Mặt trời chiếu sáng ba phương diện chánh tín

13 Tháng Tám 201502:46(Xem: 5412)

Đức Đạt Lai Lạt Ma
MẶT TRỜI CHIẾU SÁNG BA PHƯƠNG DIỆN CHÁNH TÍN
[= Ca tụng mười bảy Đại sư Nalanda]
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

dalai lama 1234Đây là một bài ca tụng mười bảy đại sư Nalanda được đặt danh đề “Mặt Trời Chiếu Sáng Ba Phương Diện Chánh Tín”.

1. Sinh từ đại bi thệ nguyện cứu độ tất cả hữu tình, bậc tối thắng trong hàng chư thiên [= tôn hiệu của Phật], ngài đã đạt trạng thái xuất li siêu việt và thật chứng của đấng cứu độ và ngài hướng dẫn các hữu tình xuyên qua giảng thuyết về duyên khởi. Đấng Đại Hùng, mặt trời của ngôn thuyết, tôi cúi đầu kính lễ ngài.

2. Tôi cúi đầu kính lễ nơi chân ngài Long Thọ, khéo léo bậc nhất trong thuyết giảng sáng tỏ thật tướng cách tuyệt các cấu trúc của tưởng -- tinh yếu của các kinh Mẫu Thân của Chư Tối Thắng (Kinh Bát Nhã) -- xuyên qua lí luận của duyên khởi. Đúng như tiên tri của Đấng Tối Thắng, ngài đã đề xuất Trung Đạo

3. Tôi kính lễ người con trai trưởng của ngài, bồ tát Thánh Thiên Đề Bà, đệ nhất trí giả và thánh giả (thật chứng), người đã giong thuyền vượt qua đại hải của các triết lí Phật giáo và phi-Phật giáo, và là thái tử bảo châu trong các vị ủng hộ các bộ luận của ngài Long Thọ.

4. Tôi kính lễ ngài Phật Hộ, thành tựu giả tối thượng và thuyết giảng thông suốt mục đích của thánh giả Long Thọ, nghĩa rốt ráo của duyên khởi, chủ điểm diệu nghĩa thâm mật của hiện hữu là chỉ thuần giả danh và là chỉ thuần mệnh danh.

5. Tôi kính lễ ngài Đại sư Thanh Biện, trí giả thành tựu cao siêu, ngài khởi xướng truyền thống triết lí trong đó trong khi phủ định các cực đoan trong vai trò sự sinh khởi của các sự vật thật hữu, bạn vẫn ủng hộ trí tuệ được công nhận theo quy ước thế tục cộng thêm vào tính thật tại đối ngoại

6. Tôi kính lễ ngài Nguyệt Xứng, người phổ truyền tất cả các đạo lộ của kinh điển và tantra. Ngài vô cùng thiện xảo trong giảng dạy các phương diện trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh của Trung Đạo -- sự liên hiệp của sắc tướng và tính không trục xuất hai cực đoan -- bằng phương tiện hữu hiệu của duyên khởi đó là chỉ thuần lí tính nhân duyên.

7. Tôi kính lễ ngài bồ tát Tịch Thiên (Shantideva), vô cùng thiện xảo khai mở tập hội của các học viên đại phúc duyên theo đạo lộ tuyệt hảo của đại bi đó là sử dụng mĩ diệu nhất các phương thức lí luận trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh.

8. Tôi kính lễ ngài đại sư viện trưởng Tịch Hộ (Shantarakshita), người đề xướng truyền thống Trung Đạo Bất Nhị hoà hợp với tập khí của học viên. Trí giả trong các cách thế lí luận của cả hai Trung Đạo và hiện lượng (= tri nhận hiệu quả), và ngài phổ truyền giáo pháp của Đấng Tối Thắng trong Xứ Tuyết.

9. Tôi kính lễ nơi chân ngài, ngài Liên Hoa Giới (Kamalashila), ngài giảng giải tuyệt hảo các giai đoạn của thiền định về tri kiến Trung Đạo cách tuyệt các cấu trúc của tưởng và sự liên hiệp của tịnh chỉ và tuệ quán hoà hợp với kinh điển và tantra, giảng rõ một cách không lầm lỗi giáo pháp của đấng Tối Thắng trong Xứ Tuyết.

10. Tôi kính lễ nơi chân ngài Vô Trước, được trợ giúp của ngài Di Lặc, ngài là thánh giả phổ truyền tuyệt hảo tất cả các kinh điển Đại thừa và giảng dạy đạo lộ tâm bồ đề vạn hạnh và đúng như tiên tri của Đấng Tối Thắng, ngài khởi xướng truyền thống Duy Thức.

11. Tôi kính lễ nơi chân Đại sư Thế Thân, ngài trong khi bảo vệ các hệ thống của bảy bộ luận Thắng Pháp/Vô Tỉ Pháp cũng như tính bất nhị, đã minh giải các học thuyết Đại Tì Bà Sa (Vaibhashika), Kinh Lượng Bộ (Sautrantika), và Duy Thức. Trí giả danh tiếng bậc nhất, ngài được nổi danh là Đấng Nhất Thiết Trí đệ nhị.

12. Tôi kính lễ nơi chân ngài Đại Vực Long [=Trần Na], nhà luận lí, để trình bày con đường của Phật xuyên qua lí luận căn cứ vào bằng chứng, ngài đã mở ra hàng trăm đường vào hiện lượng và đã dâng hiến thế giới tặng phẩm đôi mắt của trí tuệ phê phán (đôi mắt của tỉ lượng).

13. Tôi kính lễ nơi chân ngài Pháp Xứng, người lí hội thông hiểu tất cả các điểm tinh yếu của tính thể học/bản thể học Phật giáo và phi-Phật giáo, đem đến xác tín trong tất cả các đạo lộ trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh của Kinh lượng bộ (Sautrantika) và Duy thức bằng phương tiện hữu hiệu của lí luận; ngài đã là trí giả bậc nhất trong giảng dạy Diệu Pháp.

14. Tôi kính lễ nơi chân ngài Giải Thoát Quân (Vimuktisena), ngài đã thắp sáng ngọn đèn chiếu sáng ý nghĩa của Luận Trang Nghiêm (Hiện Quán trang nghiêm luận) trong đó các chủ đề của Bát Nhã có nguồn gốc từ ngài Vô Trước và Thế Thân được giảng tường tận hoà hợp với tri kiến Trung Quán cách tuyệt hiện hữu và phi hiện hữu.

15. Tôi kính lễ đại sư Sư Tử Hiền (Haribhadra), người được đấng Tối Thắng tiên tri là người giảng giải tường tận ý nghĩa của Mẫu Thân, trí bát nhã. Ngài đã minh giải bộ luận tuyệt hảo về trí bát nhã, ba Mẫu Thân, trong tuyệt hảo hoà hợp với chỉ giáo của đấng cứu độ Di Lặc.

16. Tôi kính lễ nơi chân ngài Đức Quang (Gunaprabha), tuyệt hảo bậc nhất trong đức hạnh và nghiên cứu, ngài đã đúc kết mục đích của một trăm ngàn giáo pháp về giới luật được giảng giải rõ ràng trong các giới nguyện biệt giải thoát không lầm lỗi theo như truyền thống của học phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada).

17. Tôi kính lễ nơi chân ngài Thích Ca Quang (Shakyaprabha), thượng thủ của giới luật, ngài ngự trị trên kho tàng bảo châu của tam học (giới, định, tuệ). Để giảng giải tường tận các giáo pháp giới học không nhơ nhuốm trong trường kì ngài đã minh giải tuyệt vời ý nghĩa của các bộ luận mênh mông về giới hạnh.

18. Tôi kính lễ ngài Atisha (A đề sa), ngài đã giảng dạy tất cả các truyền thống trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh liên hệ tới lời Phật trong cấu trúc của đạo lộ của mọi người phân theo ba khả năng, ngài đã là vị thầy từ bi nhất giảng giải tường tận giáo pháp của đức Phật trong Xứ Tuyết.

19. Ca tụng chư vị trí giả trang nghiêm nhất của thế giới, những suối nguồn của các giáo pháp vi diệu và thông tuệ, tôi nguyện, với một tâm không dao động và thanh tịnh, được gia hộ để tâm tôi trở thành thuần thục và tự do.

20. Bằng lí hội thông hiểu nhị đế, thật tướng sự vật, tôi sẽ tìm thấy qua nỗ lực cách nào, xuyên qua bốn chân lí, chúng ta đi vào và đi ra khỏi sinh tử luân hồi; Tôi sẽ bền vững chánh tín trong Tam bảo, chánh tín sinh từ lí luận hiệu quả. Nguyện tôi được gia hộ để cho gốc rễ của đạo lộ giải thoát được an lập vững chắc trong tôi.

21. Nguyện tôi được gia hộ để toàn hảo tu tập trong xuất li siêu việt -- một thệ nguyện cầu giải thoát, tịch tĩnh toàn thể của đau khổ và sinh khởi của đau khổ -- cộng thêm trong một tâm tỉnh biết không do tạo tác được bắt rễ trong đại bi vô tận mong ước bảo hộ tất cả các hữu tình.

22. Nguyện tôi được gia hộ để tôi có thể tăng trưởng dễ dàng xác tín trong tất cả các đạo lộ thuộc về những điểm chủ yếu diệu nghĩa thâm mật của Bát nhã thừa và Kim cương thừa, bằng thực thi trong nghiên cứu, chiếu soi, và thiền định [= văn, tư, tu] trên ý nghĩa của các bộ luận của các đại tiên phong (Long Thọ và Vô Trước).

23. Nguyện tôi, trong mỗi đời sống tiếp theo, nhận được các thân tái sinh thuận duyên hỗ trợ cho ba tu học (giới định tuệ) và đóng góp vào giáo pháp tương đương như các nhà đại tiên phong trong duy trì và minh giải giáo pháp của kinh điển và thật chứng xuyên qua thực thi trong trình bày tường tận và tu tập thiền định.

24. Nguyện cho các thành viên của các cộng đồng tâm linh sử dụng thời gian của họ trong học tập, chiếu soi, và thiền định [= văn, tư, tu]. Xuyên qua sự gia tăng nhanh chóng của các vị thầy cao siêu tránh không kiếm lợi tức sai trái, nguyện khuôn mặt tuyệt vời của trái đất này được diệu mĩ hoá trong tất cả mọi thời gian.

25. Xuyên qua năng lực của chư vị, nguyện tôi băng qua tất cả các đạo lộ của kinh điển và tantra và đạt được nhất thiết trí của chư vị tối thắng, đặc hữu bởi thật chứng tức thời hai mục đích (thành Phật và cứu độ hữu tình).

Nguyện tôi phục vụ cho an lạc của hữu tình bao lâu hư không vẫn còn.

Lời ghi cuối

Như vậy, quan liên đến các phương diện trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh của Diệu Pháp được Đức Phật Thế Tôn giảng dạy, những vị đại sư này của Ấn Độ, xứ của các thánh giả, được nói đến trong những tụng trên đã viết các bộ luận tuyệt vời khai mở các con mắt trí tuệ của vô số các cá nhân quán tuệ. Các bộ luận này còn lưu giữ không bị thoái hoá cho tới ngày hôm nay -- bây giờ (2002) đang gần đến 2550 năm (sau khi Phật nhập niết bàn) -- vẫn là các bộ luận để nghiên cứu, chiếu soi phê phán, và thiền định. Thế nên, ghi nhớ lòng từ bi của các đại sư trí giả này, tôi kính ngưỡng với lòng tận tụy không dao động đi theo bước chân của họ.

Ngày nay, trong một thời đại khi khoa học và kĩ thuật đã đạt tới một giai đoạn rất cao cấp, chúng ta bị bận trí không ngừng với các quan tâm thế tục. Trong một thời đại như thế, chúng ta những người đi theo Đức Phật, nên điều quan trọng chủ yếu là chúng ta đạt được chánh tín trong giáo pháp của ngài trên căn bản của lí hội thông hiểu thật. Chánh tín là với một tâm trí khách quan vốn sẵn hoài nghi do muốn tìm hiểu mà chúng ta sẽ thực hiện trong sự phân tích cẩn thận và tìm kiếm các lí do.

Thế rồi trên căn bản của thấy các lí do, chúng ta làm cho tăng trưởng (engender) một chánh tín đi cùng với trí bát nhã. Về điều này, các bộ luận tuyệt vời trên các phương diện trí bát nhã và phương diện tâm bồ đề vạn hạnh [của đạo lộ] của các đại sư nổi danh sáu vị trang nghiêm (Thánh Thiên, Thế Thân, Long Thọ, Vô Trước, Đại Vực Long, Pháp Xứng) và hai thượng sư (Đức Quang và Thích ca Quang), cộng thêm Phật Hộ, Giải Thoát Quân, và v.v…vẫn tiếp tục là cần thiết. Ngay cả trong quá khứ đã có một truyền thống vẽ các tranh họa sáu vị trang nghiêm và hai thượng sư trên các tấm tranh thăng-ka. Vinh danh các vị này, tôi đã cộng thêm chín vị trong dòng truyền thừa trí bát nhã và tâm bồ đề vạn hạnh của đạo lộ, chính thức ủy nhiệm một tranh họa thăng-ka của mười bảy vị đại trí giả của Tăng Viện Nalanda danh dự quang vinh.

Hiệu quả tiếp theo là, tôi đã muốn viết một bài cầu nguyện diễn tả tôn kính toàn tâm của tôi đối với các trí giả tuyệt vời nhất, và cũng có thêm các đạo hữu mong cầu Chánh Pháp cũng khuyến khích tôi viết một bản văn như thế. Như vậy bản thỉnh nguyện gửi tới mười bảy đại sư của Nalanda quang vinh được đặt danh đề “Mặt Trời Chiếu Sáng Ba Phương Diện Chánh Tín” được viết bởi tăng sĩ Phật giáo Tenzin Gyatso (= Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14), một người đã tìm thấy một chánh tín không nhơ nhuốm trong các tác phẩm tuyệt hảo của các đại sư này và ngồi trong các hàng cuối cùng của các cá nhân được thực hành nghiên cứu các công trình tuyệt hảo này.

Bản này được viết và hoàn thành tại Thecken Choeling, Dharamsala, Kangara District, Himachal Pradesh, Ấn Độ, trong năm thứ 2548 của Đức Phật nhập niết bàn theo hệ thống lịch Theravada, vào ngày thứ nhất của tháng mười một năm Con Rắn- Sắt trong chu kì Rabjung thứ mười bảy của lịch Tây Tạng, đó là tháng mười hai, 15, 2001, của Công Nguyên (Common Era).

Nguyện thiện hảo chiến thắng.

___________________________

His Holiness the Dalai Lama

Praise to Seventeen Nalanda Masters

Illuminating the Threefold FaithHere is a praise to seventeen Nalanda masters entitled “A Sun Illuminating the Threefold Faith”.

1. Born from great compassion aspiring to help all beings, god of gods, you have attained the savior’s state of abandonment and realization and you guide beings through the discourse of dependent origination. O able one, the sun of speech, I bow my head to you.

2. I bow at your feet, O Nagarjuna, most skilled in elucidating suchness fre of elaborations -- the essence of the Mother of Conquerors sutras -- through the reasoning of dependent origination. In accord with Conqueror’s prophecy, you initiated the Middle Way.

3. I bow to your principal son, bodhisattva Aryadeva, most learned and realized, who has cross the ocean of Buddhist and non-Buddhist philosophies, and is the crown jewel among who uphold Nagarjuna’s treatises.

4. I bow to you, O Buddhapalita, who has reached the supreme adept’s state and who has clearly elucidated Noble Nagarjuna’s intent, the final meaning of dependent origination, the profound point of existence as mere designation and as mere name.

5. I bow to you, O master Bhavaviveka, most accomplished pandita, you initiated the philosophical tradition wherein while negating such extremes as the arising of truly existing things, one upholds commonly verified knowledge as well as external reality.

6. I bow to you, O Chandrakirti, who disseminated all the paths of sutra and tantra. You are most skilled in teaching the profound and the vast aspects of the Middle Way -- the union of appearance and emptiness dispelling the two extremes -- by means of dependent origination that is mere conditionality.

7. I bow to you, O bodhisattva Shantideva, most skilled at revealing to the assembly of most-fortunate spiritual trainees the excellent path of compassion that is wondrous through lines of reasoning most profound and vast.

8. I bow to you, O master abbot Shantarakshita, who initiated the tradition of Nondual Middle Way in accordance with trainee’s mental disposition. You’re versed in the reasoning modes of both Middle Way and valid cognition, and you disseminated the Conqueror’s teaching in the Land of Snows.

9. I bow at your feet, O Kamalashila, you who, having explained excellently the stages of meditation of the Middle Way view free of elaborations and the union of tranquility and insight in accordance with sutra and tantra, flawlessly elucidated the Conqueror’s teaching in the Land of Snows.

10. I bow at your feet, O Asanga, you who, sustained by Maitreya, were versed in disseminating excellently all Mahayana scriptures and taught the vast path and who, in accord with the Conqueror’s prophecy, initiated the tradition of Mind Only.

11. I bow at your feet, O master Vasubandhu, you who, while upholding the systems of the seven Abhidharma treatises as well as Nonduality, clarified the tenets of Vaibhashika, Sautrantika, and Mind Only. Foremost among learned ones, you’re renowned as a second Omniscient One.

12. I bow at your feet, O Dignaga, the logician, you who, in order to present the Buddha’s way through evidence-based reasoning, opened hunredfold gateways of valid cognition and offered as a gift to the world the eyes of critical intelligence.

13. I bow at your feet , O Dharmakirti, you who, understanding all the essential points of both Buddhist and non-Buddhist epistemology, brought conviction in all the profound and vast paths of Sautrantika and Mind only by means of reasoning; you were most versed in teaching the excellent Dharma.

14. I bow at your feet, O Vimuktisena, you who lit the lamp that illuminates the meaning of the Ornamenttreatise wherein the themes of Perfection of Wisdom stemming from Asanga and his brother were expounded in accord with Middle Way view free of existence and nonexistence.

15. I bow to you, O master Haribhadra, who were prophesized by the Conqueror as expounder of the meaning of the Mother, the perfection of wisdom. You elucidated the excellent treatise on the perfection of wisdom, the three mothers, in perfect accord with the instruction of the savior Maitreya.

16. I bow at your feet, O Gunaprabha, most excellent inboth integrity and scholarship, who, having excellently distilled the intent of one hundred thousand disciplinary teachings, expounded the individual liberation vows flawlessly according to the tradition of Sarvastivada school.

17. I bow at your feet, O Shakyaprabha, supreme upholder of discipline, who reigned over the treasury of jewels of the three trainings. In order to disseminate the stainless discipline teachings for a long time, you excellently expounded the meaning of the vast [discipline] treatises.

18. I bow to you, O master Atisha, you who, having taught all the profound and vast traditions related to the words of the Buddha within the framework of the path of the persons of three capacities, were the most kind master disseminating the Buddha’s teaching in the Land of Snows.

19. Having thus praised these most learned ornaments of the world, the excellent sources of wondrous and insightful teachings, may I, with a mind unwavering and pure, be blessed so that my mind becomes ripened and free.

20. By understanding the two truths, the way things exist, I will ascertain how, through the four truths, we enter and exit samsara; I will make firm the faith in the Three Jewels that is born of valid reason. May I be blessed so that the root of liberating path is firmly established within me.

21. May I be blessed to perfect the training in renunciation -- an aspiration for liberation, the total pacification of suffering and its origin -- as well as in an uncontrived awakening mind that is rooted in an infinite compassion that wishes to protect all sentient beings.

22. May I be blessed so that I may easily develop conviction in all paths pertaining to the profound points of the Perfection and VajraVehicles, by engaging in study, reflection, and meditation on the meaning of the treatises of the great trailblazers/great charioteers (Nagarjuna and Asanga).

23. May I, in life after life, obtain excellent embodiments that support the three trainings and make contributions to the teaching that equal the great trailblazers in upholding and disseminating the teaching of scripture and realization through engaging in exposition and meditation practice.

24. May the members of all spiritual communities spend their time in learning, reflection, and meditation. Through the proliferation of sublime masters who shun wrong livelihood, may the great face of the earth be beautified throughout all time.

25. Through their power, may I traverse all the paths of sutra and tantra and attain the conquerors’s omniscience, characterized by spontaneous realization of the two purposes. May I work for the welfare of sentient beings as long as space remains.

COLOPHON

Thus, with respect to the profound and vast aspects of the excellent Dharma taught by the Blessed Buddha, these great masters of India, the land of the noble ones, referred to in the above lines composed excellent treatises that opened the eyes of intelligence of numerous discerning individuals. These writings survive without degeneration to this day -- now approaching 2 550 year [following the Buddha’s passing] -- still serving as treatises for study, critical reflection, and meditation. Therefore, remembering the kindness of these learned masters, I aspire with unwavering devotion to follow in their footsteps.

Today, in an age when science and technology have reached a most advanced stage, we are incessantly preoccupied with mundane concerns. In such an age, it is crucial that we who follow the Buddha acquire faith in his teaching on the basis of genuine understanding. It is with an objective mind endowed with a curious skepticism that we should engage in careful analysis and seek the reasons.

Then, on the basis of seeing the reasons, we engender a faith that is accompanied by wisdom. For this, the excellent treatises on the profound and vast aspects [of the path] by the great masters, such as the well-known six ornaments (Aryadeva, Vasubandhu, Nagarjuna, Asanga, Dignaga, and Dharmakirti) and two supreme masters (Gunaprabha, Shakyaprabha), as well as Buddhapalita, Vimuktisena, and so on, remain indispensable. Even in the past there were a tradition to have paintings of the six ornaments and two supreme masters made on thangka scrolls. To these I have added nine more lineage masters of the profound and vast aspects of the path, commissioning a thangka painting of seventeen great panditas of the glorious Nalanda Monastery.

In conjunction with this, I wanted to compose a prayer that expresses my hearfelt reverence for these most excellent learned beings, and in addition, some interested individuals and spiritual colleagues also encouraged me to write such a piece. Thus this supplication to seventeen masters of glorious Nalanda entitled “ Sun Illuminating the Threefold Faith” was written by the Buddhist monk Tenzin Gyatso, someone who has found an uncontrived faith in the excellent writings of these great masters and sits among the last rows of individual engaged in the study of these excellent works.

This was composed and completed at Thekchen Choeling, Dharamsala, Kangara District, Himachal Pradesh, India, in the 2548 th year of Buddha’s parinirvana according to the Theravada system, on the first day of the eleventh month of Iron-Snake year in the seventeenth Rabjung cycle of the Tibetan calendar, that is December 15, 2001, of the Common Era.

May goodness prevail!

___________________________

Chú thích của bản Anh

*Bài cầu nguyện Đức Đạt Lai Lạt ma viết bằng Tạng ngữ , dịch bởi Geshe Lhakdor Lobsang Jordan và biên tập bởi Jeremy Russell, được xuất bản với danh đề “Illuminating the Threefold Faith: An Invocation of the Seventeen Scholarly Adepts of Glorius Nalanda” (Chiếu sáng ba phương diện Chánh tín: Cầu Khẩn Mười Bảy Thánh Giả Nalanda Quang Vinh Gia Hộ), do Central Institute of Higher Tibetan Studies, Sarnath, xuất bản năm 2006, gồm nguyên bản Tạng ngữ, bản dịch Anh ngữ, Sanskrit và Hindi.

Bản dịch bài cầu nguyện Anh ngữ ghi trên trong bài này do Thupten Jinpa dịch riêng cho sách The Middle Way (2009).

Chú thích của bản dịch Việt

Meditation on Emptiness1. Ba phương diện của chánh tín (J.Hopkins. Meditation on Emptiness.1996. p.248-249)

Tín/ chánh tín (faith; Skt. shraddha) có phương diện của tính tỏ sáng/viên minh (clarity; Skt. prasada), phương diện của xác tín do duyên khởi (conviction; Skt.abhisampratyaya), hoặc phương diện của mong cầu thể chứng (a wish to attain; Skt. abhilasha) trong quan liên tới các hiện hữu thể (existents) (tỉ dụ các hành nghiệp và các hiệu quả của chúng), sở hữu của các tính đức (tỉ dụ bởi Tam Bảo), hoặc các năng lực (tỉ dụ các năng lực của đạo lộ để thể chứng diệt tận). Nó có chức năng phục vụ trong vai trò một nền tảng cho nguyện vọng.

Chánh tín của tính tỏ sáng/viên minh, hoặc chánh tín làm tỏ sáng, là , tỉ dụ tính tỏ sáng của tâm đến từ do tri nhận các tính đức của Tam Bảo; nó được gọi là “làm tỏ sáng”(clarifying) bởi vì hoàn toàn như viên ngọc làm tỏ sáng nước (thanh thủy bảo châu) được đặt vào trong nước, tất cả các nhơ nhuốm của nước đều tức khắc được thành trong sạch, thế nên khi loại chánh tín này được lưu xuất trong tương tục tâm (generated in the continuum), các phiền nhiễu tinh thần đều được nhổ sạch, ở trên đó các tính đức của thật chứng đều thích hợp để được lưu xuất.

Chánh Tín của xác tín do duyên khởi là, tỉ dụ, đạt được xác tín trong duyên khởi hoặc các hành nghiệp và các hiệu quả của chúng xuyên qua tư duy những giáo thuyết xuất phát từ đấng Tối Thắng. Chánh tín là một mong cầu thể chứng là, tỉ dụ chánh tín tư duy, “ Tôi sẽ thể chứng một cách xác định rốt ráo sự diệt tận của đau khổ” trên tuệ quán bốn chân lí cao qúy, tìm thấy qua nỗ lực các đau khổ thực hữu và các nguồn gốc thực hữu là các đối tượng để xuất li (objects of abandonment) và các diệt tận thực hữu và các đạo lộ thực hữu là các đối tượng để thể chứng ( objects of attainment),và thật chứng rằng xuyên qua nỗ lực trong cách thức đúng đắn những điều này có thể được thể chứng.

2. Bậc tối thắng trong hàng chư thiên = thiên trung thiên = tôn hiệu của Phật = god of gods = Skt. devativa

3. Phương tiện thiện xảo: method; skilful means; Skt.upaya

Trí tuệ siêu việt; trí bát nhã: wisdom; Skt. prajna

 

Sự phát tâm bồ đề là căn bản cho phương tiện thiện xảo và sự thực chứng tính không là căn bản cho trí bát nhã. Ngài Nguyệt Xứng giải thích rằng phương tiện thiện xảo và trí bát nhã là hai cánh của một con chim. Một con chim không thể bay với chỉ một cánh, và tương tự, hai cánh của phương tiện thiện xảo và trí bát nhã được cần đến để đạt giác ngộ. Phương tiện thiện xảo là nguyên nhân chính yếu của các sắc thân của Phật: thọ dụng thân (complete enjoyment body; sambhogakaya), ứng hoá thân (emanation body; nirmanakaya). Trí bát nhã là nguyên nhân chính yếu cho các thân tinh thần: tự tính thân (nature body; svabhavakaya), trí pháp thân (wisdom truth body; jnanadharmakaya). Duy chỉ có trí bát nhã sẽ chỉ mang đến giải thoát, không giác ngộ, và duy chỉ có phương tiện thiện xảo sẽ chỉ mang đến một tái sinh phúc duyên trong sinh tử luân hồi. Đi chung với nhau, chúng sẽ mang đến kết quả cao nhất của toàn giác -- bốn thân của một vị Phật.

Profound path: đạo lộ tu tập trí bát nhã / đạo lộ diệu nghĩa thâm mật: gồm tất cả các giai đoạn tu tập trí bát nhã, dẫn đến thật chứng trực tiếp tính không, và tối hậu đạt đến tự tính thân, trí pháp thân của một vị Phật

Vast path: đạo lộ tu tập phương tiện thiện xảo / đạo lộ tâm bồ đề / đạo lộ tâm bồ đề vạn hạnh: gồm tất cả các giai đoạn tu tập phương tiện thiện xảo, từ lúc đào luyện sơ khởi đại bi cho tới khi đạt các sắc thân của một vị Phật.

4. great charioteers (Tạng ngữ: shing rta chenpo): các thừa phu vĩ đại, quy chỉ ngài Long Thọ thành lập tông Trung Quán, và ngài Vô Trước thành lập tông Duy thức (theo chú thích của dịch giả Thubten Jinpa). Các dịch giả bản Anh dịch great charioteers dễ hiểu hơn thành các đại tiên phong (great trail blazers; pioneers). Thừa phu (charioteer) là người tiên phong mở ra một đạo lộ (= con đường tu tập). Thừa trong thừa phu, đồng nghĩa với thừa trong thừa tướng.

Khi dịch bài “Tsongkhapa. Quán Ngã và Pháp” cùng thời gian với bản dịch Trung Đạo bài 2. Quán mười hai chi duyên khởi, người dịch bản Việt đã không biết “great charioteers” là biệt danh của hai ngài Long Thọ và Vô Trước nên tuy có đoán nghĩa là các đại sư tiên phong, nhưng vẫn dịch thành “các đại sư thúc quân giả”. Nay mong qúy độc giả đọc thành “các đại tiên phong (Long Thọ và Vô trước)”. Nên nói thêm, tỉ dụ, chi nhánh “dòng tu ABC” của một dòng truyền thừa Tây Tạng, dịch sang Anh ngữ là “ABC chariot”. Như vậy chariot là một con đường tu tập/ đạo lộ. Charioteer là vị khai mở đạo lộ tu tập. Great Charioteers là từ ca ngợi hai ngài Long Thọ và Vô Trước. Nay người dịch chân thành xin lỗi quý độc giả về việc trước đây không biết nghĩa này nên đã dịch sai nghĩa.

5. Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng Phật giáo chỉ có hai thừa là Tiểu thừa và Đại thừa. Mật tông Tây Tạng nằm trong Đại thừa, gọi là Đại thừa mật tông (Tantric Mahayana); thế nên Kim cương thừa (từ này phổ thông ở Tây Phương) thuộc về Đại thừa.

6. Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng “Trung Đạo. Chánh Tín căn cứ trong Suy Lí ” năm 2004 trong Lễ Kalachakra Initiation tại Toronto, Canada. Căn cứ vào văn bản ghi âm Tạng ngữ của Trung Tâm Văn Khố của Đức Đạt Lai Lạt Ma, bản ghi âm thông dịch trực tiếp của Thubten Jinpa, dịch giả Thubten Jinpa đã tu bổ và biên tập thành bản dịch 2009 này.

*

Bản dịch Việt “Trung Đạo. Chánh Tín căn cứ trong Suy Lí” dịch xong 6 tháng 12, 2012. Bản dịch Việt này gồm có sáu bài.

Con kính lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma

và chân thành sám hối về các sai lầm, thiếu sót trong bản dịch này.

Kính xin Đức Đạt Lai Lạt Ma gia hộ con và các độc giả

có các thuận duyên để tu học giáo pháp của Đức Phật.

Đặng Hữu Phúc

Sydney, Australia

Người dịch cũng mong các độc giả từ bi chỉ giáo về bản dịch. Mong độc giả hoan hỉ thư về:phucdang143@hotmail.com

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
05 Tháng Mười 2015(Xem: 7260)
Một ngày nọ, khi Milarepa đang ở trong hang động một mình thì hai vị khách tìm đến hỏi han. - Ông ở một mình à? Ông không thấy cô đơn sao? - Tôi luôn luôn sống với một người nào đó, không bao giờ đơn độc. Ngài trả lời. - Nhưng ông sống với ai? Người trẻ tuổi hơn trong hai người hỏi ngài.
20 Tháng Chín 2015(Xem: 5209)
Phía trước, ở giữa biển mây phẩm vật cúng dường Đức Phổ Hiền, / Nơi an trú của chư vị lama, Yidam, Tam Bảo và Hộ Pháp / Cùng các đấng hiền thánh đã thành tựu chân lý; / Xin hoan hỷ nhận mây cúng dường các phẩm vật này, và ban cho con chân lý tối thượng.
08 Tháng Tám 2015(Xem: 8330)
Bởi ta đã thực hành trong cuộc đời, ta sẽ không sợ hãi khi tiến trình của sự hấp hối bắt đầu. Chúng ta sẽ bám rễ vào niềm tin và biết rõ thái độ nào là lợi lạc và thái độ nào không có lợi trong tiến trình này.
25 Tháng Bảy 2015(Xem: 4525)
Như đã được đề cập đến trong chương trước, trong tất cả chúng sinh trong cõi luân hồi đều mang trong mình Phật tánh. Cho dù là vậy, có phải tất cả chúng sinh trong 5 cõi: địa ngục, quỷ đói, súc sinh, atula và cõi trời đều có khả năng để tu thành chánh quả? Câu trả lời là Không. Chỉ có ở “Kiếp người quý báu” mới hội tụ đủ 2 phẩm chất của Thiện và Duyên và tâm phát khởi 3 Lòng tin mới có đủ những điều kiện thuận lợi để tu tập chánh pháp.
03 Tháng Bảy 2015(Xem: 5970)
Dù người ta tin tưởng bất kỳ điều gì về sự thực của những thiên thần hay quỷ ma hung dữ, rõ ràng là những nhà lãnh đạo của sự sùng bái Dolgyal Shugden chẳng làm gì hết trong hơn 30 năm qua
02 Tháng Bảy 2015(Xem: 5013)
Việc nghiên cứu về lịch sử khám phá rằng thực hành Dolgyal, là thực hành có ngụ ý bè phái mạnh mẽ, có lịch sử kết hợp với một xu thế bè phái không hòa hợp trong những thành phần, và giữa các cộng đồng khác nhau của Tây Tạng.