NHÀ SƯ TRẺ GỐC VIỆT THỌ GIỚI TỲ KHEO TÂY TẠNG
Xuân Đinh Hợi này, đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ làm lễ thọ giới Tỳ Kheo cho một vị sư rất trẻ. Trước đó, cũng Ngài đã đích thân làm lễ thọ giới Sa Di và Cụ Túc cho nhà sư. Đây là điều đặc biệt vì nhà sư là người đầu tiên rời Hoa Kỳ qua Ấn Độ xuống tóc trong một tu viện Tây Tạng vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, khi mới 12 tuổi. Đặc biệt hơn nữa, đây là người Việt Nam đầu tiên được truyền thừa trong lịch sử hơn ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng. (Hình bên phải là Hoà thượng Geshe-la và nhà sư Việt Nam Kusho)
Sinh tại Quận Cam, ở miền Nam California trong một gia đình khá giả, lên tám tuổi, cậu bé họ Phạm đã muốn trở thành một Geshe Tây Tạng.
Mà Geshe là gì?
Geshe là học vị trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, tương đương với bằng Tiến sĩ về Phật học của Tây phương. Bình thường ra thì phải mất hai chục năm mới xong và nhiều người không xong nổi. Thế giới hiện chỉ có chừng 200 vị Geshe thôi.
Muốn được thành một Geshe thì phải thấm nhuần năm ngành học là Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và Lý luận căn bản (Pramana Vidya). Thấm nhuần ở đây là phải nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục năm tu tập gian nan, hầu có thể ứng đối tranh luận trong mọi tình huống về mọi chủ đề trong các cuộc khảo hạch thường xuyên và từ đó đi hoằng pháp cho nhân thế. Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa và trung bình thì phải sáu năm mới lên tới cấp tối ưu.
Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, Kyabje Lati Rinpoche, được Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu hướng dẫn chú bé gốc Việt họ Phạm
Vị cao tăng Tây Tạng đã hướng dẫn chú bé họ Phạm là một Lharampa Geshe, một hóa thân của danh tăng Gongkar Rinpoche.
Ngài được tôn là châu báu trong hàng Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, pháp danh là Kyabje Lati Rinpoche, hiện là cố vấn về Lý luận (Tsen-shabs) của đức Đạt Lai Lạt Ma. Môn sinh của Tulku Lati Rinpoche thường chỉ là những nhà sư được xác nhận là báo thân của một cao tăng, một vị đạo sư, một guru từ kiếp trước nguyện tái sinh để tiếp tục hạnh nguyện.
Và đức Đạt Lai Lạt Ma là người trực tiếp yêu cầu Tulku Lati Rinpoche dìu dắt chú bé.
Vì sao một chú bé sinh trong một gia đình Việt Nam tại Hoa Kỳ lại được nhận vào tu viện Tây Tạng, rồi được chính đức Đạt Lai Lạt Ma trao phó cho một vị cao tăng hàng đầu của Ngài việc hướng dẫn tu học đó?
Có lẽ phải đi từng bước để nhìn ra con đường học đạo của vị tăng người Việt này.
Với người Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đại từ Đại bi Bồ tát Quán Thế Âm. Việt Nam ta quen gọi vị Bồ tát ấy là Phật Quan Âm, vì vậy, nhiều người cũng gọi Ngài là Phật Sống Tây Tạng. Người Tây Tạng tôn Ngài là "Kundun" với ý nghĩa ấy.
Trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, một Lạt Ma được coi là hiện thân của Phật, và Bồ tát nguyện tái sinh để cứu độ chúng sinh. Bậc hóa thân ấy được tôn là Tulku ("Chu cô" theo cách phiên âm Hán-Việt). Danh hiệu Lạt Ma chỉ được dành cho những người giảng dạy giáo pháp và có thẩm quyền thực hành nghi lễ của Phật giáo. Trong số những người được chứng nhận là Lạt Ma, những vị uyên thâm và cao quý nhất thì được tôn là Rinpoche (nghĩa là "vô cùng quý báu"). Trong hàng giáo phẩm và triều đình Tây Tạng, người ta thấy nhiều cao tăng được tôn vinh là Rinpoche.
Bây giờ, chúng ta có đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 - một vị Phật Sống - ủy thác cho một Tulku Rinpoche việc dẫn đạo cho một nhà sư trẻ của Việt Nam...
Nhà sư này phải có gì đặc biệt mà có lẽ người thường như chúng ta chưa thấy hết được.
Cách đây bốn năm, nhật báo Orange County Register đã gửi một phái đoàn gồm hai nhà báo Anh Đỗ và Teri Sforza cùng đoàn nhiếp ảnh và truyền hình qua tận Ấn Độ để làm loạt phóng sự bốn kỳ về chú tiểu họ Phạm này. Người ta có thể tham khảo loạt bài được biên tập và trình bày công phu dưới tựa đề "The Boy Monk" tại trang nhà của tờ báo trong bốn số ra ngày 19 đến 22 tháng Giêng 2003.
Từ ngày đó đến nay, việc tu học của nhà sư này đã có sự tăng tiến.
Một người Mỹ xuất gia sang Ấn Độ tu Phật giáo đã là hiếm, nhưng vẫn có. Một người sinh tại Mỹ - thuộc thế hệ thứ nhì vì cha mẹ là người Việt tỵ nạn - thì lại hiếm hơn. Đây lại là người Mỹ đầu tiên được nhận vào tu viện Tây Tạng Gaden Shartse, trong tỉnh Mundgod của tiểu bang Karnataka ở miền Nam Ấn Độ để được tu học thành Sa di. Tên Mỹ-Việt Donald Phạm đổi thành Konchog Osel. Người thân thì gọi là Kusho. Konchog có nghĩa là hiếm quý, Osel là tịnh quang, ánh sáng trong lành, và Kusho là một cao tăng.
Thế rồi, sau khi khảo hạch thì chính Tulku Lati Rinpoche đã thỉnh đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ thọ giới Cụ túc cho chú tiểu sa môn. Có mặt trong buổi lễ cử hành vào đúng ngày Phật Đản còn có bốn vị Rinpoche khác. Chú được ban pháp danh là Tenzin Drodon, nghĩa là "Người nắm giữ Phật pháp" (Tenzin) "cứu độ chúng sinh" (Drodon). Drodon là một pháp danh ít có trong hệ thống Tăng già Tây Tạng.
Ngày nay, Phật giáo Tây Tạng có một nhà sư dung mạo sáng rỡ, nói sành sõi tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Tạng với phương ngữ quý phái của Kinh đô Lhasa, ở bên kia đỉnh núi tuyết ngàn trùng. Vào mùa Xuân Đinh Hợi 2007, ở tuổi 21, Kusho sẽ thọ giới Tỳ kheo với đức Đạt Lai Lạt Ma, một điều kỳ lạ nữa. Trong lịch sử Tây Tạng, đây là người Việt đầu tiên được chính đức Đạt Lai Lạt Ma truyền thừa và truyền giới.
Có thể là sau này người ta mới được biết thêm rằng nhà sư trẻ cũng là hóa thân của một hành giả, nguyện tái sinh trong một gia đình Việt Nam tại Mỹ và tu học trong tu viện Tây Tạng tại Ấn vì lợi ích của chúng sinh. Ba vị cao tăng đã lần lượt hướng dẫn nhà sư là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen tại tu viện ở Long Beach, là Lharampa Geshe Lati Rinpoche, một vụ Tulku tại tu viện Gaden Shartse ở Ấn Độ và đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14.
Bây giờ, chúng ta mới tìm hiểu về nhân vật này.
Vừa ra đời, Donald Phạm đã chững chạc như người lớn. Chú bé là học sinh ưu tú, thích âm nhạc, viết văn, trượt nước và chơi Nitendo! Là học trò giỏi tại trường Aliso Viejo Middle School, chú bé đủ thứ game trong nhà và thừa điều kiện thành công trong một môi trường đầy cơ hội là Hoa Kỳ. Ước nguyện ban đầu của chú là thành nhà văn hay bác sĩ. Nhưng, khác mọi đứa trẻ cùng tuổi, chú ít nói, kín đáo nhìn mọi sự chung quanh và đặc biệt quan tâm đến người khác.
Cha mẹ chú là những người khá giả và chăm sóc kỹ lưỡng tâm hồn các con. Mẹ chú sùng đạo từ khi còn ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ thì cả gia đình thường đến ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach, do đức Đạt Lai Lạt Ma đặt tên là Thubten Dhargye Ling, để tu học Phật pháp. Đây là một việc không dễ vì từ nhà đến chùa là 90 cây số và một tuần, gia đình lên chùa ba lần.
Donald vào chùa là có phản ứng khác lạ. Tưởng đứa con lơ đãng nhìn quanh, bà mẹ ngạc nhiên vì chú nghe được hết và nói lại rành mạch những khái niệm rất lạ. Thí dụ như hiện tượng "tâm viên ý mã" trong lúc thiền định! Người lớn nghe đã thấy khó lãnh hội, huống hồ một đứa trẻ ở tuổi mẫu giáo!
Năm chú lên bốn, bà mẹ đọc báo thấy có tin là vị Đạo sư Lati Rinpoche sẽ đến thuyết pháp ở Los Angeles. Quá mừng khi được cơ hội gặp vị cao tăng mà mình đã đọc lời giảng trong sách từ khi còn mang thai chú bé, bà dẫn chú đi nghe và năm đó Donald đã quy y với Tulku Lati Rinpoche!
Khi chú lên năm, cô em kém chú hơn một tuổi bỗng khóc òa vì làm vỡ cái đĩa. Chú bé đứng cao hơn quầy bếp đã lên giọng trấn an: "Đừng lo, đó chỉ là đồ vật thôi. Nếu chấp vào vật nhỏ như vậy thì khi chết, làm sao cái tâm bỏ được cái thân này?"
Rồi sau đó, thay vì là nhà văn hay bác sĩ, năm lên tám, chú muốn thành một Geshe!
Thấy con mình có ý đi tu để thành Geshe, bà mẹ trình bày với vị Hoà thượng trụ trì tu viện Phật giáo Tây Tạng tại Long Beach là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen, thường được Phật tử quý mến gọi là Geshe La.
Hoà thượng Geshe La khuyên là hãy kiên nhẫn tìm hiểu tâm tư chú bé đã. Cho con vào chùa là chuyện thường tình ở Á châu và Tây Tạng, nhưng chúng ta đang ở tại Hoa Kỳ, trong một khu vực trù phú lịch sự. Con đường tới chùa là một chặng đường khá xa cần phải tìm hiểu. Mà cách tìm hiểu hay nhất là chính họ phải qua tận Ấn Độ thăm viếng một ngôi chùa Tây Tạng đủ lâu để thấy hết tận mắt. Thày dạy, tu viện là một đại dương, có rất nhiều ngọc nga châu báu vật đấy nhưng cũng có cá mập.
Hãy tìm hiểu rồi mới quyết định cho chú bé.
Khi Donald Phạm lên chín, năm 1995, cha mẹ chú quyết định sang thăm tu viện, cách đó đúng là vạn dậm. Bước đầu là từ California bay qua Ấn Độ, rồi đi xe buýt leo đèo băng suối tới một tu viện trong khu định cư của người Tây Tạng tại Mundgod, thuộc tiểu bang Karnatala ở miền Nam Ấn Độ. Đó là tu viện Gaden Sharte của dòng Gelugpa Phật giáo Tây Tạng.
Khu vực định cư cho dân tỵ nạn thường không là một vùng đất trù phú thịnh vượng. Sự nghèo khổ và thiếu thốn là quy luật chung. Huống hồ là nơi tu hành. Người viện trưởng của Tu viện chính là ngài Tulku Lati Rinpoche mà gia đình họ Phạm đã đọc rồi đã gặp tại Los Angeles.
Phép sinh hoạt nơi đây là sự khắc khổ nghiêm ngặt. Mọi người thức giấc từ năm giờ sáng, chư tăng áo đỏ tụng kinh đến bảy giờ rồi ăn sáng. Thực đơn khác hẳn bữa điểm tâm trong một ngôi nhà khang trang ở Laguna Niguel tại California. Bánh mì chấm trà có pha đường, bơ tẩm muối. Sau đó là học ngôn ngữ và tranh luận đến trưa. Quá ngọ là buổi học với các đạo sư cho đến chiều. Cơm tối là cháo. Xong cơm là học tiếp về Phật pháp qua tranh luận, có khi đến nửa đêm...
Giáo trình đào tạo còn nặng hơn mọi trường tư thục ưu tú nhất của Mỹ! Và không có các màn giải trí qua truyền hình, chơi game, nghe nhạc từ DVD... Cũng không có quà vặt, máy giặt máy xấy, nước nóng phòng riêng...
Làm sao cho con mình vào sống nơi đó?
Gia đình ở lại sáu tuần và chú Donald Phạm cho biết là muốn học đạo ở nơi đây.
Trường hợp của chú hiển nhiên đã được Geshe La và Tulku Rinpoche chú ý. Phải tìm lời giải trong phép khảo chứng bí truyền của Tây Tạng. Vị cao tăng thực hiện buổi lễ linh thiêng ấy chính là Tuku Rinpoche. Lời giải là chú bé này là một đứa trẻ đặc biệt, sẽ vào chùa thành một vị sư Tây Tạng. Donald Phạm cũng cảm thấy như vậy.
Việc cháu Donald muốn đi tu đã gây nhiều phản ứng và tranh luận trong đại gia đình. Đầu tiên thì chị và em không muốn xa Donald. Còn ông ngoại thì hoàn toàn không vui! Điều ấy cũng thật dễ hiểu. Nhưng ý của chú đã quyết và cha mẹ cũng thông cảm và hỗ trợ nên mọi người quen dần với quyết định này.
Gần bốn năm trôi qua, rồi vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, cả gia đình Donald Phạm đã theo Hoà thượng Geshe La qua Ấn Độ. Chú sẽ ở lại nơi đây. Tết Nguyên đán Kỷ Mão thì xuống tóc, trở thành Sa di Kusho Konchog Osel. Tu viện có 1.500 người cùng học nhưng chú được chính đức Đạt Lai Lạt Ma ân cần phó thác cho vị Viện trưởng Tulku Lati Rinpoche trực tiếp hướng dẫn. Mọi người ân cần gọi chú là Kusho-la.
Hai năm sau, Kusho được đưa lên Dharamsala, miền cực Bắc Ấn Độ, vào học viện Lý luận Phật giáo, Institute of Buddhist Dialectics. Có 300 sinh viên, học viện này nằm gần thị trấn McLeod Ganj của Ấn. Thị trấn được gọi là "Little Lhasa", trụ sở của Chính quyền Lưu vong Tây Tạng, và học viện IBD là nơi đức Đạt Lai Lạt Ma thường giảng pháp.
Trong học viện, tiểu Sa di Kusho là người trẻ nhất và được chú ý vì khả năng lãnh hội lẫn tranh luận. Chú còn được khen là từ tốn khiêm nhường và thường trầm lặng trước mối quan tâm của truyền thông báo chí. Nhiều người đã luận rằng Kusho có thiện nghiệp để trở thành sư, và có phúc duyên được hướng dẫn bởi những vị cao tăng để theo đuổi Phật học đến chỗ thâm sâu.
Ngày nay, Kusho đã thành một vị sư 21 tuổi, và Xuân này sẽ thọ giới Tỳ kheo với chính đức Đạt Lai Lạt Ma, thành Shakya Bikshu Tenzin Drodon.
Trong khi ấy, gia đình ở nhà cũng thay đổi.
Càng luống tuổi, ông ngoại của Kusho càng thấy ra hai lẽ. Phần mình, thì đời người quả là hữu hạn. Phần cháu ngoại Donald, thì việc cháu trở thành sư là một điều lành.
Đầu năm 2007, ông cụ lâm trọng bệnh và từ Ấn Độ, Kusho trở về thăm ông, có thể là lần cuối. Hai ông cháu gặp nhau trong một cảnh ngộ cảm động.
Được hỏi về chuyến thăm viếng, nhà sư trẻ giải thích là vì muốn cầu nguyện cho tâm của ông ngoại được thảnh thơi, vững mạnh, và buông xả hết mọi ưu phiền.
Kusho không tin là mình có "thần lực" hay khả năng hộ niệm để ông "siêu sinh tịnh độ" như ta thường nói. Cháu chỉ muốn gặp ông, hàn huyên để ông vui với tuổi già, có cái nhìn lạc quan tích cực về mọi chuyện. Riêng mình, thì đứa cháu rất cảm động nghe ông nói, rằng mình mừng cho cháu đã đi tìm hạnh phúc trong sự tu tập, vì hạnh phúc thật là khi mưu cầu cho hạnh phúc của người khác. Hai ông cháu đã hoàn toàn cảm thông và cùng nhìn vào một hướng.
Nói đến chuyện "thần lực" hay "hóa thân", đề tài kỳ diệu khi ta nghĩ đến Phật giáo Tây Tạng, Kusho cười hiền hoà và giải thích bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh: Không, chú không là hoá thân hay đang tu tập để có thần lực thi hành được những việc siêu nhiên. Việc tu tập để tìm thần lực hay khả năng siêu nhiên là điều sai.
Nhưng, khi tu tập, Kusho thấy hay nghĩ "mình là ai?" Là một chú bé Việt Nam, một thiếu niên Mỹ hay một Sa di Tây Tạng - Là tất cả!
Ban đầu, khi ở trong Tu viện Gaden thì còn mơ hồ vì có lúc thấy mình là một thiếu niên Mỹ, một đứa trẻ Việt Nam, và nhất là khác lạ với chúng bạn người Tây Tạng chung quanh. Thế rồi một cách tiệm tiến và nhẹ nhàng tự nhiên, chú thấy mình tách rời với tất cả những "hành trang" ấy của quá khứ mà cảm nhận ra một sự thể gì bao nhiếp tất cả. Một sự an nhiên kỳ lạ khiến mình thấy thư thái và tự do hơn.
Cảm giác gọi là "giải thoát" ấy xuất phát từ sự tu tập hay từ ý chí của mình? - Có lẽ, phép tu tập giúp cho ý chí ấy thành vững mạnh hơn và quan trọng nhất, giúp cho mình thấy được cách suy nghĩ tích cực và nuôi dưỡng nghị lực tích cực.
Kusho suy nghĩ rồi nói bằng tiếng Anh: "Positive Energy"
Nhưng, trong tu viện Gaden hay trong học viện ở Dharamsala, Sa môn Kusho có biết hay được biết gì về thế giới bên ngoài không, về "đời sống thật" không?
Ban đầu, trong tu viện thì chỉ học về kinh điển và phép luận giải, chứ qua học viện tại Dharamsala thì các học viên đều có thể xem truyền hình và đọc báo để biết về những gì đang xảy ra trên thế giới. Chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã muốn các học viên chứng đắc Phật pháp bằng cách hiểu được cộng đồng và thế giới. Ngoài ra, giáo trình của học viện chẳng khác gì nhiều nếu so với một Đại học tân tiến, học viên được giáo dục để biết về thế giới cũng như Phật pháp.
Sau khi hoàn tất khóa học rất dài tại Dharamsala, Kusho sẽ trở lại tu viện Gaden và lúc ấy mới lại sống như một vị tăng trong chùa.
Nhưng, khi biết rằng thế giới này "khổ" - vì nạn đói ở Phi châu hay khủng bố tại Trung Đông chẳng hạn - học viên nghĩ sao? Và muốn làm gì để giải trừ cái khổ ấy?
Nhà sư trẻ suy nghĩ giây lát mới giải thích. Trước hết, những tin tức ấy có giá trị "khích lệ", là yếu tố càng thúc đẩy học viên phải tu tập để góp phần giải trừ cái khổ.
Nhưng, nhìn từ các tu viện, cái khổ ấy có là một ý niệm trừu tượng xa vời của "chúng sinh" hay của người khác không? Thí dụ như một bác sĩ vẫn có thể chữa chạy cho bệnh nhân sau khi học về những triệu chứng hay hậu quả của bệnh. Một nhà xã hội cũng có thể học về khủng hoảng để góp phần giải quyết dù mình chẳng là nạn nhân... Liệu cảm nhận về cái khổ này có là một khái niệm tách bạch xa vời vì không trực tiếp liên hệ đến mình ở trong chùa hay trong học viện?
Kusho tìm chữ diễn tả, cả Việt lẫn Anh, rằng sự hiểu biết về cái khổ ấy tác động rất mạnh vào tâm trí, nhưng theo hướng khác. Ý thức về những vấn đề ấy khiến mình càng thêm tin tưởng vào Phật pháp và càng thôi thúc mình làm một cái gì đó để cứu giúp người khác. Đây cũng là bước cần thiết để chứng nghiệm đức tin của mình.
Nếu tu học để thành sư mà không nghĩ đến việc giúp đỡ người khác thì là một sự lãng phí! Phật giáo Tây Tạng rất chú ý đến việc tu dưỡng Bồ đề tâm, đến Bồ tát hạnh và coi việc giúp đỡ người khác là một bổn phận trọng yếu, một phần không thể tách rời trong đức từ bi của người Phật tử.
Nói đến người khác, Kusho có nghĩ đến người Việt và Phật giáo Việt Nam không?
Vị Sa môn trẻ này cám ơn mẹ cha là những Phật tử đã khuyến khích và giúp đỡ mình trên con đường học đạo. Chính là tấm lòng yêu thương của bà mẹ đã khiến chú cố gắng tu tập để có thể làm tròn bổn phận với Việt Nam.
Vì vậy, sau giai đoạn tu chứng, nhà sư trẻ còn phải đi một bước rất xa là học hỏi thêm về Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo Tây Tạng theo Kim cang thừa (Varayana) của Đại thừa Mahayana, nhưng cũng áp dụng phép tu có đặc tính Mật tông và cả Bồ tát hạnh trong những giáo lý nền tảng của Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Vì vậy, trong giáo trình đào tạo và tu học, các học viên đều phải thấm nhuần những lý giải Tiểu thừa hay Nguyên thủy. Sau này, Kusho sẽ học thêm về những đặc tính đa diện của Phật giáo Việt Nam và phải thông thạo tiếng Việt để tiếp xúc với Phật tử người Việt.
Một con đường rất dài... Khi viết, Kusho sử dụng cả hai tay, trái và phải, để viết chữ Tây Tạng hay tiếng Anh. Khi học, có lẽ cũng phải nhớ đến tương lai là tìm đến Phật giáo Việt Nam. Vả lại, chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã căn giặn như vậy.
Hôm đó, sau khi được Ngài truyền giới, vị tiểu sa môn được đức Đạt Lai Lạt Ma gọi riêng ra chụp chung tấm hình. "Con giữ tấm hình này cho quê hương con. Cho nước Việt Nam". Kusho treo tấm hình trong trai phòng tại học viện, như một nhắc nhở hàng ngày.
Việc nhà sư Tenzin Drodon này sẽ chứng đắc học vị Geshe có thể chỉ là thời gian vì tâm nguyện như vậy. Nhưng, việc một người có tâm hồn và giáo dục Việt Nam được tu học thành nhà sư Tây Tạng mới là một hạnh ngộ hiếm hoi.
Lời khuyên của Tulku Lati Rinpoche là Kusho hãy cố gắng tinh tấn tu học để trở thành một sa môn đầy đủ Bồ tát hạnh là Bi, Trí, Dũng để hoằng pháp lợi sanh cho nhân thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rõ hơn trong từng buổi gặp gỡ: "Đừng quên Việt Nam. Lòng từ bi và trí tuệ của con sẽ giúp ích rất nhiều cho quê hương con."
Pháp danh Drodon quý hiếm này, có lẽ Ngài chọn cho Kusho để hướng tới trách nhiệm với Việt Nam.
Sông Mekong xuất phát từ vùng đất Kham đã tái sinh của hai vị cao tăng Tây Tạng là Gehse La và Tulku Rinpoche. Nơi con sông này đổ ra biển chính là Việt Nam.
Phải chăng, đức Đạt Lai Lạt Ma đã thấy vạn sự từ đầu nguồn tiền kiếp, mà chưa đến lúc nói ra?
TÂM THÀNH
(Trích báo xuân Việt Báo Tết Đinh Hợi, 2007)
03-02-2007
Geshe-la
Hạt Mầm Tây Tạng Thiện Duyên với Phật Tử Việt Nam
Đức Đạt Lai Lạt Ma và Hòa Thượng Geshe Tsultim Gyeltsen tại Long Beach.
Cảm được lời thỉnh nguyện và phong cách đức độ của Geshe-la, nhiều người Mỹ nổi tiếng đã quy y Phật pháp và lên tiếng đấu tranh cho dân Tây Tạng.
*
Đức Đạt Lai Lạt Ma có hai vị đại diện chính thức tại New York và Washington DC.. Riêng tại miền Tây nước Mỹ, người mà Ngài tin tưởng và quý trọng chính là Hoà thượng Geshe Tsultim Gyeltsen tại Long Beach. Ngài gọi vị Hoà thượng Geshe-la là hạt mầm quý của Phật giáo Tây Tạng.
Geshe là đẳng trật tương đương với Hoà thượng tại Đông Á, hay, theo lối duy lý Tây phương, tương đương với học vị Tiến sĩ về Phật học của các vị cao tăng. Phật tử thương kính, gọi vị Hoà thượng 84 tuổi tại Long Beach là Geshe La. Tiếp vĩ ngữ "La" đặt sau tên gọi hay danh hiệu Geshe là để bày tỏ lòng quý trọng.
Hình trên: Tài tử Richard Gere đến với Phật giáo Tây Tạng.
Geshe Tsultim Gyeltsen là vị cao tăng có công đức rất lớn trong việc quảng bá Phật giáo Tây Tạng và ảnh hưởng rất rộng trong việc vận động dư luận Hoa Kỳ. và đặc biệt có thiện duyên với Phật giáo Việt Nam.
Từ đầu nguồn sông Mekong
Geshe-la sinh năm 1924 tại tỉnh Kham ở miền Đông Tây Tạng.
"Ngôi làng tôi sinh ra chỉ cách nơi sông Mekong phát sinh có chừng cây số. Hồi còn bé, tôi vẫn thường ra chơi ở mạch sông đó". Thầy tâm sư.
Từ nguyên ủy, Geshe-la đã có mối duyên với Việt Nam. Con sông Mekong nối liền Tây Tạng với Việt Nam, nhưng phải qua một không gian đại nghiệp do Trung Quốc kiểm soát và khai thác!
Dưới thế danh là Jamphel Yeshe, Geshe-la đã vào chùa từ năm lên bảy. Thầy mất chín năm học kinh điển, Sutra và Tantra, và học phép biện chứng Phật giáo, rồi mới dự tính lên tu viện Sera gần Thủ đô Lhasa để đạt học vị Geshe của dòng Gelugpa.
Con đường từ quê nhà lên kinh đô không dễ đi. Phải mất hơn một tháng, vượt 25 đèo mới tới Lhasa. Gần đến nơi, lần đầu tiên thấy tu viện Gaden hùng vĩ trên đỉnh đồi, Thầy bỗng ràn rụa nước mắt cảm ngộ. Hôm ấy lại là ngày thành đạo của vị Thánh Tăng Lạt Ma Tsongkhapa (Lạt Ma Tông Khách Ba) lừng danh lịch sử Phật giáo.
Được coi là hóa thân của đức Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, đức Lạt Ma Tsongkhapa là nhà cải cách Phật giáo của thế kỷ 14, đã xây dựng bảo tháp và nền móng của các tu viện Drepung, Sera và Gaden và sáng lập tông phái Gelugpa của Phật giáo Tây Tạng.
Từ ngài Tsongkhapa, tiến trình tu học của Tỳ kheo là phải nghiên cứu năm ngành "Ngũ minh" và kiểm nghiệm qua Thiền định. Hành trình tu tập của tăng ni Tây Tạng ngày nay dựa rất nhiều vào những chỉ dạy của vị Thánh tăng ấy.
Hôm đó, như được sự mặc khải, Tu viện trưởng Kyabje Zong Rinpoche đã giữ Thầy ở lại và thọ giới cùng Ngài. Geshe-la học đạo mất hai chục năm trong trường Shartse của Tu viện Gaden, cho đến năm 36 tuổi. Đấy là khi bùng nổ biến cố pháp nạn năm Kỷ Hợi 1959.
Ngày 10 tháng Ba năm 1959, dân chúng Tây Tạng nổi dậy và Lhasa bị xâm chiếm. Trong chùa Gaden, Geshe Gyeltsen nghe tin đức Đạt Lai Lạt Ma đã phải rời Tây Tạng. Cùng sáu vị tăng khác, Thầy dâng lời khấn nguyện và nửa đêm vượt Hy Mã Lạp Sơn tìm đường qua Ấn. Trong số hai chục ngàn vị cao tăng của ba Tu viện lớn nhất Tây Tạng là Gaden, Sera và Drepung (đều do đức Tsongkhapa thành lập mấy trăm năm trước), chỉ có một số ít như Geshe Gyeltsen là thoát ra ngoài.
Với chừng năm mươi vị cao tăng của mỗi Tu viện trên, Geshe Gyeltsen đã trú ngụ tại Dalhousie trên miền Bắc đất Ấn để tiếp tục học thêm hai năm. Kỳ khảo hạch lần này tổ chức tại Dharamsala, dưới sự chứng giám của đức Đạt Lai Lạt Ma và của hai vị thầy đã hướng dẫn Geshe-la, là Kyabje Ling Rinpoche và Kyabje Trijang Rinpoche.
Thầy tốt nghiệp tối ưu, trở thành Lharampa Geshe.
Cần nói thêm là muốn được thành một Geshe thì các thầy phải thấm nhuần năm ngành học là Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và Lý luận căn bản (Pramana Vidya).
Thấm nhuần ở đây là phải nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục năm tu tập gian nan, hầu có thể ứng đối tranh luận trong mọi tình huống về mọi chủ đề trong các cuộc khảo hạch thường xuyên và từ đó đi hoằng pháp cho nhân thế. Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa. Trung bình thì từ cấp Dorampa lên Lharampa, các thầy phải mất chừng sáu năm tu đạo.
Hai năm sau, Geshe-la được đức Đạt Lai Lạt Ma gửi đi giáo dục cho dân Tây Tạng lưu vong, vận động thế giới cho đất nước Tây Tạng và truyền bá đạo Phật.
Từ Anh Quốc tới Hoa Kỳ
Năm 1963, quãng đường hoằng pháp của Geshe-la khởi sự tại Sussex của nước Anh, nơi Thầy đem theo 22 trẻ em Tây Tạng, đa số là cô nhi, và hướng dẫn các em về Tạng ngữ, văn hoá và giáo lý đạo Phật. Ngôi vườn ươm cây đầu tiên tại Anh nay bắt đầu kết trái.
Sau nước Anh, nơi Thầy đến là Hoa Kỳ.
Năm 1976, Geshe-la qua Mỹ làm Giáo sư về Tạng ngữ và Thiền quán tại các Đại học University of Southern California (USC), University of California in Santa Barbara (UC Santa Barbara) và University of California in Los Angeles (UCLA). Năm 1978, Thầy lập ra một trung tâm Phật giáo Tây Tạng, được chính đức Đạt Lai Lạt Ma ban cho danh hiệu là Thubten Dhargye Ling, Đất Hoằng Pháp.
Geshe-la trong ni viện Gaden Choling tại miền nam Ấn Độ.
Tại mảnh đất quý này ở Long Beach, Geshe-la hướng dẫn các lớp Thiền quán và giảng dạy Phật pháp cho mọi người. Ngoài việc giảng huấn và thuyết pháp, Thầy còn viết sách và mở ra nhiều trung tâm tại miền Bắc California, Colorado, Texas, New Mexico và cả xứ Đan Mạch, đồng thời vận động hợp tác với các Giáo hội Phật giáo tại miền Nam California. Môn sinh Thầy đào tạo trong ngần ấy năm hiện đã có mặt và hoạt động trên toàn thế giới.
Cho đến nay, các cuốn sách ghi lại lời giảng của Thầy bằng Anh ngữ đã được phổ biến sâu rộng trong giới Phật học là Keys to Great Enlightenment, Miror of Wisdom và mới nhất là The Foundation of All Good Qualities, cuốn sách Thày giảng về 14 bài kệ của vị Thánh tăng Lạt Ma Tsongkhapa. Ba cuốn đều do Tu viện Thubten Dhargye Ling xuất bản và phổ biến miễn phí cho những người muốn học đạo.
Geshe-la cũng đặc biệt quan tâm đến các vấn đề xã hội và tích cực hỗ trợ các dự án nhân đạo như mở trường mù tại Ấn Độ hay lập nơi cư trú của các vị sư cao niên trong chùa Gaden được dựng lại ở miền Nam xứ này. Công đức của Thầy đã thấm nhuần nhiều nơi và đạo đức của Thầy đã cảm hóa nhiều người.
Đối với đất nước và quyền tự trị của dân Tây Tạng, Geshe-la là một nhân vật tích cực tranh đấu và vận động trong xã hội Hoa Kỳ và ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Cảm được lời thỉnh nguyện và phong cách đức độ của Geshe-la, nhiều người Mỹ nổi tiếng đã quy y Phật pháp và lên tiếng cho dân Tây Tạng. Đặc biệt, giới phim ảnh của Hollywood đã hướng ống kính vào đề tài Tây Tạng. Nhiều cuốn phim giá trị như Sprit Tibet, Red Corner đã được thực hiện và phổ biến rộng rãi.
Một Phật tử nổi tiếng tại Hoa Kỳ là tài tử Richard Gere. Thừa lệnh đức Đạt Lai Lạt Ma, ngôi sao điện ảnh này đã cùng Giáo sư Robert Thurman và nhà soạn nhạc Philip Glass lập ra Tibet House để bảo tồn và phát huy văn hoá và tôn giáo Tây Tạng. Robert Thurman đi tu năm 24 tuổi (1965), hiện là Giáo sư Đại học Columbia về Ấn Độ và Tây Tạng, và Chủ tịch của Tibet House. Ông cũng là thân phụ của nữ tài tử Uma Thurman.
Người ta còn nhớ đến Richard Gere vì ông gây chấn động khi dùng diễn đàn của lễ trao giải Oscar để lên tiếng cho Tây Tạng. Ông ở trong Hội đồng Quản trị của tổ chức Campaign for Tibet, đã yểm trợ việc phát triển tu viện Gaden của Tây Tạng tại Ấn Độ.
Geshe-la cũng đã được Richard Gere và gia đình đề nghị góp tiền mở mang chùa Long Beach cho khang trang hơn mà Thầy từ chối, muốn dùng nguồn yểm trợ của mọi người để giúp đỡ các tu viện hay bảo trợ cho các buổi thuyết giảng của đức Đạt Lai Lạt ma. Phần mình, Geshe-la sống đạm bạc tại Long Beach và đi không ngừng, thuyết pháp ở nhiều nơi, nơi nào cũng gieo trồng việc thiện, ý lành.
Với giới trí thức, thượng lưu hay nghệ sĩ Hoa Kỳ, Geshe-la là khuôn mặt đáng kính trọng nên người ta không ngạc nhiên khi thấy năm ngoái, đức Đạt Lai Lạt Ma từ miền Nam California qua New York đã lại quay về Long Beach tham dự Hội nghị về Phụ nữ do Đệ nhất Phu nhân California là bà Maria Schwarzenegger tổ chức hồi tháng Chín năm ngoái tại Convention Center. Với chủ đề "Một buổi chiều từ bi", hội nghị thành công rực rỡ vì quy tụ 11 ngàn người đến nghe mà vé bán sạch trong nội 72 giờ.
Thiện duyên với Phật Giáo Việt Nam
Geshe-la, hạt mầm quí của Phật Giáo Tây Tạng” -theo cách gọi của Đức Đạt Lai Lạt Ma- có tình bạn và thiện duyên đặc biệt với Phật giáo Việt Nam.
Năm 1977, trong khi làm giáo sư thỉnh giảng tại Đại học U.C. Santa Barbara, Geshe-La đã gặp một nhà sư Việt Nam đang là Giáo sư của Đại học UCLA tại Los Angeles và được ông mời về ở chung phòng trong một chung cư nhỏ gần Hollywood.
Trẻ hơn Geshe La hai tuổi, nhà sư đó là Hoà thượng Thích Thiên Ân, người mà Phật tử Hoa Kỳ rất ngưỡng mộ và là người có nhiều công đức cứu giúp người Việt tỵ nạn qua Mỹ sau biến cố 1975. Nhiều vị sư Hoa Kỳ ngày nay là đệ tử của thầy và không thể quên con người đặc biệt này.
Hoà thượng Thích Thiên Ân là Giáo sư tốt nghiệp Tiến sĩ tại Đại học Waseda của Nhật. Năm 1966, thầy từ Việt Nam qua Mỹ trong chương trình trao đổi giáo dục với Đại học UCLA để giảng dạy về Ngôn ngữ và Triết học Đông phương. Ngoài việc giảng huấn, thầy là một thiền sư có uy tín thuộc dòng Thiền Lâm Tế, và đã trứ tác nhiều sách quảng bá Phật giáo bằng Anh ngữ. Thầy được mời ở lại Hoa Kỳ và lập ra ngôi chùa Việt Nam đầu tiên từ năm 1970.
Thiền viện “International Buddhist Meditation Center,” do Hoà Thượng Thiên Ân lập ra đã là nơi dừng chân đầu tiên của Geshe La. Vị cao tăng Tây Tạng rất thường tới ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên đất Hoa Kỳ, tại đường Vermont của thành phố Los Angeles.
Từ ngày ấy, đúng 30 năm về trước, hai vị cao tăng Việt Nam và Tây Tạng trở thành thâm giao cho đến khi Hoà thượng Thiên Ân viên tịch, năm 1980. Mối kỳ duyên của Phật giáo Việt-Tạng đã keo sơn từ đó.
Khi đức Đạt Lai Lạt Ma tới Los Angeles lần đầu, Ngài đã đến thăm và dùng ngọ trai trong ngôi chùa đầu tiên của Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ để bày tỏ lòng thâm cảm với Phật giáo Việt Nam về sự hợp tác ban đầu đó.
Khi Hoà thượng Mãn Giác, người kế vị Hoà Thượng Thiên Ân làm trụ trì Chùa Việt Nam, viên tịch năm ngoái, Geshe-la tham gia vào Ủy ban Chứng minh Tang lễ.
Ngày nay, trong tu viện Long Beach, các khóa giảng của Geshe-la đều có phiên dịch sang Việt ngữ cho người Việt cùng theo.
Với Phật giáo Việt Nam, Geshe-la có mối ân tình sâu đậm, được đức Đạt Lai Lạt Ma trân quý. Năm 2000, Geshe-la bảo trợ ngày Tương hội với chư tăng ni Việt Nam tại Nam California và thỉnh đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự. Trong dịp này, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã tiếp xúc và dùng ngọ trai với tăng ni Việt Nam.
Năm xưa, Geshe-la cũng sớm nhìn ra căn tu của một cậu bé Việt Nam và hướng dẫn bước đầu để trở thành vị sư Tây Tạng đầu tiên sinh tại Mỹ, có cha mẹ Việt Nam, được thọ giới tại Ấn Độ với đức Đạt Lai Lạt Ma. Đó là nhà sư trẻ Kusho Tenzin Drodon.
Từ năm Kỷ Hợi 1959 đến nay, pháp nạn của Tây Tạng khiến báu vật của văn hoá và tôn giáo xứ này được tung ra khắp nơi trên thế giới. Nhưng cũng từ đấy, một viên kim cương của Phật giáo Tây Tạng đã chiếu tới Hoa Kỳ, ánh từ quang còn tỏa sáng đến nhiều Phật tử Việt Nam.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
(Trích báo xuân Việt Báo Tết Đinh Hợi, 2007)
Xuân Đinh Hợi này, đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ làm lễ thọ giới Tỳ Kheo cho một vị sư rất trẻ. Trước đó, cũng Ngài đã đích thân làm lễ thọ giới Sa Di và Cụ Túc cho nhà sư. Đây là điều đặc biệt vì nhà sư là người đầu tiên rời Hoa Kỳ qua Ấn Độ xuống tóc trong một tu viện Tây Tạng vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, khi mới 12 tuổi. Đặc biệt hơn nữa, đây là người Việt Nam đầu tiên được truyền thừa trong lịch sử hơn ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng. (Hình bên phải là Hoà thượng Geshe-la và nhà sư Việt Nam Kusho)
Sinh tại Quận Cam, ở miền Nam California trong một gia đình khá giả, lên tám tuổi, cậu bé họ Phạm đã muốn trở thành một Geshe Tây Tạng.
Mà Geshe là gì?
Geshe là học vị trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, tương đương với bằng Tiến sĩ về Phật học của Tây phương. Bình thường ra thì phải mất hai chục năm mới xong và nhiều người không xong nổi. Thế giới hiện chỉ có chừng 200 vị Geshe thôi.
Muốn được thành một Geshe thì phải thấm nhuần năm ngành học là Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và Lý luận căn bản (Pramana Vidya). Thấm nhuần ở đây là phải nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục năm tu tập gian nan, hầu có thể ứng đối tranh luận trong mọi tình huống về mọi chủ đề trong các cuộc khảo hạch thường xuyên và từ đó đi hoằng pháp cho nhân thế. Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa và trung bình thì phải sáu năm mới lên tới cấp tối ưu.
Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, Kyabje Lati Rinpoche, được Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu hướng dẫn chú bé gốc Việt họ Phạm
Vị cao tăng Tây Tạng đã hướng dẫn chú bé họ Phạm là một Lharampa Geshe, một hóa thân của danh tăng Gongkar Rinpoche.
Ngài được tôn là châu báu trong hàng Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, pháp danh là Kyabje Lati Rinpoche, hiện là cố vấn về Lý luận (Tsen-shabs) của đức Đạt Lai Lạt Ma. Môn sinh của Tulku Lati Rinpoche thường chỉ là những nhà sư được xác nhận là báo thân của một cao tăng, một vị đạo sư, một guru từ kiếp trước nguyện tái sinh để tiếp tục hạnh nguyện.
Và đức Đạt Lai Lạt Ma là người trực tiếp yêu cầu Tulku Lati Rinpoche dìu dắt chú bé.
Vì sao một chú bé sinh trong một gia đình Việt Nam tại Hoa Kỳ lại được nhận vào tu viện Tây Tạng, rồi được chính đức Đạt Lai Lạt Ma trao phó cho một vị cao tăng hàng đầu của Ngài việc hướng dẫn tu học đó?
Có lẽ phải đi từng bước để nhìn ra con đường học đạo của vị tăng người Việt này.
Với người Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đại từ Đại bi Bồ tát Quán Thế Âm. Việt Nam ta quen gọi vị Bồ tát ấy là Phật Quan Âm, vì vậy, nhiều người cũng gọi Ngài là Phật Sống Tây Tạng. Người Tây Tạng tôn Ngài là "Kundun" với ý nghĩa ấy.
Trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, một Lạt Ma được coi là hiện thân của Phật, và Bồ tát nguyện tái sinh để cứu độ chúng sinh. Bậc hóa thân ấy được tôn là Tulku ("Chu cô" theo cách phiên âm Hán-Việt). Danh hiệu Lạt Ma chỉ được dành cho những người giảng dạy giáo pháp và có thẩm quyền thực hành nghi lễ của Phật giáo. Trong số những người được chứng nhận là Lạt Ma, những vị uyên thâm và cao quý nhất thì được tôn là Rinpoche (nghĩa là "vô cùng quý báu"). Trong hàng giáo phẩm và triều đình Tây Tạng, người ta thấy nhiều cao tăng được tôn vinh là Rinpoche.
Bây giờ, chúng ta có đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 - một vị Phật Sống - ủy thác cho một Tulku Rinpoche việc dẫn đạo cho một nhà sư trẻ của Việt Nam...
Nhà sư này phải có gì đặc biệt mà có lẽ người thường như chúng ta chưa thấy hết được.
Cách đây bốn năm, nhật báo Orange County Register đã gửi một phái đoàn gồm hai nhà báo Anh Đỗ và Teri Sforza cùng đoàn nhiếp ảnh và truyền hình qua tận Ấn Độ để làm loạt phóng sự bốn kỳ về chú tiểu họ Phạm này. Người ta có thể tham khảo loạt bài được biên tập và trình bày công phu dưới tựa đề "The Boy Monk" tại trang nhà của tờ báo trong bốn số ra ngày 19 đến 22 tháng Giêng 2003.
Từ ngày đó đến nay, việc tu học của nhà sư này đã có sự tăng tiến.
Một người Mỹ xuất gia sang Ấn Độ tu Phật giáo đã là hiếm, nhưng vẫn có. Một người sinh tại Mỹ - thuộc thế hệ thứ nhì vì cha mẹ là người Việt tỵ nạn - thì lại hiếm hơn. Đây lại là người Mỹ đầu tiên được nhận vào tu viện Tây Tạng Gaden Shartse, trong tỉnh Mundgod của tiểu bang Karnataka ở miền Nam Ấn Độ để được tu học thành Sa di. Tên Mỹ-Việt Donald Phạm đổi thành Konchog Osel. Người thân thì gọi là Kusho. Konchog có nghĩa là hiếm quý, Osel là tịnh quang, ánh sáng trong lành, và Kusho là một cao tăng.
Thế rồi, sau khi khảo hạch thì chính Tulku Lati Rinpoche đã thỉnh đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ thọ giới Cụ túc cho chú tiểu sa môn. Có mặt trong buổi lễ cử hành vào đúng ngày Phật Đản còn có bốn vị Rinpoche khác. Chú được ban pháp danh là Tenzin Drodon, nghĩa là "Người nắm giữ Phật pháp" (Tenzin) "cứu độ chúng sinh" (Drodon). Drodon là một pháp danh ít có trong hệ thống Tăng già Tây Tạng.
Ngày nay, Phật giáo Tây Tạng có một nhà sư dung mạo sáng rỡ, nói sành sõi tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Tạng với phương ngữ quý phái của Kinh đô Lhasa, ở bên kia đỉnh núi tuyết ngàn trùng. Vào mùa Xuân Đinh Hợi 2007, ở tuổi 21, Kusho sẽ thọ giới Tỳ kheo với đức Đạt Lai Lạt Ma, một điều kỳ lạ nữa. Trong lịch sử Tây Tạng, đây là người Việt đầu tiên được chính đức Đạt Lai Lạt Ma truyền thừa và truyền giới.
Có thể là sau này người ta mới được biết thêm rằng nhà sư trẻ cũng là hóa thân của một hành giả, nguyện tái sinh trong một gia đình Việt Nam tại Mỹ và tu học trong tu viện Tây Tạng tại Ấn vì lợi ích của chúng sinh. Ba vị cao tăng đã lần lượt hướng dẫn nhà sư là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen tại tu viện ở Long Beach, là Lharampa Geshe Lati Rinpoche, một vụ Tulku tại tu viện Gaden Shartse ở Ấn Độ và đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14.
Bây giờ, chúng ta mới tìm hiểu về nhân vật này.
Vừa ra đời, Donald Phạm đã chững chạc như người lớn. Chú bé là học sinh ưu tú, thích âm nhạc, viết văn, trượt nước và chơi Nitendo! Là học trò giỏi tại trường Aliso Viejo Middle School, chú bé đủ thứ game trong nhà và thừa điều kiện thành công trong một môi trường đầy cơ hội là Hoa Kỳ. Ước nguyện ban đầu của chú là thành nhà văn hay bác sĩ. Nhưng, khác mọi đứa trẻ cùng tuổi, chú ít nói, kín đáo nhìn mọi sự chung quanh và đặc biệt quan tâm đến người khác.
Cha mẹ chú là những người khá giả và chăm sóc kỹ lưỡng tâm hồn các con. Mẹ chú sùng đạo từ khi còn ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ thì cả gia đình thường đến ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach, do đức Đạt Lai Lạt Ma đặt tên là Thubten Dhargye Ling, để tu học Phật pháp. Đây là một việc không dễ vì từ nhà đến chùa là 90 cây số và một tuần, gia đình lên chùa ba lần.
Donald vào chùa là có phản ứng khác lạ. Tưởng đứa con lơ đãng nhìn quanh, bà mẹ ngạc nhiên vì chú nghe được hết và nói lại rành mạch những khái niệm rất lạ. Thí dụ như hiện tượng "tâm viên ý mã" trong lúc thiền định! Người lớn nghe đã thấy khó lãnh hội, huống hồ một đứa trẻ ở tuổi mẫu giáo!
Năm chú lên bốn, bà mẹ đọc báo thấy có tin là vị Đạo sư Lati Rinpoche sẽ đến thuyết pháp ở Los Angeles. Quá mừng khi được cơ hội gặp vị cao tăng mà mình đã đọc lời giảng trong sách từ khi còn mang thai chú bé, bà dẫn chú đi nghe và năm đó Donald đã quy y với Tulku Lati Rinpoche!
Khi chú lên năm, cô em kém chú hơn một tuổi bỗng khóc òa vì làm vỡ cái đĩa. Chú bé đứng cao hơn quầy bếp đã lên giọng trấn an: "Đừng lo, đó chỉ là đồ vật thôi. Nếu chấp vào vật nhỏ như vậy thì khi chết, làm sao cái tâm bỏ được cái thân này?"
Rồi sau đó, thay vì là nhà văn hay bác sĩ, năm lên tám, chú muốn thành một Geshe!
Thấy con mình có ý đi tu để thành Geshe, bà mẹ trình bày với vị Hoà thượng trụ trì tu viện Phật giáo Tây Tạng tại Long Beach là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen, thường được Phật tử quý mến gọi là Geshe La.
Hoà thượng Geshe La khuyên là hãy kiên nhẫn tìm hiểu tâm tư chú bé đã. Cho con vào chùa là chuyện thường tình ở Á châu và Tây Tạng, nhưng chúng ta đang ở tại Hoa Kỳ, trong một khu vực trù phú lịch sự. Con đường tới chùa là một chặng đường khá xa cần phải tìm hiểu. Mà cách tìm hiểu hay nhất là chính họ phải qua tận Ấn Độ thăm viếng một ngôi chùa Tây Tạng đủ lâu để thấy hết tận mắt. Thày dạy, tu viện là một đại dương, có rất nhiều ngọc nga châu báu vật đấy nhưng cũng có cá mập.
Hãy tìm hiểu rồi mới quyết định cho chú bé.
Khi Donald Phạm lên chín, năm 1995, cha mẹ chú quyết định sang thăm tu viện, cách đó đúng là vạn dậm. Bước đầu là từ California bay qua Ấn Độ, rồi đi xe buýt leo đèo băng suối tới một tu viện trong khu định cư của người Tây Tạng tại Mundgod, thuộc tiểu bang Karnatala ở miền Nam Ấn Độ. Đó là tu viện Gaden Sharte của dòng Gelugpa Phật giáo Tây Tạng.
Khu vực định cư cho dân tỵ nạn thường không là một vùng đất trù phú thịnh vượng. Sự nghèo khổ và thiếu thốn là quy luật chung. Huống hồ là nơi tu hành. Người viện trưởng của Tu viện chính là ngài Tulku Lati Rinpoche mà gia đình họ Phạm đã đọc rồi đã gặp tại Los Angeles.
Phép sinh hoạt nơi đây là sự khắc khổ nghiêm ngặt. Mọi người thức giấc từ năm giờ sáng, chư tăng áo đỏ tụng kinh đến bảy giờ rồi ăn sáng. Thực đơn khác hẳn bữa điểm tâm trong một ngôi nhà khang trang ở Laguna Niguel tại California. Bánh mì chấm trà có pha đường, bơ tẩm muối. Sau đó là học ngôn ngữ và tranh luận đến trưa. Quá ngọ là buổi học với các đạo sư cho đến chiều. Cơm tối là cháo. Xong cơm là học tiếp về Phật pháp qua tranh luận, có khi đến nửa đêm...
Giáo trình đào tạo còn nặng hơn mọi trường tư thục ưu tú nhất của Mỹ! Và không có các màn giải trí qua truyền hình, chơi game, nghe nhạc từ DVD... Cũng không có quà vặt, máy giặt máy xấy, nước nóng phòng riêng...
Làm sao cho con mình vào sống nơi đó?
Gia đình ở lại sáu tuần và chú Donald Phạm cho biết là muốn học đạo ở nơi đây.
Trường hợp của chú hiển nhiên đã được Geshe La và Tulku Rinpoche chú ý. Phải tìm lời giải trong phép khảo chứng bí truyền của Tây Tạng. Vị cao tăng thực hiện buổi lễ linh thiêng ấy chính là Tuku Rinpoche. Lời giải là chú bé này là một đứa trẻ đặc biệt, sẽ vào chùa thành một vị sư Tây Tạng. Donald Phạm cũng cảm thấy như vậy.
Việc cháu Donald muốn đi tu đã gây nhiều phản ứng và tranh luận trong đại gia đình. Đầu tiên thì chị và em không muốn xa Donald. Còn ông ngoại thì hoàn toàn không vui! Điều ấy cũng thật dễ hiểu. Nhưng ý của chú đã quyết và cha mẹ cũng thông cảm và hỗ trợ nên mọi người quen dần với quyết định này.
Gần bốn năm trôi qua, rồi vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, cả gia đình Donald Phạm đã theo Hoà thượng Geshe La qua Ấn Độ. Chú sẽ ở lại nơi đây. Tết Nguyên đán Kỷ Mão thì xuống tóc, trở thành Sa di Kusho Konchog Osel. Tu viện có 1.500 người cùng học nhưng chú được chính đức Đạt Lai Lạt Ma ân cần phó thác cho vị Viện trưởng Tulku Lati Rinpoche trực tiếp hướng dẫn. Mọi người ân cần gọi chú là Kusho-la.
Hai năm sau, Kusho được đưa lên Dharamsala, miền cực Bắc Ấn Độ, vào học viện Lý luận Phật giáo, Institute of Buddhist Dialectics. Có 300 sinh viên, học viện này nằm gần thị trấn McLeod Ganj của Ấn. Thị trấn được gọi là "Little Lhasa", trụ sở của Chính quyền Lưu vong Tây Tạng, và học viện IBD là nơi đức Đạt Lai Lạt Ma thường giảng pháp.
Trong học viện, tiểu Sa di Kusho là người trẻ nhất và được chú ý vì khả năng lãnh hội lẫn tranh luận. Chú còn được khen là từ tốn khiêm nhường và thường trầm lặng trước mối quan tâm của truyền thông báo chí. Nhiều người đã luận rằng Kusho có thiện nghiệp để trở thành sư, và có phúc duyên được hướng dẫn bởi những vị cao tăng để theo đuổi Phật học đến chỗ thâm sâu.
Ngày nay, Kusho đã thành một vị sư 21 tuổi, và Xuân này sẽ thọ giới Tỳ kheo với chính đức Đạt Lai Lạt Ma, thành Shakya Bikshu Tenzin Drodon.
Trong khi ấy, gia đình ở nhà cũng thay đổi.
Càng luống tuổi, ông ngoại của Kusho càng thấy ra hai lẽ. Phần mình, thì đời người quả là hữu hạn. Phần cháu ngoại Donald, thì việc cháu trở thành sư là một điều lành.
Đầu năm 2007, ông cụ lâm trọng bệnh và từ Ấn Độ, Kusho trở về thăm ông, có thể là lần cuối. Hai ông cháu gặp nhau trong một cảnh ngộ cảm động.
Được hỏi về chuyến thăm viếng, nhà sư trẻ giải thích là vì muốn cầu nguyện cho tâm của ông ngoại được thảnh thơi, vững mạnh, và buông xả hết mọi ưu phiền.
Kusho không tin là mình có "thần lực" hay khả năng hộ niệm để ông "siêu sinh tịnh độ" như ta thường nói. Cháu chỉ muốn gặp ông, hàn huyên để ông vui với tuổi già, có cái nhìn lạc quan tích cực về mọi chuyện. Riêng mình, thì đứa cháu rất cảm động nghe ông nói, rằng mình mừng cho cháu đã đi tìm hạnh phúc trong sự tu tập, vì hạnh phúc thật là khi mưu cầu cho hạnh phúc của người khác. Hai ông cháu đã hoàn toàn cảm thông và cùng nhìn vào một hướng.
Nói đến chuyện "thần lực" hay "hóa thân", đề tài kỳ diệu khi ta nghĩ đến Phật giáo Tây Tạng, Kusho cười hiền hoà và giải thích bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh: Không, chú không là hoá thân hay đang tu tập để có thần lực thi hành được những việc siêu nhiên. Việc tu tập để tìm thần lực hay khả năng siêu nhiên là điều sai.
Nhưng, khi tu tập, Kusho thấy hay nghĩ "mình là ai?" Là một chú bé Việt Nam, một thiếu niên Mỹ hay một Sa di Tây Tạng - Là tất cả!
Ban đầu, khi ở trong Tu viện Gaden thì còn mơ hồ vì có lúc thấy mình là một thiếu niên Mỹ, một đứa trẻ Việt Nam, và nhất là khác lạ với chúng bạn người Tây Tạng chung quanh. Thế rồi một cách tiệm tiến và nhẹ nhàng tự nhiên, chú thấy mình tách rời với tất cả những "hành trang" ấy của quá khứ mà cảm nhận ra một sự thể gì bao nhiếp tất cả. Một sự an nhiên kỳ lạ khiến mình thấy thư thái và tự do hơn.
Cảm giác gọi là "giải thoát" ấy xuất phát từ sự tu tập hay từ ý chí của mình? - Có lẽ, phép tu tập giúp cho ý chí ấy thành vững mạnh hơn và quan trọng nhất, giúp cho mình thấy được cách suy nghĩ tích cực và nuôi dưỡng nghị lực tích cực.
Kusho suy nghĩ rồi nói bằng tiếng Anh: "Positive Energy"
Nhưng, trong tu viện Gaden hay trong học viện ở Dharamsala, Sa môn Kusho có biết hay được biết gì về thế giới bên ngoài không, về "đời sống thật" không?
Ban đầu, trong tu viện thì chỉ học về kinh điển và phép luận giải, chứ qua học viện tại Dharamsala thì các học viên đều có thể xem truyền hình và đọc báo để biết về những gì đang xảy ra trên thế giới. Chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã muốn các học viên chứng đắc Phật pháp bằng cách hiểu được cộng đồng và thế giới. Ngoài ra, giáo trình của học viện chẳng khác gì nhiều nếu so với một Đại học tân tiến, học viên được giáo dục để biết về thế giới cũng như Phật pháp.
Sau khi hoàn tất khóa học rất dài tại Dharamsala, Kusho sẽ trở lại tu viện Gaden và lúc ấy mới lại sống như một vị tăng trong chùa.
Nhưng, khi biết rằng thế giới này "khổ" - vì nạn đói ở Phi châu hay khủng bố tại Trung Đông chẳng hạn - học viên nghĩ sao? Và muốn làm gì để giải trừ cái khổ ấy?
Nhà sư trẻ suy nghĩ giây lát mới giải thích. Trước hết, những tin tức ấy có giá trị "khích lệ", là yếu tố càng thúc đẩy học viên phải tu tập để góp phần giải trừ cái khổ.
Nhưng, nhìn từ các tu viện, cái khổ ấy có là một ý niệm trừu tượng xa vời của "chúng sinh" hay của người khác không? Thí dụ như một bác sĩ vẫn có thể chữa chạy cho bệnh nhân sau khi học về những triệu chứng hay hậu quả của bệnh. Một nhà xã hội cũng có thể học về khủng hoảng để góp phần giải quyết dù mình chẳng là nạn nhân... Liệu cảm nhận về cái khổ này có là một khái niệm tách bạch xa vời vì không trực tiếp liên hệ đến mình ở trong chùa hay trong học viện?
Kusho tìm chữ diễn tả, cả Việt lẫn Anh, rằng sự hiểu biết về cái khổ ấy tác động rất mạnh vào tâm trí, nhưng theo hướng khác. Ý thức về những vấn đề ấy khiến mình càng thêm tin tưởng vào Phật pháp và càng thôi thúc mình làm một cái gì đó để cứu giúp người khác. Đây cũng là bước cần thiết để chứng nghiệm đức tin của mình.
Nếu tu học để thành sư mà không nghĩ đến việc giúp đỡ người khác thì là một sự lãng phí! Phật giáo Tây Tạng rất chú ý đến việc tu dưỡng Bồ đề tâm, đến Bồ tát hạnh và coi việc giúp đỡ người khác là một bổn phận trọng yếu, một phần không thể tách rời trong đức từ bi của người Phật tử.
Nói đến người khác, Kusho có nghĩ đến người Việt và Phật giáo Việt Nam không?
Vị Sa môn trẻ này cám ơn mẹ cha là những Phật tử đã khuyến khích và giúp đỡ mình trên con đường học đạo. Chính là tấm lòng yêu thương của bà mẹ đã khiến chú cố gắng tu tập để có thể làm tròn bổn phận với Việt Nam.
Vì vậy, sau giai đoạn tu chứng, nhà sư trẻ còn phải đi một bước rất xa là học hỏi thêm về Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo Tây Tạng theo Kim cang thừa (Varayana) của Đại thừa Mahayana, nhưng cũng áp dụng phép tu có đặc tính Mật tông và cả Bồ tát hạnh trong những giáo lý nền tảng của Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Vì vậy, trong giáo trình đào tạo và tu học, các học viên đều phải thấm nhuần những lý giải Tiểu thừa hay Nguyên thủy. Sau này, Kusho sẽ học thêm về những đặc tính đa diện của Phật giáo Việt Nam và phải thông thạo tiếng Việt để tiếp xúc với Phật tử người Việt.
Một con đường rất dài... Khi viết, Kusho sử dụng cả hai tay, trái và phải, để viết chữ Tây Tạng hay tiếng Anh. Khi học, có lẽ cũng phải nhớ đến tương lai là tìm đến Phật giáo Việt Nam. Vả lại, chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã căn giặn như vậy.
Hôm đó, sau khi được Ngài truyền giới, vị tiểu sa môn được đức Đạt Lai Lạt Ma gọi riêng ra chụp chung tấm hình. "Con giữ tấm hình này cho quê hương con. Cho nước Việt Nam". Kusho treo tấm hình trong trai phòng tại học viện, như một nhắc nhở hàng ngày.
Việc nhà sư Tenzin Drodon này sẽ chứng đắc học vị Geshe có thể chỉ là thời gian vì tâm nguyện như vậy. Nhưng, việc một người có tâm hồn và giáo dục Việt Nam được tu học thành nhà sư Tây Tạng mới là một hạnh ngộ hiếm hoi.
Lời khuyên của Tulku Lati Rinpoche là Kusho hãy cố gắng tinh tấn tu học để trở thành một sa môn đầy đủ Bồ tát hạnh là Bi, Trí, Dũng để hoằng pháp lợi sanh cho nhân thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rõ hơn trong từng buổi gặp gỡ: "Đừng quên Việt Nam. Lòng từ bi và trí tuệ của con sẽ giúp ích rất nhiều cho quê hương con."
Pháp danh Drodon quý hiếm này, có lẽ Ngài chọn cho Kusho để hướng tới trách nhiệm với Việt Nam.
Sông Mekong xuất phát từ vùng đất Kham đã tái sinh của hai vị cao tăng Tây Tạng là Gehse La và Tulku Rinpoche. Nơi con sông này đổ ra biển chính là Việt Nam.
Phải chăng, đức Đạt Lai Lạt Ma đã thấy vạn sự từ đầu nguồn tiền kiếp, mà chưa đến lúc nói ra?
TÂM THÀNH
(Trích báo xuân Việt Báo Tết Đinh Hợi, 2007)
03-02-2007
Geshe-la
Hạt Mầm Tây Tạng Thiện Duyên với Phật Tử Việt Nam
Đức Đạt Lai Lạt Ma và Hòa Thượng Geshe Tsultim Gyeltsen tại Long Beach.
Cảm được lời thỉnh nguyện và phong cách đức độ của Geshe-la, nhiều người Mỹ nổi tiếng đã quy y Phật pháp và lên tiếng đấu tranh cho dân Tây Tạng.
*
Đức Đạt Lai Lạt Ma có hai vị đại diện chính thức tại New York và Washington DC.. Riêng tại miền Tây nước Mỹ, người mà Ngài tin tưởng và quý trọng chính là Hoà thượng Geshe Tsultim Gyeltsen tại Long Beach. Ngài gọi vị Hoà thượng Geshe-la là hạt mầm quý của Phật giáo Tây Tạng.
Geshe là đẳng trật tương đương với Hoà thượng tại Đông Á, hay, theo lối duy lý Tây phương, tương đương với học vị Tiến sĩ về Phật học của các vị cao tăng. Phật tử thương kính, gọi vị Hoà thượng 84 tuổi tại Long Beach là Geshe La. Tiếp vĩ ngữ "La" đặt sau tên gọi hay danh hiệu Geshe là để bày tỏ lòng quý trọng.
Hình trên: Tài tử Richard Gere đến với Phật giáo Tây Tạng.
Geshe Tsultim Gyeltsen là vị cao tăng có công đức rất lớn trong việc quảng bá Phật giáo Tây Tạng và ảnh hưởng rất rộng trong việc vận động dư luận Hoa Kỳ. và đặc biệt có thiện duyên với Phật giáo Việt Nam.
Từ đầu nguồn sông Mekong
Geshe-la sinh năm 1924 tại tỉnh Kham ở miền Đông Tây Tạng.
"Ngôi làng tôi sinh ra chỉ cách nơi sông Mekong phát sinh có chừng cây số. Hồi còn bé, tôi vẫn thường ra chơi ở mạch sông đó". Thầy tâm sư.
Từ nguyên ủy, Geshe-la đã có mối duyên với Việt Nam. Con sông Mekong nối liền Tây Tạng với Việt Nam, nhưng phải qua một không gian đại nghiệp do Trung Quốc kiểm soát và khai thác!
Dưới thế danh là Jamphel Yeshe, Geshe-la đã vào chùa từ năm lên bảy. Thầy mất chín năm học kinh điển, Sutra và Tantra, và học phép biện chứng Phật giáo, rồi mới dự tính lên tu viện Sera gần Thủ đô Lhasa để đạt học vị Geshe của dòng Gelugpa.
Con đường từ quê nhà lên kinh đô không dễ đi. Phải mất hơn một tháng, vượt 25 đèo mới tới Lhasa. Gần đến nơi, lần đầu tiên thấy tu viện Gaden hùng vĩ trên đỉnh đồi, Thầy bỗng ràn rụa nước mắt cảm ngộ. Hôm ấy lại là ngày thành đạo của vị Thánh Tăng Lạt Ma Tsongkhapa (Lạt Ma Tông Khách Ba) lừng danh lịch sử Phật giáo.
Được coi là hóa thân của đức Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, đức Lạt Ma Tsongkhapa là nhà cải cách Phật giáo của thế kỷ 14, đã xây dựng bảo tháp và nền móng của các tu viện Drepung, Sera và Gaden và sáng lập tông phái Gelugpa của Phật giáo Tây Tạng.
Từ ngài Tsongkhapa, tiến trình tu học của Tỳ kheo là phải nghiên cứu năm ngành "Ngũ minh" và kiểm nghiệm qua Thiền định. Hành trình tu tập của tăng ni Tây Tạng ngày nay dựa rất nhiều vào những chỉ dạy của vị Thánh tăng ấy.
Hôm đó, như được sự mặc khải, Tu viện trưởng Kyabje Zong Rinpoche đã giữ Thầy ở lại và thọ giới cùng Ngài. Geshe-la học đạo mất hai chục năm trong trường Shartse của Tu viện Gaden, cho đến năm 36 tuổi. Đấy là khi bùng nổ biến cố pháp nạn năm Kỷ Hợi 1959.
Ngày 10 tháng Ba năm 1959, dân chúng Tây Tạng nổi dậy và Lhasa bị xâm chiếm. Trong chùa Gaden, Geshe Gyeltsen nghe tin đức Đạt Lai Lạt Ma đã phải rời Tây Tạng. Cùng sáu vị tăng khác, Thầy dâng lời khấn nguyện và nửa đêm vượt Hy Mã Lạp Sơn tìm đường qua Ấn. Trong số hai chục ngàn vị cao tăng của ba Tu viện lớn nhất Tây Tạng là Gaden, Sera và Drepung (đều do đức Tsongkhapa thành lập mấy trăm năm trước), chỉ có một số ít như Geshe Gyeltsen là thoát ra ngoài.
Với chừng năm mươi vị cao tăng của mỗi Tu viện trên, Geshe Gyeltsen đã trú ngụ tại Dalhousie trên miền Bắc đất Ấn để tiếp tục học thêm hai năm. Kỳ khảo hạch lần này tổ chức tại Dharamsala, dưới sự chứng giám của đức Đạt Lai Lạt Ma và của hai vị thầy đã hướng dẫn Geshe-la, là Kyabje Ling Rinpoche và Kyabje Trijang Rinpoche.
Thầy tốt nghiệp tối ưu, trở thành Lharampa Geshe.
Cần nói thêm là muốn được thành một Geshe thì các thầy phải thấm nhuần năm ngành học là Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và Lý luận căn bản (Pramana Vidya).
Thấm nhuần ở đây là phải nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục năm tu tập gian nan, hầu có thể ứng đối tranh luận trong mọi tình huống về mọi chủ đề trong các cuộc khảo hạch thường xuyên và từ đó đi hoằng pháp cho nhân thế. Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa. Trung bình thì từ cấp Dorampa lên Lharampa, các thầy phải mất chừng sáu năm tu đạo.
Hai năm sau, Geshe-la được đức Đạt Lai Lạt Ma gửi đi giáo dục cho dân Tây Tạng lưu vong, vận động thế giới cho đất nước Tây Tạng và truyền bá đạo Phật.
Từ Anh Quốc tới Hoa Kỳ
Năm 1963, quãng đường hoằng pháp của Geshe-la khởi sự tại Sussex của nước Anh, nơi Thầy đem theo 22 trẻ em Tây Tạng, đa số là cô nhi, và hướng dẫn các em về Tạng ngữ, văn hoá và giáo lý đạo Phật. Ngôi vườn ươm cây đầu tiên tại Anh nay bắt đầu kết trái.
Sau nước Anh, nơi Thầy đến là Hoa Kỳ.
Năm 1976, Geshe-la qua Mỹ làm Giáo sư về Tạng ngữ và Thiền quán tại các Đại học University of Southern California (USC), University of California in Santa Barbara (UC Santa Barbara) và University of California in Los Angeles (UCLA). Năm 1978, Thầy lập ra một trung tâm Phật giáo Tây Tạng, được chính đức Đạt Lai Lạt Ma ban cho danh hiệu là Thubten Dhargye Ling, Đất Hoằng Pháp.
Geshe-la trong ni viện Gaden Choling tại miền nam Ấn Độ.
Tại mảnh đất quý này ở Long Beach, Geshe-la hướng dẫn các lớp Thiền quán và giảng dạy Phật pháp cho mọi người. Ngoài việc giảng huấn và thuyết pháp, Thầy còn viết sách và mở ra nhiều trung tâm tại miền Bắc California, Colorado, Texas, New Mexico và cả xứ Đan Mạch, đồng thời vận động hợp tác với các Giáo hội Phật giáo tại miền Nam California. Môn sinh Thầy đào tạo trong ngần ấy năm hiện đã có mặt và hoạt động trên toàn thế giới.
Cho đến nay, các cuốn sách ghi lại lời giảng của Thầy bằng Anh ngữ đã được phổ biến sâu rộng trong giới Phật học là Keys to Great Enlightenment, Miror of Wisdom và mới nhất là The Foundation of All Good Qualities, cuốn sách Thày giảng về 14 bài kệ của vị Thánh tăng Lạt Ma Tsongkhapa. Ba cuốn đều do Tu viện Thubten Dhargye Ling xuất bản và phổ biến miễn phí cho những người muốn học đạo.
Geshe-la cũng đặc biệt quan tâm đến các vấn đề xã hội và tích cực hỗ trợ các dự án nhân đạo như mở trường mù tại Ấn Độ hay lập nơi cư trú của các vị sư cao niên trong chùa Gaden được dựng lại ở miền Nam xứ này. Công đức của Thầy đã thấm nhuần nhiều nơi và đạo đức của Thầy đã cảm hóa nhiều người.
Đối với đất nước và quyền tự trị của dân Tây Tạng, Geshe-la là một nhân vật tích cực tranh đấu và vận động trong xã hội Hoa Kỳ và ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Cảm được lời thỉnh nguyện và phong cách đức độ của Geshe-la, nhiều người Mỹ nổi tiếng đã quy y Phật pháp và lên tiếng cho dân Tây Tạng. Đặc biệt, giới phim ảnh của Hollywood đã hướng ống kính vào đề tài Tây Tạng. Nhiều cuốn phim giá trị như Sprit Tibet, Red Corner đã được thực hiện và phổ biến rộng rãi.
Một Phật tử nổi tiếng tại Hoa Kỳ là tài tử Richard Gere. Thừa lệnh đức Đạt Lai Lạt Ma, ngôi sao điện ảnh này đã cùng Giáo sư Robert Thurman và nhà soạn nhạc Philip Glass lập ra Tibet House để bảo tồn và phát huy văn hoá và tôn giáo Tây Tạng. Robert Thurman đi tu năm 24 tuổi (1965), hiện là Giáo sư Đại học Columbia về Ấn Độ và Tây Tạng, và Chủ tịch của Tibet House. Ông cũng là thân phụ của nữ tài tử Uma Thurman.
Người ta còn nhớ đến Richard Gere vì ông gây chấn động khi dùng diễn đàn của lễ trao giải Oscar để lên tiếng cho Tây Tạng. Ông ở trong Hội đồng Quản trị của tổ chức Campaign for Tibet, đã yểm trợ việc phát triển tu viện Gaden của Tây Tạng tại Ấn Độ.
Geshe-la cũng đã được Richard Gere và gia đình đề nghị góp tiền mở mang chùa Long Beach cho khang trang hơn mà Thầy từ chối, muốn dùng nguồn yểm trợ của mọi người để giúp đỡ các tu viện hay bảo trợ cho các buổi thuyết giảng của đức Đạt Lai Lạt ma. Phần mình, Geshe-la sống đạm bạc tại Long Beach và đi không ngừng, thuyết pháp ở nhiều nơi, nơi nào cũng gieo trồng việc thiện, ý lành.
Với giới trí thức, thượng lưu hay nghệ sĩ Hoa Kỳ, Geshe-la là khuôn mặt đáng kính trọng nên người ta không ngạc nhiên khi thấy năm ngoái, đức Đạt Lai Lạt Ma từ miền Nam California qua New York đã lại quay về Long Beach tham dự Hội nghị về Phụ nữ do Đệ nhất Phu nhân California là bà Maria Schwarzenegger tổ chức hồi tháng Chín năm ngoái tại Convention Center. Với chủ đề "Một buổi chiều từ bi", hội nghị thành công rực rỡ vì quy tụ 11 ngàn người đến nghe mà vé bán sạch trong nội 72 giờ.
Thiện duyên với Phật Giáo Việt Nam
Geshe-la, hạt mầm quí của Phật Giáo Tây Tạng” -theo cách gọi của Đức Đạt Lai Lạt Ma- có tình bạn và thiện duyên đặc biệt với Phật giáo Việt Nam.
Năm 1977, trong khi làm giáo sư thỉnh giảng tại Đại học U.C. Santa Barbara, Geshe-La đã gặp một nhà sư Việt Nam đang là Giáo sư của Đại học UCLA tại Los Angeles và được ông mời về ở chung phòng trong một chung cư nhỏ gần Hollywood.
Trẻ hơn Geshe La hai tuổi, nhà sư đó là Hoà thượng Thích Thiên Ân, người mà Phật tử Hoa Kỳ rất ngưỡng mộ và là người có nhiều công đức cứu giúp người Việt tỵ nạn qua Mỹ sau biến cố 1975. Nhiều vị sư Hoa Kỳ ngày nay là đệ tử của thầy và không thể quên con người đặc biệt này.
Hoà thượng Thích Thiên Ân là Giáo sư tốt nghiệp Tiến sĩ tại Đại học Waseda của Nhật. Năm 1966, thầy từ Việt Nam qua Mỹ trong chương trình trao đổi giáo dục với Đại học UCLA để giảng dạy về Ngôn ngữ và Triết học Đông phương. Ngoài việc giảng huấn, thầy là một thiền sư có uy tín thuộc dòng Thiền Lâm Tế, và đã trứ tác nhiều sách quảng bá Phật giáo bằng Anh ngữ. Thầy được mời ở lại Hoa Kỳ và lập ra ngôi chùa Việt Nam đầu tiên từ năm 1970.
Thiền viện “International Buddhist Meditation Center,” do Hoà Thượng Thiên Ân lập ra đã là nơi dừng chân đầu tiên của Geshe La. Vị cao tăng Tây Tạng rất thường tới ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên đất Hoa Kỳ, tại đường Vermont của thành phố Los Angeles.
Từ ngày ấy, đúng 30 năm về trước, hai vị cao tăng Việt Nam và Tây Tạng trở thành thâm giao cho đến khi Hoà thượng Thiên Ân viên tịch, năm 1980. Mối kỳ duyên của Phật giáo Việt-Tạng đã keo sơn từ đó.
Khi đức Đạt Lai Lạt Ma tới Los Angeles lần đầu, Ngài đã đến thăm và dùng ngọ trai trong ngôi chùa đầu tiên của Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ để bày tỏ lòng thâm cảm với Phật giáo Việt Nam về sự hợp tác ban đầu đó.
Khi Hoà thượng Mãn Giác, người kế vị Hoà Thượng Thiên Ân làm trụ trì Chùa Việt Nam, viên tịch năm ngoái, Geshe-la tham gia vào Ủy ban Chứng minh Tang lễ.
Ngày nay, trong tu viện Long Beach, các khóa giảng của Geshe-la đều có phiên dịch sang Việt ngữ cho người Việt cùng theo.
Với Phật giáo Việt Nam, Geshe-la có mối ân tình sâu đậm, được đức Đạt Lai Lạt Ma trân quý. Năm 2000, Geshe-la bảo trợ ngày Tương hội với chư tăng ni Việt Nam tại Nam California và thỉnh đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự. Trong dịp này, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã tiếp xúc và dùng ngọ trai với tăng ni Việt Nam.
Năm xưa, Geshe-la cũng sớm nhìn ra căn tu của một cậu bé Việt Nam và hướng dẫn bước đầu để trở thành vị sư Tây Tạng đầu tiên sinh tại Mỹ, có cha mẹ Việt Nam, được thọ giới tại Ấn Độ với đức Đạt Lai Lạt Ma. Đó là nhà sư trẻ Kusho Tenzin Drodon.
Từ năm Kỷ Hợi 1959 đến nay, pháp nạn của Tây Tạng khiến báu vật của văn hoá và tôn giáo xứ này được tung ra khắp nơi trên thế giới. Nhưng cũng từ đấy, một viên kim cương của Phật giáo Tây Tạng đã chiếu tới Hoa Kỳ, ánh từ quang còn tỏa sáng đến nhiều Phật tử Việt Nam.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
(Trích báo xuân Việt Báo Tết Đinh Hợi, 2007)
Gửi ý kiến của bạn