2. Những Quán Chiếu Trong Tấm Gương Pha Lê Sáu Cõi Bất Tịnh

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 13549)

2. NHỮNG QUÁN CHIẾU TRONG TẤM GƯƠNG PHA LÊ
SÁU CÕI BẤT TỊNH

Xin đảnh lễ Đức Avalokiteshvara, đấng cao quý của thế giớI.
Ngàn cánh tay của Ngài là ngàn đại đế;
ngàn con mắt ngài là ngàn vị Phật của thời đại may mắn này.
Ngài xuất hiện trong mọi phương cách cần thiết để thuần hóa chúng sinh.
Con đảnh lễ Đức Avalokiteshvara cao quý và siêu phàm.
Con đảnh lễ Ngài, đấng che chở chúng con thoát khỏi tám nỗi sợ hãi;1
Con đảnh lễ Ngài, đấng dẫn dắt chúng con trên con đường tới các cõi cao hơn;
Con đảnh lễ Ngài, đấng đưa dẫn chúng con tới giải thoát. 

Con đảnh lễ Đức Tara, với Ngài mọi mối liên hệ đều có ý nghĩa.
Sắc thân vinh quang của các Ngài hợp nhất tất cả chư Phật;
Các Ngài là tinh túy đích thực của Đức Kim Cương Trì;
Các Ngài là cội gốc của Tam Bảo.
Con đảnh lễ các bậc Đạo sư.
Bằng sự kính lễ, cúng dường, sám hối,
hoan hỉ trước công đức của người khác, khuyến thỉnh các bậc Thầy giảng dạy, và khẩn cầu chư Phật hiển lộ trong thế giới,
bất kỳ đức hạnh nhỏ bé nào con có thể tích tập
con hồi hướng cho sự giác ngộ siêu việt vô song.
Giờ đây Kundun Rinpoche, bậc có linh kiến về Phật Pháp,
hai tulku cực kỳ quý báu,2
những bậc cha mẹ tốt lành đã sinh ra tôi, và những người khác
đã liên tục thúc dục tôi, cho tới khi tôi không thể phớt lờ họ,
và vì thế tôi viết ra những điều chỉ là một giọt nước trong đại dương.

Tôi, cô gái khiêm tốn này tên là Dawa Drolma,
đã phát khởi động lực thanh tịnh và đi vào cánh cửa Giáo Pháp.
Tôi đã từ bỏ cách hành xử xấu xa và những hành vi ác hại, vô đạo đức.
Tôi đã cúng dường Tam Bảo càng nhiều càng tốt
và bố thí cho hành khất bằng mọi cách thức tôi có thể. 
Tôi đã làm mọi nỗ lực để thực hành đức hạnh.
Khi đã vứt bỏ những thái độ xấu xa, tôi chỉ cố gắng trong những cách thế bi mẫn.
Một số người nói: “Việc sinh ra của cô ấy là một tái sinh may mắn,” 
và tự đặt mình vào hàng ngũ những đệ tử trung thành và sùng mộ của tôi.
Những người khác nói: “Cô ta không phải là một vị trời cũng chẳng phải một quỷ ma.”
Dù họ thanh minh cho tôi, nhưng khó có thể coi những gì họ nói là sự thật.
Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi là một cô gái ít ham muốn và nhu cầu.
Tôi không có những hy vọng được nổi tiếng.
Tôi không có sức mạnh để đảm đương gánh nặng của một nữ anh hùng đang tìm kiếm một địa vị cao ngất.
Tôi không khao khát của cải hay kiếm tìm để có được ngay cả một sợi chỉ.
Tôi không ước muốn thuyết giảng, và thiếu hẳn một cái miệng lanh lợi và cái lưỡi hóm hỉnh.
Tuy nhiên, với tâm hoàn toàn thanh tịnh và vị tha
tôi có cảm tưởng rằng mình có thể ảnh hưởng đến tâm thức của một ít chúng sinh,
và vì thế tôi sẽ bày lộ một con đường cao quý, không thể sai lầm và thẳng tắp.
Nếu bạn coi con đường này như cái gì chân thật, thì đó sẽ là sự tốt lành vĩ đại nhất mà bạn có thể làm cho chính mình,
bởi bằng những chọn lựa đạo đức, bạn bảo đảm cho hạnh phúc của riêng mình.
Vì thế, hãy chú tâm lắng nghe những lời này của tôi!
Đây là câu chuyện của tôi về cái chết và hành trình đi tới địa ngục.
Các Đạo sư tôn kính ở địa vị cao, 
những nhà cai trị với quyền lực và ảnh hưởng vĩ đại, an tọa trên những ngai tòa của họ,
và những nhà bảo trợ giàu có, là những người tạo dựng hạnh phúc và kho lẫm của cải vật chất –
khi họ chết và đi tới các cõi địa ngục,
không có vô số nhà sư tề tựu trong vẻ lộng lẫy và tráng lệ, 
không có những cuộc duyệt binh với kiếm đao và các loại vũ khí,
không có những kho thực phẩm hay của cải để thực hiện những cuộc hối lộ bí mật.
Địa vị cao ngất, sức mạnh và quyền lực tàn nhẫn,
của cải của người giàu, những thân xác yêu kiều đẹp đẽ,
vẻ hóm hỉnh tinh ranh, và những lý lẽ thông minh
không thể làm khuây khỏa hay lừa gạt Thần Chết.
Có ai trong cõi người này sống mãi mà không chết?
Có ai không phải chia ly gia đình và bằng hữu?
Có thâu đạt nào không bị bỏ lại đằng sau?
Có ai không rơi ngã từ một tột đỉnh chót vót?
Sẽ tốt hơn cho tất cả các bạn nếu có những người như thế!
Mặc dù chúng ta nói về địa ngục như nơi nào xa xôi lắm, nhưng không phải thế.
Mặc dù chúng ta nói về bardo3 như nơi nào khác để đi, nhưng không phải thế.
Cái chết lảng vảng bên mình như cái bóng của ta đi theo thân xác.
Nếu bạn tỉnh giác về cái chết không thể tránh, bạn là người thông minh nhất trong tất cả.
Khi giờ chết đã tới, những bậc cha mẹ và con cái,
vợ chồng, thân quyến và bạn bè, của cải và tài sản đều như nhau
họ có hiến tặng cho bạn lợi ích hay nơi nương tựa nhỏ bé nhất? Hãy nhìn và thấy đấy!
Họ làm điều ác độc to lớn nhất là gởi các bạn tới các cõi thấp.4
Như thế, điều gì là lợi lạc? Chính là Tam Bảo không thể sai lầm.
Nếu bạn duy trì một tâm thức cao quý, đức hạnh và trì tụng thần chú mani sáu-âm,
bạn sẽ không đi vào con đường dẫn tới những tái sinh ở các cõi thấp trong vòng luân hồi,
mà đạt tới trạng thái toàn giác không gì sánh.
Om mani padme hung hri.
Xin đừng quên ban cho chúng con nơi nương tựa, Ôi các bậc Đạo sư và Tam Bảo.5
Xin đừng ẩn dấu lòng bi mẫn của Ngài, hỡi Đức Avalokiteshvara cao quý.
Xin làm những đấng bảo trợ nương tựa cho chúng con, hỡi các thiên nữ trắng và xanh.6
Xin chỉ cho chúng con con đường đi tới giải thoát, Ôi các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài.
Om mani padme hung hri.
Trong bầu trời trống rộng và mặt đất trống không của trạng thái bardo giữa cái chết và sự tái sinh,
ta không có cả cha lẫn mẹ để quay về nương tựa.
Trong chốn thê lương, xa lạ này,
chúng sinh phàm tục lang thang, tâm hồn tan nát.
Om mani padme hung hri.

Giờ đây tôi sẽ nói về những kinh nghiệm linh kiến của tôi. Trong khi tôi, cô gái Dawa Drolma, đang vượt qua một hẻm núi xa lạ và khủng khiếp thì gặp Sherab Dronma, con gái của gia đình ông Raga Shag, một trong những bộ trưởng của chính phủ Lhasa. Bởi bà là một hóa thân của Bổn tôn Vajravarahi nên tất cả những ai có quan hệ với bà qua việc chia sẻ hoặc thọ nhận những của cải hay thực phẩm từ bà sẽ được dẫn dắt tới cõi thuần tịnh ở tiểu lục địa Chamara. Vì thế, bà đã xuất hiện trong các cõi thấp của sự tái sinh và đã đưa dẫn khoảng một trăm triệu chúng sinh theo bà thoát ra ngoài. Khi tôi gặp bà, bà đang tụng thần chú mani với một âm điệu cực kỳ du dương, khơi dậy lòng tin đến nỗi những giọt lệ tuôn rơi trên đôi mắt tất cả những người hiện diện. 

Cả thiên nữ cao quý Tara Trắng (vị Bổn tôn mà với Ngài tôi đã có mối liên hệ nghiệp riêng và Ngài đã dẫn dắt tôi trong nhiều đời) và Sherab Dronma đều hiển lộ trong những hình tướng có vẻ bình thường. Các vị cư xử với nhau thật đằm thắm, giống như cuộc gặp gỡ giữa mẹ và con. Hơn nữa, Sherab Dronma còn xử sự với tôi trong cung cách có vẻ sùng mộ và tôn kính. Sau đó bà hát bài ca này:

Om mani padme hung hri.
Có năm con đường: trắng, đỏ, xanh dương, xanh lá cây, và vàng.
Con, con gái, hãy biết rõ con đường nào để đi.
Đức Tara Trắng, xin dẫn dắt cô gái trên con đường đó! 
Con đường màu trắng đi về phương tây dẫn tới Cõi Cực Lạc,
cõi thuần tịnh của Đức Phật Amitabha.
Con đường màu đỏ dẫn tới Chamara,
cõi thuần tịnh của Đức Padmasambhava.
Con đường màu xanh dương dẫn tới Núi Potala,
cõi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara cao quý.
Con đường màu xanh lá cây dẫn tới Yulokod,
cõi thuần tịnh của Đức Tara cao quý, tôn kính.
Con đường màu vàng dẫn tới Cõi Hoa thượng,
cõi thuần tịnh của nhiếp chính Jampa Gonpo.
Nếu con không thể quyết định theo con đường nào, 
thì việc lang thang trong bardo sau cái chết thật ít ý nghĩa.
Con, Dawa Drolma, hãy biết rõ nơi phải đi. 
Cầu mong con đến được cõi mà con tìm kiếm.
Ta là một hóa thân của Vajravarahi.
Không có những trạng thái tái sinh thấp đối với những ai có liên hệ với ta qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.
Từ Núi Huy Hoàng trong tiểu lục địa Chamara,
hãy đi tới thế giới của cõi người.
Cầu mong con được ban phước để thực hiện con đường dẫn tới giải thoát.
Bà tiếp tục: “Con gái, con cần phải trở về cõi người. Nhưng chỉ mới mười sáu tuổi, năng lực tinh thần của con chưa phát triển đầy đủ, và khi đã tái sinh làm một người đàn bà, con sẽ có một chút uy quyền. Bởi chúng sinh trong những thời đại suy hoại này sẽ khó tin rằng những tường thuật của con là chân thật, lợi lạc con có thể đem lại cho họ sẽ bị suy giảm.” Bởi thương xót tôi, nước mắt bà rơi lã chã. 

Đức Tara Trắng, bậc đang dẫn dắt tôi trên con đường, có vẻ hơi phật lòng vì những lời này. Ngài trả lời:

Những cô gái thế tục bình thường và cô gái này thì không giống nhau,
bởi cô ấy là một hiện thân của Tara Trắng.

Cô ấy là một cô gái có tâm hồn đức hạnh.
Cô ấy là cô gái có lòng bi mẫn.
Cô ấy là một nữ anh hùng có tâm hồn can đảm.
Cô ấy là một Dakini được chứng nhận trong tiên tri.
Cô ấy là cháu gái của bốn Lạt ma.

Ngài Khakyod Wangpo bất nhiễm đã khởi hành tới Chamara trong một thời gian ngắn;
cô gái này đi tới cõi đó hy vọng gặp ngài.
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với người cha tốt lành của cô;
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với mẹ cô;
Cô ấy tới chốn này không chút bám luyến những vật sở hữu, thực phẩm, hay của cải;
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến bằng hữu hay những người phục vụ.
Không thể phân ly với Pháp Vương Manjughosha,7
Đấng bảo trợ, hiện thân hoạt động của một ngàn vị Phật,
là đấng nương tựa, Đức Sakya Sodnam Tzemo vĩ đại.8 
Hiện thân của Ngài trong thân tướng của một thiện tri thức,
Đạo sư Tromge Chhogtrul, hóa thân tuyệt hảo,
nỗ lực liên tục trì hỗn cô, ngài nói: “Đừng đi!”
nhưng cô ấy không nghe và đi tới cõi này.
Cô ấy cũng gặp những cõi linh kiến thanh tịnh không thể suy lường.
Nếu cô ấy trở về thế giới con người,
cô có thể kể về những chọn lựa đạo đức của việc chấp nhận những thiện hạnh và từ bỏ những ác hạnh. 
Cô ấy có thể xoay chuyển tâm của chúng sinh. 
Cô có thể thành tựu vô số lợi ích cho họ.
Cô có thể nói về những linh kiến của cô trong những cõi này.
Cô có thể viếng thăm cõi giới này một lần nữa.
Vì thế không cần đối xử với cô ấy với sự thương xót,
và bà không cần phải cảm thấy buồn đau trong lòng.
Rồi chúng tôi tiến lên. 

Trong cổng vào lối đi dài và ghê sợ của bardo là Lạt ma Gyajam, một đệ tử thân thiết của Tromge Kundun Rinpoche. Tóc ngài bới lên thành một búi, và ngài khoác một khăn choàng và mặc một hạ y bằng vải trắng. Mặc dù tôi đã rất mong được gặp ngài, nhưng chúng tôi không tiếp xúc, và không bao lâu tôi tiếp tục đi. Tôi hỏi bà mẹ từ bi của các Đấng Chiến Thắng: “Vị Lạt ma đó của chúng ta, ngài Gyajam chứng ngộ – ngài từ đâu tới? Và với mục đích gì?”
Các thiên nữ Tara Trắng và Tara Xanh trả lời:
Bậc chứng ngộ và hết sức cao quý đó được đặt tên theo Đức Manjughosha9
đã nương tựa một Đạo sư nhân từ và cực kỳ bi mẫn.
Bởi có mối liên hệ nghiệp sâu đậm, ngài đã phát triển chứng ngộ toàn hảo;
bởi có sự tinh tấn lớn lao, ngài đã thực hành Pháp thật dũng mãnh;
bởi lòng bi mẫn của ngài vĩ đại, ngài đã tới giảng dạy Pháp trong bardo. 
Om mani padme hung hri. 

Lại thêm những điều để kể: Hàng trăm chúng sinh bị cuốn lên giống như một trận bão tuyết; hàng ngàn chúng sinh nữa rớt xuống như một trận mưa tuyết dày đặc. Họ kêu khóc, tiếng kêu như âm thanh của một ngàn con rồng. Nước mắt tuôn ra từ đôi mắt họ như một trận mưa rào kéo dài một năm. Từ đỉnh đèo cát giữa sự sống và sự chết xuống tới những cánh đồng sắt nóng đỏ rộng lớn trong các địa ngục, số lượng chúng sinh thật vô hạn, như những hạt cát trong đại dương. Họ không được nghỉ ngơi hay rảnh rỗi, giống như những cừu cái lẫn lộn với cừu non.10 Nỗi khổ của họ không thể đo lường được, giống như nỗi khổ của một con cá trên đất khô. Như người cố leo lên một đồi cát, họ không có cơ may để trốn thoát. Như người bị ném vào lò lửa, họ không có phương tiện để chịu đựng sự đau đớn này. Như người có ảo giác nhìn thấy nước, họ kinh nghiệm những hình tướng lộn xộn, sai lầm theo nghiệp của họ. Các thiên nữ bi mẫn và cao quý, xin đưa dẫn những chúng sinh đang trải qua những nghiệp quả hỗn loạn như thế! 

Om tare tuttare ture soha.

Trên một cánh đồng trống và rộng lớn trong bardo, Lozang Drolma, con gái của Tromge Kundun Dargyay, đang lang thang. Nỗi khổ của cô không quá lớn cũng không quá nhẹ nhàng. Cô trao cho tôi thông điệp sau đây để thuật lại:

Hãy nói lại điều này cho những người trong gia đình tôi:
Nếu cha mẹ thực sự cảm nhận rằng con gái của mẹ đang đau khổ,
thì một lần duy nhất trì tụng thần chú mani sẽ mang lại lợi ích to lớn.
Nếu cha mẹ có thể thu xếp để trì tụng Kinh Giải Thoát,
càng nhiều càng tốt thần chú mani,
và Tantra Sám Hối Bất nhiễm, 
thì con có thể từ bỏ thân bardo này
và được tái sinh làm người với samaya trong sạch.11
Với lòng bi mẫn, tôi lớn tiếng tụng thần chú sáu-âm cho cô từ xa, và cô ấy ra đi, bị cuốn dạt như một chiếc lông chim trong gió. 
Om mani padme hung hri.

Trên đèo cát cao ngất giữa sự sống và sự chết, là một cánh đồng cực kỳ hoang vắng, thảo nguyên bao la xám xịt của sự chết. Con sông người chết có một mầu nâu ngầu đục, không có chỗ cạn, chỉ có những con sóng tung cao thật dữ dội. Chiếc cầu sáu-nhịp dễ sợ làm tôi ớn lạnh. Những sứ giả kinh khủng của Yama, Thần Chết cực kỳ hung dữ và phàm ăn. Không có một vị bảo trợ nào trong xứ sở của người chết, chúng sinh ở đó thật bơ vơ, không nơi nương tựa!
Om mani padme hung hri.

Aga, con dâu của gia đình Gyaten xứ T’hromt’hog, ở trong con sông nâu không có chỗ cạn của người chết đó, phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi. Đây là hậu quả sau cùng của việc cô đã cúng dường trà bất tịnh cho tập hội nhiều tu sĩ. Tôi tụng thần chú mani, và Đức Tara đã cứu thoát cô, kéo cô ra khỏi con sông nâu hung dữ bằng một mũi tên có trang trí dải ruy băng.

Tôi tiếp tục đi xuống một nơi khủng khiếp. Không có ánh sáng mà chỉ là bóng tối ảm đạm đến nỗi tôi chỉ có thể nhìn thấy phía trước khoảng một cánh tay. Từ trên cao, một trận mưa lửa đổ xuống. Mặt đất bị bao phủ bởi sắt nóng. Kim loại nóng chảy tràn ngập mọi hướng và đủ loại vũ khí rải đầy khắp nơi. Xác chúng sinh chất cao khoảng một trăm sải (1 sải= 1,8m), da họ màu đen như mực. Tiếng kêu thét của họ nghe inh tai nhức óc và kéo dài không dứt, giống như trăm cừu mẹ gặp được trăm cừu con của chúng, “Trời ơi! Than ôi! Ôi khổ tôi chưa! Chao ôi! Ôi Cha ơi! Ôi Mẹ ơi! Cứu con! Ôi, nóng quá!”
Cảnh tượng hỗn loạn và khủng khiếp này dường như xảy ra rải rác ở một nơi nào đó.

Ở giữa một cánh đồng bao la khác sừng sững một chiếc ngai sắt màu đen có kích thước của một tòa nhà ba tầng. Ngự trên đó là Dharmaraja,12 Thần Chết. Thân ông màu nâu pha đỏ tía đậm, trông thật khủng khiếp, hung nộ, và dữ tợn. Đôi mắt ông sáng rực như mặt trời và mặt trăng, đỏ ngầu và lóe sáng như tia chớp. Có những mụt cóc trên má và những chỗ khác trên mặt ông. Ở phần thân trên, ông khoác miếng da sống của một con voi, quanh thắt lưng là miếng da lột của một con người, quanh thân dưới là hạ y bằng da cọp. Ông tô điểm bằng quần áo lụa cùng nhiều món trang sức bằng xương và châu báu. Trên đầu đội một vương miện làm bằng năm đầu lâu khô. Trong bàn tay phải, ông ôm một bảng định mệnh có vẽ các vạch chéo song song, trong bàn tay trái là tấm gương nghiệp quả.13 Ông ngồi trong tư thế chéo chân. Vẻ rực rỡ tỏa ra từ thân ông làm chói mắt. 

Trước mặt Yama là Ác Ýù, một thuộc hạ đầu rắn đang cầm một tấm gương. Bên phải Yama là Kiêu Ngạo, với đầu sư tử, cầm cái trống tòa. Phía sau Yama là Định Mệnh, với đầu khỉ, cầm một cái cân. Bên trái Yama là Awa Đầu-Bò, cầm những cuộn giấy. Xung quanh họ là hàng triệu thuộc hạ của Thần Chết hóa hiệân trong những hình dạng có đầu của vô số thú vật. 
Đức Tara và tôi, cô gái, cùng thực hiện ba lễ lạy và dâng bài tán tụng sau đây:

Nếu nhận ra được, thì chính là đây – bổn tâm của ta;
nếu không nhận ra, thì đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại. 
Thực ra đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).
Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa);
Nếu không, đó là Ác Ý với đầu của một con rắn.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự sân hận hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm một tấm gương.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh);
nếu không, đó là Kiêu Ngạo với đầu sư tử.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với tâm kiêu ngạo hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm một cái trống tòa.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Amitabha (A Di Đà)
nếu không, đó là Định Mệnh với đầu khỉ.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với tâm tham luyến hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm một cái cân.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu);
nếu không, đó là Awa Đầu-Bò.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với tâm ganh tị hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm những cuộn giấy.
Các ngài biết rõ đức hạnh hay điều xấu ác, những thuộc hạ phẫn nộ của sự chết này.

Cầu mong chúng sinh không làm điều gì, không tích tập nghiệp xấu.
không bị dẫn vào những con đường không lối thoát và không thể chịu đựng,
được tái sinh trong một cõi thuần tịnh không lỗi lầm và không sợ hãi.
Dharmaraja hơi mỉm cười và trả lời: “Cô con gái có biện tài từ cõi người, cô đã tích tập loại nghiệp tích cực, thiện lành nào? Cô đã tích tập loại nghiệp tiêu cực, xấu ác nào? Hãy nói thật trung thực, bởi nói dối sẽ không ích lợi gì!”
Đức Tara Trắng đứng lên, đảnh lễ Dharmaraja ba lạy và nói: “Thay mặt cô gái này, tôi có vài điều muốn nói.”

“Tốt lắm,” ông trả lời.

“Cô gái này là con gái của gia đình Lạt ma Tromge,” bà nói. “Về phần đức hạnh, cô ấy cúng dường bất cứ điều gì có thể cho Tam Bảo, coi Tam Bảo là bậc trưởng thượng của cô. Cô có lòng đại bi và không coi thường những người xấu, những người hành khất như người dưới của cô. Cô rất rộng lượng, thưa ngài. Mặc dù bản thân cô không thực hành Phật Pháp nhiều, cô làm cho những người khác thực hành và khuyến khích họ sống đức hạnh. Cô luôn luôn có đức tin, lòng sùng mộ, và Bồ đề tâm to lớn. Cô không bao giờ mắc phạm dù chỉ một hành vi ác hại hay vô đạo đức, thưa ngài.”

Khi Bà trình bày xong, Yama nói: ‘Tốt, nào! Thuộc hạ đầu-rắn sẽ nhìn vào tấm gương của ông xem điều này có đúng sự thật không.”

Thuộc hạ đầu-rắn chăm chú nhìn vào tấm gương và nói: “Hình ảnh giống như mặt trời lộ ra từ sau đám mây.” Thuộc hạ đầu-sư tử đánh trống tòa và phát biểu: “Âm thanh thật du dương.” Thuộc hạ đầu-khỉ đặt các vấn đề lên bàn cân và tuyên bố: “Đức hạnh của cô ta hoàn toàn trổi vượt; chắc chắn là chỉ có hơn một hoặc hai hành động xấu.” Cuối cùng, thuộc hạ bảo vệ đầu bò liếc nhìn những cuộn giấy và nói: “Một phút thôi! Cô có phạm vài hành động xấu, như đập vỡ trứng chim trên mặt đất hoặc tỏ lộ tánh khí quá ngang bướng, phải không?”

Nghe những điều này, Dharmaraja cười khúc khích và nói: “Ồ, thế à! Tốt, con gái ta, mặc dù con là một người đầy lòng bi mẫn, nhưng lỗi lầm của những người xấu thì thật nặng nề. Nếu ta trừng phạt một số người và tha thứ những người khác, thì với tư cách là một vị vua có quyền lực đối với những ác hạnh, ta sẽ phải chịu những hậu quả của việc sao lãng nhiệm vụ. Vì thế, bây giờ ta sẽ gởøi con trở về cõi của con một lần nữa, nhưng con nên sám hối những hành vi xấu của con và cẩn thận giữ gìn đức hạnh chừng nào con có thể. Hãy giữ trong tâm những cảnh tượng của địa ngục, những thông điệp từ những người quá cố, và những lời khuyên này của Dharmaraja. Cũng hãy thuật lại các điều này cho những người khác, và khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh.”

Nhìn xung quanh, tôi thấy một cô gái tên là Bilima ở miền Zurpa. Một con rắn đen to mập như thân cây thông quấn quanh người cô từ đầu tới chân, như thể cô đắp một cái mền. Những thuộc hạ của Yama la hét và rống lên: “Ha, ha! Ồ, ồ!” tạo nên một âm thanh inh tai nhức óc. Nước mắt cô dầm dề như một đại dương, và tôi nghe tiếng cô kêu khóc: “Ôi, Cha ơi, Mẹ ơi, cứu con!” 

Vị thuộc hạ la lớn:
Ồ đứa con gái tội lỗi giết những con rắn,
kêu réo cha mẹ mi thì chẳng có ý nghĩa gì. 
Đây là hậu quả của những hành động bản thân mi đã phạm.
Sẽ không thể thoát khỏi trong một ngàn kiếp!

Đây là kết quả sau cùng của việc cô giết một con rắn trong khi đang thu hoạch lúa mạch trong cánh đồng. Bà mẹ già của cô lo sợ những hậu quả của hành động này và nói với cô: “Đồ quỷ cái, đừng kêu la nữa - hãy sám hối hành động này!” Cô con gái đã cười phá lên, và sự tái sinh này là kết quả.

Cũng có một cô gái tên là Palkyid ở quận Nyagrong. Những thuộc hạ của Yama đã đặt một cái rây bằng sắt trên đầu cô, qua đó họ đổ chất kim loại đỏ rực, nóng chảy và sôi sùng sục từ đầu tới chân cô. Với những âm thanh xèo xèo, xương thịt cô bị đóng dấu bằng sắt nung và bị thiêu đốt. Cô thút thít, không thể khóc lớn tiếng. Những thuộc hạ la hét: “Ồ đứa con gái tội lỗi, trong thế giới con người phàm tục, mi đã la cà bên ngoài khu vực tu hành của một tập hội tu sĩ, bắt đầu mỉm cười và tán tỉnh họ. Gấu áo quần của mi làm tung bụi đất. Một nhà sư nói: “Đừng cư xử như vậy – đừng tích tập nghiệp xấu!” Nhưng mi không nghe lời ông ấy, và điều đang xảy ra cho mi bây giờ là hậu quả sau cùng của việc mi phá rối những thành viên này của Tăng đoàn. Mi sẽ không có cơ may thoát khỏi đây trong một ngàn kiếp.”

Bà mẹ bi mẫn của các Đấng Chiến Thắng vung vẩy mũi tên có trang trí dải ruy băng lụa; tôi, cô gái, đã tụng thần chú mani du dương như một giai điệu. Thoát khỏi trạng thái thấp đó, Palkyid tái sinh trong cảnh giới mà cô cầu nguyện, nhưng dường như cô vẫn còn phải chịu một vài hậu quả do các hành động của mình. 
Om mani padme hung hri.

Sau đó tôi thấy một người đàn bà già ở miền Tro, tên là Anag. Khi kim loại nóng chảy sôi sục được đổ vào miệng bà, thân bà ta vỡ tung ra từng mảnh từ đầu tới chân. Tôi thấy bà chịu đựng loại đau khổ này không ngừng nghỉ. Tôi được cho biết hậu quả này là bởi bà đã đầu độc một Lạt ma.14

Dingla ở vùng Aso, và Khargya và những người khác– thực ra phần lớn những người ở vùng đó– đang lang thang trong bardo. Rinchhen Dargyay cũng lang thang ở đó. Một người tên là Nyima Holeb bị tái sinh trong Địa ngục Sống lại.15 Cũng có khoảng mười người ở Aji. Một số đã bị tái sinh trong các cảnh giới địa ngục, một số thì ở các cảnh giới preta.16

Trong số đó có một người tên là Abo có một cái đầu to như một cái bình đất sét lớn và thân mình bị biến dạng trông thật khủng khiếp. Miệng ông ta nhỏ như lỗ kim và thực quản bằng bề rộng của một sợi lông bờm ngựa, trong khi bao tử thì lớn bằng cả một thành phố. Móng tay ông xuyên thủng các nắm tay nắm chặt của ông ba lần. Ông không tìm được thức gì để ăn; những lưỡi lửa trào ra khỏi miệng. Ông ta đang phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi.

Tôi hỏi: “Hành động nào dẫn tới nỗi khổ của người này?” Tôi được kể lại rằng ông ta không bao giờ cúng dường Tam Bảo là những bậc trưởng thượng của ông, và đối xử thiếu nhân từ với chúng sinh ở các trạng thái thấp là những kẻ dưới ông. Ông luôn luôn cúng dường một số lượng nhỏ bé và do sợ hết lương thực, ông ta chỉ dâng cúng sự tham lam.

Một người quen của tôi tên là Atar thuộc gia đình Tanpa xứ T’hromt’hog cũng ở đó. Thông điệp của ông ta gởi cho mẹ ông và thân quyến là: “Xin đừng từ bỏ những thực hành đức hạnh, trì tụng thần chú mani và nghi thức của Đức Phật Akshobhya,17 cùng việc quyên góp cho tập hội đông đảo các nhà sư.”

Tashi Dondrub thuộc gia đình Nag cũng tái sinh ở đó và trải qua nỗi khổ ghê gớm. Tôi hỏi bạn đồng hành của tôi là Đức Tara: “Người này đã phạm hành động nào mà phải chịu hậu quả này?”

Ngài đáp: “Không giữ gìn các hứa nguyện samaya của mình, hành động với sự ích kỷ kiêu căng, nghĩ tưởng rằng: “Có phải ta sẽ được cái này?” và “Ta sẽ kiếm được cái kia chăng?”

Ông ta trao cho tôi thông điệp sau đây cho gia đình: “Vì lợi ích của tôi xin hãy trì tụng bảy mươi triệu lần thần chú mani và Kinh Giải Thoát, hãy sám hối những hành động có hại của quý vị, và hãy dâng những lời cầu nguyện hồi hướng trong tập hội đông đảo.”

Gyashod Atsang bị tái sinh trong một cõi ngạ quỷ (preta). Vô số không thể nghĩ bàn những người khác, những người tôi quen biết lẫn những người không quen cũng bị tái sinh ở đó. Cõi giới này thật là khủng khiếp. Chúng sinh hết sức tuyệt vọng bởi họ không sao tìm được thứ gì để ăn hay uống. Tóc họ dựng đứng lên, thân thể gầy mòn, miệng giống như lỗ kim, cổ họng như những sợi lông bờm ngựa, bụng lớn như toàn thể xứ sở, và chân tay thì như những cọng cỏ. Móng tay rất dài, đâm thủng bàn tay họ chín lần.

Phần lớn các ngạ quỷ đó có trong bàn tay chút nước bọt mà Đức Jamyang Khyentsei Wangpo hồi hướng cho họ,18 nhưng họ phải trải qua hàng trăm hay hàng ngàn năm trước khi có thể mở miệng và liếm chút nước bọt ấy. Họ không tìm thấy bất kỳ sự nhàn nhã nào ngoại trừ giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi này. Trong nỗi đau khổ của họ, họ đồng thanh kêu khóc:”Tôi sẽ ăn cái gì? Tôi sẽ uống cái gì? Tôi đói! Tôi khát! Trời ơi, trời ơi! Than ôi!”

Quân lính bảo vệ cõi preta bày ra nhiều loại món ăn và của cải, rồi cầm những lưỡi gươm sắc nhọn trong tay và nhìn trừng trừøng trông thật hiểm ác. Vì quá đói khát, những preta tới ăn cắp thực phẩm và nước uống này, nhưng chỉ khiến cho thân xác họ bị những thanh gươm đâm chém làm họ kêu khóc trong hoảng loạn.

Các bán thần đang phải trải qua nỗi khổ dữ dội trong cuộc chiến đấu với các vị trời trên những dốc Núi Tu Di.19 Họ ganh tị đến không thể chịu đựng nổi trước sự tráng lệ và của cải trong các cõi trời cùng trò nô đùa ve vãn của các thiên nữ đang ca hát và nhảy múa, nhưng họ chỉ gánh chịu sự đau khổ không tưởng tượng nổi bởi thất bại trước các vị trời. Các vị trời ném đĩa có các đinh nhọn cũng như các mũi tên và chĩa ba, và sử dụng những con voi say có những vũ khí hình-bánh xe được trang bị ở cuối thân voi. Các bán thần trải qua những đau khổ không thể tưởng tượng nổi khi bị giết chết hay bị thương tích. Họ cũng chiến đấu ngay trong nội bộ của họ, với những âm thanh inh tai “Giết, giết!” và “Đánh, đánh!” vang dội như tiếng gầm của một ngàn con rồng.

Ngay cả bản thân tôi cũng kinh hoàng trước những gì được chứng kiến trong cảnh giới đó. Đối với việc ném mạnh một trái trứng chim trên mặt đất, tất nhiên là tôi phải kinh qua mọi loại khí giới; nhưng tôi đã nhất tâm khẩn cầu Bồ Tát của lòng bi mẫn và vị thiên nữ tôn kính, và tụng thần chú sáu-âm ba lần, và rồi dường như đối với tôi, những âm thanh dần dần trở nên dịu đi.

Khoảng năm ngàn người ở vùng Chamtring và một số không rõ những người Trung Quốc tái sinh trong cùng cảnh giới này. Dường như cũng có nhiều nhà quý tộc, nổi bật nhất trong số đó là Lozang Tendzin, một vị tướng miền Chamtring. Một số đông người không thể tính xuể bị tái sinh ở đó, trong đó có gia đình Wanggyal và bộ tộc Dugtza, phần lớn họ đã chết vì dao.

Đi xa hơn nữa, trong một công viên đầy hoa, tôi tìm thấy một vị trời rất già, không chịu đựng điều gì ngoài sự đau khổ. Vài người bạn tới gần, ném những vòng hoa lên người ông và nói: “Ngay khi ông rời bỏ thân xác, cầu mong ông được tái sinh trong cõi người, thực hành mười loại thiện hạnh,20 và lại được sinh vào cõi trời này.” Cùng với lời nói đó, họ tung rải những bông hoa. Ông đã phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi, như thể trái tim ông vỡ tung ra và thân xác thì tan thành cát bụi. 

Thọ mạng một vị trời có thể được đo lường bằng sự kiện là khoảng bảy ngàn năm của con người chúng ta chỉ bằng một tuần lễ đối với họ. Một tuần trước khi chết, họ trải qua những đau đớn mà mức độ dữ dội thì vượt xa những nỗi khổ trong địa ngục đau khổ không dứt khủng khiếp nhất. Khi nghiệp của họ cạn kiệt, do các niệm tưởng bị ô uế bởi những cảm xúc như kiêu ngạo, họ thực sự nhìn thấy nơi tái sinh trong tương lai của mình ở một cõi thấp. Điều ấy làm họ đau khổ ghê gớm hơn việc tự vẫn bằng cách tự ném mình vào hầm lửa lộ thiên.
Om mani padme hung hri.

Tôi tiếp tục đi và gặp Kardo thuộc bộ tộc Getsay trong một cõi địa ngục. Ở đó, trong một căn nhà bằng sắt đồ sộ có kích thước to lớn, ông ta đang thâu thập đất, đá, cỏ, và gỗ (mặc dù tôi nghi ngờ về sự cần thiết của những hành động của ông), và đặc biệt là lam ngọc, san hô, pha lê, đá lưu ly, vàng, và bạc. Rồi các thuộc hạ của Yama chất đống tất cả của cải cùng đất đá lên đầu ông. Ông kêu khóc trong đau đớn. Dù cố trốn thoát ở đâu, ông cũng bị ngăn chặn lại. Sau đó, phải nhìn những viên đá và kim loại quý bị tung rải như lông chim trong gió, một lần nữa, ông đau khổ dữ dội. Rồi lại như lần trước, ông thâu thập của cải và thực phẩm, và lại bị chúng đè bẹp, và vì thế ông phải chịu đựng trong từng giây phút những hình thức đau khổ luân phiên này. 

Tôi hỏi: “Đây là hậu quả của hành động nào?”

Đức Tara nói với tôi: “Đây là hậu quả của việc ông ta thèm muốn tất cả những gì ông để mắt tới, hậu quả của việc ông có ác tâm với mọi người ông nghe nói, hậu quả của việc ông chẳng có gì ngoài những tà kiến về mọi sự ông nghĩ tới. Đây là hậu quả của việc không thực hành đức hạnh, mà dấn mình vào những hành động vô đạo đức và có hại, kể cả việc đeo một mala (chuỗi hạt) trong khi bị phóng tâm bởi chuyện ngồi lê đôi mách và trò chuyện tầm phào không đâu.”

Kardo trao cho tôi thông điệp này để mang về: “Với Tsagdi, con dâu trong gia đình tôi, tôi nói: ‘Mặc dù con trang điểm bằng mã não và san hô, điều này không tốt cho cha. Con không thương xót cha sao? Con đã không thỉnh mời một Đạo sư duy nhất tạo mối liên hệ với cha bằng cách hồi hướng tài sản của con nhân danh cha. Không gì lợi ích cho cha hơn nghi lễ tẩy tịnh của Đức Phật Akshobhya, Bổn tôn trong cổng phía nam của mạn đà la của Đức Phật Vairocana.’”

Tôi trì tụng thần chú mani, và trong chốc lát ít ra ông ta đã có thể nghỉ ngơi. Nhưng cũng như trước đó, ông bắt đầu phải chịu đựng những tri giác lầm lạc của mình.

Thêm vào đó, có nhiều Lạt ma và tu sĩ trong một ngôi nhà bằng sắt trông đẹp đẽ. Mặc dù thoạt đầu họ có vẻ khá dễ chịu, bỗng nhiên tâm họ trở nên rối loạn, và cùng một lúc họ bắt đầu la hét một ngôn ngữ gớm ghiếc. Với sự hoài nghi, tôi tới gần và thấy lửa phun ra từ miệng họ, khói thoát ra từ lỗ mũi, và những chiếc cưa sắt kêu rì rầm trên đỉnh đầu họ. Khi tôi hỏi họ hành động nào đã dẫn tới hậu quả này, họ trả lời là họ đã tham gia vào cuộc trò chuyện vô ích trong các nghi lễ được cử hành cho tín đồ (cả người sống lẫn người chết), trong khi kết giao với những hành giả đang hoàn thành những thực hành Bổn tôn theo nghi thức, và trong khi dự những nghi thức tập thể trong đền thờ của họ. Họ đã làm gián đoạn việc thiền định của người khác bằng cách nói luôn miệng, cãi cọ trong những tiệc cúng dường, và tạo nên một âm thanh chói tai.

Một người hành hương du phương xuất hiện. Ông mặc quần áo rách rưới tả tơi và cầm một cây cờ cầu nguyện.21 Yama Dharmaraja hiện ra với thuộc hạ của ông, biểu lộ sự vui mừng và nói: “Lợi lạc to lớn biết bao cho Phật Pháp! Và không có gì vĩ đại hơn Pháp cao quý của một lá cờ cầu nguyện. Những lá cờ cầu nguyện là cội gốc của Pháp. Thần chú mani là tinh tuý của Pháp. Thần chú siddhi đem lại sự giải thoát từ lối hẹp của bardo.22 Nghi lễ chay nyungnay là vị Thầy chỉ rõ con đường dẫn tới giải thoát. Một trăm ngàn hòn đá mani là vòng hoa của Pháp.23 Hành vi cứu giúp những sinh mạng là cỗ xe của con đường. Việc đúc các satsa là cách chặn đứng việc tái sinh trong các cõi thấp.24 Đi hành hương là cây chổi quét sạch những hậu quả của những ác hạnh. Bày tỏ sự tôn kính bằng những lễ lạy tiệt trừ các lỗi lầm. Đức Tara là nguồn mạch bên ngoài của sự nương tựa (quy y). Tích tập công đức và giác tánh nguyên sơ là lương thực dự trữ cho những đời sau. Lòng bi mẫn là trục chính của Pháp. Vì thế, con ta, hãy vui vẻ đi tới Potala.”

Người hành hương đi qua, dẫn khoảng một ngàn chúng sinh có liên hệ với ông qua ngôn ngữ hay tiếp xúc. 

Om mani padme hung hri.

Đức tôn kính Tara nói với tôi:

Những kẻ không bỏû nón khi một vị Lạt ma tới trước mặt họ,
đã có một thời họ từng trải qua những địa ngục sẽ tái sinh làm con cừu hoang .
Những kẻ không đứng dậy và vẫn đứng khi các nhà sư tới trước mặt họ,
đã có một thời họ từng trải qua những địa ngục sẽ tái sinh làm những người què.
Những kẻ không cúng dường đèn bơ tinh sạch sẽ tái sinh trong một hầm lửa.
Những kẻ bước lên hay để quần áo trên ba biểu tượng của Trân Bảo25
sẽ tái sinh làm những người câm hoặc làm những con sâu dơ bẩn.
Những kẻ khạc nhổ hay hỉ mũi trong các chùa miếu
sẽ tái sinh trong Địa ngục Đầm lầy Tử thi Rữa nát.
Những kẻ ăn thịt từ một con vật bị giết trong cùng ngày mà không tịnh hóa hành động đó bằng pháp sám hối,
sẽ tái sinh làm những quỷ ma khát máu.
Những kẻ ăn bám vô dụng biển thủ tài sản của Tam Bảo
sẽ tái sinh làm các preta (quỷ đói) hoặc những lính canh trong các cõi preta. 
Những kẻ uống rượu không được hiến cúng 
sẽ tái sinh trong Địa ngục Kêu khóc.
Những kẻ sử dụng những ghế ngồi của Tăng đoàn xuất gia,
sẽ tái sinh trong các địa ngục nhất thời.
Việc lấy đi các lễ phục từ ba loại biểu tượng,
biển thủ phóng túng tài sản của tăng đoàn,
và đặc biệt là trộm cắp tài sản chung của tăng đoàn,
cướp đoạt hay đánh đập các hành giả trong ẩn thất cô tịch –
những hành vi này đưa tới sự tái sinh trong tám địa ngục lạnh.
Những kẻ tích tập nghiệp bằng năng lực của sự sân hận
sẽ tái sinh làm các chúng sinh trong địa ngục;
những kẻ tích tập nghiệp bằng sự tham lam, sẽ tái sinh làm các quỷ đói;
tích tập nghiệp bằng năng lực của sự ngu si, tái sinh làm súc sinh.
Cầu mong những chúng sinh trải qua ba cõi thấp
được tái sinh ở Núi Potala.
Om mani padme hung hri.

Cũng có nhiều người ở bộ tộc Gyashod. Ở giữa cây cầu-sáu nhịp trên con sông màu nâu không có chỗ cạn của người chết, Gonpo Dargyay bị xích lại, không hy vọng được giải thoát. Khói xuất hiện trên da thịt ông khi bị đốt cháy, và ông phải chịu nỗi đau khổ không tưởng tượng nổi. Những thuộc hạ trong các địa ngục, với các đầu sư tử và nai đực, đang canh giữ ông. Ông nói rằng việc trì tụng thần chú mani sẽ là một phương tiện để tịnh hóa nỗi khổ và những lỗi lầm của ông, và sẽ hết sức lợi lạc nếu có ai nhân danh ông sám hối những ác hạnh của ông.
Tôi hỏi Đức Tara những hành động gì dẫn tới hậu quả này. Ngài trả lời: “Khi ông ta là một nhà cai trị lãnh địa của ông, ông đã không phân phát của cải và thực phẩm hoặc không xét xử đúng đắn, và ông ta hành xử đầy ác ý.”

Thợ săn nai Tsewang Gonpo đang ở trong Địa ngục Sống lại. Ông nói rằng ông sẽ được giải thoát nếu có ai khắc vào đá Kinh Giải Thoát, hành động đó tịnh hóa những hậu quả của ác hạnh. Tôi hỏi những hành động nào dẫn tới hậu quả này, Đức Tara đáp: “Bởi giết hươu nai vô tội.”

Tashi Wangkhyug đang đau khổ trong Địa ngục Sợi chỉ Đen. Ông giao cho tôi một thông điệp để mang trở về: Nếu nhân danh ông mà trì tụng một trăm triệu lần mỗi thần chú một trăm âm của Đức Vajrasattva, thần chú mani, và thần chú siddhi, thì ông sẽ được tái sinh làm người. 

Tsewang Gonpo đang đau khổ trên đỉnh Núi Shangma. Ông nói rằng nếu một trăm hay một ngàn nghi lễ chay nyunnay được thực hành tích cực nhân danh ông, ông sẽ có một tái sinh làm người tuyệt hảo.

Trong số những người ở Gyashod, một số trong đó có đức hạnh – các Lạt ma, các tu sĩ, và các cư sĩ – ở trong các cõi thuần tịnh, kể cả nhà sư già Padma Kalzang, Tsering Dondrub, Dontse, cũng như một người được gọi là Barchhung Dragho, là người nói rằng ông ta đã được tái sinh trong một cõi thuần tịnh bởi lòng bi mẫn của ngài Drimed Khakyod Wangpo Rinpoche tôn quý.

Phần lớn những người ở bộ tộc Nat’har từng tinh tấn thực hành Pháp được tái sinh ở Núi Potala, trong khi những người không có mối liên hệ vói các bậc linh thánh, tiêu phí cuộc đời khi dấn mình vào những ác hạnh thì phải chịu sự tái sinh sau khi tái sinh trong các cõi thấp. Một tu sĩ tên là Hulay Buchhung đang đau khổ trong bardo. Một người tên là Natar Alug Chhodzin có một tái sinh may mắn. Tu sĩ Lodro Zangpo đang ở cõi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.

 Mặc dù Lhari Yontan đã từng thực hành đức hạnh và từ bỏ các ác hạnh, ông đã nuôi dưỡng những tà kiến hết sức nặng nề và bị tái sinh trong một cõi, ở đó ông ta bị giam cầm trong một căn nhà có bốn người canh gác. Khi tôi hỏi Yontan là tôi có nên thỉnh cầu nhân danh ông để thực hành đức hạnh trong cõi người hay không, vị sư già trả lời rằng tôi nên để ông trải nghiệm hậu quả những hành động của ông cho tới khi nghiệp của ông cạn kiệt. Ông nói rằng sau khi đau khổ như thế này trong ba năm, ông sẽ được tái sinh ở Núi Potala.

Kunzang và Tendzin Wanggyal được tái sinh ở Núi Potala. Samyay Monlam thuộc gia đình Khamtay đang ở trong cõi thuần tịnh này. Ông nói: “Tôi có một thông điệp gởi cho con trai út của tôi. Xin nói với nó: ‘Đừng giết hươu nai, cừu hoang, hoặc linh dương. Đừng sống cuộc đời của một kẻ trộm cướp. Đừng nói dối hoặc thề thốt. Chớ lấy cắp của các anh con hay đánh nhau với chúng. Hãy thực hành đức hạnh nào mà con có thể cùng với thần chú mani và nghi lễ chay nyungnay!’”

Một người đàn bà tên là Dronma đã tới Potala, khẩn cầu nhiều Lạt ma. Một vị Tulku ở làng Natar tên là Adam cũng ở Núi Potala. Ông nói rằng mặc dù để làm lợi lạc cho chúng sinh, có lần ông đã tái sinh trong gia đình Apal của các Lạt ma trong quận Nyagrong, nhưng bởi những chướng ngại trong đời đó nên ông đã nhập Niết Bàn.

Petsa Gonpo Rinchhen cũng có mặt ở đó; ông nói rằng ông đã được tái sinh trong cõi thuần tịnh đó nhờ lòng bi mẫn của Tromge Kundun Rinpoche.

Ở một nơi cách xa cõi giới này tám mươi ngàn lý (1 lý bằng khoảng 4,8km), tôi đi tới một mặt vách đá khổng lồ và dễ sợ của một tảng đá màu đỏ sậm, có bề cao bằng vũ trụ gấp-ba-ngàn-lần.26 Ở giữa vô số các khí giới, cạnh một pháo đài khủng khiếp đầy đầu lâu, là Thần Chết, Yama, đang hút đời sống và hơi thở trong tam giới,27 ném tất cả những chúng sinh đã chết không ngoại trừ ai vào máng ăn, chứa ba mặt bằngä của sự sống28 trong bụng ông. Ông ta trông thật khủng khiếp với dạ dày súc vật teo tóp thèm thuồng, cái lưỡi cuộn tròn giật giật, các răng nanh dài nhe ra sắc nhọn, đôi bàn tay chìa ra để chộp bắt. Ông có thân thể của một người đàn ông với cái đầu của một con bò đỏ, những cái sừng sắc nhọn bằng sắt, và đôi mắt nhìn chòng chọc sáng như mặt trời và mặt trăng. Những lưỡi lửa nóng bắn ra từ miệng ông. Ông có sự nhanh nhẹn, lẹ làng của gió, làm thiên đường và trái đất rung lên vì tiếng cười khiếp sợ như bò rống của ông. Khi tôi thấy cái nhìn dữ dội phẫn nộ vô bờ này và nghe tiếng gầm điếc tai của ông, tôi cảm thấy như thể muốn ngất đi.

Ngậm lục địa phương nam29 của thế giới buồn khổ này trong miệng (một cái miệng dường như nuốt trọn thiên đường và trái đất), ông có thể làm thế giới run sợ bởi âm thanh của lưỡi đập vào vòm miệng. Trong khi trước kia từng có một đại dương cuồn cuộn máu đỏ sẫm khi ông đã ngậm chặt miệng lại thì trong năm này chỉ có ít giọt máu trông giống như sương. Đó là bởi ngài Khakyod thuộc gia đình Tromge, ngài Dza Konchhog, và những bậc linh thánh khác đã thị tịch, và vì thế trong năm đó nhiều chúng sinh không phải chết.30 Mặc dù nhiều điều khủng khiếp đã xảy ra cho tôi, nhưng nhờ khẩn cầu các thiên nữ tôn kính, tôi đã có thể giữ một quan điểm vững vàng không sợ hãi. 

Gonpo Samdrub ở Tangkya đang ở trong một cõi địa ngục. Khi tôi hỏi Đức Tara hành động nào dẫn tới hậu quả này, Ngài đáp: “Khi làm một thủ lãnh, ông ta đã tham ô tài sản, coi thường phong tục đã được lập ra.”

Dorje Dondrup, con trai của Zangli thuộc gia đình Sadu, đang trải qua sự đau khổ không tưởng tượng nổi. Có nhiều nhà quý tộc ở vùng Hor miền viễn đông Tây Tạng. Và cũng có nhiều người tôi không nhận ra. Bởi một lòng bi mẫn kỳ lạ phát khởi trong tâm thức tôi, tôi đã trì tụng thần chú mani bằng một giai điệu du dương.

Khi tôi, cô gái Dawa Drolma, tiếp tục cuộc hành trình thì một yogin mặc quần áo trắng với mái tóc dài chảy lòa xòa tiến lại gần, có một số Daka và Dakini vây quanh. Ông quay một bánh xe cầu nguyện với một cái bao thêu kim tuyến rất tỉ mỉ, và bàn chân không chạm đất. Ông đi ngang qua mặt tôi trên đường đi tới cánh đồng địa ngục. 

Khi tôi hỏi ông đi đâu, ông đáp: “Đi tới những trạng thái tái sinh thấp. Tôi sắp dẫn đi tất cả những người đã từng chia sẻ thực phẩm với tôi. Tôi là Togdan Pawo, một Đạo sư dẫn dắt chúng sinh. Tên này có ý nghĩa thực sự là ‘anh hùng của sự chứng ngộ tâm linh.’” Khi ông tụng thần chú mani ba lần theo giai điệu, các ngôi nhà sắt nóng trở thành những cung điện pha lê, và tất cả chúng sinh được chuyển hóa thành các thân ánh sáng. Ông tiến lên, đưa họ lên Núi Potala, cõi thuần tịnh siêu phàm, giống như một đàn chim giật mình hoảng hốt bởi một viên đá từ ná bắn ra. 

Bà mẹ của tất cả các Đấng Chiến Thắng, Đức Tara tôn kính, chắp hai tay nơi ngực và nói:

Kỳ diệu thay - bậc dẫn đường phi thường và linh thánh!
Vị hoa tiêu siêu phàm đưa dẫn tất cả những ai có liên hệ với ngài:
Nếu không có mối liên hệ, ngài không thể dẫn dắt.
Thật đáng thất vọng cho những người không tạo một mối liên hệ. 
Om mani padme hung hri.

Trên đỉnh ngọn cây shalmali,31 những con chim sắt đen đang móc mắt chúng sinh trong địa ngục. Ở gốc cây là những người đàn bà dễ sợ đang ôm cổ những chúng sinh này và giựt đứt đầu họ. Trong cái nhìn của tôi, những chúng sinh ở địa ngục này không thể tránh đi tới chỗ những người đàn bà này, bởi nghĩ rằng bè bạn yêu quý đang kêu gọi họ. Khi họ chạy trốn, các khí giới rơi vào người họ. Khi họ quay trở lại, khí giới nhảy lên đục khoét phổi, tim, gan, và ruột họ. Khi họ chạy lên dốc, khí giới đâm xuống người họ. Thịt xương họ biến thành máu. Đó là nỗi nguy cơ ở trước mắt những Lạt ma dâm đãng và những nhà sư, ni cô thế tục đã hủy hoại những đứa con bất hợp pháp của mình, và những kẻ hãm hiếp các ni cô, hoặc những kẻ không hài lòng với người vợ của họ mà kết giao với những người đàn bà khác.

Có những người ở địa vị cao chót vót mà ngay cả tên của họ tôi cũng không dám đề cập tới, gồm cả nhiều Lạt ma và các tu sĩ. Một người là Nyikho thuộc gia đình Sogru, một tu sĩ của bộ tộc Tromge bị gãy bể giới nguyện. Mặc dù có lúc ông đã được tái sinh làm người, sau đó bởi nghiệp lực, ông tái sinh trong một cõi địa ngục. Dưới gốc cây shalmali, bị vũ khí đè nặng, ôngï trải qua nỗi khổ không chịu đựng nổi. Bà mẹ bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng (cũng như tôi) tụng ba lần thần chú sáu-âm theo giai điệu. Thoát khỏi gánh nặng của khối sắt, ông ra đi. Nếu việc trì tụng Tantra Sám hối Bất nhiễm và Kinh Sám hối những Thiếu sót được ủy thác từ một tập hội rộng lớn, nếu có thể tổ chức với sự bảo trợ tối đa và càng nhiều vật cúng dường càng tốt trong mức độ có thể, và nếu những lời cầu nguyện cao quý của sự hồi hướng và ước nguyện được thực hiện nhân danh ông, thì ông sẽ được tái sinh ở Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.

Một người tên là Atsul thuộc gia đình Sogru này, nhờ lòng bi mẫn của nhiều bậc xuất chúng và linh thánh, và nhờ con đường bí mật của chân lý siêu vượt nhân và quả, có lần đã được sinh ra làm người. Nhưng sau khi chết, ông bị rơi vào một cõi địa ngục. Ông đang đau khổ dưới chân núi có cây shalmali. Bị một vòng sắt siết nghẹt cổ lôi bừa đi, thân ông bị bọc trong bộ y phục bằng sắt. Ba lính canh dữ tợn với đầu hươu đực đánh đập, đâm, và xé ông bằng lưỡi dao cạo có cán bằng-hoa sen cho tới khi thịt ông bị lóc tới tận xương. Ông ta la hét dữ dội. 
Khi tôi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết là ông đã dùng những quả cân sai trong việc buôn bán với các Lạt ma và tu sĩ, nói xấu những thành viên của Tăng đoàn, làm ra vẻ mình là một bậc thầy của nghệ thuật nhảy múa tôn giáo, và v.v.. Nỗi khổ này là hậu quả không thể tránh khỏi của những ác hạnh này. Với lòng bi mẫn, tôi tụng những thần chú sáu-âm từ xa.

Người quá cố Atsul trao cho tôi thông điệp sau đây để đem về:

Tôi chết sớm, một người đàn ông trẻ bị cái chết hủy hoại,
bị hủy hoại bởi sự chia ly cha mẹ và thân quyến của tôi.
Tôi để lại sau lưng lều bạt, bầy thú, và những vật sở hữu, vì thế khó mà từ bỏ.
Tôi đau khổ bởi những hậu quả của những ác hạnh của riêng tôi – chúng chỉ chín mùi cho mỗi mình tôi.
Để giải thoát tôi khỏi nỗi khổ không thể chịu nổi này,
mọi người có thể trì tụng thần chú mani một trăm triệu lần,
tụng đọc Kangyur,32 và khắc trên đá mười ngàn thần chú sáu-âm.
Khi ấy tôi sẽ không đau khổ trong chốn này, mà sẽ có được một thân người.
Đừng quên thông điệp này; xin mang nó về cho người bà con Chhung Lima của tôi.

Một Lạt ma tên là Yengmed Dorje xuất hiện, ngài là đệ tử thân tín của Lạt ma Padma Duddul ở quận Nyagrong. Ngài có mang một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột cùng một nhóm năm đệ tử. Ngài ngâm: 
Hri con khẩn cầu Đạo sư, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu Bổn tôn được chọn lựa, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu Daka, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu Bổn tôn bảo vệ, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu sự hợp nhất của tất cả chư vị này, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con nguyện cầu, xin đưa dẫn tới Núi Potala những chúng sinh có mối liên hệ tốt hay xấu với con.
Om mani padme hung hri.

Rồi ngài dẫn khoảng một ngàn chúng sinh ra khỏi mười tám trạng thái địa ngục theo một con đường ánh sáng trắng.

Ani Bumo, một ni cô ở miền Zurpa cũng xuất hiện, tay cầm một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột màu vàng. Cô và một thị giả tụng thần chú mani từ xa tạo nên một giai điệu hết sức đẹp đẽ. Sư cô này dẫn khoảng một ngàn người – tăng, ni, nam nữ cư sĩ, những người hành khất và người mù – là những người có liên hệ với cô qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, đi theo một con đường ánh sáng xanh dương tới cõi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.

Tsachhung, một phụ nữ già nua ở miền Tromge, bị nghiến nát trong Địa ngục Đè bẹp không thể chịu đựng nổi. Tiếng kêu thét của bà vang dội khắp các cõi trời. Khi tôi tụng một lần thần chú mani cho bà từ xa, một lính canh dễ sợ với sừng trên đầu la hét: “Hừ, hừ! Chỉ mỗi một thần chú mani thì khó có lợi ích gì.” Khi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết: “Khi ở trong thế giới con người, bà ta đã ăn cắp dê, cừu và giết hại chúng.”

Bà ta muốn nhắn gởi cho con trai là Chhot’har và con gái là Lukyid. Mặc dù thoạt tiên tôi từ chối mang bất kỳ thông điệp nào cho bà, Tsachhung cứ kêu khóc mãi: “Cô phải mang! Cô không thể không mang về thông điệp của tôi!” Và vì thế tôi hứa làm điều đó.

“Xin nói với chúng điều này,” bà nói. “Chớ ấp ủ hy vọng được trở nên giàu có. Chớ mê đắm trong sự sân hận và ganh ghét. Hãy bảo Lukyid đừng ganh đua với những con rắn trong việc tạo ác nghiệp.33 Hãy khắc thần chú mani trên đá. Hãy thỉnh cầu đọc tụng Kinh Giải thoát và Tantra Sám hối Bất nhiễm. Hãy trì tụng liên tục thần chú mani. Hãy hồi hướng đức hạnh theo một cách thế cao quý, và sau khi chịu đựng nỗi khổ này trong một ngàn năm, tôi sẽ được tái sinh trong một cõi trời, vẫn phải chịu sự đọa lạc từ cảnh giới tráng lệ đó.”
Khi nói những điều đó, bà cứ khóc mãi.
Om mani padme hung hri.

Sau đó, một phụ nữ trung niên thuộc gia đình Lo ở Gualrong tiến lại gần. Lùa khoảng bốn ngàn con cừu đi phía trước, bà ta lao xuống một con đường ngập máu. Những cư dân ở địa ngục, như Awa Đầu-Bò, Định Mệnh Đầu-Khỉ, và La Sát Đầu-Heo – một số lượng không thể nghĩ bàn các thuộc hạ của Thần Chết – săn đuổi bà và la lớn: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó!” Run rẩy như một chiếc lá, nước mắt tuôn rơi, người đàn bà già được dẫn tới trước Dharmaraja. Yama Dharmaraja bừng bừng giận dữ như ngọn lửa, cả khuôn mặt ông đen như than, đôi mắt như những cái hồ cuồn cuộn máu. 

Từ miệng ông phát ra một tiếng gầm khiếp sợ: “Mi, mụ già thế tục, hãy thận trọng miệng lưỡi của mi, mi phạm vào loại hành động nào, tốt hay xấu? Đừng dấu diếm hay che đậy. Hãy nói thật trung thực!”

Ông dậm chân làm mặt đất rung chuyển như một trận động đất. Những cư dân địa ngục la hét: “Nói nhanh lên!” và cùng đi dậm chân huỳnh huỵch trong sự điên cuồng.
Người đàn bà tái mét, và không thể nói được điều gì. Đập đầu xuống đất, đôi bàn tay bà xé tung bộ ngực. Giữa những vị này là hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp tốt đẹp và tối ám34 của bà ta. Đứa trẻ tốt đẹp có vẻ không có gì để nói; vẻ mặt của nó chuyển sang màu đen như than. Sau một lát, nó nói: “Có lần bà ta cúng dường một con ngựa cho lãnh địa của Tulku Tsamtrul ở tỉnh Dza, nhưng tới lúc giao con ngựa thì bà ta lại lưỡng lự.”

Đứa trẻ tối ám múa may nhảy nhót và nói:

Người đàn bà hết sức xấu xa, kẻ tạo nên những ác nghiệp trong cõi người thế tục, 
quỷ cái tài ba ăn thịt người, kẻ tổ chức cuộc tàn sát chúng sinh,
kẻ tham tàn xảo quyệt – mi không nhớ những hành vi tối tăm khác ư?
Mi không chỉ mắc phạm một ác hạnh từng dự tính.
Dù điều này có là sự thật hay không, nó cũng sẽ được sáng tỏ trước tâm thức Dharmaraja;
nó đúng hay không, các thuộc hạ biết rõ.
Hãy đem mụ ta đi tới con đường không hy vọng được giải thoát.

Sau khi đứa trẻ nói, một thuộc hạ của Yama cân trường hợp của bà già trên cái cân nghiệp, và ngay lập tức bàn cân nghiêng từ bên này sang bên kia. Lấy ra một bằng chứng trên tấm bảng định mệnh, Yama nói: “Hãy đưa mụ ta tới Địa ngục Đè Bẹp. Trong nhiều ngàn kiếp mụ sẽ không tìm được sự giải thoát.”
Một đội quân gồm các thuộc hạ của Thần Chết đang la hét: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó! Ha, ha! Hê, hê!” và ném vào người bà một trận mưa những mũi tên, các ngọn giáo, và gươm đao. Ấn mặt bà xuống đất, họ kéo bà ta đi.
Om mani padme hung hri.

Wangchan, một thủ lãnh tầm thường trong miền Derge, là con trai của một người giàu có và nổi tiếng tên là Drugdrag, và một người đàn bà tên là Tseyang Drolma. Ông ta là một thủ lãnh rất mạnh mẽ, là kẻ hưởng thụ của cải và thực phẩm của người khác. Ông ta là kẻ lỗ mãng, hung hãn, không có lòng từ bi. Khi nghiệp lực duy trì thọ mạng của ông ta đã cạn kiệt, ông ta chết và lang thang trong những cõi bardo.

 Như thể bất thần nhìn thấy một kẻ thù căm ghét đã giết cha ông, Dharmaraja la lên: “Nhanh lên, các ngươi, tất cả các thuộc hạ của Thần Chết, chạy mau, tất cả các ngươi! Đừng phí thời gian, dẫn ngay tên Wangchan lại đây cho ta!”

Những thuộc hạ la hét “Ki!” và “Ha!” và lôi kéo ông ta. Những người cầm búa đánh đập ông, những người cầm kềm kéo giựt da thịt ông; những người cầm cưa cắt xẻ; những người cầm kiếm chặt chém; những người cầm giáo đâm; những người cầm rìu chặt ông ta. Trước mặt Dharmaraja, đứa trẻ tối tăm kể câu chuyện sau đây:

Kẻ ác độc này tên là Wangchan
tư tưởng và hành vi đi nghịch lại Tam Bảo.
Ông ta móc mắt các Lạt ma tốt lành.
phạm vô số ác hạnh, cắt môi và lưỡi
của nhiều nhà sư và ni cô, cư sĩ nam và nữ.35
Ông kết án nặng nề nhiều tu sĩ thọ đại giới và giam cầm họ.
Gây ra nạn đói gần như giết hại dân chúng.
Ông khiến cho nhiều ngàn con cừu bị làm thịt.
Ông là một tập hợp những ác hạnh lớn như Núi Tu Di.
Ông ta xứng đáng loại trừng phạt nào, Dharmaraja biết rõ!
Nghe lời thỉnh cầu này, ngay lập tức, Dharmaraja lôi một bằng chứng trên tấm bảng định mệnh của ông và nói: “Hãy đưa hắn tới Địa ngục Sống lại và dừng lại ở tám địa ngục nóng, không được tự do trong thời gian mười ngàn kiếp.”
Những thuộc hạ la lớn: “Giết nó! Đánh nó! Đập nó!” Ấn mặt ông xuống đất, họ lôi ông ta đi.
Om mani padme hung hri.

Có một cô gái trẻ ở miền Derge mang một chuỗi mã não, mỗi hột lớn bằng một căn nhà, cột trên một sợi xích sắt quấn quanh cổ. Cô bị hành hạ bởi sức nặng và nỗi khổ khi không nâng nổi những tảng đá. Đây là hậu quả của việc cô đã trang điểm thân thể bằng những mã não ăn cắp của người khác, dù họ ở địa vị cao hay thấp.

Om mani padme hung hri.

Tôi tiếp tục đi cho tới khi gặp một người thợ săn tên là Tsering ở miền Kat’hog bị bốn cư dân đầu hươu áp tải. Run rẩy như một chiếc lá, ông ta bị lôi tới trước mặt Yama Dharmaraja. Và ồ, hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp của ông phơi bày tất cả những gì ông đã làm, đức hạnh hay ác hại, tích cực hay tiêu cực.

Đứa trẻ tươi đẹp nói: “Ồ Yama, Dharmaraja cao quý, người này không thể chăm lo cái ăn cái mặc hay che chở cho gia đình rộng lớn của mình. Kẻ vô lại già nua tiêu phí cả đời hắn để theo đuổi những ác hạnh. Tuy nhiên, nếu ngài gởi trả ông ta về để ông cố gắng một lần nữa và thực hành đức hạnh hết sức thuần tịnh, ông ta sẽ trở thành một người không có điều gì để xấu hổ và sẽ trở lại trước sự hiện diện oai nghiêm của ngài theo đúng nghĩa của nó.” Nói tới đây, đứa trẻ khóc.

Đứa trẻ tối tăm đưa ra thỉnh cầu:
He, he! Người đàn ông này đã giết ba loại chim – linh thứu, diều hâu, và chim ưng - bay liệng trên không.
Hắn đã giết ba loại thú vật – linh dương, hươu nai, và cừu hoang – sống trong vùng núi non. 
Hắn đã giết các ma mốt vô tội trên những cánh đồng.
Hắn đã giết ba loại thú vật – cá, rái cá, và ếch – sống trong nước.
Hắn đã bắt những con vật vô hại trong bẫy và lưới.
Hắn phạm những hành vi ác hại và vô đạo đức.
Từ miệng của Yama Dharmaraja tuôn ra những lời sau:

Trong những ác hạnh, không có gì nặng nề hơn việc sát sinh.
Trong trường hợp của tên thợ săn xấu xa này
hắn đã hứa với vị Lạt ma thuộc bộ tộc Getze là không giết hại nữa,
nhưng sau đó phạm những hành vi hết sức độc ác vượt quá giới hạn của sự sám hối.

Bây giờ hãy đưa hắn tới Địa ngục Kêu rú.

Hắn sẽ chịu đau khổ không thoát ra được đời này sang đời khác.

Khi nói điều này, ông nêu ra một bằng chứng trên bảng nghiệp lực, và ấn mặt người thợ săn xuống đất, những thuộc hạ kéo ông ta đi.

Có nhiều chúng sinh nữa mà mắt tôi không thể nhìn thấy hết được, số lượng chúng sinh ấy lưỡi tôi không hy vọng gì đề cập tới được, tư tưởng họ tâm tôi không thể bắt đầu thăm dò. Những kẻ xấu ác bị kéo xuống, trong khi những người đức hạnh được đưa lên trên. Tất cả những điều này không thể mô tả; những điều tôi ghi lại chỉ mang lại một ý niệm thô thiển nhất. 

Trước mặt Dharmaraja là một người đàn bà tên là Bochhungma sống trong miền thuộc gia đình Dezhung. Khi hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp của bà ta, một tươi đẹp và một tối ám, đang nói ra những thỉnh cầu của chúng, đứa trẻ tươi đẹp nói: “Người đàn bà này có chút liên hệ với Dzaga Chhogtrul Rinpoche. Tâm bà ta hướng về đức hạnh.”

Rồi đứa trẻ tối ám nói:

Người đàn bà này phục vụ thực phẩm bất tịnh cho các Lạt ma thông thái;
bà ta giết bê bằng cách bắt chúng nhịn đói tới chết;
bà phê bình các Lạt ma và những vị đã thọ giới;
và vì thế bà phạm nhiều hành vi ác hại qua miệng, tay, và tâm bà.
Dharmaraja trả lời: “Khi đứa trẻ tươi đẹp nói, có vẻ nó đã nói sự thật. Nhưng khi đứa trẻ tốâi ám nói, dường như nó đang nói sự thật. Hãy cân nhắc trường hợp này trên bàn cân thiện hạnh và ác hạnh.”
Thuộc hạ đầu-khỉ cân nhắc những hành động của người đàn bà trên chiếc cân, và thế là những ác hạnh của bà làm nghiêng bàn cân từ đầu này sang đầu kia. Yama Dharmaraja nói: 
Mỗi một ngàn ngày trong cõi người
bằng khoảng một ngày và đêm duy nhất trong các cõi địa ngục.
Trong mười hai năm dằng dặc này mi sẽ chịu đựng đau khổ
bằng cách uống kim loại nóng chảy sôi sục.
Rồi mi sẽ được dẫn đi nhờ năng lực của lòng bi mẫn 
và những nguyện lực của Dzaga Chhogtrul Rinpoche.
Khi ông nói xong, người đàn bà bị lôi vào một dinh thự bằng sắt.
Om mani padme hung hri.

Kế tiếp là Paltso, một bà già du cư có mái tóc xám ở cộng đồng Nyingshul. Bà cầm một bánh xe cầu nguyện và một mala màu vàng, bà đang lần tràng hạt. Vừa tụng thần chú mani thật rõ ràng theo một giai điệu, bà đi thẳng tới Dharmaraja. Khuôn mặt Yama Dharmaraja như mặt trăng chiếu rọi trên tuyết, ngài nói thật lịch sự và vui vẻ: “Paltso, sau khi chết và đi tới cõi bardo, bà có mệt không? Đối với bất kỳ thiện hạnh và ác hạnh nào bà đã từng dính dáng tới, hãy phơi bày ở đây trước mặt ta.”
Bà cụ Paltso thỉnh cầu:
Tôi chú tâm nơi Tam Bảo như cứu cánh duy nhất của tôi.
Tôi gắn bó chặt chẽ chí hướng của tôi với Giáo Pháp tinh túy.
Lời nói của tôi là thực hành đức hạnh, và vòng quay tràng hạt của tôi thì không ngừng dứt.
Tôi thiết lập những liên hệ với những bậc có khuynh hướng tâm linh tuyệt hảo.
Đặc biệt nhất là tôi có mối liên hệ với Dzaga Chhogtrul qua việc cúng dường ngài một miếng hổ phách lớn.
Tôi đã tạo một mối liên hệ với Adzom Drugpa36 bằng cách cúng dường ngài một cái kẹp dây lưng.
Trong số những người thắt một chiếc khăn vàng quanh mình,37
không ai mà với họ, tôi, người đàn bà này, không có mối liên hệ. 
Tôi đã rót khoảng hai mươi hoặc ba mươi ngàn ngọn đèn bơ;
đã tụng lớn tiếng một trăm triệu thần chú mani;
là một bà già có động lực cao quý,
tôi đã hồi hướng tất cả những điều này cho chúng sinh hữu tình.
Với sự hân hoan, đứa trẻ tươi đẹp đưa ra một thỉnh cầu tương tự. Đứa trẻ tối ám thì hoàn toàn không nói gì hết. Bây giờ tấm gương, văn bản tường trình, và bàn cân là các chứng cứ của những thiện hạnh và ác hạnh của người đàn bà. Những thuộc hạ la lên: “Nhìn những cái này xem!” Thuộc hạ đầu-sư tử chăm chú nhìn vào tấm gương, thuộc hạ-đầu khỉ cân nhắc những hành động của bà trên chiếc cân, và thuộc hạ đầu-bò đọc văn bản tường trình về nghiệp của bà. Ba vị trong các thuộc hạ đệ trình thật khiêm tốn rằng tất cả những gì bà nói đều đúng sự thật, điều ấy làm Dharmaraja vô cùng hài lòng. Ông nói:

Nếu những người đàn ông và đàn bà bình thường trong thế giới loài người thế tục 
giống như người này, thì sẽ tốt đẹp biết bao. 
Nhưng cho dù hiểu biết những thiện hạnh và ác hạnh, họ không từ bỏ một vài điều và thực hiện những điều khác.
Họ nỗ lực trong những hành động vô đạo đức và ác hại – họ bị dày vò biết bao bởi những cảm xúc muộn phiền.
Không ai đi qua đời khác mà không gặp ta.
Nếu họ có Pháp, thì ta là Pháp vương,
nhưng nếu họ không có Pháp, ta là vua của những ác hạnh của họ.
Bà lão Paltso!
Hãy đi, nương tựa thiện nghiệp này.
Bà sẽ không rơi trở lại, vì thế hãy đi tới Cõi Cực Lạc. 
Khi ông nói xong, bà cụ đứng dậy và lạy ba lạy. Bà nói: “Tôi sẽ không đi một mình.”38 Thay vào đó, bà dẫn khoảng một ngàn rưởi chúng sinh có liên hệ với bà qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, đi chầm chậm tới Cõi Cực Lạc ở phương Tây, trong khi thì thầm thần chú mani theo một giai điệu.
Om mani padme hung hri.
Một ông già tên là Dondrub ở vùng Gulog đang bị một sợi cáp sắt xuyên thủng tim và bị những thuộc hạ đầu-cọp, đầu-báo, đầu-gấu đen và nâu, đầu-cáo, và đầu-chó rừng lôi đi. Họ tung ông lên không trung rồi quăng xuống đất, la hét: “Ki, ki! Ồ, ồ!” khi dẫn ông ta đi. Người đàn ông mặc bộ quần áo sờn rách bằng da ma mốt. Khi nhận ra mình đang đứng trước mặt Dharmaraja, mặt ông trở nên tái mét và ông la lớn: “Ahhh!” Sau một tường thuật ngắn về những thiện hạnh và ác hạnh của ông, Yama Dharmaraja nói:
Con người thế tục ác độc, kẻ giết những ma mốt! 
Mi đã từng giết nhiều ngàn ma mốt
ăn thịt và uống máu họ,
mặc y phục làm bằng da sống –
ngươi đã giết ma mốt như thiên hướng của mi.
Vào mùa hạ mi giết ma mốt bằng cách đổ nước xuống hang của họ để đuổi họ ra ngoài;
vào mùa đông mi đào hang để bắt những con lửng, và giết những ma mốt ngủ đông.
Những hành động xấu xa trầm trọng như thế rất khó sám hối, 
bởi những gì mi đã làm không khác gì giết một tu sĩ thọ cụ túc giới.
Mi sẽ không có cơ may được giải thoát trong một ngàn kiếp.
Dharmaraja nói:“Vậy thì hãy đem hắn tới những địa ngục nóng!” Ấn mặt ông xuống đất, những thuộc hạ lôi ông ta đi xuống.
Om mani padme hung hri.

Sau đó, khoảng mười hai tu sĩ thọ cụ túc giới ở miền Sakya39 đi tới. Họ mặc ba chiếc y tu sĩ, cầm những bản văn Thánh Pháp, và lớn tiếng trì tụng các thần chú siddhi và mani. Trước mặt Dharmaraja, họ làm như thể lễ lạy theo nhóm, nhưng ngài nói: “Xin đừng lạy!” Dharmaraja đứng thẳng người với vẻ kính trọng. Khi những thuộc hạ run rẩy kính sợ thì các tu sĩ tiến lên, dẫn khoảng mười hai ngàn chúng sinh đi tới cõi Tây phương Cực Lạc.
Kế đó, một ni cô đức hạnh ở miền Minyag đi tới. Quay một bánh xe cầu nguyện và lần tràng hạt làm bằng vỏ ốc xà cừ, bà đứng thật cung kính trước mặt Dharmaraja.
Ngài hỏi: “Bà là ai?”
Bà trả lời: “Tôi tên là Zangmo. Tôi đã thâu thập một đại dương đức hạnh trong khi tích lũy hai tích tập.”40 Bằng một giọng ngọt ngào, bà dâng ngài bài hát sau: 
Om mani padme hung hri.
Đấng có sắc thân là nơi tụ hội của tất cả chư Phật
và bất khả phân với Đức Avalokiteshvara:
Trong sự hiện diện tôn kính của ngài Sodnam Rinchhen
con xin thỉnh cầu: Xin ban cho con những ân phước của Ngài.
Con không mắc phạm những ác hạnh lớn bằng hạt mè.
Con là một ni cô đã đạt được chút ít kiên cố trong tâm.
Trước sự hiện diện tôn kính của ngài Sodnam Rinchhen, con dâng lời cầu nguyện lên
bậc có lòng bi mẫn đặc biệt đối với chúng sinh trong những thời đại suy hoại tâm linh này,
một Pháp vương, hiện thân của chư vị Bồ Tát trong ba bộ41 –
Xin ban những ân phước của Ngài khiến những ước nguyện của chúng con được thành tựu tự nhiên.
Xin ban những ân phước của Ngài để những nỗi khổ trong các cõi thấp được an dịu.
Xin ban những ân phước của Ngài để chúng con có thể đi vào con đường giải thoát.
Xin ban những ân phước của Ngài để chúng con có thể được sinh vào cõi Cực lạc.
Xin ban những ân phước của Ngài để hai loại lợi lạc42 có thể được thành tựu tự nhiên.
Tất cả những chúng sinh được nghe những lời này
không phải trải qua nỗi khổ của địa ngục khi chết;
họ không phải kinh nghiệm những xuất hiện lầm lạc của bardo.
Nếu họ nhất định lập lại những lời này mỗi ngày,
chắc chắn là khi chết họ sẽ không đi tới địa ngục.
Họ sẽ tái sinh trong Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.
Khi nói những lời này, bà tụng thần chú mani theo một giai điệu du dương, rồi bà tiếp tục đi, dẫn theo khoảng ba ngàn chúng sinh có liên hệ với bà bởi những nghiệp tốt và xấu43 tới Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.

Rồi Dharmaraja ra lệnh cho hai trong số các thuộc hạ của Ngài là Awa Đầu-Bò và Định Mệnh Đầu-Khỉ đưa vào một nhà sư đã thọ cụ túc giới, quê quán ở miền nam tỉnh Tsang, tên là Kunga Paldan. Khi ông xuất hiện trước Dharmaraja, những thiện hạnh và ác hạnh của ông được phơi bày. Đứa trẻ tươi đẹp đệ trình: “Nhà sư này không phạm những ác nghiệp,” và cúi đầu đứng lặng yên. 
Đứa trẻ tối ám trả lời: “Nhà sư này đã gãy bể giới luật và thệ nguyện. Ông thọ các giới nguyện trước sự hiện diện của tu viện trưởng và các giáo thọ của ông và đã đắp ba y tu sĩ, tuy nhiên ông ta phải chịu trách nhiệm về việc giết hại nhiều người và ngựa. Ông ném những lời thóa mạ vào những người tiếp xúc với Giáo Pháp. Về mặt đạo đức, ông ta là một kẻ phá sản, đã ném những thệ nguyện samaya của mình xuống sông.”
Với kiến nghị này, Dharmaraja nói: “Những câu chuyện mà hai đứa trẻ tươi đẹp và tối ám này kể không thể chân thật cả hai. Chúng ta hãy hỏi ý kiến tấm gương, bản tường trình, và chiếc cân.”
Nhìn vào những vật dụng này, những người thẩm tra kính cẩn đệ trình lên Dharmaraja: “Những điều đứa trẻ tối ám trình bày là sự thật.”
Đùng đùng nổi giận, Dharmaraja la lớn: “Đem kẻ suy đồi đạo đức này tới đỉnh núi có cây shalmali.” 
Những thuộc hạ dẫn nhà sư đi, họ la hét: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó!”

Một người đàn bà tu hành tên là Dronchhung ở miền Minyag được dẫn vào. Khi những hành động của cô được phơi bày trước mặt Dharmaraja, đứa trẻ tươi đẹp nói: “Năm hai mươi mốt tuổi, người phụ nữ trẻ này xuống tóc, xuất gia làm ni cô, và lên đường hành hương tới vùng Lhasa, trong khi đó liên tục trì tụng các thần chú một trăm-âm và mani.”
Đứa trẻ tối ám kiến nghị: “Ôi Yama Dharmaraja cao quý, chính con có thẩm quyền để nói về tiểu sử của phụ nữ trẻ này. Cô ta là một con quỷ cái, một kẻ có nghiệp xấu xa đã thực hiện những hành vi vô đạo đức và ác hại. Trong chuyến hành hương, cô ta đã giết hại một số sinh vật, và việc đó chỉ là một biểu hiện trong vô số những ác hạnh mà cô ta đã phạm, thưa Ngài!”
Bởi ý kiến này, Dharmaraja nói: “Hãy đặt những kiến nghị này lên bàn cân.”
Khi chúng được cân nhắc xong, vấn đề được kính cẩn trình lên Dharmaraja rằng đó là một pha trộn của những thiện hạnh và ác hạnh. Ngài nói: “Người đàn bà này phải chịu đau khổ ở Địa ngục Sống lại trong thời gian một tháng ở cõi đó; sau đó, nhờ nguyện lực mà cô tạo nên trong chuyến hành hương, cô ta sẽ có một tái sinh làm người thuần tịnh.” 
Một tướng lãnh tên là Sanggi Adzam thuộc gia đình Sa-ngon ở Jazi trong quận Nyagrong, bị tái sinh trong Địa ngục Đè bẹp và đang chịu nỗi thống khổ không thể đo lường được ở đó. Ông nói với tôi: “Con dâu tôi tên là Lumotso. Bằng mọi giá cô phải tiếp âm thông điệp của tôi cho nó. Hãy nói với nó: ‘Con có thể làm lợi lạc cho cha bằng cách tạo một mối liên hệ với một vài Lạt ma; nhân danh cha, hãy hiến cúng các Lạt ma san hô và những đồ trang sức của cha mà con cất dấu. Những giọt nước mắt mà con nhỏ xuống trở thành một trận mưa máu đổ xuống người cha. Bởi cha có một chút liên hệ với vị Tulku ở Jazi, hãy xin ý kiến và sự giúp đỡ của ngài. Vì lợi ích của cha, hãy cúng dường trà cho các tu sĩ ở Tu viện Jazi và xin các ngài trì tụng thần chú mani và siddhi trong những nghi lễ tập thể.’”
Khi nói những điều đó, ông ta bật khóc. Mặc dù bóng dáng ông đã mờ nhạt nhưng những tiếng kêu khóc của ông vẫn tiếp tục ám ảnh tôi. Vì lợi lạc của ông, tôi dâng những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện, và trì tụng thần chú mani một lát, nhưng tôi không có liên hệ với ông và vì thế hành động ấy không đem lại ích lợi. 
Om mani padme hung hri.

Một sĩ quan quân đội tên là Arta ở quận Nyagrong Gangri đang ở trong Địa ngục Sợi Chỉ Đen. Hàng trăm và hàng ngàn đường vạch đen được vẽ trên người ông. Bằng những cái cưa sắt đỏ rực lửa, ông ta bị cắt mỏng dọc theo những đường này từ đầu tới thắt lưng và những bề mặt của đầu ông được nối lại với nhau. Rồi ông ta bị cắt mỏng tới lui từ bụng trở xuống, với những mảnh thân thể bị chia ra thành từng phần và lại nối lại, khiến ông luân phiên chịu đựng những đau khổ này. 
Khi tôi hỏi vị thiên nữ bi mẫn cao quý: “Những hành động nào dẫn tới hậu quả này?” bà trả lời:
Người này chỉ huy quân lính đánh phá nhiều tu viện.
Ông ta đưa người tới phá huỷ các lăng mộ và đài kỷ niệm,
thiêu rụi các suờn núi, đốt cháy ếch nhái, rắn và các sinh vật khác,
gây ra rất nhiều xáo trộn trong xã hội, kích động những cuộc chém giết tương tàn, những sự tranh chấp và hận thù.
Là thủ lĩnh, chỉ riêng ông đã giết mười tám người và những con ngựa.
Ông ta khó đuợc giải thoát trong một ngàn kiếp.
Cầu mong nghiệp xấu và những ác hạnh của người này được tịnh hóa và cầu mong ông ta được tái sinh trong Cõi Cực Lạc.
Mặc dù bà nói theo cách này, ông ta không hưởng được lợi lạc gì nhiều. 

Một người gốc gác ở Drured tên là Arkong bị các thuộc hạ dẫn tới trước Dharmaraja trong khi bị đập bằng búa, bị kẹp bằng kềm, và bị chém bằng các vũ khí. Mặc dù cả hai đứa trẻ tươi đẹp và tối ám đã nói nhưng không ích lợi gì bởi Dharmaraja trở nên giận dữ, dậm chân trên mặt đất với những nắm đấm mạnh mẽ và la lớn: “Để hắn giải thích, nhanh lên!” Nhưng vì quá khiếp sợ, ông ta không thể nói điều gì.
Thuộc hạ đầu rắn chăm chú nhìn vào tấm gương và nói: “Người này giữ những tà kiến. Ông nói rằng thực hành các thiện hạnh không ích lợi và không có gì lầm lỗi khi làm các ác hạnh. Ông tuyên bố rằng Tam Bảo không có ân phước. Ông ta nói chừng nào mà ta còn được sung sướng trong hiện tại thì không cần phải quan tâm tới tương lai. Ông vui thú trong việc trộm cướp và áp bức.”
Sau khi cân nhắc những vấn đề trên bàn cân, thuộc hạ đầu-khỉ nói: “Nếu đồng thời xếp vào một chỗ những cặp sừng đầy máu của những con hươu đực mà người này đã giết, dược liệu xạ hương từ hươu nai, da sống và xương từ những con rái cá mà hắn đã giết, thì chúng sẽ chất đầy một căn nhà nhỏ. Đây là kẻ đã từ chối vận may được đeo đuổi Phật Pháp.“ 
Rồi thuộc hạ-đầu bò xem xét chứng cớ tốt đẹp trong báo cáo về nghiệp: “Người này giết hại những thú vật trong một tháng linh thiêng, trong tháng đó hậu quả những hành vi của hắn được khuếch đại lên một trăm ngàn lần. Cầm một cây súng đi loanh quanh, hắn tàn sát nhiều sinh vật – gấu đen và gấu mật, cáo, mèo rừng, và ma mốt. Chẳng con vật nào trong những loài này mà hắn không giết.”
Ngay sau đó Yama Dharmaraja ghi một chứng cớ trên bảng định mệnh. Ông la hét: “Mặc dù thời kiếp có thể chấm dứt nhưng người này sẽ không có cơ hội thoát khỏi. Hãy gởi hắn tới Địa ngục Kêu rú!” 
Với những tiếng la hét dễ sợ, thuộc hạ dẫn ông đi xuống, đầu ông ta gục xuống trong sự xấu hổ.
Om mani padme hung hri. 

Chính miệng Yama Dharmaraja nói những lời này:
Các ngươi đàn ông và đàn bà trong thế giới con người phàm tục!
Chớ giết bọ chét và chấy rận sống trên người các ngươi.
Chớ giết chúng, bởi việc sát hại ấy không đáp ứng mục đích gì.
Việc ấy không giúp ích gì cho thực phẩm của các ngươi, không đáng giá một hạt mù tạc.
Việc ấy không ích lợi gì cho y phục trên lưng các ngươi, mà là một hành vi nghiêm trọng, ác hại.
Không nhất thiết phải giết chúng giữa răng và móng tay các ngươi,
bởi hành động ấy không khác gì giết chính con cháu của các ngươi.
Thay vào đó, nếu các ngươi thả chúng và để chúng sống, điều này sẽ có lợi ích to lớn.
Nếu giết chúng, các ngươi chỉ cần nhìn xem điều gì đã xảy ra cho những kẻ đọa lạc ở đó để thấy những gì sẽ là định mệnh của các ngươi.

Có nhiều ngàn người đang trải qua nỗi đau đớn vì bị ép dẹp giữa hai ngọn núi. Ở đó có một người tên là Yado thuộc gia đình T’hromt’hog. Thân thể một số người trong số đó bị lửa thiêu đốt; đó là hậu quả của việc đốt bọ chét. Một số bị rơi xuống nước và chết đuối; đây là hậu quả của việc ném bọ chét vào tuyết và mưa đá. 
Dharmaraja nói: “Vì thế, các ngươi hãy để yên bàn tay và hãy trì tụng thần chú mani.”
Om mani padme hung hri. 

Rồi Yama Dharmaraja nói với tôi:
Các ngươi đàn ông và đàn bà trong thế giới con người phàm tục!
Chỉ trong lúc này các ngươi đã có được một thân người. 
Chỉ lúc này các ngươi đã được tái sinh trong Trái Đất. 
Chỉ lúc này sự chọn lựa nơi các ngươi đi tới đang nằm trong lòng tay các ngươi.
Hãy cúng dường bất kỳ thứ gì các ngươi có thể cho Tam Bảo ở trên các ngươi.
Các ngươi sẽ không trở nên nghèo túng – trên thực tế các ngươi sẽ giàu có hơn trong đời này,
và trong những đời sau các ngươi sẽ được tái sinh với một thân thể được phú bẩm hỉ lạc và cơ hội.
Hãy bố thí hào phóng cho những người hành khất, những người mù, và chó ở dưới các ngươi.
Đừng nói với họ những lời thô lỗ, bởi họ đáng được hưởng lòng bi mẫn.
Bố thí một nắm hạt lúa mì hay lúa mạch cho người hành khất,
thì hơn là nuôi béo một trăm người giàu có trong một năm.
Trong hai thiện hạnh này, cái trước thì đặc biệt hơn cái sau.
Những người giàu có sống sung túc, có nhiều của cải và đất đai,
giống như những người bảo vệ kho tàng giữa đám quỷ đói với thức ăn và đồ uống, những người hầu, và của bố thí của họ,
lãng phí đời người, chẳng bao giờ có đủ thời gian và chẳng bao giờ thâu thập các tích tập.
Họ không có ngay cả một chốc lát để chậm rãi và nghỉ ngơi.
Mặc dù đúng là có cả những núi của cải, tài sản, và thực phẩm,
họ không thể đem theo duy nhất một cây kim tới trước mặt ta.
Những thành viên trong gia đình không nghe ý kiến của người khác;
tranh cãi vào buổi sáng, đánh nhau lúc sẩm tối như những bán thần.
Họ sẽ không thể sống chung lâu dài, mà sẽ đi theo con đường riêng rẽ của họ.
Vì thế hãy đối xử tốt với nhau trong gia đình, và trì tụng thần chú sáu-âm.
Người ta có vẻ giận dữ với cha mẹ tốt lành,
sử dụng mọi uy quyền với vợ hay chồng họ,
và coi những bậc trưởng thượng trong gia đình như những tử thi cùi hủi.
Người già trở nên yếu tim và sa sút tinh thần,
vì thế hãy đối xử với họ bằng lòng kính trọng, giọng nói mềm mỏng và lời lẽ dịu dàng.
Giờ đây, không có hình thái tâm linh nào cao cả hơn điều đó.
Những con người thế tục các người đáp đền món nợ lòng tốt cho cha mẹ các ngươi
thì sẵn sàng và có thể đi tới Cõi Cực Lạc.
Những ai hầu hạ, trải dọn chỗ ngồi, cung cấp những nhu yếu của đời sống,
làm người hướng dẫn, nói năng với giọng dễ thương và lời lẽ dịu dàng
với những người già từ nơi xa tới trong chuyến hành hương
thì giống như những người giao phó một viên ngọc như ý cho người khác.
Họ sẽ không bị khó khăn khi theo đuổi con đường dẫn tới giải thoát.
Có đức tin nơi các Lạt ma và thiết lập mối quan hệ với các bậc trưởng thượng tâm linh –
việc này giống như giương cao ngọn đuốc trong một căn phòng tối
và sẽ đưa các ngươi tới Cõi Cực Lạc mà không cần sự chuyển di hay chuyển hóa.
Có lòng bi mẫn đối với chúng sinh và hồi hướng công đức của các ngươi cho người khác – 
thì giống như một kho tàng châu báu bảo đảm mọi nhu cầu thiết yếu. 
Trong mọi cuộc đời về sau các ngươi sẽ gặp gỡ rất nhiều bậc tôn quý.
Vị vua cao cả ngự trên ngai và kẻ hành khất tầm thường chống gậy –
nhưng trước mắt ta “cao” và “thấp” không đáng giá một sợi tóc,
vì thế hãy đến với ta khi đã thực hành đức hạnh của Pháp.
Đừng quên thông điệp của ta, hỡi Dudjom Drolma.
Hãy làm lợi ích chúng sinh, dù cao hay thấp, bằng thông điệp này.
Om mani padme hung hri.

Bây giờ ở nơi ghê sợ khác có nhiều người là những kẻ ăn trộm ăn cướp, những thợ săn tàn ác, là những kẻ đặt bẫy bắt hươu xạ, lừa đảo người khác trong việc buôn bán, nói dối và báng bổ, là những kẻ trộm cắp của những người cao tuổi bơ vơ không nơi nương tựa, nói ác hay đánh đập các tu sĩ, giết chó, ngựa, và rắn – vô số người không kể xiết đã dấn mình vào mười loại ác hạnh.44
Trong số đó có một người hàng thịt tên là Atsog, ông ta khóc thổn thức khi bị dẫn tới trước Dharmaraja. Các thuộc hạ áp đảo ông, la hét dữ dội: “Giết, giết nó! Đánh, đánh nó!” Sau đó Awa Langgo, thuộc hạ đầu-bò, nói với ông ta:
Khi mi ở trong thế giới con người thế tục,
mi cười phá lên khi phạm các ác hạnh là nguyên nhân của sự việc này.
Hậu quả là mi sẽ kêu khóc trong đau đớn khi chịu đựng một số phận thấp kém.
Giờ đây kêu khóc có lợi ích gì khi mi đang ở trong những cánh đồng địa ngục?
Họ đập đầu ông ta bằng một chiếc búa, xẻ lưng bằng một cái cưa, đâm một ngọn giáo ngắn vào ngực, và ném một loạt vũ khí lên người ông. Khi đã thẩm tra về những thiện hạnh và ác hạnh ông đã làm, họ lôi ông tới Địa ngục Nóng Dữ dội.
Om mani padme hung hri.

Một người tên là Chhungdron ở miền Gojo, cũng như Paldron Dalo và con gái ông ta, đã đầu độc một vị Lạt ma, quyến rũ các nhà sư, và vu khống các bậc trưởng thượng tâm linh của họ. Hậu quả sau cùng là họ oằn lưng dưới những tảng kim khí nóng chảy, lưỡi bị chẻ bằng gươm sắt cháy đỏ, và bị đổ vào miệng chất kim loại nóng chảy sôi sục.
Đức Tara nói:
Những ác hạnh của thân giống như vùng cát lầy dơ bẩn:
Nó có vẻ mềm mịn, nhưng vì nó mà đau khổ phái sinh.
Những ác hạnh của ngữ giống như những lưỡi lửa cháy rực:
Mặc dù tàn lửa bé nhỏ, nó có thể thiêu rụi những ngọn núi công đức.
Những ác hạnh của tâm thì giống như chất độc ghê gớm:
Mặc dù ngọt ngào trong miệng, chúng đem lại đau khổ to lớn trong những cõi thấp.
Đối với những kẻ đã thực hiện những ác hạnh thuộc thân, ngữ, và tâm,
cầu mong những hậu quả được chế ngự giống như sương giá bị mặt trời quét sạch.
Om tare tam soha.

Một người tên là Argong ở miền Barong đã thuyết phục phối ngẫu của một Lạt ma bỏ trốn theo ông ta, nhưng họ đã chết và đang lang thang trong xứ sở của Yama. Tôi nhìn thấy Thần Chết, Yama Dharmaraja, giáng lên họ nhiều loại trừng phạt. Nhiều sinh linh ăn thịt xé toạc thân xác họ; những đau đớn họ đang chịu đựng thì vô bờ bến. Rồi một Lạt ma mặc áo trắng có mái tóc lòa xòa đi tới. Ông tụng thần chú vajra guru ba lần theo một giai điệu và tiến lên, dẫn vị phối ngẫu đi theo con đường ánh sáng trắng.
Om mani padme hung hri.

Có vô số đàn ông, đàn bà, và trẻ em ở miền Barong. Tôi không có thì giờ để ghi lại tất cả tên của họ, nhưng nếu các bạn muốn hỏi thêm nữa và thành thực quan tâm thì tôi có nhiều điều có thể kể cho các bạn, miễn là các bạn không gãy bể samaya với tôi hay dối gạt tôi theo cách nào đó.
Cũng có khoảng mười hai người thợ săn trộm ở miền Dartsedo,45 mà câu chuyện của họ được kể như sau:
Trong sự tàn ác và sân hận, họ đặt bẫy lấy lông bò yak làm nỉ.
Máu của những con vật bị họ giết cuồn cuộn như một cái hồ.
Của cải họ cướp đoạt thì chất cao như núi.
Họ lôi mọi sinh linh có quan hệ với họ tới những số phận xấu xa. 

Nhìn vào dấu vết tinh tế, Awa Đầu-Bò nói: “Vì lợi ích của gia đình Gya Truglo, những người này đã dùng dao gây đổ máu trên khắp hai vùng rộng lớn. Họ là những kẻ đầu sỏ chịu trách nhiệm việc giết hại nhiều người. Họ đã phạm quá nhiều ác hạnh khiến thậm chí kể hết tất cả những điều ấy ra cũng không thể làm được.” Với những tiếng gầm khủng khiếp: “Giết, giết chúng! Đánh, đánh chúng!” các thuộc hạ của Thần Chết dẫn họ tới Địa ngục Nóng Dữ dội, đầu họ gục xuống.
Om mani padme hung hri.

Có khoảng mười người đàn bà ở miền Sangen đã chế tạo chất độc. Thân thể của Karma T’harkhyin, Tsewang Dargyay, Gonpo Srung và những người khác bị băm nhỏ, lưỡi bị nhổ ra, và nhãn cầu bị chọc thủng.
Cũng thế, những kẻ ám sát các Lạt ma và phá hủy các thánh tích bị ném vào một hầm lửa. Những thuộc hạ khủng khiếp của Thần Chết, cầm những chiếc búa lớn bằng những tòa nhà, và với từng cú đập mạnh đã tung rải thịt xương họ. Bởi họ đã liên tục chết đi sống lại và chỉ liên tục chịu đựng nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi, nên những tiếng kêu khóc thất thanh của họ có thể làm nổ tung và tách rời núi non và thung lũng.
Mọi người kêu khóc gọi tôi: “Dudjom Drolma, xin tụng cho chúng tôi một thần chú mani!” Về phần tôi, tôi cảm thấy một lòng bi mẫn không thể tưởng tượng được và đã tụng thần chú mani theo một giai điệu. 

Tôi tiếp tục tiến tới cho tới khi đi ngang qua bốn người đàn ông, là những người hàng thịt ở Gamdzed trong miền Hor. Một người tên là Buchhung và người kia là Buja; tôi không nhớ chính xác tên hai người kia. Khi nhiều thuộc hạ đầu bò lần lượt cắt cổ họ bằng những lưỡi gươm cháy đỏ, họ kêu khóc với tôi rằng họ đang phải chịu đựng hậu quả của việc giết những gia súc vô tội. Họ phải trải qua nỗi khổ không chịu đựng nổi do phải liên tục chết đi và sống lại. 
Với lòng bi mẫn, tôi tụng thần chú mani theo một giai điệu và thỉnh cầu thiên nữ cao quý và tôn kính Tara, nhờ đó bốn người hàng thịt được giải thoát khỏi nỗi khổ của họ. Họ nói với tôi: “Xin đưa chúng tôi ra khỏi chỗ này” Tôi thúc dục họ đi vào con đường ánh sáng trắng dẫn tới Núi Potala, và trong tâm trạng vui mừng họ đi xa khuất tầm mắt. 
Om mani padme hung hri.

Rồi vị thiên nữ cao quý và bi mẫn nói những lời sau:
Đừng dọn thực phẩm độc hại cho các Lạt ma thông tuệ.
Đừng trộm cắp thực phẩm của các hành giả Pháp dấn mình vào thực hành mãnh liệt.
Đừng thực hành Pháp đã bị ô nhiễm bởi những ác hạnh.
Đừng làm nhơ bẩn các Pháp khí tượng trưng cho thân, ngữ, và tâm của các Đấng Chiến Thắng.
Luôn luôn tránh xa các ác hạnh và hãy thực hành thiện hạnh.
Các cư sĩ và tu sĩ, thuộc giai cấp quý tộc hay giai cấp tầm thường, của thế giới con người thế tục!
Chớ để trái tim quý vị bị trói buộc bởi xích xiềng của sự lãnh đạm.
Hãy bảo vệ nhân và quả của nghiệp như giữ gìn đôi mắt mình.
Nhờ đức hạnh của Pháp, dù bằng một giạ lúa hay chỉ là một nhúm,
chắc chắn rằng không có gì khác hơn một định mệnh duy nhất, 
vì thế chớ nghi ngờ điều này là chân thật
hãy liên tục cầu xin Tam Bảo.
Hãy thực hành theo giáo huấn của các Lạt ma của quý vị;
làm điều đức hạnh và từ bỏ ác hạnh.
Cảm thấy hối tiếc vào giờ chết của quý vị thì không lợi ích gì.
Ôi các Lạt ma và Tulku, tăng và ni, những yogin chứng ngộ,
những hành giả mật thừa, pháp sư, những học giả, thủ lãnh,
những bộ trưởng chính phủ, những thần dân, từ trẻ em trở lên:
Hãy giữ thông điệp này giữa trái tim quý vị.
Tốt nhất là nuôi dưỡng sự xác tín siêu việt và hoan hỉ vào giờ chết của quý vị.
Nếu không được như thế, đừng sợ hãi và không tự hổ thẹn.
Ít nhất là không có gì để hối tiếc.
Đừng phạm lỗi lầm! Đừng phạm lỗi lầm! Hãy thực hành đức hạnh!
Om tare tam soha.

Có nhiều ngàn thợ rèn ở thế giới con người. Thân họ bị bao phủ bởi những đống than lớn như Núi Tu Di. Họ bị thiêu đốt trong ngọn lửa, thịt họ không tách rời khỏi xương, và bị nghiền nát bởi những chiếc búa sắt lớn như Núi Tu Di. Rồi họ bị chộp bắt bằng những chiếc kẹp sắt và bị thiêu đốt như trước. Thân xác thiêu cháy của họ biến thành màu sắt; chúng bị đập vỡ thành nhiều mảnh và bị đưa vào lò rèn. Rồi họ bị thiêu đốt như trước. Những vũ khí rất lớn họ phải mang trên lưng đâm vào thân thể họ, và họ bị kéo lê với những giây xích bằng sắt cháy đỏ. Rồi họ bị thiêu đốt như trước, và sự việc lại tiếp tục. Thật là một cảnh tượng khủng khiếp làm tôi choáng váng.
Tôi hỏi những thuộc hạ: “Những hành động nào dẫn tới hậu quả cuối cùng này?”
“Ha, ha!” họ trả lời: “Những người này rèn súng ống và những khí cụ phá hoại khác – dao và rìu chiến đấu, mũi tên và giáo – dùng để tàn sát nhiều người và ngựa. Họ sửa chữa súng bắn không chính xác, kéo dài và uốn thẳng nòng súng và ống nhắm, và trui rèn lưỡi kiếm và v.v..”
Khi nói như thế, nhiều ngàn thuộc hạ giáng những nỗi đau đớn không dứt lên những người thợ rèn này.
Om mani padme hung hri.

 Có nhiều người gây sự bất hòa trong các dòng tu, biển thủ tài sản của các đền chùa và tu viện, hoặc đầu tư và kinh doanh bằng những vật cúng dường mà Tăng đoàn thâu thập. Tôi không thể nhận biết tất cả họ. Có nhiều ngàn người trong số họ đang có mặt ở một khu vực. Than hồng nóng đỏ, rác rưởi, và kim loại nóng chảy được rót vào miệng họ.
Họ kêu khóc: “Than ôi! Chúng tôi khổ biết bao! Ôi cha ơi, Ôi mẹ ơi! Nỗi khổ của chúng tôi to lớn biết bao! Chúng tôi thật khó thoát khỏi nỗi đau đớn và khốn khổ này! Khi sống trong cõi người, chúng tôi không nghĩ rằng có thể đau khổ ghê gớm như thế này. Nhưng giờ đây chúng tôi nhận ra rằng thật nguy hiểm biết bao khi dính dáng vào tài sản của Tăng đoàn. Điều đó còn dễ hơn việc nuốt thuốc độc, bởi điều xảy ra sẽ chỉ là cái chết. Không có gì tệ hơn việc lạm dụng tài sản của những thành viên trong Tăng đoàn, bởi nó gây nên đau khổ to lớn như thế này. Than ôi!”
Tôi được cho biết là dù được giải thoát khỏi trạng thái này, họ sẽ bị tái sinh làm các ngạ quỷ với các che chướng ô uế nội tại.46 Những kẻ gây nên sự bất hòa và chia rẽ trong Tăng đoàn phải kinh qua Địa ngục Đau khổ Liên tục (Địa ngục Vô gián) thấp nhất mà không có chút gián đoạn nào giữa những đời trước và đời sau của họ. 
Om mani padme hung hri.

Tôi cũng nhìn thấy các cư sĩ tantrika47 đã hành xử vô trách nhiệm, những phù thủy già, và những người phàm tục giả bộ làm các Lạt ma, vô số những người đó đang ói ra máu và trải qua nỗi đau đớn không thể chịu được của thân xác. Tôi thấy nhiều sinh vật ăn thịt đang ngấu nghiến họ và nhiều cư dân ở địa ngục ném ra những lời buộc tội về những ác hạnh của họ.

Ôi những Lạt ma tăm tiếng ngày nay, cả tu sĩ lẫn cư sĩ, một đứa con gái hèn mọn như tôi hầu như không dám nhắn gởi tới quý ngài, tuy thế tôi phải van nài quý ngài. Trong các cõi địa ngục là những cuộc phán xét mà quý ngài có thể thấy cho chính mình. Chúng ta sẽ xem xét những điều này chứ? Quý vị, những cư sĩ tantrika ngày nay với mái tóc dài và những chiếc y trắng, vợ (chồng) và con cái quý vị thật đông đúc. Được các vị trời và quỷ ma trợ giúp và sở hữu một ít năng lực huyền bí nhỏ bé, quý vị lừa phỉnh người khác bằng cách tuyên bố mình có những thị kiến về các vị trời và quỷ ma. Nếu quý vị có khả năng nghĩ tưởng về điều đó, giờ đây hãy thực hiện nó. Cầu mong điều đó không làm tổn hại quý vị, và cầu mong cuộc đời của quý vị được trường thọ. Đó là lời cầu nguyện của tôi.

Dưới đây là thông điệp của Yama Dharmaraja:
Những Lạt ma, các tăng, và ni tôn quý trong thế giới này
nương tựa nhiều guru theo một cách thế hời hợt mà không khảo sát họ.
Họ không giữ gìn những thệ nguyện samaya của mình, và 
vì thế đặt một gánh nặng lên vai họ, nó sẽ kéo họ xuống đáy sâu địa ngục.
Đặc biệt, vị Lạt ma mà từ ngài ta nhận lãnh những quán đảnh,
là người chỉ cho ta con đường đi tới sự trưởng thành và tự do trong tâm linh,
và là người khai thị bổn tánh chân thật của ta
là tinh túy của một ngàn vị Phật của thời đại may mắn này.
Đối với những kẻ làm đảo lộn hay đi nghịch lại lời dạy của Lạt ma của họ
hoặc kẻ tạo nên mối bất hòa trong những bằng hữu, huynh đệ, và tỉ muội tâm linh 
những người đã tham dự cùng một mạn đà la48 và cùng một dòng giáo lý,
thì chẳng có sự tích tập công đức nào đem lại lợi lạc. 
Không chỉ như thế, mặc dù những kẻ mắc phạm những ác hạnh chống trái chư Phật
có thể tịnh hóa nghiệp của họ nhờ sự sám hối, nhưng những kẻ gãy bể samaya thì không có nơi nương cậy.
Mặc dù những kẻ đã giết hại nhiều ngàn người và ngựa
có phương tiện để sám hối các hành động của họ, nhưng những kẻ gãy bể samaya đã từ bỏ các đối tượng quy y mà với các Ngài họ có thể sám hối.
Đi nghịch lại lời dạy của Lạt ma gốc của mình là một ác hạnh còn to lớn hơn việc mỗi ngày giết một người.
Dù cho một ngàn vị Phật của thời đại may mắn này xuất hiện,
nhưng bất kỳ dây cứu hộ nào các ngài có thể tung ra để kéo lên những kẻ chịu trách nhiệm về ác hạnh nặng nề này cũng đều bị đứt.
Không chỉ một mình kẻ mắc phạm bị đoạ lạc;
mà những ai có liên hệ với họ qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, giống như những đàn bê và cừu chạy tán loạn trên một sườn núi,
cũng sẽ bị lộn ngược đầu và rơi xuống Địa ngục Kim cương.49
Vào lúc đó, mặt đất của thế giới con người sẽ rung động
và nhiều bậc linh thánh sẽ thị tịch.
Trong một ngàn kiếp sẽ không thoát khỏi trạng thái đó;
mà trong hàng tỉ đại kiếp không thể tính đếm được 
họ sẽ phải chịu đựng lập tức mọi đau khổ 
tuyệt đối không cách nào chịu đựng nổi sự đau đớn này.
Than ôi, hỡi các Lạt ma và Tulku, cư sĩ lẫn tu sĩ, trong thế giới con người!
Hãy không ngừng dâng lên những lời cầu nguyện, trong mọi lúc hãy duy trì sự nối kết bất khả phân
Với Lạt ma gốc, ngài ngang bằng chư Phật trong ba thời.50
Chớ để ba năng lực51 của quý vị bị xao lãng.
Hãy phụng sự Lạt ma của quý vị trong bất kỳ cách thức nào có thể.
Hãy cúng dường những vật sở hữu thâu đạt được như một sự cúng dường mạn đà la hoan hỉ.
Nếu quý vị có thể chấp nhận mệnh lệnh của Lạt ma và hiến dâng thân thể lẫn sinh lực của quý vị để phụng sự Lạt ma,
thì cho dù quý vị không thực hành đức hạnh nào khác, như thiền định về các Bổn tôn hay trì tụng các thần chú,
quý vị sẽ không cần gặp ta khi từ bỏ thân xác mình.
Quý vị sẽ sẵn sàng đi tới bất kỳ cõi thuần tịnh nào quý vị muốn.
Bởi thông điệp này tiết lộ công khai những vấn đề ẩn dấu và bí mật,
quý vị không cần phải xấu hổ hay bối rối – hãy lớn tiếng công bố ra ngoài cho mọi người.
Nếu quý vị muốn nghe lời khuyên của Dharmaraja,
hãy hộ trì trong tim quý vị những gì ta nói.
Samaya!

Tiếp tục hành trình trong các địa ngục, tôi đi tới một nơi có khoảng mười tám cái vạc úp miệng xuống dưới. Tôi tự hỏi: “Những vật kỳ dị này sao lại úp ngược thế nhỉ?”
Ngay sau đó, Awa Đầu-Bò lật ngửa cái vạc nhỏ nhất (chúng lớn tới nỗi nếu đi ngựa thì phải mất tới mười tám ngày mới giáp vòng chu vi của nó), hướng về phía tôi. Bên trong là nhiều lớp máu. Tim tôi bừng bừng, thân tôi run rẩy vì xúc động.
Ông ta nói: “Sự kiện năm nay chúng lật úp xuống có nghĩa là nhiều Lạt ma, đặc biệt là các Ngài Tromge Khakyod, Dza Konchhog, và những vị khác, đã khởi hành tới các cõi thuần tịnh, đem theo những người có liên hệ với các ngài. Đối với họ, sẽ không có chuyện rơi trở lại vào vòng luân hồi sinh tử.”

Trên một con đường ánh sáng cầu vồng – trắng, vàng, đỏ, và xanh lá cây – vị đại hành khất T’hrulzhig, Lạt ma Gyurmed Dorje ở Tahor, tiến lại gần cùng với đoàn tùy tùng gồm nhiều đệ tử. Ngài đang tụng bài ca sau đây:
Om ah hung vajra guru padma siddhi hung.
Tôi không thấy cõi địa ngục, mà chỉ thấy cõi thuần tịnh cao tột, Pháp giới nền tảng của mọi hiện tượng.
Tôi không thấy Yama Dharmaraja, mà chỉ thấy Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).
Tôi không thấy đám thuộc hạ hung nộ, mà chỉ thấy các Bổn tôn an bình và phẫn nộ của các mạn đà la.
Tôi không thấy các đứa trẻ tươi đẹp và tối ám của nghiệp, chỉ thấy năng lực mạnh mẽ tự-sinh của trí tuệ siêu việt và những phương tiện thiện xảo.52
Tôi không thấy các cư sĩ, tăng, hay ni, mà chỉ thấy cõi thuần tịnh của phạm vi hoàn toàn rộng lớn của sự thuần tịnh vĩ đại.
Tôi không thấy những hậu quả sau cùng của thiện hạnh và ác hạnh, mà chỉ thấy năng lực mạnh mẽ của giác tánh nội tại tô điểm chân tánh của thực tại.
Tôi không thấy sự khác biệt giữa những gì có mối liên hệ và những gì không,
mà chỉ thấy tất cả được hoàn toàn nối kết trong Pháp giới nền tảng của các hiện tượng.
Tôi không thấy các cõi chúng sinh cao và thấp, mà chỉ thấy sự thuần tịnh nguyên sơ của hiện hữu có điều kiện và của trạng thái an bình.
Gấp lên, nhanh lên, mọi người – hãy theo tôi!
Khi ngài hát bài đó, một ánh sáng chiếu rọi từ trái tim ngài như ánh trăng. Ngay lúc ấy nó tràn ngập mọi cõi địa ngục, những âm thanh đau khổ và khóc than đột nhiên ngưng bặt. Những cư dân địa ngục đứng nhìn với đôi mắt mở to, đầy vẻ sợ hãi. Ngay cả Dharmaraja cũng biến mất trong phút chốc. Vị Lạt ma đi qua, dẫn dắt khoảng mười hai ngàn chúng sinh tới cõi Potala, dù họ có liên hệ với ngài hay không.
Tôi lễ lạy, cúng dường, và liên tục xác quyết lại niềm tin và sự hoan hỉ của tôi. Đức tôn kính Tara cũng chắp tay và nói: “Vị Lạt ma đó tên là Akara, cũng được gọi là Tahor Gyurmed Dorje.”

Cũng xuất hiện một Lạt ma ở quận Nyagrong tên là Yeshe Dorje, thân ngài chiếu sáng một vẻ rực rỡ khó cưỡng lại được, và một đoàn tùy tùng gồm nhiều Daka và Dakini vây quanh ngài. Từ đôi môi ngài phát ra những lời sau:
Con khẩn cầu dưới chân bậc thánh đại thành tựu ở Sườn núi Lhangdrag.53
Tôi là Yeshe Dorje của cái thấy không tạo tác,
Yeshe Dorje của thiền định không lầm lẫn,
Yeshe Dorje của mục đích không lay động,
Từ tuổi ấu thơ, tôi đã nối gót một bậc thánh thành tựu vĩ đại.
Tôi đã đưa cuộc đời cùng sự thực hành của tôi tới chỗ toàn thiện.
Tất cả những ai có một mối liên hệ với tôi, tôi đã hướng họ tới con đường toàn trí.
Giờ đây, những ai có niềm tin nơi Padma Duddul,
bậc thánh đại thành tựu ở quận Nyagrong,
và ở tôi, một lão già,
sẽ đi với tôi tới tiểu lục địa Chamara,
tới Núi Huy Hoàng.
Om ah hung vajra guru padma siddhi hung.
Với những lời này, ánh sáng chiếu rọi và tràn ngập mười tám cõi địa ngục.54 Rồi vị Lạt ma dẫn khoảng hai mươi ngàn người, các Lạt ma, tăng sĩ, và các cư sĩ, ngay cả những hành khất và người mù, tới Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.
Tôi cảm thấy một niềm tin và sự hoan hỉ khó tưởng tượng nổi. Vị thiên nữ tôn kính lạy ba lạy và nói: “Vị Lạt ma này tên là Jnanavajra,55 cũng được gọi là hành khất Yeshe Dorje. Chúng sinh chỉ nghe nhắc tới danh hiệu ngài cũng được hưởng vô lượng lợi lạc.” 

Trong số những đàn ông và đàn bà ở cộng đồng Satod là một người đàn ông tên là Wanggyal mang trên lưng một chuỗi hột bồ đề có kích thước bằng một trái núi.56 Không thể nâng nó lên, ông ta kêu thét trong đau đớn khi các thuộc hạ đánh đập ông.
Tôi hỏi một thuộc hạ-đầu cọp hành động nào đã dẫn tới hậu quả này. Ông ta trả lời: “Người này đã đánh đập một khách hành hương du phương, một yogin chứng ngộ đang trên đường tới Tsiwa và dùng vũ lực ăn cắp chuỗi tràng và tất cả những tài sản khác của ngài.”
Om mani padme hung hri.

Có một người tên là Ashey, mặc y phục màu nâu sậm, sống trong miền Gakhog. Ông ta đã giết hại nhiều Lạt ma và những bậc trưởng thượng tâm linh thánh thiện, giả vờ đọc các Kinh điển, và nhận thù lao để tụng Kangyur nhiều lần mà chưa từng thực hiện những sự trì tụng này.57 Lưỡi của ông ta bị kéo ra khỏi miệng. Trên chiếc lưỡi lớn như Đồng cỏ Aji,58 là những con trâu sắt với những chiếc sừng sắc nhọn. Buộc vào sừng là những lưỡi cày sắt nóng cháy mà các con trâu dùng để cày bừa “cánh đồng” này. Nỗi đau đớn của người đàn ông này không thể tưởng tượng nổi. Một thuộc hạ-đầu khỉ nói với ông:
Lời dạy của các Đấng Chiến Thắng59 thì giống như một viên ngọc như ý:
Chớ nhận thù lao nhờ nó mà có hay bán nó cho những người khác.
Ngữ của Lạt ma thì giống như một cái bình pha lê:
Chớ ném nó vào rác rưởi hay bùn nhơ, mà hãy yêu quý nó.
Ngôn ngữ tuyệt hảo nhất của Đức Phật thì giống như một đại dương lương dược:
Đừng ngồi trên bờ và chết khát.
Giả vờ đọc Kinh văn thì giống như ngụy tạo đồng là vàng,
nhưng nó không trở thành vàng, và ngươi phải chịu đựng nỗi khốn khổ này.
Trong khi vị thuộc hạ nói, những con trâu cứ cày liên tục. 

Có khoảng chín người gốc miền Ragchab đang ở trong bardo. Họ không ý thức được rằng họ đã chết, và tâm họ bị dính mắc vào của cải, tài sản và với cha mẹ họ. Họ và nhiều người khác không làm chủ được nơi sắp đi tới. 
Hơn nữa, có khoảng một trăm tu sĩ ở miền Nyitso. Một số vị mặc một bộ y phục bằng sắt nóng giống như khăn choàng của tu sĩ; một số vị mặc một bộ y phục bằng sắt nóng giống như chiếc y của tu sĩ; một số mặc y phục bằng sắt nóng giống như áo chẽn không tay của tu sĩ. Tôi được cho biết rằng đó là hậu quả của việc họ đã tham dự những tiệc cúng dường với samaya bất tịnh, giả bộ giữ giới nguyện thanh tịnh mà bản thân không sám hối và tịnh hóa. 
Cũng thế, có một người tên là Atsang ở vùng T’hrom thượng. Nhiều thuộc hạ của Yama đang đổ chì nóng chảy vào miệng ông ta. Họ nói: “Đây là kết quả sau cùng của việc hắn đã kín đáo ăn những thực phẩm cúng dường được chuẩn bị tại nhà hắn và nhà những người khác, khiến cho các thành viên của Tăng đoàn xuất gia phải dùng đồ ăn thừa.”

Con khẩn cầu Đức Avalokiteshvara cao quý.
Con khẩn cầu Đức Avalokiteshvara dẫn dắt chúng con suốt con đường.
Con khẩn cầu Ngài dẫn dắt những người chết đó
những kẻ lang thang trong các cõi thấp của địa ngục tới Núi Potala.
Om mani padme hung hri.

Có một cụ già trông như ông nội thuộc gia đình Lạt ma Tromge, mặc một áo choàng đen lòa xòa. Trong bàn tay phải ông quay một bánh xe cầu nguyện bằng bạc, trong khi bàn tay trái cầm chuỗi tràng bằng gỗ cây keo. Tên ông là Tromge Sodnam Namgyal, và ông đang lớn tiếng tụng thần chú mani theo một nhịp điệu vui tươi. Các cư dân ở địa ngục đối xử với ông rất kính trọng và tin tưởng. Là một gia chủ và hiện thân của một Bồ Tát, ông tiến lên, dẫn theo nhiều chúng sinh trên con đường đi tới giải thoát.
Lạt ma Jinpa Dondan thuộc bộ tộc Zur có cách hành xử hết sức điên khùng. Ngài đi qua, tay cầm một chuỗi tràng bằng xương và tụng thần chú vajra guru theo một giai điệu khi dẫn dắt nhiều chúng sinh trên đường đi tới giải thoát.
Một người bảo trợ của Tromge Chhogtrul tên là Rinchhen thuộc gia đình Kyompa, ở trong cõi địa ngục, đang tụng thần chú mani theo giai điệu với một giọng trong trẻo. Khi lớn tiếng nói: “Chhogtrul Dorje Chang thấu biết tất cả!”60 ngài dẫn vài người tới cõi giới của Núi Potala. 

Một người nào đó tên là Buchhung ở miền Nyoshul, đang ở trong Địa ngục Sống lại. Ông yêu cầu tôi tụng cho ông thần chú mani, hay thậm chí một chữ Om duy nhất cũng được.
“Ông là ai?” tôi hỏi.
“Ta là cậu của cháu.”
“Sao cậu không được Orgyan T’hutob Lingpa cứu?”
Ông nói: “Nỗi đau khổ của cậu là hậu quả của những lỗi lầm đã phạm trong lúc trò chuyện với Lạt ma đó.” 
Sau khi tôi tụng lớn tiếng từ xa cho ông ba lần thần chú mani, ông đi qua, biến mất khỏi tầm mắt tôi và tôi không rõ là ông đi đâu.
Om mani padme hung hri.

Một cư dân ở địa ngục có đầu của một con cú đang dẫn nhiều người trên một cánh đồng sắt nóng, gây đau đớn cho nhiều người, cả cư sĩ lẫn tu sĩ. Cư dân đầu-cú này nói với tôi: “Cô gái thế tục có thái độ cao thượng, đừng bước lên con dao bằng đồng đỏ này của tôi.” 
Tôi đã tụng liên tục thần chú mani. “Xin hãy cư xử như một đồng minh của những chúng sinh này,” tôi van nài.
Cư dân này nổi giận trước thỉnh cầu của tôi. “Cô đã làm những thiện hạnh và ác hạnh nào? Tự cô hãy giải thích rõ ràng xem!” ông ta nói.
“Tôi từng ở mọi nơi, từ Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trở xuống và từ cánh đồng sắt nóng đỏ rộng lớn trong các địa ngục trở lên. Tôi đã trình bày các thiện và ác hạnh của tôi trước mặt Dharmaraja. Tôi là một cô gái sống nhờ nhân và quả của nghiệp. Còn ông đã làm những thiện hạnh và ác hạnh nào?” 
Ông ta không nói gì mà vẫn đứng đó, miệng mỉm cười.
Om mani padme hung hri.

Có một bà cụ tên là Argong ở cộng đồng Barchhung. Là hậu quả sau cùng của việc giết chuột chũi, bà bị một cư dân có đầu chuột chũi đánh đập. Bà gởi tôi mang về một thông điệp: Nếu nhân danh bà, một trăm triệu thần chú mani, Tantra Sám Hối Bất nhiễm, Sám hối các Ác Hạnh, và Kinh Giải thoát được khắc trên đá và những lễ hiến cúng được dâng lên cho nhiều tập hội tu sĩ, bà ta sẽ được tái sinh làm một cư sĩ tantrika trong miền Derge.
Khi bà nói điều này, nhờ nguyện lực của một Lạt ma thuộc bộ tộc Ango ở Barchhung, bà đã thăm viếng nhanh chóng một cõi thuần tịnh; nhưng sau đó tự thân nghiệp lực cạn kiệt, và là hậu quả của việc sát hại một người, bà bị tái sinh trong Địa ngục Sống lại.
Để giải thoát bà khỏi chiếc vòng cổ bằng sắt làm bà nghẹt thở, tôi khẩn cầu Đức Avalokiteshvara bi mẫn siêu việt và tụng thần chú mani cho bà từ xa, sau đó cái vòng được lấy ra.
Tôi cho là bà ta sẽ được sinh làm người trong khoảng bảy đời. Bà nói rằng để bà được giải thoát, mọi người phải thực hành pháp sám hối và tịnh hóa (đặc biệt là một trăm triệu thần chú mani, một trăm triệu thần chú siddhi, một triệu ba trăm ngàn thần chú trăm-âm của Đức Vajrasattva, và Sám hối các Ác Hạnh); thì bà có thể được tái sinh trong cõi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara sau khi đã trải qua một đời người.

Cái lưỡi của một người tên là Nyima P’huntsog ở Tsang phía nam trung tâm Tây Tạng bị kéo dài ra bằng cả một quốc gia. Nó găm đầy những gai sắt trong bốn phương, và bị đổ kim loại nóng chảy sôi sục lên. Tôi được cho biết đó là hậu quả sau cùng của sự báng bổ và nói dối, và đặc biệt là bởi có cái nhìn sai lệch về các thành viên của Tăng đoàn xuất gia.
Một người tên là Dondrub, là hậu quả sau cùng của việc đốt nhà, đã bị các cư dân trong địa ngục đưa lên một ngọn lửa cháy sáng phun ra từ sắt nóng đỏ, bị cháy sém cho tới khi thân ông chỉ còn trơ những khúc xương nối kết với nhau. Cuối cùng, ông ta sống lại và tiếp tục nỗi khổ như trước.
Kim loại nóng chảy được đổ vào miệng Tsering Drolma, phối ngẫu của Lạt ma Tanpa ở Minyag, là hậu quả của việc bà đã đầu độc vị Lạt ma. Bởi đau đớn khủng khiếp, những giọt nước mắt tuôn ra từ đôi mắt bà giống như một trận mưa rào trong năm. Các cư dân tạo nên những tiếng huyên náo dễ sợ, một âm thanh ầm ĩ như tiếng sấm của một ngàn con rồng, đủ để tách rời thiên đường và trái đất ra làm hai.
Bảy người từ miền Golog, kể cả Tsering Kẻ Giết Bò Yak Hoang dã, bị móc vào sừng những con bò yak hoang bằng sắt, sau đó bị quăng xuống đất rồi bị húc. Kim loại nóng chảy được đổ vào miệng những bà vợ của họ, Chhimed Dronma và những người khác, khiến từ mọi khiếu trên người họ những lưỡi lửa nóng đỏ phụt ra sáng rực. Nỗi khổ của họ lên tới cực điểm.
Là hậu quả của việc làm ô uế nước trà của Tăng đoàn xuất gia và đánh đập hoặc tấn công các tu sĩ trong Tăng đoàn, Gonpo Dargyay Tsogo, Je Nyima, và những người khác ở Dartsedo đang vùng vẫy vượt qua con sông đầy xác chết không có chỗ cạn. Không gian vang rền những tiếng kêu khóc vì đau đớn khủng khiếp của họ.

Vào lúc đó, Yama Dharmaraja gởi tôi mang về thông điệp sau đây:

Hãy mang thông điệp này về cho các Lạt ma:
Trong cái thấy tối hậu của bản tánh căn bản của thực tại không tạo tác,
ta phải giống như không gian, không rơi vào bất kỳ thái cực nào.
Trong việc nuôi dưỡng các giai đoạn phát triển và thành tựu, hiện diện tự nhiên của sự trong sáng tuyệt đối,
ta phải giống như một ngọn núi, không có bất kỳ đổi thay hay chao đảo nào.
Trong sự vận dụng của giác tánh nguyên sơ, giải thoát tự nhiên khỏi năm độc,61
ta phải giống như đại dương, không lấy hay bỏ. 
Để làm việc cho hạnh phúc của chúng sinh, dẫn đường trong việc làm lợi lạc cho người khác,
ta phải giống như một người cha hay mẹ, không đánh giá dựa trên sự thân thiết hay xa cách.
Để khám phá mục đích là sự thành tựu tự nhiên của hai loại lợi lạc,
ta phải giống như kẻ đi tới Đảo Vàng và không mất những gì đã tìm được ở đó. 
Những người như thế thì vô cùng tốt lành, là bậc siêu phàm trong những người quan tâm tới Giáo Pháp và chúng sinh.
Trái lại, những người giả bộ cung cách của các Lạt ma,
những kẻ thực hiện p’howa62 cho người khác mà không thấu suốt bổn tâm mình,
những kẻ chỉ vì thực phẩm và của cải mà hạ thấp Mật thừa63 thành việc lầm bầm những nghi thức trống rỗng,
những kẻ tự phong là người lão luyện tài giỏi trong việc làm lợi ích cho người khác trong khi khát khao tích lũy của cải, 
những kẻ chỉ bắt chước Phật Pháp linh thánh mà không giải thoát dòng tâm thức của chính mình,
và những kẻ dẫn dắt nhiều người, cả người sống lẫn người chết, trên những con đường sai lạc:
Hãy đưa tất cả những kẻ hành động theo những cách này tới gặp ta! 
Và hãy mang một thông điệp tới các tu sĩ:
Những người đi theo dấu chân của Đấng Đạo sư, Đức Phật Toàn Giác,
những người nắm giữ chân lý Thánh Pháp của các Kinh điển và tantra (Mật điển),
thân thể được tô điểm bằng cờ chiến thắng là những chiếc y màu vàng nghệ của sự thuần tịnh viên mãn,
và những người đã ngưng dứt mọi hành vi ác hại và đã thâu thập mọi đức hạnh:
Họ là phước điền cho hai tích tập64 và được các vị trời tôn kính.
Những người mang những dấu ấn con cái của các Đấng Chiến Thắng nhưng phá hoại Giáo Pháp của các Ngài,
những kẻ có sự thôi thúc hướng về những theo đuổi thế tục,
những kẻ mê đắm đàn bà và rượu chè như cốt tủy của thực hành tâm linh của họ,
những kẻ dấn mình vào mười loại ác hạnh:
Hãy để những kẻ hành động theo những cách này tới gặp ta! 
Và hãy mang một thông điệp tới các vị phối ngẫu Dakini:65
Những ai lúc đầu làm chín mùi dòng tâm thức của họ bằng lễ quán đảnh và giữ gìn samaya thanh tịnh,
những người khi đó trở nên thiện xảo trong các điểm trọng yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu,
và được phú bẩm kinh nghiệm và thực hành,
và những người sau cùng đi tới những giới hạn của sự thành tựu bằng con đường bốn cấp độ của hỉ lạc:66
Những người như thế an trú giữa những bậc hộ trì giác tánh nội tại. 
Nhưng những kẻ ích kỷ và là những kẻ dối gạt vĩ đại với những phương cách cám dỗ,
những kẻ chọn ma quân làm bạn đồng hành và gây tranh chấp, đau khổ, và xung đột,
và những kẻ cuối cùng bị đưa tới sự hủy diệt bởi những dục vọng thông dâm và tằng tịu tai hại:
Họ sẽ không được giải thoát.
Hãy cấp tốc đưa họ tới gặp ta!
Và hãy mang một thông điệp tới các sư cô:
Những người cúng dường tóc trên đỉnh đầu mình cho các tu viện trưởng và giáo thọ,
những người bảo vệ thân mình như của cải không cho kẻ cướp xâm phạm
những người coi xứ sở quê hương như quân thù và tìm tới những sườn núi và khe hang cô tịch,
và những người theo đuổi thực hành đức hạnh với động lực hoàn toàn vị tha thanh tịnh:
Họ nhận ra bổn tâm và sẽ không hối tiếc vào giờ chết.
Trong một trạng thái cực kỳ hỉ lạc, họ sẽ đi tới bất kỳ cõi thuần tịnh nào họ muốn.
Nhưng những sư cô giả dối thọ giới
mà không trì giữ các hứa nguyện của họ và trắng trợn vứt bỏ chúng,
những kẻ cuối cùng dấu đầu mình trong cát,
thèm khát tính dục bất chính và chạy quanh như những con chó lạc loài:
Hãy để những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!
Và hãy mang một thông điệp tới các thủ lãnh và nhà cai trị:
Hãy lấy Tam Bảo làm nguồn mạch nương tựa chính yếu.
Giữ vững vương quốc Giáo Pháp như lời khuyên dạy tinh túy.
Chớ quan tâm tới lợi lạc riêng của quý vị, mà hãy bảo vệ những định luật đạo đức.
Hãy khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh, và ngăn cấm việc săn bắn và đánh bắt cá.
Quý vị sẽ đạt được quyền hành, thế lực, và một thân thể cao quý, và thường xuyên gặp được con đường đi tới giải thoát.
Nhưng nếu quý vị không phân biệt được sự tuyệt hảo và điều ác hại,
quý vị sẽ đem lại sự hủy diệt bằng chính óc bè phái của quý vị và phạm những tội ác làm hại người khác
và phí phạm cuộc đời khi hoàn toàn dấn mình trong những sự bất hòa, mâu thuẫn, tranh cãi và xung đột giết hại lẫn nhau.
Hoàn toàn vô ích, quý vị sẽ đem lại đau khổ cho nhiều chúng sinh.
Hãy đưa tất cả những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta! 
Hãy mang một thông điệp tới những người đàn ông:
Tất cả các ông, lúc ban đầu còn làm một sự pha trộn thiện hạnh và ác hạnh,
rồi thiết lập những mối liên hệ với nhiều Lạt ma
và sau cùng gặp được Thánh Pháp đích thực,
thực hành sám hối như cách đối trị các ác hạnh:
Hãy hoan hỉ đi trên con đường cao quý càng lúc càng dẫn tới những trạng thái chói ngời.
Nhưng hầu hết trong các ông hành xử vô đạo đức, như những người chỉ huy binh lính hay những kẻ cướp,
nhồi nhét thừa mứa thực phẩm và của cải, dấn mình vào năm hành vi bị quả báo lập tức,67
coi Lạt ma và Tam Bảo như một nỗi tai ương.
Tâm các ông hừng hực như ngọn lửa, có khuynh hướng phạm các ác hạnh:
Hãy đưa tất cả những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!
Và hãy mang một thông điệp tới những người đàn bà:
Quý vị không bội ơn những bậc cha mẹ tốt lành
hoặc là nguyên nhân cho mối bất hòa, bạo lực và tranh chấp trong gia đình,
mà phụng sự cha mẹ và cư xử nhân từ với mọi người,
xa lánh ác hạnh và theo đuổi thiện hạnh càng nhiều càng tốt:
Không hối tiếc vào giờ chết, và được tái sinh trong những cõi cao.
Nhưng một số trong quý vị làm suy sụp thân thể và tinh thần của các bậc cha mẹ tốt lành,
là nguyên nhân của nhiều bất hòa, bạo lực và tranh chấp trong gia đình,
hết sức khéo léo trong việc sử dụng những âm mưu vi tế thật thâm độc,
với những quan điểm sai lầm về mọi người, liên tục phỉ báng họ:
Hãy để những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta! 
Và hãy mang một thông điệp tới tất cả mọi người trong thế giới con người:
Khi đã được sinh trong môt cõi giới cao, hãy xoay chuyển tâm quý vị hướng về Pháp.
Hãy giữ những bánh xe cầu nguyện và các chuỗi hạt trong tay quý vị không ngơi nghỉ.
Hãy theo đuổi việc trì tụng các thần chú mani và siddhi như cốt tủy của ngôn ngữ quý vị.
Những người trong quý vị có động lực cao quý và lòng bi mẫn vĩ đại
sẽ không gặp ta mà sẽ đi tới Cõi Cực Lạc thuần tịnh.
Nhưng những người trong quý vị ngay từ ngày đầu mới sinh ra
chỉ gắng làm những hành động ác hại và vô đạo đức
và quay lưng lại Tam Bảo
sẽ không gặp ta mà sẽ đi tới Địa ngục Đau khổ Không ngừng.
Trong Giáo Pháp duy nhất này, hãy phát triển cái thấy và lòng bi mẫn thuần tịnh, hãy quy y và cầu nguyện;
trì tụng các thần chú mani, siddhi, tare, và những Pháp ngữ của các Đức Phật Chiến Thắng;
cản ngăn việc săn bắn và đánh bắt cá, khuyến khích những người khác thực hành đức hạnh;
chuộc mạng chúng sinh, sử dụng cờ cầu nguyện, những khuôn satsa, và bánh xe cầu nguyện;
cử hành các nghi thức chay nyungnay, các lễ lạy, kinh hành, và tịnh hóa những che chướng –
không thiện hạnh nào lớn lao hơn những điều này trong khắp ba cõi.
Đừng quên những thông điệp này, mà hãy tường thuật chúng cho tất cả mọi người.
Sau đó, trên một con đường ánh sáng trắng, tôi thấy những tu sĩ lẫn cư sĩ, tay cầm các bánh xe cầu nguyện, lần chuỗi, tham dự các nghi lễ chay, khắc thần chú mani trên đá, treo cờ cầu nguyện, tu sửa những con đường mòn và gờ tường, nâng cấp những con đường xấu, khuyến khích người khác thực hành đức hạnh, đúc khuôn satsa, thắp đèn cúng dường, thực hiện các lễ lạy, đi hành hương, và chuộc mạng sống của những chúng sinh sẽ bị giết. Hàng tỉ người trong số đó có vẻ mặt uy nghi, tâm hồn hoan hỉ, và tư tưởng lạc quan vui vẻ. Trong khi rì rầm trì tụng các thần chú mani, siddhi, và tare, họ tiến lên, đi tới Cõi Cực Lạc, Núi Potala, và Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.
Đó là những lời tường thuật của tôi, chúng không trái nghịch những chỉ dạy của Lạt ma. Cha mẹ tốt lành của tôi và tất cả dân chúng trong miền tôi ở đã liên tục thỉnh cầu tôi thuật lại câu chuyện của tôi, vì thế tôi ghi lại ở đây một bản tường thuật phác thảo. Cầu mong nó làm vui lòng quý vị.
Trong những thời đại suy hoại này, khi nhiều vấn đề to lớn phát sinh nhanh chóng, nếu chúng ta không hộ trì những lời dạy của các Đấng Chiến Thắng với sự xác tín, thì điều gì có thể được nói cho chúng ta? Pháp thoại về nhân và quả này mà tôi thực sự chứng kiến thì không bị ô nhiễm bởi sự dối trá; cũng không chỉ là một sự nhai lại những lời của người khác. Tôi tìm được sự xác quyết để nói mà không bóp méo những thị kiến này ở cõi địa ngục, chúng giảng dạy sự chấp nhận và từ bỏ68 nhờ ân phước của Đức Tara tôn quý và những Lạt ma tốt lành của tôi. Nếu tôi dối trá, nói rằng đã chứng kiến điều nào đó trong khi thực ra tôi không thấy, hoặc nếu vì ước ao được kính trọng và nổi tiếng mà tự phụ tuyên bố về trạng thái tâm linh của tôi, thì xin các ma mốt (mamo) ăn-thịt69 nhanh chóng cướp đoạt sinh lực và hơi thở của tôi.
Đối với những người đọc tường thuật này, xin truyền bá nó, và thực hành theo nó, dấn mình không khiếm khuyết vào sự chấp nhận và từ bỏ các nguyên nhân và hậu quả, thiên nữ cao quý sẽ là người dẫn đường của họ dọc theo con đường ánh sáng cầu vồng. Nếu có những thuật ngữ hay danh xưng sai lầm, những chữ không chính xác, những thông điệp bị bỏ quên, hay những từ bí mật được phơi bày ở đây, tôi xin sám hối những thiếu sót này trước sự hiện diện của Lạt ma. Tôi khẩn cầu được thành tựu sự thuần tịnh không chướng ngại trong đời này và những đời sau.

Dòng chảy êm ả, không ngừng nghỉ của đức hạnh hoàn toàn thuần tịnh
nhờ hàng trăm tia sáng chiếu tỏa sẽ xua tan bóng tối của những lỗi lầm tích tụ,
làm đổ xuống trận mưa lợi lạc và hạnh phúc cho tất cả chúng sinh vô biên như không gian:

Cầu mong mọi người nhanh chóng đạt được trạng thái của thiên nữ cao quý.

Như thế, bản văn này tường thuật làm thế nào cô gái Dawa Drolma trải qua năm ngày nhìn thấy các thị kiến về cõi địa ngục và những cõi giới khác đã được người sao chép ghi lại đúng như những gì từ miệng cô gái nói ra, không có bất kỳ chữ nào được thêm vào hay bỏ sót và không có bất cứ sự sai sót hay lầm lẫn nào trong ý nghĩa.

May mắn, may mắn, may mắn!

Cầu mong tường thuật này là sự trang hoàng sáu lần của thế giới, chói ngời với sự tráng lệ kiết tường.

Sarwa mangalam – cầu mong mọi sự kiết tường.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn