Dodrupchen Đệ Nhị Jigme Phüntsok Jungne 1824-1863

03 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 7219)

DODRUPCHEN ĐỆ NHỊ
JIGME PHÜNTSOK JUNGNE
(1824-1863)

Dodrupchen Rinpoche đệ nhị, Jigme Phüntsok Jungne, sinh trong bộ tộc Puchung thuộc dòng Mukpo Dong tại Dilsham Kathok ở đèo Thangyak trong Thing lũng Do. Thân phụ ngài là Puchung Chöphen, và thân mẫu là Apangza Tsomo.

Một hôm, khi ngài ở trong bụng mẹ, mẹ ngài lọt xuống Sông Thangyak và có nguy cơ bị chết đuối. Vào lúc đó bà nghe em bé của bà nói: “Đừng sợ, Mẹ.” Lúc ngài sinh ra có một trận mưa hoa, các cầu vồng uốn cong trên căn lều, và người ta nghe thấy âm nhạc trong không trung. Là một đứa trẻ, trong khi nô đùa ngài thường gài những cành con vào trong đá như thể vào trong bùn.

Dodrupchen đệ nhất đã tiên tri việc ngài sinh ra như hóa thân của chính ngài trong những dòng kệ sau:

Sau đời này bằng năng lực của ba thiền định

Ta sẽ sinh là Phüntsok Jungne,

Một sứ giả sẽ biểu lộ những hoạt động giác ngộ của ba thân Phật, và

Một người sáng tạo những điều huyền diệu như suối nguồn của những lợi lạc.

Việc xác nhận ngài là Dodrupchen được Sakya Kongma chứng thực và ngài được tôn phong tại Yarlung Pemakö. Thông minh khác thường, ngài tinh thông những việc nghiên cứu thông thường và phi thường không chút khó khăn. Ngài rất thiện xảo trong việc sáng tác và thi ca và viết chữ rất đẹp. Ngài được cho là đẹp trai tới nỗi người ta khó có thể tìm được sự bất toàn nào trong thân tướng của ngài.

Năm 1834 ngài tới Dzachukha và nhận những giáo lý Ngöndro, Rigdzin Düpa, và các giáo lý Dzopa Chenpo từ Jigme Gyalwe Nyuku. Jigme Gyalwe Nyuku, với nhiều món cúng dường, đã gia lực cho ngài là Vajrāchārya (Đạo sư Kim cương) Siêu việt. Năm 1844, Do Khyentse tới Yarlung Pemakö và ban cho ngài sự trao truyền tất cả những quán đảnh, Kinh điển, và những giáo huấn của Longchen Nyingthig. Ngài cũng nhận những giáo lý và trao truyền từ Dzogchen Rinpoche đệ tứ và Paltrül Rinpoche.

Từ thời thơ ấu ngài đã phô diễn vô số năng lực, khiến cho những điều kỳ diệu trở thành các hiện tượng thông thường đối với những người quanh ngài. Ngài đã nhiều lần làm hồi sinh cho những xác chết của các thú vật. Mỗi khi ngài cử hành pháp phowa (sự chuyển di tâm thức) cho người chết, những dấu hiệu được tin là những biểu thị của việc chuyển di tâm thức tới những cõi thuần tịnh luôn luôn xảy ra. Ngài có khả năng biết được quá khứ, tương lai và đọc được tâm của người khác. Trong phần sau của đời ngài, ngài ăn mặc như một cư sĩ. Mặc dù ngài cử hành những buổi lễ có tính chất tượng trưng và phô diễn những năng lực kỳ diệu, ngài từ chối ban bất kỳ giáo lý hay trao truyền chính thức nào.

Có lần, khi ngài đang du hành với một nhóm động người trong một xứ–không–người, thình lình họ bị một nhóm cướp đông đảo vây kín. Dodrupchen khẩn cầu các Hộ Pháp, ngài nói: “Nếu ngài nổi giận, xin đổ Zas [gZa][1] và những hành tinh xuống mặt đất.” Thình lình, từ trên không trung hàng trăm Zas đổ xuống quanh đám cướp. Những tên cướp xin lỗi ngài và cúng dường nhiều con ngựa. 

Một hôm, Do Khyentse giết một con cừu cái và mời Dodrupchen đệ nhị và Paltrül dùng bữa trưa. Các thị giả của Paltrül sợ rằng ngài sẽ cảm thấy rất khó chịu, bởi ngài phản đối kịch liệt việc ăn thịt và đặc biệt là giết bất kỳ sinh loài nào, ngay cả những con vật nhỏ nhất. Nhưng cả ba vị cùng ngồi trên một chiếc ghế và vui vẻ thưởng thức món thịt, trước sự ngạc nhiên của các đệ tử của Paltrül. Sau này, Paltrül nói với các đệ tử của ngài: “Làm thế nào một con cừu cái có thể được lợi lạc như thế từ xác thân của nó? Bởi những vị hộ trì trí tuệ này thưởng thức thân thể của nó, nó sẽ không còn bị những tái sinh thấp kém nữa.”

Trong rặng núi Yutse, Do Khyentse thực hiện một lễ cúng dường đốt hương trên một cái bệ. Sau đó Dodrupchen cử hành buổi lễ tương tự cũng trên chiếc bệ đó. Cuối cùng, Paltrül Rinpoche cũng thực hiện tương tự. Sau đó Paltrül nói: “Ta ước mong có thể chết trước các vị hộ trì trí tuệ, nhưng điềm này cho ta thấy Do Khyentse sẽ mất trước nhất, kế đó là Dodrupchen, và ta sẽ là người cuối cùng. Ngoài ra, bởi chúng ta đã cử hành những lễ cúng dường trên cùng một cái bệ, chúng ta sẽ được tái sinh làm những đứa con cùng cha mẹ.” Kết quả là Dodrupchen mất sớm nhất bởi những tình huống bất ngờ, nhưng tất cả các ngài đều tái sinh làm các con trai của Düdjom Lingpa.

Khi Gönpo Namgyal (?-1865), viên thủ lãnh độc ác của Tỉnh Nyak-rong, đang chuẩn bị tấn công Thung lũng Ser, ông ta viết thư cho Dodrupchen nói rằng ông sắp phá hủy Thung lũng Ser nhưng ông ta sẽ không làm hại Yarlung Pemakö, là nơi đội quân sẽ đi qua. Dodrupchen đệ nhị trả lời rằng dân chúng trong Thung lũng Ser là những người sống phụ thuộc (Lha sDe) vào ngài và nếu họ bị hại thì điều đó cũng làm hại tu viện của ngài. Viên thủ lãnh viết thư trả lời rằng khi quân đội của ông ta tới Thung lũng Ser, trước tiên ông ta sẽ hủy diệt Yarlung. Khi nghe tin này, tất cả những người sống tại Yarlung Pemakö chạy trốn, để lại nó trống không.

Bởi sự van nài của các môn đồ, Dodrupchen không có lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ Yarlung. Như vậy phù hợp với những tiên tri của các dākini, ngài di chuyển tới đồng bằng Tsangchen trong Thung lũng Do thượng. (Người ta cũng tin rằng Dodrupchen đệ nhất cũng xây dựng một địa điểm nhập thất ở cánh đồng Tsangchen trong quá khứ.) Trên cánh đồng Tsangchen có một ngọn đồi đá linh thiêng tên là Jikche Barma, Ngọn Lửa Khủng khiếp, người ta tin rằng nó là nơi trú ngụ của một nữ bảo trợ đầy năng lực. Cầm một phurbu trong tay, Dodrupchen thình lình bay vào ngọn đồi không chút chướng ngại. Bên trong ngọn đồi, ngài thuật lại, có một thị trấn đáng sợ. Trong một cung điện ở trong thị trấn, ngài được yêu cầu chia sẻ ngai tòa của vị thủ lãnh, một người đàn bà có hình tướng phẫn nộ. Theo lời khẩn cầu của ngài, bà cho phép ngài xây một gompa.

Năm 1862, ngài đặt nền móng của gompa mà nhiều thập kỷ sau này trở thành Tu viện Dodrupchen nổi tiếng. Chẳng bao lâu ngài lập Gyaza (hay Tsaza) Tamtsik là người phối ngẫu, và điều này đã chọc tức Chökor Kalzang Gelek, một vị lãnh đạo địa phương đầy năng lực, người đang hy vọng là cháu gái của mình sẽ trở thành phối ngẫu của Dodrupchen. Bởi việc này, Dodrupchen nhanh chóng khởi hành đi Tartsedo (hiện nay gọi là Kanding), để lại việc xây dựng gompa cho các đệ tử.

Ngài lưu lại và sống quanh Tartsedo như một trong những thầy giáo của vua xứ Chakla. Năm 1863, nhiều người ở Tartsedo chết trong một trận dịch đậu mùa. Dodrupchen hết sức đau buồn bởi nỗi khổ mà người dân đang phải gánh chịu trong thị trấn. Để chấm dứt đau khổ, ngài nhận bệnh dịch vào mình. Ngay khi ngài mắc bệnh, bệnh dịch chấm dứt trong thị trấn. Ngài nói: “Trong đời này, ta có rất nhiều vấn đề do các phụ nữ. Đời sau, ta sẽ tái sinh làm một người thậm chí không nhìn thấy mặt một người đàn bà.” (Tülku của ngài là Jigme Tenpe Nyima, một tu sĩ rất nghiêm ngặt.) Sau đó ngài nói: “Một yogī (hành giả) nên chết như một con chó đi lạc,” và nằm trên một đường phố ở Tartsedo, hướng đầu dốc xuống, ngài thị tịch.

Chẳng bao lâu Do Khyentse đến với con trai là Rikpe Raltri. Do Khyentse hét to trước nhục thân của Dodrupchen: “Vì sao ngài chết như một con chó đi lạc?” và ngài đá vào tử thi. Tử thi của Dodrupchen ngồi dậy trong tư thế thiền định như thể ngài còn sống và an trụ trong thiền định trong một tuần.Khi cậu bé ba tuổi Rikpe Raltri nhìn thấy xác của Dodrupchen ngồi dậy, cậu cảm thấy choáng váng, và sự choáng váng đó đã đánh thức sự chứng ngộ bản tánh tối thượng trong cậu. Từ đó trở đi, Rikpe Raltri luôn luôn nói: “Lạt ma siêu việt của ta là Dodrupchen Jigme Phüntsok Jungne.” Nhục thân của Dodrupchen được hỏa thiêu, và di cốt được mang trở về Dodrupchen Gompa và được giữ gìn trong một bảo tháp bằng vàng cho tới cuộc biến động chính trị năm 1959.

Trong số các hóa thân của Dodrupchen đệ nhị có Jigme Tenpe Nyima, Dodrupchen đệ tam, Pema Norbu Künzang Tendzin đệ nhị (1887-1932) của Tu viện Palyül, Tülku Drachen (mất năm 1959?) của Tu viện Lauthang, và Tsangpe Se Tülku của Tu viện Dzika. Cũng có một câu chuyện kể rằng Jamyang Zhepa đệ ngũ (1916-1946) của Tu viện Labrang là một hóa thân của Dodrupchen.



[1] Zas là hiện tượng huyền bí nhưng rất phổ thông ở Tây Tạng và cả ở Golok. Nó có vẻ giống như hiện tượng “đĩa bay” ở Tây phương. Không có báo cáo về nguồn gốc của họ, nhưng họ được miêu tả là những chúng sinh huyền bí có ánh sáng chói ngời. Người Tây Tạng tin rằng Zas là một trong vô số loài chúng sinh trong vũ trụ. Trong số họ có cả những bậc linh thánh lẫn những kẻ có hại..

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn