Lời Người Biên Tập

25 Tháng Mười Một 201414:43(Xem: 5798)
MUỐN TỎ NGỘ LÀ MỘT SAI LẦM LỚN
Thiền sư Sùng Sơn Khai Thị Anh ngữ
Thích Giác Nguyên chuyển tiếng Việt

LỜI NGƯỜI BIÊN TẬP 

  

blank
Thiền sư Thích Huyền Giác

Các đây khá lâu, ở Trung Quốc có một vị tăng trẻ tên là Hoài Nhượng đến chào Lục tổ Huệ Năng. Sau khi nhận được ba lễ đầy đủ, Sư hỏi: "Ông từ đâu tới? "

Tăng đáp:

– Dạ, từ hòa thượng Lão An ở Tung sơn tới.

– Vâng, nhưng vật gì xuất phát từ Tung Sơn?

Tăng đáp:

–Nếu Thầy gọi nó là một vật, tức đã sai lầm.

Thiền tổ Huệ Năng gật đầu thầm nhận .

 

Đặt tên là một sai lầm. Gọi nó bất cứ điều gì cũng là một sai lầm. Mở miệng là một sai lầm. Ngày nay nếu bạn cố gắng thậm chí vẽ bày ra nó, đó cũng là sai lầm – có lẽ còn gây thêm nhiều tai hại. Một số người sẽ dấy loạn và điên cuồng để phản đối sai lầm này. Số người khác tin rằng chỉ cần vững mạnh trong lẽ phải để tạo ra "sai lầm" này.

 

Cả một sai lầm. Sai lầm, sai lầm, sai lầm. Cuốn sách này nói về sai lầm. Đó cũng là một sai lầm rất lớn.

 

Vài năm trước đây, chúng tôi nhận được tin từ những người bạn thân ở Nhà xuất bản Shambhala, đã sớm chuyển giao các bản sao đầu tiên của một cuốn sách mới hoàn thành, do Thiền sư Sùng Sơn gởi đến Trung tâm Thiền. Chúng tôi đều rất vui mừng, nhất là người chủ biên là tôi đã trải qua bốn năm lắp ráp từ hàng trăm mảng văn bản và ghi âm lời giáo hóa của ngài, cũng như các văn bản cuối cùng rồi cũng được gởi đến!

 

Trong vòng một tuần, tôi đã quyết định đáp máy bay dự kiến ​​trở về Hàn Quốc để có dịp trao văn bản trực tiếp cho thầy của tôi. Về đến phòng mình trong Tổ đình chùa Hoa Khê, nơi có những ngọn núi với rừng thông xanh ngắt phía trên thủ đô Seoul. Tôi mặc áo choàng và đắp y đãnh lễ thầy đầy đủ ba lạy, rồi nhìn vào trong túi đãy, lôi ra cuốn sách mới. Tôi rung động với sự phấn khởi, cho biết rằng bây giờ sẽ có một tuyên bố đầy đủ và tỉ mỉ về những lời giáo hóa của ngài bằng tiếng Anh, như ngài từng mong muốn, và hiện nó nằm trong tay ngài. Không biết ngài sẽ phản ứng ra sao? Và sẽ nói gì?

 

Ngài cầm cuốn sách quạt một lần chầm chậm qua bàn tay phải của mình, rồi đặt nó trên cái bàn viết nhỏ. Sau đó từ ngón tay cái của ngài lật ra quá nhanh để phơi bày bất cứ chữ số nào ở các trang bên trong. Bạn có thể cảm nhận được làn gió từ các trang sách phát ra mà ngài đang nhìn vào. Ngài bèn dừng lại một lần để chú ý đến các ký tự Trung Quốc đính kèm bên trong các trang. Quả thật tôi đang nghi ngờ điều gì có thể sẽ xảy ra.

 

Hầu như ngài tỏ ra thờ ơ lạnh lùng tất cả. Không giống như tôi tưởng tượng là sẽ đón nhận sự tán thưởng từ vị Thầy của mình. Cho dù ngay cả thái độ nghiêm nghị, quở trách, hoặc chỉ nửa cái gật đầu của ngài thôi cũng đủ khích lệ tôi. Bốn năm dài nhiều lúc hình dung về cái gì đó, bây giờ không được như ý. Ngài nghiêm nghị phán bảo: “Hãy ném cuốn sách này vào thùng rác" và chỉ tay một cách yếu ớt hướng thẳng về thùng rác ở phía xa. Cuốn sách dẫy chết từ những ngón tay của ngài như một con cá sống không còn nước. Ngài lặp lại:

– Hãy ném vào thùng rác.

– Dạ sao vậy thầy ? Có điều gì sai lầm ư ?  Tôi hỏi.

Ngài nói: 

– Nhiều người đọc những lời trong đây sẽ trở nên dính mắc với chúng. Vì vậy, những từ ngữ này là những lời độc hại. Lời nói của ma quỷ. Đó là một sai lầm lớn. Do vậy, tốt hơn là bây giờ con hãy ném cuốn sách này vào ngay thùng rác.

 

Trong khoảnh khắc, niềm vui bất thường hướng về cái “Tôi” đã biến thành nỗi thất vọng ê chề. Sự vô ngại của ngài, ngay cả việc giảng dạy, đều chỉ ra cho tôi thấy sự dính mắc mà tôi đã trải qua nhiều năm làm việc cặm cuội khó nhọc, để đưa nó vào thành sách. Thật sai lầm ngu ngốc!

 

Vì vậy, cuốn sách này là một sai lầm lớn, như ngài đã phán bảo. "Không ham muốn bất cứ điều gì. Không tạo ra bất cứ thứ gì. Không nắm giữ bất cứ chuyện gì. Không dính mắc với bất cứ việc gì.” Và lớn nhất của vấn đề này là  đang "muốn",  bởi vì đây là nơi phát khởi toàn bộ địa ngục. Muốn tỏ ngộ là một sai lầm lớn. Hay nói cách khác, muốn đắc đạo là một sai lầm lớn.  Đó là cụm từ mà ngài thốt lên không phải chỉ một vài lần, mà tùy thuộc vào câu hỏi của môn sinh đặt ra thật nhiều.

 

Trong kinh Kim Cang, Đức Phật đã hỏi Tu Bồ Đề:

–Này Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao? Khi Như-lai giác ngộ, Như- lai có được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như-lai có nói pháp chăng?

 

Tu Bồ Đề trả lời:

–Dạ không, thưa Thế tôn. Như chỗ con hiểu nghĩa của Phật dạy, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và cũng không có pháp nhất định mà Như-lai có thể nói. Vì cớ sao? Vì pháp Như-lai nói đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Cho nên tất cả các bậc Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.

 

Phật bảo Tu Bồ Đề: – “Đúng thực như thế. Này Tu Bồ Đề, Như-lai đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhẫn đến không có một chút pháp gì có thể được, đó mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bởi vì nếu Như-lai đã chứng được bất cứ điều gì, nó sẽ không phải là  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác “.

 

Đây là những lời Phật dạy mà Thiền sư muốn nhấn mạnh nhằm nói đến khi Sư từng khai thị: "Các vị vốn được đầy đủ. Chỉ vì các vị không biết nó". Cho nên muốn tỏ ngộ là một sai lầm lớn. Chỉ làm điều đó.

Thiền Sư Sùng Sơn đã từ giả thế giới này vào ngày 30 tháng 11 năm 2004. Đây là tổng hợp giáo lý đầu tiên của ngài xuất hiện bằng tiếng Anh kể từ khi ngài thị tịch. Nó chứa đựng những đoạn trích từ các cuộc đối thoại của ngài với môn sinh, những buổi thỉnh vấn và một số kể lại thời niên thiếu của ngài đã được dịch lần đầu tiên từ tiếng Hàn.

 

Hơn thế nữa, văn bản này có chứa một bức tâm thư rất quan trọng mà ngài đã viết gởi cho Tổng thống Chun Du Hwan, vị tướng lãnh quân sự đáng ghê sợ. Là người lên nắm quyền lãnh đạo đất nước trong một cuộc đảo chánh và cai trị Hàn Quốc với một bàn tay sắt vào những năm của thập niên 1980 của thế kỷ Hai mươi. Bức thư này chưa bao giờ được công bố trước đây, thậm chí chỉ một vài người trong số các môn sinh gần gũi nhất của ngài mới nghe nói về sự tồn tại của bức thư, nhưng hiếm người đọc được nó. Tôi đã so sánh lại văn bản từ gốc tiếng Hàn trong khi tham khảo ý kiến thật ​​chặt chẽ một bản dịch hiện đại.

 

Hơn hai trăm trang này sai lầm, bắt đầu như là luận án thạc sĩ của tôi ở khoa Thần học, Viện Đại học Harvard và nộp cho cố Giáo sư Masatoshi Nagatomi vào tháng 4 năm 1992. Một thời gian ngắn sau khi tôi xuất gia vào tháng 9 năm 1992, tôi đã dâng nó cho Thiền sư Sùng Sơn.

 

 Ngài nói: "Viết sách là điều cần thiết. Tuy có điều tập sách này khá sơ sài và quá mỏng, chưa lột tả được Chân lý.” Nó chỉ được lưu hành chính thức một số trong các Trường Thiền Quan Âm, cuối cùng những tài liệu tìm thấy được tích hợp vào các bản tin định kỳ của Trường Thiền.

Eden Steinberg của nhà xuất bản Shambhala khuyến khích tôi biên soạn tập tài liệu này để trở thành một cuốn sách. Tôi cảm ơn cô Ben Gleason, và tất cả mọi người tại Shambhala có tính chuyên nghiệp cao và tầm nhìn rộng cho việc quảng bá của Giáo pháp Thiền tông. Kể cả Tiến sĩ Jon Kabat-Zinn và Hòa thượng Joan Halifax – cùng những môn sinh đầu tiên của Thiền sư Sùng Sơn – đã đóng góp thiết thực cho luận án này.

 

Cảm ơn Tăng thân đại chúng. Tôi cũng muốn bày tỏ sự đánh giá sâu sắc nhất về việc giảng dạy và hỗ trợ của Thiền sư Soeng Hyang (Barbara Rhodes), Thiền sư Đại Quang (Dae Kwang), Thiền sư Đại Phong (Dae Bong) và Thiền ni Đại Quán (Dae Kwan), tất cả các Trường Thiền Quan Âm.

 

                                    Thích Huyền Giác

(Hyon Gak Sunim)

Trung tâm Thiền Neung In,

Chùa Đông Hạc, núi Đức Sùng.

                                                                                                                                                                                 Hàn Quốc
blank
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Chín 2014(Xem: 9401)
Tánh thấy là tánh giác biểu lộ nơi sự thấy. Tánh giác thì vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay thế nên tánh thấy cũng vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay. Thế thì tại sao lại có ra cái thấy phiền não, sanh tử khổ đau? Cái thấy của chúng ta đã bị nhiễm ô bởi tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… để thành ra các tướng sai biệt đến độ tranh chấp nhau không thể hoà giải. Đó là cái thấy sai lầm.
28 Tháng Tám 2014(Xem: 9072)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
22 Tháng Tám 2014(Xem: 7646)
Đốn ngộ tiệm tu là một vấn đề căn bản quan trọng trong Thiền tông, vì đó cũng là con đường Thiền tông. Thiền sư Phổ Chiếu (1158-1210) trong Tu Tâm Quyết nói:
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6906)
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 10356)
Trong những lời dạy của Lục tổ trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài đã đề cập và trích từ nhiều kinh luận như Duy Ma Cật, Kim Cương, Đại Bát Niết Bàn, Thành Duy Thức Luận, Đại Bát Nhã…. Trong kinh này, ngài nói đến nhiều chủ đề của Đại thừa như Ba Thân Phật, Vô tướng, Vô trụ, Vô niệm, Thiền định, quy y, phát tâm, sám hối…
27 Tháng Bảy 2014(Xem: 14099)
Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh Pháp Hoa, là Như Lai Tạng trong kinh Lăng Nghiêm, Thắng Man, là Pháp Giới Tánh trong kinh Hoa Nghiêm, là Tánh Giác trong kinh Viên Giác, là Tánh Không trong kinh Đại Bát Nhã, là Thánh Trí Tự Giác trong kinh Lăng Già…
24 Tháng Bảy 2014(Xem: 15224)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dōgen Kigen) Nhật Bản thế kỷ mười ba là một nhà cải cách tôn giáo, một Phật tử thành tựu, một tư tưởng gia sâu sắc và một người viết văn sáng chói. Tác phẩm chính yếu của ngài, Shōbō-genzō, viết bằng một thể văn phức tạp, cách tân, được yêu thích trong thời gian gần đây không chỉ vì những thành tựu triết lý của nó mà còn do sự tuyệt hảo văn chương của nó, thuộc về những bản văn Thiền được quý chuộng nhất.
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 11977)
Chúng sanh mê lầm quên tâm chạy theo vật, hướng ra ngoài gọi là theo duyên, do đó bị cảnh duyên chuyển quên mất gốc, nhận lầm các pháp là thật có, nên gọi là cái thấy điên đảo. Điên đảo là cái thấy lộn ngược, cái giả cho là thật, cái thật thì không nhận thấy.
17 Tháng Bảy 2014(Xem: 6030)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu.
16 Tháng Bảy 2014(Xem: 11344)
Đây là nhắc nhở cho tất cả về ý nghĩa "Đưa Tâm Về Nhà". Bây giờ mình phải ngược dòng lưu chuyển để đưa tâm về nhà. Như đã nói, hiện tại mình đang ở đây nhưng tâm mình thì đang lang thang ở quê người, đó gọi là xa quê, xa nhà, là mất gốc.