4. Yulokod Cõi Thuần Tịnh Của Đức Tara

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14969)

4. YULOKOD
CÕI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC TARA

Kính lễ Đức Avalokiteshvara
Quỳ lạy dưới gót sen 
Đấng nhìn chúng sinh với đôi mắt bi mẫn,
con sẽ tán thán Bổn tôn phi thường này 
để hoàn thiện hai tích tập.1

Xin đảnh lễ Ngài, Đức Tara, Bổn tôn trong các Bổn tôn,
suối nguồn của mọi thành tựu tâm linh không loại trừ điều nào.
Giống như một viên ngọc quý báu và như ý,
Ngài ban trái quả của mọi điều chúng con ước muốn.
Những chúng sinh thực sự mong ước được nhìn thấy 
cõi thuần tịnh của Đức Tara trong tâm họ
sẽ hoan hỉ trong những tia dịu mát của thị kiến thuần tịnh 
trong chốn nương tựa êm ả là đóa sen đức tin nở rộ.

Khi từ Núi Potala2 trở về, tôi bay vút lên về bên trái, và nhờ Đức Tara Trắng dẫn đường, tôi đi tới một chốn tuyệt đẹp và trong trẻo tràn đầy sinh khí, khắp xứ đều xanh tươi, một môi trường kỳ diệâu với nhiều điều đặc biệt phi thường. Những sảnh đường ánh sáng cầu vồng năm-màu bay lượn trên không. Nhiều loại hoa và hoa sen mọc khắp nơi. Ở đây không có ý niệm về mùa hạ hay mùa đông. Những cây ban-điều-ước đầy lá, treo những chuông chùm và chuông nhỏ. Khi bị gió lay động, chúng vang lên những giáo huấn Phật Pháp bằng tiếng Phạn, như Namo arya tare mam.3 Chim chóc là những hiện thân của Đức Bà Cao Quý – những con chim sẻ, vịt, khổng tước, sếu, anh võ, gà gô trắng, chim cu, và thiên nga – nô đùa khắp nơi. Mặt đất ngập đầy của cải trù phú tới mứùc độ không thể tưởng tượng nổi. Những ngọn núi tàng chứa vàng, bạc, lam ngọc, và các trân bảo. Khắp nơi là những ao cam lồ có tám tính chất4 tốt đẹp và những nhà tắm bằng châu báu được trang bị tao nhã.

Trong cõi này không có các ý niệm sinh, lão, bệnh, tử. Tất cả các cư dân đều được hóa sinh kỳ diệu từ giữa hoa sen. Trong những đời tương lai họ không phải nghe một âm thanh khó chịu hay chói tai. Những cư dân này là những Bồ Tát nam và nữ đã đạt được những mức độ chứng ngộ cao cấp. Nơi chốn này vượt quá sức tưởng tượng; kích thước của nó không thể đo lường và có hàng ngàn lâu đài rộng mênh mông làm bằng năm trân bảo.5

Trong chốc lát, tôi đi tới cổng cung điện chính – một tòa lâu đài rộng lớn tuyệt vời có vẻ bề ngoài thật lôi cuốn và kỳ diệu, có năng lực giải thoát chúng sinh bằng bốn cách.6 Ngay lúc tôi đi vào cung điện, tôi thức tỉnh khỏi giấc ngủ sâu của ý thức duy lý bình phàm và thoát khỏi những tấm màn vô minh. Cái thấy nội tại của giác tánh nguyên sơ của tôi trải rộng, và tôi đã cảm nghiệm một lòng từ ái và bi mẫn dạt dào.

Khi đi vào cửa phía tây, tôi gặp Guhyadevi, Thiên nữ của những điều Mật nhiệm, ngài có vẻ hết sức vui mừng khi nhìn thấy tôi. Tôi đi tiếp tới một cái sân nơi nhiều ngàn thiên nữ mặc y phục xanh lá cây, tụng những lời tán thán hai mươi mốt hóa thân Tara bằng tiếng Phạn. Thỉnh thoảng họ chơi những xập xõa nhỏ hình ngón tay, trống tay bằng vàng, và trống làm bằng gỗ đàn hương, gỗ mun, gỗ “tim rắn,”7 và bốn loại lõi cây, cũng như các xập xõa, cồng chiêng, và sáo. Họ thường ngắt quãng bài hát với âm nhạc được tấu lên bằng đủ loại khí cụ không thể tưởng tượng này. Khi nghe chúng, tâm tôi dấy lên một cảm thứùc sùng mộ không tưởng tượng nổi; tôi cúng dường trong tâm và nhiệt thành trì tụng những lời tán thán hai mươi mốt hóa thân của Đức Tara.

Tôi đi vào một căn nhà nhỏ, ở đó tôi thấy một thiên nữ. Bà có vẻ rất già, tóc trắng xoăn như vỏ ốc xà cừ, nhưng hàm răng đều không có chỗ khuyết và nước da sáng đẹp như nước da của một thiếu nữ thanh xuân. Vị thiên nữ cao quý phi thường này an tọa với đoàn tùy tùng vây quanh. Bà có mật danh là Gauri Girtima, nhưng được biết nhiều qua tên thật của bà là Ayurdevi, Thiên nữ Trường thọ.8 Tôi thực hiện những lễ lạy, đi nhiễu, cúng dường mạn đà la, lời khẩn nguyện bảy-nhánh, và những lời khẩn cầu và ước nguyện.

Bà nói: “Cái gì đây, con gái ta? Con may mắn biết bao khi tới gặp ta. Kỳ diệu biết bao! Mối liên hệ nghiệp nào giải thích cho sự xuất hiện của con ở đây? Ta là một nữ anh hùng có những phẩm tính được ẩn dấu. Được Bổn tôn kỳ diệu - Đức Tara tôn quý - ban phước, ta làm chủ được đời sống kim cương bất tử.”
Ngài đặt bàn tay lên đầu tôi, tỏ ra rất hoan hỉ với tôi và tụng:

Xin đảnh lễ Đấng chói sáng như một viên hồng ngọc,
trong sự nở rộ của niềm hỉ lạc tuổi mười sáu.9
Chiến thắng trong trận chiến điều phục thế lực đối kháng của các ma quân,
Ngài ban tặng thành tựu bất tử.

Bà nói thêm: “Ngay cả một biểu tượng cho hình ảnh của ta cũng không được tìm thấy ở Ấn Độ hay Tây Tạng. Mặc dù vô số yogi và yogini, được ban phước bởi Đức Tara, thực sự viếng thăm cõi giới này trong các thị kiến hay trong những giấc mơ, nhưng không ai trong số đó được hội kiến ta.” Tôi sung sướng bởi những lời này.

Tôi tiếp tục tới tòa lâu đài chính rộng mênh mông. Bên trong, tôi thấy năm-lớp tường được làm bằng vỏ ốc xà cừ, vàng, san hô, ngọc lục bảo, và ngọc bích, tất cả có diềm trang trí bằng hồng ngọc. Các cột trụ được làm bằng ngọc đỏ, các đà mái chính bằng pha lê thạch anh, và rui mè làm bằng ngọc như ý. Những cửa sổ rộng và cửa sổ dưới mái ở khắp nơi để chiếu sáng bên trong. Trên đỉnh một gờ trang trí bằng vàng là một trán tường bằng san hô, nâng đỡ một mái vòm bằng lam ngọc pha màu xanh lá cây nhạt. Ở bốn hướng là các miệng máng xối với đầu makara; miệng chúng có treo những sợi dây và móc bằng ngọc trắng, vàng, đỏ, và xanh lá cây, với những chuông chùm bé tí bằng vàng phát ra những âm thanh ngọt ngào. Âm nhạc du dương vang lừng cất đi nỗi khổ của chúng sinh trong các cõi thấp. Mùi thơm ngát của hương trầm tâm thái vô lượng thoang thoảng khắp nơi.10 Đó là những phô diễn tuyệt vời của những lễ cúng dường tràn đầy từ ái không thể tưởng tượng nổi.

Giữa tòa lâu đài, trên một hoa sen ngàn cánh nhiều màu và một đĩa mặt trăng, là Đấng nương tựa duy nhất, hiện thân đích thực của lòng bi mẫn, bà mẹ siêu phàm của tất cả các Đấng Chiến Thắng trong ba thời, bà chị của chư vị Bồ Tát, là đấng mà chúng sinh trong thế giới loài người và trong những cõi trời bày tỏ lòng sùng kính bằng cách chạm đỉnh đầu họ vào lòng bàn chân Ngài – chính là Đức Tara tôn quý, vị thiên nữ sinh ra từ những giọt nước mắt của Đấng Cao Quý.11 

Thân Ngài màu xanh lá cây nhạt, chói lọi hơn một ngọn núi lam ngọc được một ngàn mặt trời chiếu sáng, tô điểm bằng những tướng hảo chính và phụ, từ đó tỏa ra vô vàn tia sáng. Đó là thân tướng của một thiếu nữ mười sáu tuổi, mặc y phục làm bằng lụa của những vị trời và trang điểm bằng những vật trang sức vô cùng quý giá gồm những viên bảo châu như ý. Tóc Ngài đen như hạt huyền, nửa mái tóc cuốn lại thành búi và nửa kia chảy xuống phủ trên vai, được bện lại bằng những dải ruy băng lụa màu xanh dương pha xanh lá cây rung rinh trong gió nhẹ. Bàn tay trái kết ấn tượng trưng cho Tam Bảo,12 Ngài cầm một nhánh hoa huệ màu xanh dương, các cánh hoa nở rộ cạnh tai Ngài. Với bàn tay phải kết ấn ban cho sự nương tựa,13 Ngài che chở chúng sinh thoát khỏi những nỗi sợ hãi vô biên của thế giới luân hồi sinh tử vô minh này. Hai chân Ngài xếp lại trong tư thế bán già của một nữ Bồ Tát.

Nhiều nữ Bồ Tát cao quý đang đi nhiễu quanh Ngài theo chiều nghịch kim đồng hồ. Trưởng lão Suryagupta ở bên phải Ngài, Bồ Tát Dawa Gyaltsan ở phía sau, thi sĩ Chandragomin ở bên trái, và Đức Dipamkara ở phía trước Ngài.14 Nói chung, có nhiều ngàn nhân vật quan trọng với đoàn tùy tùng của các Ngài và một tập hội không thể nghĩ bàn gồm hàng trăm hàng ngàn thân tướng của Đức Tara, gồm cả Tara Tiếng Gầm Sấm Sét của Rồng, Tara Năng lực Siêu Phàm, Tara Thành Tựu Tự Nhiên, Tara Vô Uý, Tara Tia Sáng, Tara Điều Phục Chúng Sinh, Tara ở Zang-yun,15 Tara Không Thể Nghĩ Bàn, Tara Phương Tiện Thiện Xảo, Tara Giác Ngộ, Tara Trung Tâm Tây Tạng, và Tara Trung Quốc. Những vị này hiển hiện rõ ràng trước mắt tôi, nhưng thân tướng các Ngài không phải là tập hợp hiện hữu nội tại của máu và thịt. Thay vào đó, đó là những thân tướng huyễn hóa của giác tánh nguyên sơ, một sự phô diễn kỳ diệu hiển lộ trong vô số phương tiện. Tôi nhận ra các Ngài trong toàn bộ sự chói ngời tinh tế, giống như những vì sao và hành tinh được phản chiếu trên đại dương bao la.

Vào lúc này, sự bám chấp của tôi vào thực tại bình phàm tự nhiên ngừng dứt. Trong một quãng thời gian ngắn, tôi kinh nghiệm một cảm thức không thể diễn bày, không tưởng tượng nổi về trật tự của vũ trụ vô hạn, một toàn cảnh rộng lớn và hoàn toàn không bị ngăn che của sự thuần tịnh không có gì để bám níu như cái gì hoàn toàn có thực. Tôi lễ lạy liên tục trong một tâm thái tin tưởng và hết sức hoan hỉ. Tiến lại gần vị thiên nữ tôn kính, tôi dâng cúng mạn đà la vũ trụ và lời cầu nguyện bảy-nhánh. Với sự khát khao mãnh liệt, tôi cầu nguyện ba Bổn tôn trông nom Xứ Tuyết.16 Đặt bàn chân Ngài lên đầu tôi, tôi hát bài ca này bằng những âm thanh ai oán:

Than ôi, than ôi, Bà Mẹ bi mẫn của các Đấng Chiến Thắng!
Đứa con gái yêu quý của Ngài lang thang trong cảnh hoang tàn của luân hồi sinh tử, 
tạo dựng bởi những tên trộm cướp là tám mươi ngàn kiểu niệm tưởng.
Cô ta đang ở thời điểm mất đi một tài sản tốt đẹp nhất là đức hạnh viên mãn. 
Xin tóm lấy cô ta với lòng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quý.
Giờ đây, khi các biểu hiện cho thấy những thời đại suy hoại này nổi cơn thịnh nộ với chúng ta,
Giáo lý của các Đấng Chiến Thắng là một mặt trời đang tiến về trú xứ của thủy thiên.17
Tập hội các thiện tri thức hộ trì Giáo lý đã khởi hành tới một cõi yên bình.
Giáo lý của Kinh điển và Mật điển bị che khuất bởi những đám mây định kiến bộ phái.
Xin tóm lấy chúng con với lòng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quý.
Nhiều chúng sinh hữu tình không có một chốn nghỉ ngơi.
Thường xuyên đau khổ bởi bệnh tật do nghiệp và những cảm xúc phiền não,
họ chịu đựng hậu quả là nỗi khổ và đau đớn không chịu đưng nổi.
Thời gian sẽ rất dài trước khi họ đi tới cõi toàn trí và giải thoát.
Xin tóm lấy họ với lòng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quý. 
Sắc màu của những tinh linh xấu ác nổi bật trên bầu trời.
Ánh sáng nhạt nhòa từ lá cờ chiến thắng của những hành giả của Pháp.
Giờ đây là lúc thế giới tràn ngập những kẻ bất tài bịp bợm tâm linh,
để các sinh loài không bị lôi kéo vào những con đường lầm lạc,
xin tóm lấy họ với lòng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quý. 
Lũ người man dã và các bộ tộc biên địa khiến Giáo lý đi tới chỗ kết thúc.
Các cuộc chiến đấu được tiến hành không ngừng nghỉ với năm thế lực xấu ác.18
Những đội quân hủy diệt của các ma vương đang ở thời điểm xâm lược.
Nếu Ngài không che chở chúng con thoát khỏi những thế lực này, thì Ngài sẽ biểu lộ trí tuệ và năng lực cho ai?
Xin tóm lấy chúng con với lòng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quý. 
Tôi thốt ra nhiều lời cầu nguyện khác, tâm tôi tràn đầy ước nguyện khát khao. Thiên nữ Tara cao quý đặt bàn tay phải, nó được đánh dấu rõ ràng bằng tướng hảo là một bánh xe như-ý,19 lên đầu tôi và trả lời:
Hãy lắng nghe, Ôi thiếu nữ đáng yêu, Chandra Tara.20
Trong quá khứ, vào lúc khởi đầu của những kiếp nguyên thủy, 
khi ta phát khởi Bồ Đề tâm tuyệt hảo,
không ai ước nguyện viên mãn Phật Quả trong một thân tướng phụ nữ.

Vì thế, ta ấp ủ nguyện ước sau:

“Tôi sẽ xuất hiện trong những thân tướng nữ nhân.
Tôi sẽ đem đại dương chúng sinh này tới giác ngộ vô thượng.
Giây phút họ nhớ tưởng ngay cả danh hiệu của tôi, 
họ sẽ được trấn an là trước tám loại sợ hãi21
và hầm hố sinh tử, họ sẽ được lưới vét tận đáy.
Cho tới khi tôi đưa họ tới Phật Quả viên mãn,
cầu mong bản thân tôi không bao giờ chứng ngộ Phật Quả.”
Với những ước nguyện này và một trăm ngàn ước nguyện khác,
tôi đã lập các lời hứa và thệ nguyện.
Và trong cõi giới này, vào thời một vị Phật nguyên thủy,
tuy thế tôi đã chỉ dạy phương cách để viên mãn Phật Quả.
Lòng bi mẫn của tôi thật lớn lao đối với tất cả chúng sinh;
hoạt động của tôi nhanh chóng, đặc biệt là đối với dân chúng Tây Tạng.
Vì thế, những người thông tuệ và may mắn,
hãy giữ gìn kỹ lưỡng mệnh lệnh sau đây của thiên nữ cao quý:
Vào thời đại ngũ trược,22 khi chỉ còn lại những dấu vết của Giáo lý, 
khi chẳng bao lâu những cuộc xâm lăng man rợ sẽ chấm dứt mọi sự,
vật chống đỡ cao quý này,23 với tánh lười nhác thực hành, bị đe dọa bởi tiếng chuông của sự vô thường.

Nếu các bạn không thấu suốt nhân và quả, hãy tham khảo Kinh điển và Mật điển để đem lại hạnh phúc và tiệt trừ đau khổ.24

Tài sản và của cải, bằng hữu và quyến thuộc, cha và mẹ không phải là nơi nương tựa.

Cái gì sẽ chu cấp nơi nương tựa? Đó là Tam Bảo không lầm lạc.

Đặc biệt, ngày và đêm liên tục trong sáu thời, 
hãy cầu nguyện ba Bổn tôn che chở Xứ Tuyết Tây Tạng.
Đức Phật Amitabha trong cõi Cực Lạc.
Đức Avalokiteshvara cao quý trong cõi Potala, 
Guru T’hod T’hreng Tzal ở tiểu lục địa Chamara,
Đức Tara cao quý trong cõi Yulokod,
và các guru gốc là tinh túy sự hợp nhất của tất cả những vị này –
đồng nhất trong bản tánh cốt tủy, chỉ khác biệt ở sự xuất hiện bên ngoài,
không có sự tách biệt hay phân chia, các Ngài ở trong một trạng thái nguyên thủy của sự bình đẳng với giác tánh nội tại của riêng các bạn,
vượt lên sự hợp nhất trong ý nghĩa thông thường của sự tụ hội và phân ly.

Hãy luôn luôn chú tâm tới đức hạnh.

Chớ lãng phí đời người này trong sự phóng dật, 
hoặc nói Pháp ngoài cửa miệng,
mà hãy chân thành tận đáy lòng các bạn,
hãy nương tựa đức tin, cái thấy thuần tịnh, lòng bi mẫn, Bồ Đề tâm,
tinh tấn, trí tuệ, chánh niệm, tỉnh giác, và tự-điều phục.

Nếu ba giai đoạn chuẩn bị, thực hành chính yếu, và sự kết thúc đều viên mãn, trái quả mục đích của các bạn sẽ chín mùi.

Đặc biệt, nếu các thần chú tinh túy của ba Bổn tôn của lòng đại bi –
các thần chú mani, siddhi, và tare – 
hoặc ngay cả một nghi thức chay nyungnay duy nhất do chính các bạn hay người khác thực hiện
sẽ giải tan hậu quả của những ác hạnh và vi phạm giới nguyện của các bạn trong bốn mươi ngàn kiếp,
thì cần gì nói tới những lợi ích và thuận lợi của việc thực hành thường xuyên?
Vì thế, hãy hành xử theo đạo đức, không lầm lạc nhân và quả.

Không nghi ngờ gì, các bạn những người may mắn, có thể cầu nguyện
sẽ không nhọc mệt hay gặp khó khăn
để đi tới cõi Yulokod sau khi chết không do dự chần chừ.
Ta thề rằng ta sẽ tới chào đón các bạn.

Các hiện thân của ta, như những thiện tri thức bình thường,
Người nam và người nữ, thú vật và chim chóc, và v.v..
mang bất kỳ hình tướng nào sẽ dẫn dắt và chăm sóc chúng sinh.
Bởi vô số người trong số họ,
có niềm tin và cái thấy thuần tịnh, và thực hiện những khẩn cầu cùng ước nguyện thiết tha.

Những lời dạy của Ngài đã gây một niềm tin và hoan hỉ vô biên trong lòng tôi, tôi liên tục cầu xin được nhận bốn quán đảnh.25 Và mặc dù tôi cảm thấy nỗi khổ khi phải xa cách Đức Tara còn đau đớn hơn nỗi khổ của các vị trời đang đọa lạc từ hạnh phúc của họ, Đức Tara nói với tôi: “Chớ buồn phiền trong lòng! Chúng ta sẽ chẳâng bao giờ xa cách trong bất kỳ cuộc đời nào. Ta ban cho con Pháp danh Rigdzin Drolma, Tara Hộ trì Giác tánh Nội tại. Hơn nữa, một thiên nữ, một hiện thân của năng lực hoạt động của ta, sẽ ở bên con trong sáu thời ngày và đêm, giống như một người đang nói chuyện với người kia.”

Tiếp tục đi, tôi tới một phòng nhỏ, ở đó tôi gặp repa Dampa Gyagar, thân ngài lực lưỡng, tóc trắng và hơi gầy, Ngài có bốn con trai và bốn con gái. Cô con gái nhỏ nhất tên là Chhang Trama nói với tôi: “Thật tuyệt vì cô đã tới tìm tôi,” và bắt đầu một vũ điệu và bài ca về Đức Tara. Cô ta tỏ ra rất quý mến tôi. Cha cô ngồi bên cạnh, cầm một bình trường thọ, cười một mình. Khi tôi xin ngài cầu nguyện cho tôi, ngài lại cười và nhìn chăm chăm, tập trung trong một lát.

Tôi rời tòa lâu đài bằng cửa phía tây. Tôi tắm trong một cái ao và uống chất cam lồ bất tử. (Nếu tôi phải tường thuật mọi điều nhìn thấy và tất cả những người tôi đã gặp ở đó, thì chắc chắn là sẽ làm đầy nhiều quyển sách, nhưng tôi không thể viết ra mọi sự.)

Ở một nơi không xa, tôi bắt gặp một cây karandatava, có gốc bằng vàng, thân bằng bạc, cành bằng ngọc bích, lá bằng hổ phách, hoa bằng hồng ngọc, và trái bằng kim cương. Đó là một cây ban-điều ước muốn và như thể che phủ mặt đất. Nó có treo những lá cờ bằng lụa nhiều màu, và những sợi dây và thòng lọng bằng ngọc có gắn những chuông chùm nhỏ bằng vàng kêu leng keng. Đậu trên ngọn cây là vua loài chim – một con chim masar, dù nó được gọi bằng một tên khác là karantava. Thân nó được tạo bằng thất bảo, và trên đỉnh đầu nó là một cái mào bằng ngọc sarvaphala. Bộ lông của nó còn đẹp hơn bộ lông công, và nó hót bằng tiếng Phạn: Sarva buddhaye eka potala yana duhkhashantim siddhiphala hoh, có thể dịch là: “Để hoàn toàn thành tựu Phật Quả, là cái gì viên mãn trong mọi phương diện, hãy đi tới cõi Potala. Cầu xin chúng sinh trong sáu cõi luân hồi được giải thoát khỏi đau khổ và cầu xin những thành tựu tâm linh tuyệt hảo được ban tặng.”

Ngồi ở gốc cây là một ông già tóc-trắng đang cầm một cái rìu. Ông ta tên là Arthachandra (Mặt trăng Hoàn thành các Mục đích). Khi tôi nghỉ ngơi ở đó và ăn trái cây hái từ cây này, người đàn ông nói to: “Đứa con trai do Đức cao quý Avalokiteshvara gởi tới, có tên là Karmasarvamangala, hiện ra từ gốc cây karandatava.” 

Vào lúc này, đàn chim bắt đầu hót lanh lảnh: “Than ôi!” Chúng vỗ đôi cánh trong khi nước mắt tuôn rơi. Vua của chúng kêu than:

Xin đừng hạ cây karandatava!
Chim karantava sẽ rơi xuống đất.
Ôi ông ơi, cầu mong ông trường thọ và thoát khỏi bệnh tật.
Tôi, con chim, sẽ đi tới Potala.

Tôi nhìn thấy những cảnh tượng người đàn ông đốn cây và con chim rơi xuống xen kẽ nhau. Tôi có nhiều thị kiến bí ẩn như thế. Sau đó một hành giả cư sĩ, được Đức Avalokiteshvara cao quý ban phước, xuất hiện và nhìn tôi trong khi tôi tụng những lời tán thán hai mươi mốt hóa thân của Đức Tara. Sau một lát ông ta nói: “Đây là những lợi ích của việc trì tụng như thế”:

Tất cả những ai trì giữ lời cầu nguyện tán thán này trong tâm
sẽ nhổ sạch mọi lỗi lầm và thiếu sót không loại trừ điều gì, 
phát triển các phẩm tính tốt giống như vầng trăng tròn,
và được một ngàn vị Phật ban phước.

Ôi kỳ diệu thay lời tán thán tối thượng này;
chỉ một lần gợi nó trong tâm
ta sẽ dứt khoát được tái sinh 
trong Cõi Cực Lạc linh thánh tuyệt hảo.

Ông cũng mô tả những lợi ích thế tục và siêu việt như chúng được giảng trong những nguồn mạch truyền thống. 

Sau đó xuất hiện một người mà trong những đời trước đã có một liên hệ samaya với Đức Vajradhara (Kim Cương Trì) và Guru Padmasambhava, và là người bảo vệ những giáo lý kho tàng ẩn dấu của Phật Pháp mênh mông và sâu xa. Sau này bà là phối ngẫu tâm linh của Đức Mila Zhadpa Dorje (vật trang sức duy nhất của dòng thực hành trong Xứ Tuyết) khi ngài ở trong vùng Núi Everest và Chhubar, và vì thế đã rút năng lực vi tế và tâm thức của ngài vào kinh mạch trung ương.26 Cuối cùng, bà là Bổn tôn bảo vệ riêng của Tulku siêu phàm Jigmed Do-ngag Tandzin (một bậc hộ trì kim cương của giác tánh nội tại) và Dechhen Dorje27 (một vương miện trong số hàng trăm trưởng lão tâm linh), xua tan các chướng ngại cho sự trường thọ của hai vị Thầy này và hướng dẫn việc phát triển những hoạt động của các ngài để làm lợi ích chúng sinh không chút phân biệt. Được biết nhiều với danh hiệu Tashi Tseringma, nữ hoàng của các thiên nữ dược sư, từ trung tâm thiền định của vị thầy cao quý của tôi, bà gọi to ba lần: “Con, con gái – Dawa Drolma! Hãy trở về cõi người!”

Khi nghe giọng nói của bà vang lên, tôi bắt đầu nhớ tới người chú tôn quý của tôi, những bằng hữu, thân quyến, và cha mẹ tôi đang ở miền T’hrom. Tâm tôi tràn ngập một nỗi khao khát lạ lùng và tôi nghĩ tới việc quay về. Và vì thế, cùng với Đức Tara Trắng đi kèm, tôi trở về trong chốc lát. Năm ngày tròn (đó là mười thời kỳ mười hai-tiếng trong ngày hay đêm) đã trôi qua trong cõi người. Khi tâm thức tôi trở về thân xác, tôi hắt hơi dữ dội. Trước hết, tôi cảm thấy hoàn toàn lạc hướng, như thể tôi vừa ngủ dậy, nhưng chẳng mấy chốc tôi bị tràn ngập bởi niềm tin và sự hỉ lạc trước những thị kiến về các cõi thuần tịnh và cảnh tượng khủng khiếp trong các thị kiến thuộc nghiệp của các địa ngục.28

Cậu Trungpa29 đứng trước mặt tôi, cầm một mũi tên có trang trí dải ruy băng trường thọ và nhìn tôi chăm chú bằng đôi mắt đỏ ngầu. Tôi không thể nói một lời, như thể tôi hơi bẽn lẽn. Tôi được tẩy tịnh theo nghi lễ với nước mưa thuốc của các nhà thấu thị30 và bằng nước được dùng trong thực hành thiền định của thiên nữ bảo hộ Vijaya.

Mọi người kêu khóc và phấn khích, nói những điều như: “Có khó khăn gì không? Hẳn là con đói lắm! Chắc con khát lắm!” Hầu như họ cố đổ đồ ăn và thức uống lên đầu tôi. Mặc dù tôi phản đối: “Tôi hoàn toàn không khó chịu bởi đói hay khát,” nhưng họ không tin tôi và cố nài: “Ăn đi! Uống đi!” Mọi người đều cảm thấy hết sức vui sướng như nỗi vui của một lạc đà mẹ tìm thấy đứa con bị lạc của nó, và cùng tham dự một bữa tiệc mừng. 

Rồi tôi nghỉ ngơi trong một hoặc hai ngày, sau đó tường thuật của tôi về các cõi thuần tịnh Potala và Yulokod và các cõi địa ngục được Tulku Gyazur ghi chép lại mà không bịa đặt hay thêm thắt điều gì. 

Thân, ngữ, và tâm bí mật của vô lượng Đấng Chiến Thắng 
được hợp nhất bất khả phân trong Đức Tara, bà mẹ của các Đấng Chiến Thắng.
Ngay khi con bị tia bi mẫn sắc nhọn của Ngài đâm trúng tim 
nó xua tan mọi bóng tối trong tâm con.

Bởi những ước nguyện trước đây của con, sau khi các cõi thuần tịnh,
đã thực sự xuất hiện rõ ràng trong tấm gương của trái tim con, 
tường thuật đúng đắn và chính xác này, không chút cường điệu hay giản lược
và không bị tổn hại bởi quỷ ma của sự bộ phái phân biệt hay ganh ghét đố kỵ,
đã xuất hiện chỉ nhờ ân phước của các Lạt ma của con.

Vì thế, nếu chúng con nhiệt thành tôn kính các bậc linh thánh đó,
là những thiện tri thức chỉ cho chúng con con đường đúng đắn,
trong mọi cuộc đời của chúng con, cầu mong các ngài ban cho chúng con những ân phước.

Sarva mangalam - cầu mong mọi sự tốt lành.

May mắn, may mắn, may mắn!

Cầu mong điều tốt lành cháy rực, và thế giới được trang hoàng.

Jayantu – cầu mong chiến thắng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Mười 2015(Xem: 9117)
Trong một cơ duyên dịch giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt ma, tôi khắc ghi lời ngài rằng, nếu không có cái nhìn tổng thể, có thể đôi khi người thực hành sẽ thấy giáo pháp, những phương pháp thực hành mà đức Phật ban có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Thực ra tất cả giáo pháp, phương pháp thực hành của đức Thế Tôn đều mang pháp vị giải thoát. Đức Phật tuyên thuyết nhiều giáo pháp ứng hợp cho căn cơ của mỗi chúng sinh.
27 Tháng Tám 2015(Xem: 17940)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác
27 Tháng Năm 2015(Xem: 12029)
Cuốn sách này gồm một hợp tuyển những tác phẩm của Longchen Rabjam (1308-1363) về Dzogpa Chenpo (S. mahasandhi, Việt : Đại Toàn Thiện). Những bản dịch có một giới thiệu chi tiết căn cứ chặt chẽ trên kinh điển và những giải thích truyền thống về phương diện bí truyền sâu xa nhất của Phật giáo.
01 Tháng Hai 2015(Xem: 15430)
Sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không nước nào khác trên thế giới có được. Vào năm 641 vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Vị công chúa này là người thông minh, có học và là một Phật tử thuần thành.