhưng vốn không xử dụng vì trâu đã hoàn toàn thuần thục, đã biết tự đi về nhà.
Đây là giai đoạn, 6 thức của người tu đã thanh tịnh, mọi phiền não đã hết. Khi tiếp xúc với ngoại cảnh, không bị ngoại cảnh làm phát khởi phiền não. Lúc đó thân, tâm, và thế giới hỗn nhiên hòa thành một thể, là thế giới của Phật.

1594. Quên trâu còn người.

騎 牛 已 得 到 家 山
Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia sơn
牛 也 空 兮 人 也 閒
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
紅 日 三 竿 猶 作 夢
Hồng nhật tam can do tác mộng
鞭 繩 空 頓 草 堂 閒
Tiên thằng không độn thảo đường gian.

Cưỡi trâu đã về tới núi nhà
Trâu đã không rồi, người cũng nhàn
Nắng đã ba sào, còn dệt mộng
Roi, thừng vứt ở xó nhà gianh.

Tranh chỉ vẽ người chăn, trâu thì đang ngủ, nhưng ngủ ở đâu thì không biết. Bức này và bức thứ nhất giống nhau ở chỗ chỉ vẽ người chăn, không vẽ trâu; nhưng khác ở chỗ ở đây người chăn ngồi ở nhà, không lo nghĩ gì cả.
Đây là giai đoạn người tu đã hết phiền não, không phải tìm cách đối phó với phiền não và mong cầu khai ngộ.

1595. Người trâu đều quên.

鞭 索 人 牛 盡 屬 空
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
碧 天 遼 闊 信 難 通
Bích thiên liêu quách tín nan thông
紅 爐 燄 上 爭 容 雪
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết
到 此 方 能 合 祖 宗
Đáo thử phương năng hợp tổ tông

Roi, thừng, người, trâu tất cả không
Trời xanh xa rộng khó tin thông
Ngọn lửa lò hồng tan hết tuyết
Tới đây mới thật hợp tổ tông.

Tranh vẽ một vòng tròn, người chăn và trâu đều không thấy tung tích. Ngoài vòng tròn trống không ra, không có một vật nào cả.
Người chăn chỉ người tu, trâu chỉ tâm, ở đây người và tự tánh hợp nhất; do đó người chăn và trâu đều biến mất.

1596. Trở lại nguồn cội.

 返 本 還 源 已 費 功
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
爭 如 直 下 若 盲 聾
Tranh như trục hạ nhược manh lung
庵 中 不 見 庵 前 物
Am trung bất kiến am tiền vật
水 自 茫 茫 花 自 紅
Thủy tự mang mang hoa tự hồng.

Trở về nguồn cội đã phí công
Mắt mù, tai điếc nghe như không
Trong am chẳng thấy vật phía trước
Hoa hồng, nước vẫn chẩy mênh mông.

Tranh vẽ núi xanh, nước biếc, tạp trúc, mai vàng. Đó là từ định cảnh phản chiếu sinh hoạt hiện thật. Bất kể gập cảnh gì đều y khuôn mặt xưa nay mà coi sự vật, không khởi phiền não.

1597. Thõng tay vào chợ.

露 胸 跣 足 入 廛 來
Lộ hung tiển túc nhập triền lai
抹 土 塗 灰 滿 腮 
Mạt thổ đồ hôi tiếu mãn tai
不 用 神 仙 真 祕 訣
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
直 教 枯 木 放 花 開
Trực giao khô mộc phóng hoa khai.

Rũ bụi than nhơ cười rạng rỡ
Ngực trần, chân đất vào chợ đông
Từ cây khô chết hoa bỗng nở
Bí quyết thần tiên cũng chẳng dùng.

Tranh vẽ 1 vị hòa thượng tiêu sái,1 tay cầm túi vải,1 tay giơ ra, bố thí cho một người ăn mày nghèo khổ.
Tranh biểu thị người khai ngộ với lòng từ bi xử dụng những phương tiện thiện xảo cứu độ chúng sanh.
(Ngưu đích ấn tích)

1598. Ông tăng vô sự.
Đời Minh, có một ông tăng không thuộc vào một chùa nào, không ở một nơi nào nhất định, vân du tứ xứ. Một hôm ông đi ngang một ngôi chùa thấy tượng của 4 vị Thiên vương rất trang nghiêm, ông nghĩ bụng “Đây thật là chỗ tốt để nghỉ ngơi!” Ông bèn nằm ngay xuống chân tượng mà ngủ. Một ông quan đi qua trông thấy, nổi giận:
- Hòa thượng là ai? Dám lười biếng nằm đây mà ngủ?
- Lão nạp là một ông tăng không có việc làm.
- Cái gì? ngồi thiền, tụng kinh, lễ Phật làm pháp sự là việc làm của chư tăng sao thầy dám nói là không có việc làm?
- Những chuyện đó đối với ta vô can, ta đâu cần phải làm những chuyện này!
(Ngưu đích ấn tích)
Nghe lời nói này ông quan từ phẫn nộ trở thành lúng túng. Sau đó, ông ý thức được rằng ông tăng này không phải là một ông tăng thường mà là một người tu hành chân chánh, một ông tăng không có việc làm.

1599. Thiện ác như mây nổi.
Một ông tăng hỏi Phá Táo Đọa:
- Thế nào là người thiện?
- Thân mặc áo giáp, tay cầm giáo dài đi giết người.
- Thế nào là người ác?
- Tu thiền, nhập định.
- Trình độ con kém cỏi, xin thầy chỉ thẳng.
- Ngươi hỏi ta thế nào là ác, ta bảo ác không từ thiện đến, ngươi hỏi ta thế nào là thiện ta bảo ngươi thiện không từ ác đến.
Ngưng lại hồi lâu, lại hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Hiểu.
- Ác nhân không có thiện niệm, thiện nhân không có ác niệm; cho nên nói thiện, ác như mây nổi, không có chỗ sinh diệt.
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Thiền thú 60)
Thiền sư thích hỏi Đông đáp Tây, hỏi Tây đáp Đông, mục đích là đảo ngược tư duy khiến người nghe xa lìa sự phân tích của lý trí, trực tiếp thấy suốt chân tướng của sự vật. Tư duy, lý trí là công cụ hoàn hảo để chia chẻ chân lý thành những mảnh vụn, khiến người ta dùng những khái niệm trừu tượng này mà kiến tạo nên một thế giới ảo tướng. Con người khó chấp nhận sự thực này: chính dùng lý trí để giải quyết những vấn nạn là nguyên tố khiến con người không khai ngộ được. Trong quan niệm thông thường giết người là ác, tu thiền là thiện. Thiền sư nói ngược lại là cảnh giác có phân biệt thì không thể khai ngộ được, càng phân biệt thì chấp trước càng sâu nặng.

1600. Giơ nắm đấm lên.
Khâm sơn giơ nắm đấm lên bảo đại chúng:
- Nếu nắm đấm mở ra thì bàn tay có các ngón tay dài, ngắn sai biệt, nay là nắm đấm thì không có dài ngắn. các ngươi nói Khâm sơn có thương lượng hay không thương lượng.
Một ông tăng lại gần Khâm sơn giơ nắm đấm lên. Khâm sơn nói: 
- Như vậy, ngươi chỉ là một gã câm.
(Công án thiền cơ)
Khâm Sơn giơ nắm đấm chỉ không tướng của bản thể giới, nhiếp thọ chư căn, quy nhập thể tánh không. Khi thiền sư nói “Khi nắm đấm xòe ra thành bàn tay, thì các ngón tay dài ngắn khác nhau, vậy Khâm Sơn thương lượng hay không thương lượng?
Bàn tay có nhiều ngón tay dài ngắn khác nhau là chỉ hiện tượng giới vì có sai biệt dài ngắn (mở rộng ra : đẹp xấu, tươi khô, thành bại . . .) Nay tâm tánh vào không, bản tánh nhất như không có dài ngắn.
Như vậy là Khâm Sơn chỉ cho đại chúng Thể (nắm đấm) và dụng (bàn tay) là một. Khi ông tăng lại gần Khâm Sơn giơ nắm đấm lên là ông trụ ở không. Khâm sơn bảo ông: ngươi chỉ là một gã câm là hàm 2 ý:
1- Ông tăng thấy Khâm Sơn giơ nắm đấm lên cũng bắt chước giơ nắm đấm lên là thấy cảnh sanh tâm nên bị mắng.
2- Nếu quả thật ông tăng ngộ được không, chứng được thánh cảnh, thì cũng không được trụ tâm ở đó, vì đó chưa phải là cứu cánh, phải quay lại hiện tượng giới để chứng ngộ không hữu bất nhị.

1601. Pháp thân có thọ khổ không?
Một lần Trường Khánh thượng đường, một ông tăng hỏi:
- Pháp thân còn thọ khổ không?
- Địa ngục há là thiên đường sao?
- Như vậy là có thọ khổ?
- Có tội gì chứ?
(Công án thiền có)
Khổ, lạc thuộc về ngũ uẩn. Pháp thân là không tướng, thanh tịnh làm sao có giác tri khổ mà thọ khổ? Ông tăng vì chưa khai ngộ pháp thân, không biết pháp thân là thế nào, có thể và không có thể làm gì. Nếu ông đã biết thể dụng của pháp thân thì mới có khả năng luận thuyết về hành tướng và công năng của pháp thân. Thiền sư không trực tiếp trả lời, nhưng những lạc thú ở thiên đường lại có liên quan đến đau khổ ở địa ngục sao? Trong quá trình tu thiền, nhị thiền lìa khổ lạc, tam thiền sinh định lạc, tứ thiền chứng nhất tánh cảnh không lạc, khổ. Đối với pháp thân thì địa ngục và thiên đường không sai biệt, không khổ, không vui. Ông tăng nói như vậy là có thọ khổ: rõ ràng ông là thuộc hàng sơ cơ, lại không chịu chăm chỉ tọa thiền để từ thành tựu sắc thân mà tiến đến những vấn đề hình nhi thượng. Lời của thiền sư có nghĩa là pháp thân có tội lỗi gì mà phải thọ khổ? Dù chúng sanh có thọ khổ, thọ lạc, pháp thân vẫn khách quan quan sát, nó vốn không thọ một bụi trần, nói gì đến khổ, lạc. Người bị nghiệp lực lôi cuốn. Pháp thân không sai lầm, không thấy khổ.

1602. Bài kệ của Ngũ tổ Pháp Diễn.

山 前 一 片 閒 田 地
Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
叉 手 叮 嚀 問 祖 翁
Thoa thủ đinh ninh vấn tổ ông
幾 度 賣 來 還 自 買
Cơ độ mai lai hoàn tự mãi
為 憐 松 竹 引 清 風
Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong

Trước núi, một mảnh ruộng bỏ không
Khoanh tay tha thiết hỏi Tổ ông
Mấy lần bán đi rồi mua lại?
Vì thuơng gió mát luồn rặng thông?
(Tổ đình kiềm chùy)
Pháp Diễn đến tham học Bạch Vân, bị Bạch Vân nạt, do đó mà ngộ, bèn làm bài kệ trên.

1603. Niệm Phật.
Có người nói:
Như con nít suốt ngày gọi mẹ: mẹ ơi! Mẹ à! Bà mẹ không thấy phiền sao? Cũng vậy cả ngày niệm A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật lại chẳng phiền sao?
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Người nói câu này tưởng như rất thông minh, rất hiểu đạo lý, kỳ thực đây không phải là thông minh thật, còn là vọng tưởng. Thứ nhất ông không biết rằng Phật và phàm phu bất đồng, Phật là vô tâm tương ứng làm gì có phiền não? Thứ nhì ông không biết rõ niệm Phật. Niệm Phật không phải là kêu réo A Di Đà Phật mà là dùng Phật hiệu để tẩy tâm, cach diện miên mật chuyển di vọng niệm khiến tâm không tĩnh. Tâm là thổ, thổ là tâm. Tâm tĩnh tức Phật thổ tĩnh. Càng lâu càng thâm, tất được cực lạc tĩnh thổ, tự thấy A Di Đà Phật. Người nói câu này không hiểu đạo lý cứ như các lão ông, lão bà một lòng niệm Phật tốt hơn.

1604. Nguyệt Thượng Nữ.
Tôn giả Xá Lợi Phất vào thành, từ xa thấy Nguyệt Thượng Nữ ra thành. Xá Lợi Phất nghĩ thầm không biết vị đại tỷ này có thấy Phật không? đã đắc nhẫn hay chưa? Ta hãy đi hỏi xem, bèn lại gần hỏi:
- Đại tỷ đi đâu?
- Như Xá Lợi Phất vậy .
- Ta vừa muốn vào thành, đại tỷ vừa ra thành, làm sao nói giống nhau?
- Các đệ tử của Phật trú ở đâu?
- Ở đại Niết Bàn.
- Các đệ tử của Phật đều trụ ở Đại Niết Bàn, ta và Xá Lợi Phất cùng đi trú ở đó.
(Chỉ Nguyệt lục)
Nguyệt Thượng Nữ là con gái của cư sĩ Duy Ma Cật, theo Phật học pháp. Nhẫn: thọ hại mà không oán hận, có thể nhận biết chân như.

1605. Ngũ Thông.
Tiên Ngũ Thông hỏi Phật:
- Con có ngũ thông, Phật có lục thông, một thông ấy là gì?
Phật hỏi:
- Ngũ Thông!
- Dạ!
- Đó là nhất thông ngươi vừa hỏi ta.
(Chỉ nguyệt lục)
Lục thông là sáu thần thông mà Phật, Bồ tát do tu thiền định mà có. Đó là thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông. Đó là ngũ thông, thêm một thông nữa là lậu tận thông thì thành lục thông.

1606. Đỉnh núi không mây.
Từ Minh thấy Khả Chân tới bèn hét:
- Bản sắc của người tu là biết thời tiết nhân duyên, hạ chưa xong ngươi có việc gì gấp mà tới đây?
Khả Chân khóc thưa:
- Thiệu sư huynh đối với con rất tốt cho con biết con chưa thật ngộ do đó trở về xin sư phụ chỉ điểm.
Từ Minh không rườm rà hỏi luôn:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi.
Từ Minh trợn mắt, uy võ vạn phần thét mắng:
- Đầu ngươi đã bạc trắng cả rồi, răng cũng rụng gần hết, còn kiến giải như vậy, ngươi làm sao thoát vòng sinh tử?
Khả Chân khẩn khoản cầu Từ Minh chỉ thị .
- Được! Ngươi hỏi ta đi!
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Từ Minh hét to:
- Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi!
Khả Chân không ngờ Từ Minh nhắc lại câu nói của mình, thâm tâm chấn động, khai ngộ ngay lúc đó.
(Thiền thú 60)
Văn chương của Khả Chân rất hay, câu đáp của ông rất thi vị. Nhưng dưới mắt Từ Minh thì đó chỉ là trí giải chưa phải là chứng ngộ thật nên mắng ông một trận làm cho ông bị giao động tín niệm; khiến ông bỏ tất cả xuống, giống như một tờ giấy trắng. Việc mắng chửi này không phải là Từ Minh thiếu tu dưỡng, dễ nổi giận mà là thủ đoạn để bức bách khai ngộ. Từ Minh dùng phương pháp hét lớn để tăng thêm hiệu lực. Do đó Khả Chân mới thật chân chánh thâm kiến Từ Minh. Để cho đệ tự mình thâm cứ ngộ kiến đến trình độ nghiêm ngặt một giọt nước cũng không lọt, sau đó thiền sư mới khẳng định lại khiến đồ đệ trở thành long tượng của Thiền môn. 

1607. Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.
 (Xem chi tiết ở công án 1035)
Các nhà tâm lý học ngày nay nhận rằng đối với một sự việc nếu ấn tượng đầu tiên là xấu sau đó sự việc chuyển thành tốt, thì ấn tượng sau cùng lại càng tốt hơn. Sự khai ngộ của Huyền Tắc cũng vậy. Mới đầu, sự khẳng định ngộ kiến chưa được mạnh mẽ, bị phủ định rồi lại được tái khẳng định thì thiên quân vạn mã cũng không làm lay động được. Văn Ích thật ra chẳng làm gì cả, chỉ nhắc lại câu nói của Huyền Tắc. Phương thức này gọi là “ gọi về mà không về” khiến đối phương từ phàm phu trở thành người khai ngộ. Đây là một kỷ sảo trong phương pháp giáo dục khiến người học khó quên.
(Thiền thú 60)

1608. Giáp Sơn và Phật Nhật.
Giáp Sơn hỏi Phật Nhật:
- Lúc chưa tới Vân Cư, ngươi ở đâu?
- Thiên Thai Quốc Thanh.
- Thiên Thai có sóng xanh vỗ ầm ầm, ngươi từ xa lại,ý tứ thế nào?
- Sống lâu trong hang hốc chẳng treo tùng la.
- Là xuân ý, thu ý?
Phật Nhật im lặng hồi lâu không đáp, Giáp Sơn phê bình:
- Ngươi chỉ là gã chèo thuyền không phải là khách đi chơi hồ.
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Câu ngươi từ đâu tới bất tất phải hỏi, tuy nhiên đó là Giáp Sơn giăng bẫy ra cho Phật Nhật đâm đầu vào. Phật Nhật cũng là tác gia nên đáp ở Thiên Thai Quốc Thanh. Hai người đều giả vờ nên Giáp Sơn lại hỏi Thiên Thai có sóng xanh vỗ ầm ầm, ý ngươi thế nào? Rõ ràng là không có gì để nói, nói nhiều có ích gì? Thiên Thai là chỗ tốt đẹp, Phật tánh tự dõng xuất hà tất tới đây làm gì? Nơi đây chim không đẻ trứng, cỏ chẳng mọc. Không biết ngươi tới đây tâm ý thế nào?
Lúc đó Phật Nhật nói một câu thừa thãi:
- Sống lâu trong hang hốc, chẳng theo tùng la.
Lúc đó đáng nhẽ Giáp Sơn đánh cho Phật Nhật 30 gậy và đuổi ra là xong chuyện nhưng Giáp Sơn từ bi nên bảo:
- Là xuân ý hay thu ý?
Đó là có xuân, hạ, thu, đông biết bao dây leo. Phật Nhật không trả lời được vì không hiểu Giáp Sơn tùy duyên mà ứng cho nên im lặng. Cái im lặng này tuy là chiếu nhưng vô tác dụng; tuy ở trong hang hốc nhưng không biết diệu dụng của tùng la. Do đó Giáp Sơn từ bi phê bình: Ngươi chỉ là gã chèo thuyền chưa thể tiến vào bể tánh.

1609. Vốn đã giải thoát. 
(Xem công án 773)
Con người sống trong tưởng tượng của mình. Tưởng tượng có phiền não, có Phật pháp để tu, có giải thoát để cầu. Đó chỉ là tạo tác, là vô minh, là chấp trước. Ngưng tưởng tượng, xem rõ chân tướng thanh tịnh, vốn hoàn mỹ không thiếu sót gì; không cần phải tạo tác thêm gì nữa. Chúng sanh khác Phật ở chỗ Phật cái gì cũng không có, còn chúng sanh thì có quá nhiều. Chúng sanh có nhiều vọng tưởng, nhiều dục vọng, nhiều quy phạm, nhiều tri thức, rất nhiều, rất nhiều. Khi Tăng Xán hỏi: “Ai trói ngươi?” Đạo Tín đáp: “Không ai trói”. Câu hỏi và câu đáp đều cao minh. Đoạn đối đáp trên có thể viết lại như sau:
- Xin thầy chỉ cho con pháp môn giải thoát.
- Ai trói ngươi khiến cho ngươi không được giải thoát?
- Chính là “ngã” (con)
- Cái “ngã” trói ngươi nay ở đâu?
- Con tìm không thấy cái “ngã” đó.
- Nếu không tìm thấy cái “ngã” đó thì còn bị nó trói sao?
- Không tìm thấy nên không bị cái “ngã” đó trói.
- Vậy ngươi đã được cởi trói rồi!
Đạo Tín ngay đó giác ngộ.
(Thiền thú 60)

1610. Vô Vị Chân Nhân. 
(Xem công án 1030)
Vô Vị Chân Nhân là để mô tả tự tánh. Đừng quên, những gì mô tả chỉ là ngón tay trò mặt trăng. Tự tánh cũng chỉ là một từ miễn cưỡng mà dùng thôi. Vô Vị Chân Nhân là ngã chân chính, không có một vị trí nào, không thể xác định được nó ở một chỗ nào trong không gian, cũng không thể tu hành từng bước, từng bước mà lại gần nó. Cũng không thể dùng giác quan mà cảm nhận sự tồn tại của nó, cũng như dùng ngôn ngữ mà mô tả nó. Do đó, Lâm Tế dùng hình thức tỷ dụ nói Vô Vị Chân Nhân ở trên thân chúng sanh thường ra ra vào vào. Ông tăng hỏi Vô Vị Chân Nhân có dạng thức nào? Lâm Tế chỉ có cách giúp ông tăng tự thể nghiệm, chứ không thể dùng lời mà cho đáp án. Khi Lâm Tế túm lấy ông tăng buộc ông nói, không phải là ông mong đợi ông tăng trả lời mà là bức bách ông tăng khiến cho ông ta thấy không thể dùng lời nào để diễn tả mà thấy cái không thể thấy Vô Vị Chân Nhân. Bất hạnh là ông tăng mở miệng định nói thì Vô Vị Chân Nhân đã mất tiêu. Khi Lâm Tế nói Vô Vị Chân Nhân có phải là que cứt khô không là hàm ý nếu coi Vô Vị Chân Nhân là tâm ngẫu tượng, tâm linh hồn, tâm triết học huyền diệu thì chẳng thà vứt Vô Vị Chân Nhân vào thùng phẩn khiến khỏi làm hôi thối thế gian.
(Thiền thú 60)

1611. Tâm và Pháp đều quên.
Một ông tăng hỏi Hoằng Thông: 
- Tâm và pháp đều quên thì thế nào?
- Con ểnh ương ba chân vác coi trên lưng.
(Công án Thiền cơ)
Tâm có thể giác tri đã diệt, pháp nương vào nhân duyên mà sanh cũng không sanh cảm tri. Đó là tâm và pháp đều quên; lúc đó tâm giác tri có thể tri và cũng có thể ly; có thể chiếu nhưng không trú ở cảnh, gọi là bất giác, là chân như vô vi. Đó là cảnh giới Bồ tát tùy thuận giác tánh, đã chứng được chân như không thể, đối với các pháp đều tự tại vô ngại. Hành giả chứng được không tam muội: thấy tất cả mọi cảnh đều không có thật. Câu trả lời của thiền sư chỉ hành giả ngộ chân không có thể chứng được chân thật giải thoát tri kiến, có thể thoát ra mọi nghiệp duyên cho nên đối với mọi pháp đều có thể hóa giải dễ dàng. Vì tâm không chiếu nên không có cảnh chiếu, do đó tự tại vô ngại. Hành giả đạt tâm pháp đều quên là thần thông lực của hành giả. Hành giả không coi tâm lực, năng lực nào là có, tâm có thể chiếu diệt nên không có cảnh chiếu. Tâm và pháp đều quên: tự tánh không khởi vọng tánh tương ứng, các ngoại duyên không tạo thành cảnh.

1612. Thấy tánh thành Phật.
Kế Tông là một ông tăng ở Hoa Nghiệm Viện hỏi Vân Cư Trí thiền sư:
- Thấy tánh thành Phật là nghĩa gì?
- Tánh thanh tịnh vốn trong trẻo, không lay động, không thuộc sạch bẩn, dài ngắn, thủ xả, thể tự thảnh thơi. Thấy rõ như thế là thấy tánh. Tánh tức là Phật, Phật tức là tánh, nên nói thấy tánh thành Phật.
- Tánh đã thanh tịnh, không thuộc hữu, vô, vì sao có thấy?
- Thấy cái không thấy.
- Nếu không có vật để thấy làm sao còn có thấy?
- Chỗ thấy cũng không .
- Như vậy khi thấy thì ai thấy?
- Không có người thấy.
- Cứu cánh lý này thế nào?
- Ngươi biết không? Tất cả những gì gọi là có là do vọng tưởng mà có, cũng là nói bản tánh có thể y tha khởi tự tánh. Cái tự tánh đó, do đó có thể biến hiện, sản sanh cảnh biến hiện. Nếu người theo cái thấy mà sanh tình thì đọa vào vòng sanh tử. Người đã rõ, cả ngày trong trần cảnh, không khởi vọng tưởng đó là thấy tánh.
(Công án thiền cơ)
Qua đoạn đối thoại trên chúng ta thấy thiền sư đã chỉ cho ông tăng 3 điều:
1- Không có người thấy: chân tâm hiện lượng phản ánh ngoại trần mà sinh khởi tự tánh, pháp tướng. Pháp tướng này có thể không khởi vọng tâm chấp thủ, cảnh về cảnh, tâm về tâm, cho nên nói là không có người thấy.
2- Không có vật thấy: tánh vốn thanh tịnh, không có hình tướng, vậy làm gì có một vật gì để thấy.
3- Không có cái thấy: phàm phu thấy cảnh tâm khởi vọng niệm ưa, ghét. Người giác ngộ thấy cảnh biết đó là giả, tâm không khởi vọng niệm nên thấy mà như không thấy.
Nói cách khác: vốn không tự tánh làm gì có tánh để thấy, vốn tự tự nhiên làm gì có Phật để thành? Khi chưa thấy tánh muốn kiếm một tánh để thấy, thấy tánh rồi thì thấy không có một vật nào để thấy, tất cả đều là không, làm gì có Phật để thành.

1613. Cùng Đại Thiên.
Có ông tăng hỏi Thiệu Tu:
- Kiếp hỏa động nhiên đại thiên đều hoại, không biết cái đó có hoại không?
- Không hoại.
- Tại sao không hoại?
- Cùng đại thiên.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng hỏi khi thế giới tới giai đoạn hoại diệt, từ tứ thiền thiên trở xuống đều hoại, lúc đó thể tánh của chúng ta có hoại không? Vấn đề này rất thú vị mặc dù còn lâu mới xẩy ra, nhưng rất nhiều người tu vẫn lo trời xụp, đều muốn biết rõ ràng là thể tánh có bị hoại hay không? Thế gian là do 4 đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành. Khi hoại thì hỏa, thủy, phong sinh tai biến, cuối cùng địa đại bị bại hoại.
Theo Trường A Hàm Kinh thì khi thế giới hoại, ở giai đoạn kiếp hỏa, lửa của thế gian làm sao thiêu hủy toàn thế giới? Đương nhiên không phải, lúc đó sẽ xuất hiện 7 mặt trời nhiệt lượng phát sinh tiêu diệt tất cả vật chất ở thế gian. Hành giả chứng được pháp thân có thể đi khắp thập phương thế giới, đương nhiên không bị kiếp hỏa của ta bà thế giới ảnh hưởng. Thể tánh vốn không tự tánh, đại thiên thế giới diệt, thể tánh trở về hư không giới. Đại thiên thế giới diệt rồi, lại có đại thiên thế giới tái sinh. Thể tánh cùng đại thiên thế giới đồng tại.

1614. Cứu cánh không cảnh.
Nam Tuyền bảo một ông tăng:
- Đêm tới, gió mạnh.
- Đêm tới, gió mạnh.
- Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
- Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
Nam Tuyền lại gọi một ông tăng khác bảo:
- Đêm tới, gió mạnh.
- Là gió gì?
- Thổi gẫy một cành tùng.
- Là cành tùng nào?
Nam Tuyền kết luận:
- Một được, một mất.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng thứ nhất luôn cảnh giác, nghe câu nói của thiền sư không động tâm, gập cảnh ứng cảnh nhưng không chấp cảnh, thuận miệng nhắc lại câu nói của thiền sư. Thể tánh của hành giả vốn tự không tịch, hán đến hán hiện, hồ đến hồ hiện, đêm tới gió lạnh, đêm tới gió mạnh hiện, thiền sư lại nói “Thổi gẫy một cành tùng trước cửa” là dụ ông tăng khởi vọng tưởng cành bị gẫy là cành to hay nhỏ, có làm ai bị thương không v . v .
Nhưng ông tăng không mắc bẫy chỉ nhắc lại câu nói của thiền sư, ông đã lấy cứu cánh không thể ứng vạn chủng duyên.
Ông tăng thứ hai, nghe thiền sư nói liền chấp vào cảnh, tâm sinh vọng tưởng phân biệt. Câu của thiền sư có nghĩa là ông tăng thứ nhất đã qua được cửa khảo nghiệm còn ông tăng thứ hai thì không.

1615. Phất tánh chân thật.
Ấn Tông hỏi Lục tổ:
- Thế nào là Phật pháp bất nhị?
- Pháp sư giảng kinh Nát Bàn đã rõ Phật tánh, đó là Phật tánh bất nhị. Như cao quý Đức Vương bồ tát bạch Phật:
- Phạm 4 trọng tội, 5 nghịch tội, cho tới Diêm Đề có đoạn thiện căn, Phật tánh không?
Phật đáp:
- Thiện căn có 2: một là thường, hai là vô thường; Phật tánh phi thường, phi vô thường cho nên không đoạn, gọi là bất nhị. Phật tánh phi thiện, phi bất thiện nên gọi là bất nhị. Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, trí giả liễu đạt thì thấy không hai. Tánh bất nhị là Phật tánh. Ấn Tông nghe rồi chấp tay hoan hỷ.
(Công án thiền cơ)
Ấn Tông là một vị cao tăng đời Đường, người tỉnh Giang Tô, tuy có gặp ngũ tổ Hoằng Nhẫn nhưng cũng không có thành tựu gì. Sau giảng kinh Nát Bàn ở Pháp Tánh Tự ở Quảng Châu, gặp được Lục tổ. Phật pháp bao gồm tất cả các pháp của thế gian (tà pháp, chánh pháp), các pháp thiền định thế gian, xuất thế gian, xuất xuất xuất thế gian, đều là Phật pháp. Tổng quát tất cả các pháp đều gọi là Phật pháp vậy, pháp nào mới chính là pháp bất nhị? Theo như lời giảng của Lục tổ thì Phật tánh chính là bất nhị pháp môn. Không có đối đãi, thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã, không bất không, hữu tướng vô tướng v . v .
Ấn Tông nghe lời giảng tâm khai, ý giải sinh lòng hoan hỷ, chắp tay cung kính.

1616. Từ bi.
Văn Thù đến thăm Duy Ma cật, hỏi:
- Tại sao cư sĩ bệnh?
- Vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh .
(Points of departure)
Đọc kinh Duy Ma Cật chúng ta biết đi thăm Duy Ma Cật không phải là một chuyện dễ dàng cho Văn Thù. Duy Ma Cật rất nghiêm khắc nên 12 người khác đã từ chối đi thăm ông. Đây không phải chỉ là vấn đề của Văn Thù mà là của cả chúng ta. Khi chúng ta từ chối không làm một việc mà chúng ta không thích, chúng ta sẽ không tiến bộ. Thật dễ dàng cho chúng ta khi chúng ta đi thăm một người không quá phức tạp hay một người mà khi gặp khiến chúng ta thoải mái. Nhưng chuyện này không giúp chúng ta tiến bộ. Vì vậy Văn Thù vâng lời Phật đi thăm Duy Ma Cật. Câu trả lời của Duy Ma Cật có ý nghĩa gì? Nhiều người nghĩ tôi khỏe mạnh, không bị cảm cúm. Dạ dày tôi rất tốt, không gì làm phiền tôi. Tôi không bệnh chút nào cả. Nhưng dưới cái nhìn của Phật Giáo thì có 2 loại bệnh: Một là vật lý và tâm thần, hai là tham, sân, si; ngộ nhận cái ngã cũng là bệnh. Do đó chúng ta đều bệnh. Duy Ma Cật biết Văn Thù cần phải hiểu cái bệnh này và rồi hiểu sự tử bi.

1617. Thầy của chư Phật.
Một ông tăng hỏi Vân Cư:
- Ai là thầy của chư Phật?
Vân Cư hét lên và thêm:
- Tên xà nô này!
Ông tăng lạy.
- Ngươi hiểu sao?
Ông tăng hét lên và thêm:
- Lão viện chủ!
- Cơ bản ta chẳng hiểu.
Ông tăng quay một vòng rồi ra. Vân Cư kêu lên:
- Gã ăn mày cứ bám sát bàn ăn.
(Zen and Zen classics)
Thầy của chư phật là Phật tánh của chư Phật, chúng ta chỉ hiểu sự kiện này khi Phật tánh của chúng ta bảo cho chúng ta biết.

1618. Tìm ta.
Giáp Sơn bảo một ông tăng:
- Hãy tìm ta trên đầu trăm cỏ, hãy nhận biết hoàng tử ở chốn chợ đông.
(Zen and Zen classics)
Đầu trăm cỏ chỉ hiện tượng thiên nhiên. Khi chúng ta thấy mặt trời mọc, lá rơi, cá bơi chúng ta sẽ hiểu lời Giáp Sơn nói. Hoàng tử chỉ ý nghĩa sâu xa chỉ tìm thấy ở thế giới hỗn loạn này chứ không phải ở cõi Phật.

1619. Phật và ma.
Một hôm có ông tăng tên là Hàng Ma đến tham phỏng bắc tông Thần Tú. Thần Tú hỏi:
- Ngươi tên là Hàng Ma, nhưng ở đây không có Sơn tinh, Mộc quái, ngươi biến thành ma sao?
- Có Phật, có ma.
- Nếu ngươi là ma tất trú ở cảnh giới không thể nghĩ bàn.
- Là Phật tức không, làm gì còn có cảnh giới chứ?
- Ngươi và Thiếu Hạo có duyên.
Hàng Ma vào núi Thiên Hạo, học tăng các nơi vân tập lại đó tham học.
(Công án thiền cơ)
Câu đáp một của Hàng Ma có nghĩa là: mọi người tu đều có tâm ma phải khắc phục. Do vậy thường nói ma do tâm sanh, nếu tâm chánh thì không có cảnh ma. Một niệm tâm giác là Phật, một niệm tâm mê là ma.
Câu đáp 2: tự tánh là không, làm gì có cảnh giới nào để nói? Trước hết phải chứng ngộ Phật tánh, lúc đó há còn ngại ma cảnh? Con tuy có tâm nguyện đạt cảnh giới hàng ma nhưng dụng pháp là không, chỉ là tuỳ duyên mà có danh hiệu Hàng Ma.
Câu cuối của Thần Tú là dự tri Hàng Ma sẽ là đại sư độ chúng ở núi Thíếu Hạo.

1620. Kiếm không mũi.
Một ông tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch:
- Thế nào là kiếm không mũi nhọn?
- Không thể rèn luyện thành.
- Dụng nó thế nào?
- Người gập đều mất mạng.
- Người không gập thì sao?
- Cũng rơi đầu.
- Người gập mất mạng đã đành, tại sao người không gập cũng rơi đầu?
- Ngươi không biết thấy đạo là xong hết sao?
- Xong hết rồi sao?
- Lúc đó mới biết có loại kiếm này.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng thường nghe người ta nói kiếm không mũi nhọn, không hiểu ý là sao, cũng không biết cảnh giới này ra sao nên đặt câu hỏi với Tào Sơn. Kiếm không mũi nhọn là Phật kiếm. Kiếm này, thân kiếm không thể, mũi kiếm không tướng nên vô hình, vô tướng, có năng lực trừ khử tất cả mọi chướng ngại. Người được kiếm này có thể trừ khử được nghiệp chướng của mình (tự lợi), có thể tĩnh hóa những chướng ngại của người khác (lợi tha). Muốn có công năng này người ta phải đạt được chân không thực sự (trừ bỏ được ngã chấp, pháp chấp), nếu không tu mà nhập Phật tri kiến thì không thể chuyển nghiệp chướng của mình và của người.

1621. Đại cơ, đại dụng.
Một hôm, Bách Trượng Hoài Hải huấn thị đồ đệ:
- Thiền giáo đại pháp không phải là chuyện nhỏ, ta lúc trước bị Mã đại sư hét một tiếng, tai bị điếc đến 3 ngày.
Hoàng Bá nghe sư phụ nói rồi thè lưỡi ra.
Bách Trượng hỏi:
- Ngươi về sau không muốn kế thừa thiền pháp của Mã Tổ sao?
- Hôm nay sư phụ nêu lên công án này khiến chúng con thấy đại cơ, đại dụng của Mã Tổ, nhưng còn chưa hiểu rõ người, giả như kế thừa thiền pháp của người sợ rằng về sau không tiếp dẫn được người học.
- Như vậy! như vậy! Kiến giải hơn thầy mới có thể đảm đương sự truyền thọ đại pháp, chỗ này ngươi hơn ta.
Hoàng Bá nghe rồi cung kính lạy tạ.
Về sau Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Bách Trượng tái tham Mã Tổ, ý chỉ của 2 vị tôn túc này là sao?
- Chuyện này tỏ rõ đại cơ, đại dụng.
- Dưới trướng Mã Tổ xuất hiện 84 vị thiện tri thức, bao nhiêu người được đại cơ, bao nhiêu người được đại dụng?
- Bách Trượng được đại cơ, Hoàng Bá được đại dụng, còn lại là xướng đạo sư.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đại cơ, đại dụng của Thiền môn chủ yếu là chỉ thẳng bản tâm, kiến tánh thành Phật. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày cần tự do, tự chủ, có thể viên mãn, vui vẻ, tinh thần và vật chất hợp nhấy, trong ngoài là một, theo Phật đạo mà không thành Phật, theo chúng sanh mà không nhập vào chúng sanh, chỉ nói khai ngộ, chỉ nói cơ dụng. Đó là thiền vậy.

1622. Bí quyết sử sự.
Đời Đường, thiền sư Phong Can trú ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai. Một hôm tản bộ trong rừng bỗng nghe có tiếng trẻ con khóc. Ông tìm tới nơi thì là một đứa nhỏ y phục lôi thôi, nhưng tướng mạo kỳ vĩ. Hỏi thăm những nhà quanh đó, không ai biết đứa nhỏ là con cái nhà nào. Phong Can bất đắc dĩ phải mang đứa nhỏ về Quốc Thanh tự nuôi, chờ người đến nhận lãnh. Vì do Phong Can lượm về nên đặt tên là Xả Đắc. Xả Đắc ở Quốc Thanh Tự dần dần lớn lên, Phong Can cho ông lo việc nấu cơm. Xả Đắc làm quen nhiều đạo hữu, trong đó có một người nghèo khổ tên là Hàn Sơn. Hai người rất thân nhau, Xả Đắc thường dành cơm thừa cho vào ống trúc, trao cho Hàn Sơn mang về ăn. Một hôm Hàn Sơn hỏi xả Đắc:
- Nếu có người vô duyên, vô cớ bài báng ta, mắng chửi ta, cười cợt ta, khinh thị ta, lừa dối ta, ta phải làm sao mới đúng?
- Ngươi hãy nhường nhịn họ, kệ họ, xa lánh họ, tôn kính họ.
- Trừ những cái đó ra, còn bí quyết nào nữa không?
- Bài kệ của Bồ tát Di Lặc nói:

老 拙 穿 破 襖
Lão chuyết xuyên phá ảo
淡 飯 腹 中 飽
Đạm phạn phúc trung bão
補 破 好 遮 寒
Bổ phá hảo già hàn
萬 事 隨 緣 了
Vạn sự tuỳ duyên liễu
有 人 罵 老 拙
Hữu nhân mạ lão chuyết
老 拙 只 說 好
Lão chuyết chỉ thuyết hảo
有 人 打 老 拙
Hữu nhân đả lão chuyết
老 拙 自 睡 倒
Lão chuyết tự thụy đảo
梯 嘩 在 面 上
Thê hoa tại diện thượng
隨 他 自 乾 了
Tùy tha tự can liễu
我 也 省 力 氣
Ngã dã tỉnh lực khí
他 也 無 煩 惱
Tha dã vô phiền não
這 樣 波 羅 蜜
Giá dạng ba la mật
便 是 妙 中 寶
Tiện thị diệu trung bảo
若 知 這 消 息
Nhược tri giá tiêu tức
何 愁 道 不 了
Hà sầu đạo bất liễu
人 弱 心 不 弱
Nhân nhược tâm bất nhược
人 貧 道 不 貧
Nhân bần đạo bất bần
一 心 要 修 行
Nhất tâm yêu tu hành
常 在 道 中 辦
Thường tại đạo trung biện.

Lão vụng mặc áo rách
Cơm không, bụng no rồi
Áo vá che trời rét
Vạn sự tùy duyên thôi
Có người mắng lão vụng
Lão vụng lại chỉ cười
Có người đánh lão vụng
Lão vụng nằm ngủ thôi.
Nước mắt rơi trên má
Mặc nó tự khô đi
Nếu ta nhường một chút
Người chẳng nhọc thị phi
Pháp Ba La Mật đó
Chính là báu trong châu
Nếu biết được tin tức
Thành đạo có bao lâu
Người yếu tâm chẳng yếu
Người nghèo Đạo chẳng nghèo
Tu hành nếu quyết chí
Thường tại đạo nghêu ngao.

Nếu hiểu được tinh thần của bài kệ này thì đó là bí quyết sử sự.
(Tinh Vân thiền thoai
Đài Châu Mục Lữ Khâu Dẫn hỏi Phong Can: ở đâu có chân nhân bồ tát? Phong Can bảo: Hàn Sơn, Xả đắc là 2 vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền hóa thân. Lữ Khâu Dẫn tới lễ bái, 2 người cười lớn bảo:
- Phong Can lắm chuyện, Di Đà chẳng biết.
Ý nói Phong Can là hóa thân của Phật Di Đà mà người đời chẳng biết. Nói rồi 2 người vào hang núi, không thấy nữa. Khâu Dẫn ghi chép những thi kệ của 2 người trên vách núi, còn lưu truyền đến ngày nay. Hàn Sơn, Xả Đắc không bị thế sự trói buộc, siêu thoát, tự tại. Đó là bí quyết xử thế.

1623. Phàm và thánh.
1- Đời Đường, Lâm Tế nói:
- Nếu ngươi còn yêu thánh, ghét phàm, thì ngươi hãy còn chìm nổi trong bể sanh tử.

2- Kế Tông ở Hoa Nghiêm Viện hỏi Vân Cư:
- Chân lý tối căn bản là sao?
- Phàm và thánh đều chỉ là danh, nếu theo danh mà giải thì rơi vào sanh tử.
(Trung Quốc Thiền Tông)
Cái gọi là chân lý tối căn bản là “tánh” của kiến tánh thành Phật. Trong cái tánh thanh tịnh này không có phàm thánh; nếu nói có phàm thánh là mê vọng. Phàm và Thánh chẳng qua chỉ là tên gọi mà thôi, do vọng tưởng sanh ra phân biệt. Chúng ta khái niệm hóa sự vật, gán cho sự vật danh xưng và tin tưởng đó chính là thật. Nếu nhận cái danh xưng tạm thời đó mà sinh kiến giải phân biệt thì chỉ rơi vào biển khổ sinh diệt.

1624. Trí Tạng và Huệ Trung.
Huệ Trung quốc sư hỏi Trí Tạng:
- Thầy ngươi dạy ngươi thế nào?
Trí Tạng từ Đông đi sang Tây rồi đứng lại.
- Chỉ là như vậy, còn có gì khác không?
Trí Tạng từ Tây đi sang Đông rồi đứng lại.
Huệ Trung xem cử động của Trí Tạng rồi lại hỏi:
- Đó là thiền pháp của Mã Tổ, còn của ngươi thì sao?
- Con sớm đã trình hòa thượng rồi!
(Trung Quốc Thiền Tông)
Huệ Trung quảng bác kinh luận, học và hành kiêm bị, ông ghét thiền giả phương Nam coi nhẹ kinh luận. Trí Tạng đối câu hỏi của Huệ Trung dùng hành động trực tiếp trả lời. 
Trí Tạng đối với các vị thiền giả kiệt xuất của Trường An không chút sợ sệt, thái độ lỗi lạc quang minh biểu thị hành động của thiền phương Nam.

1625. Tâm là Phật.
Một hôm, Mã Tổ bảo đại chúng:
- Các ngươi nên tin rằng tâm các ngươi chính là tâm Phật. Đạt Ma từ Tây sang Trung Thổ chỉ là để truyền cái pháp nhất tâm này. Cái mà Đạt Ma khai thị chính là câu nói này ở kinh Lăng Già: Phật nói:
- Lấy tâm làm tông, lấy vô môn làm pháp môn.
(Trung Quốc Thiền Tông)
Thiền của Mã Tổ đặt căn bản ở đốn ngộ. Ông chủ trương người lãnh ngộ câu “Tâm là Phật” là Phật, người không ngộ câu này là chúng sanh. Do đó, ngoài chúng sanh không có Phật.

1626. Bài kệ của Bảo Tích.
Đời Đường, Bàn Sơn Bảo Tích làm bài kệ sau:

心 若 無 事
Tâm nhược vô sự
萬 法 不 生
Vạn pháp bất sinh
意 絕 玄 機
Ý tuyệt huyền cơ
纖 塵 何 立
Tiêm trần hà lập

Tâm nếu vô sự
Vạn pháp chẳng sanh
Huyền cơ hết ý
Sao có bụi trần
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Nếu trong tâm không có phiền não, vô minh thì mọi sự việc đều tự nhiên chu biến, viên dung, nơi nơi đều thấy hoa xuân thơm đẹp.

1627. Đảm đương.
Dược Sơn bảo Cao sa di:
- Ngươi biết không, tâm người ta náo nhiệt như thành Trường An.
- Trong tâm con quốc thái dân an.
- Sự thể ngộ đó do ngươi đọc kinh hay do ngươi thỉnh ích mà có?
- Không do đọc kinh, cũng không do tham học.
- Có người không đọc kinh cũng không tham học vì sao không được nó?
- Không phải là không thể ngộ được mà là không chịu đảm đương.
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Người chịu đảm đương dù gặp hoàn cảnh nào: tốt hay xấu, thuận hay nghịch, đều có thể từ định phát huệ mà giải quyết vấn đề. Người đó không oán trách, không đố kỵ, trong tâm thường tự tại.

1628. Bài kệ của Phật Quốc Bạch thiền sư.

山 上 山 僧 山 下 牛
Sơn thượng sơn tăng sơn hạ ngưu
披 毛 戴 角 混 同 流
Phi mao đái giác hỗn đồng lưu
普 天 成 佛 與 成 祖
Phổ thiên thành Phật dữ thành tổ
獨 有 潙 山 作 水 牛
Độc hữu Quy Sơn tác thủy ngưu.

Trên núi là tăng, dưới núi trâu
Đội sừng, da khoác khác gì đâu
Thiên hạ thành Phật thành tổ cả
Quy Sơn lại chỉ thích làm trâu.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Bạch thiền sư ghi lại chuyện Quy Sơn muốn xuống núi làm trâu (Xem công án 1072)

1629. Nghiệp lực.
Có ông tăng hỏi Phổ Sơn:
- Địa,thủy, hỏa,phong làm sao biến thành chấp hữu?
- Nước lặng không sóng, bọt nước là do gió tạo.
- Bọt trở về nước thì sao?
- Nước không vẩn đục, cá, rồng tha hồ bơi nhẩy.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Ở hiện tượng giới, hữu tình và vô tình đều do nghiệp lực sai khiến, nó khiến chúng ta tạo ra muôn vàn tạo tác.

1630. Một tiếng hét.
Lâm Tế sau khi bảo Tam Thánh:
- Ai ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị tiêu diệt ở trong tay con lừa mù này!
Nói xong đoan tọa mà tịch. Huệ Nhiên thưa:
- Lão sư, bình thường có người đến tham phỏng thầy đều hét một tiếng lớn, tại sao chúng con lại không học được một tiếng hét lớn như thầy?
Lâm Tế mở mắt ra nói:
- Ta sẽ không để cho các ngươi mô phỏng.
Nói rồi Lâm Tế liền nhập diệt.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền giả không thích mô phỏng. Hoàng Bá dùng gậy, Lâm Tế hét, Triệu Châu trà, Vân Môn bánh hồ, mỗi người tiếp đãi học nhân 1 cách riêng. Đó là gia phong của họ. Thiền giả phải trên đầu không mái ngói che. Dưới không tấc đất để chân. Tất cả đều phải tự mình sáng tạo.

Các Sách Trích Dịch

Bích Nham Lục bạch thoại chú giải Hứa Văn Cung
Bình Thường Tâm Thị Đạo Bồ Đề Học xã
Ch’an and Zen Teaching Lu K’uan Yu
Chích Thủ Chi Thanh Dư Tiến Phu
Đồ giải thiền vấn đáp Trần Hòa Chương
Entretiens de Lin-Tsi Paul Demiéville
Hảo Tuyết phiến phiến Lâm Thanh Huyền
Hương Thủy Hải Lâm Thanh Huyền
Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông Bồ Đề Học Xã
Mumonkan & Hekiganroku Katsuki Sekida
Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ Long Mãn
Nhất Vị Thiền - quyển phong Lý Anh Đệ
 - quyển hoa Hoàng Tĩnh Nhã
 - quyển nguyệt Lâm Tân Cương
Niêm Hoa vi Tiếu Cố Vĩ Khang
Phật dữ Thiền Minh Kính
Sinh hoạt Thiền Dương Huệ Nam
The Center Within Gyomay M. Kubose
Thiền Cơ Lâm Minh Dục
Thiền Cơ Sử Nễ Tại Chân lý Trung Giác Tình Viên Thông
Thiền Đích Cố Sự Hựu Nhất Tập Giản Huệ Căn
Thiền Lâm Tuệ Ngữ Vân Lăng
Thiền Lý Dữ Nhân Sinh Bồ Đề Học Xã
Thiền Ngộ Bình Điền Tinh Canh
Thiền Ngoại Thuyết Thiền Trương Trung Hành
Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu Trịnh Thạch Nham
Thiền Sư Khải Ngộ Pháp Thái Vinh Đình
Thiền Tông Dật sự Đạo Long 
Thiền Tông Tọa Thạch Minh Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Trí Tuệ Ngữ Lục Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Công Án Bí Truyền Dư Tiến Phu
Thiền Thuyết Thái Chí Trung
Thiền Viên Vương Trần Canh
Tinh Vân Thiền Thoại Tinh Vân
Trung Quốc Thiền Khang Hoa 
Vô Môn Quan bạch thoại chú giải Thánh Tham
Zen Koans Gyomay M. Kubose
Zen Light Barragato 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Giêng 2016(Xem: 6903)
Nếu bạn hỏi tôi giải thích cái mà bạn gọi là đốn ngộ (satori-événement) và bảo tôi lý giải giữa hằng giác (satori-état) và đốn ngộ, tôi sẽ nói rằng: “Mỗi người chúng ta, không có trường hợp ngoại lệ - mọi chúng sanh và ngay cả mọi loài hữu tình – đều ở trong hằng giác.
11 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6640)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng. Người ta có thể trả lời câu hỏi này bằng cách giơ ngón tay lên hay đập nắm tay xuống bàn hay chỉ bằng cách cứ im lặng. Đây là những câu đáp không lời cho câu hỏi “Thiền là gì?”, đây là biểu lộ chân thực của những gì trú ẩn sâu kín vượt ngoài ngôn từ và sự phân tích có tính cách lý trí.
29 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5787)
Trong thế giới vật lý, ngọc quý là vật do thiên nhiên tạo hóa, hiếm có, và vì thế có giá trị ở mặt đồng tiền, thẩm mỹ và quý hiếm. Song, những việc thuộc thế giới vật lý dù có giá trị đến đâu cũng có giới hạng của chúng ở trong vòng tương đối.
15 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7336)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức. Thiền cũng không phải là nền triết học với những hệ thống luận lý mang tính chủ quan của vỏ não; cũng không phải là ngành khoa học với những cơ cấu lập trình và máy móc phức tạp.
09 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7867)
Đại sư Lục tổ Huệ Năng là một nhân vật lịch sử đang đi vào huyền thoại. Sử tích của ngài mặc dù đã được ghi chép trên giấy trắng mực đen là quyển kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, nhưng những mẫu truyện huyền hoặc về cuμc đời ngài thỉnh thoảng vẫn làm mờ đi phần nào sự thực.
08 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6707)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản. Hara ở ven Vịnh, nhìn ra Thái Bình Dương, gần núi Phú Sĩ.
07 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7208)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự? Chính cái tình thức của ta bị chia chẻ manh mún bởi sự lộng hành vô độ của dục ái, đã đẩy đưa ta lang thang từ vạn kiếp luân hồi với bao khổ lụy bi ai.
28 Tháng Chín 2015(Xem: 9833)
Khi tập ngồi thiền, ban đầu cần phải sổ tức (đếm hơi thở). Thời gian sau thuần thục rồi đến tùy tức, sau đó tri vọng, biết là chơn tâm… Cá nhân quý thầy kinh nghiệm, sổ tức là một pháp quán căn bản rất cần thiết cho một người bắt đầu tập ngồi thiền.
28 Tháng Chín 2015(Xem: 9958)
Lối vào đạo thì nhiều, nhưng đường vào thiền thì không cửa, miễn sao nhận ra và sống về tự tánh vốn tự sáng tịnh nơi chính mình thì khế hợp thiền. Bởi nhắm thẳng tự tánh mà không câu nệ kẹt trên phương tiện, nên thiền tuy có phương pháp mà không thành phương một phương pháp cố định.