Tổ thứ mười bốn: BỒ-TÁT LONG THỌ (Nagarjuna)

24 Tháng Bảy 201409:10(Xem: 3484)
PHẬT TỔ ĐẠO ẢNH 
Hư Vân Lão Hòa Thượng kết tập 
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật

Tổ thứ mười bốn: BỒ-TÁT LONG THỌ (Nagarjuna)

 

Tổ thứ mười bốnTôn giả, Tây Thiên Trúc quốc nhân. Nhân Thập tam tổ hành hóa chí bỉ, Long Thọ xuất nghênh viết: “Thâm sơn cô tịch, long mãng sở cư; đại đức chí tôn, hà uổng thần túc?” Tổ viết: “Ngô phi chí tôn, lai phỏng hiền giả.” Long Thọ mặc niệm, Tổ tri kỳ ý. Long Thọ hối tạ, Tổ tức dữ độ thoát, cập ngũ bách long chúng câu, thọ cụ giới, phó dĩ đại pháp. Đắc pháp dĩ, hành hóa chí Nam Ấn Độ. Bỉ quốc chi nhân đa tín phúc nghiệp, Tổ vị thuyết Phật tánh nghĩa, chúng văn, tất hồi sơ tâm. Phục ư tọa, hiệnthân như mãn nguyệt luân. Chúng trung hữu Ca-na-đề-bà viết: “Thử thị Tôn giả, hiện Phật tánh thể tướng, dĩ thị ngã đẳng.” Hậu phó Pháp ư Ca-na-đề-bà dĩ, nhập nguyệt luân tam muội, quảng hiện thần biến, ngưng nhiên thị tịch.

 

Dịch :

Bồ- tát Long Thọ người Tây Thiên Trúc, nhân khi Tổ thứ mười ba (Ca-tỳ-ma-la) đến đây hoằng hóa, Ngài đến nghinh tiếp và thưa:

- Nơi núi sâu vắng vẻ, là chỗ hang động của rồng rắn, đại đức là bậc chí tôn, vậy chẳng là uổng công thần túc của Ngài sao? Tổ bảo:

- Ta chẳng phải chí tôn, ta đến là để thăm hỏi hiền giả.

Ngài Long Thọ nghĩ thầm (trong lòng). Tổ biết Ngài nghĩ gì. Ngài xin sám hối tạ tội. Tổ liền cho Ngài cùng năm trăm đồ chúng xuất gia, truyền giới cụ túc và truyền đại pháp cho Ngài. Sau khi đắc pháp Ngài liền du hóa đến Nam Ấn Độ. Dân chúng ở đây phần nhiều đều tin phước nghiệp, nên Ngài dạy về nghĩa Phật tánh, nghe xong họ đều tin theo. Thế rồi, Ngài trở lại ngay tòa hiện thân như trăng tròn. Bấy giờ, trong chúng có Ca-na-đề-bà nói: ‘Ngài hiện thể tướng của Phật tánh để chỉ dạy chúng ta’.

Về sau, Ngài phó pháp cho tôn giả Ca-na-đề-bà (Kanadeva) rồi nhập tam-muội Nguyệt luân, hiện nhiều thứ thần biến rồi an nhiên thị tịch.

 

 

Tán viết :

Phật tánh chi nghĩa 

Phi hữu vô tướng

Hiện tam muội luân

San hô nguyệt thượng

Thị khắc gia nhi 

Bất lạc thú hướng 

Yết khước song my 

Nhất chùy lưỡng đương[1]

 

Dịch :

Nghĩa của Phật tánh

Chẳng tướng có, không

Hiện trăng tam-muội

Vầng trăng san hô

Đúng nếp gia phong

Không lọt thứ bậc[2]

Đôi mày vừa nhướng

Một nhát trúng hai

 

Hoặc thuyết kệ viết :

Thiên Trúc thập tứ tổ truyền tâm 

Long cung tầm bảo thủ đại kinh 

Pháp giới vi thể vô biên tế

Hư không thị dụng hữu hà ngân 

Bao la vạn vật hàm chúng diệu

Quyển tàng nhất mật huýnh căn trần 

Hỏa trạch nguy hiểm hưu lưu luyến

Thế Tôn thọ hạ kiến minh tinh[3]

 (Tuyên Hóa Thượng Nhân tác)

 

Dịch :

Tổ thứ mười bốn được truyền tâm

Long cung tìm báu được kinh thâm

Pháp giới là thể không ngằn mé

Hư không là dụng có chi tâm

Bao la vạn tượng nhiều vi diệu

Gồm thâu yếu chỉ thoát mê lầm

Nhà lửa hiểm nguy đừng lưu luyến

Phật tọa Bồ đề thấy sao mầu

(Tuyên Hóa Thượng Nhân)

 

 

Giảng:

Tôn giả, Tây Thiên Trúc quốc nhân: Vị Tôn giả này là Bồ-tát Long Thọ (chú 1), tức Tổ thứ mười bốn của Ấn Độ, người miền Tây Ấn.

Nhân Thập tam tổ hành hóa chí bỉ: Tổ thứ mười ba giáo hóa chúng sinh, đến nước Tây Thiên Trúc. Long Thọ xuất nghênh viết: “Thâm sơn cô tịch, long mãng sở cư; đại đức chí tôn, hà uổng thần túc?”: Tôn giả Long Thọ tu hành ở nơi này, nên ra nghênh tiếp Tổ và thưa: “Chỗ này non cao, núi thẳm, vô cùng vắng vẻ và trơ trọi, là hang ổ của loài rồng và mãng xà. Thưa Đại đức! Ngài là bậc cao thượng và tôn quý rất mực, vậy chẳng hay Ngài có đi lạc lối chăng ? Bước chân thần thánh (thần túc) của Ngài đến đây chẳng là hoài công ư?”. Chữ thần túc “神足” ở đây không có nghĩa là thần túc thông.

Tổ viết: “Ngô phi chí tôn, lai phỏng hiền giả.”: Tổ thứ mười ba nói: “Ta không phải là bậc tôn quý, ta đến đây để thăm hỏi người hiền đức.” Long Thọmặc niệm: Mặc niệm tức là nói thầm trong lòng. Ngài Long thọ nói thầm, chẳng hạn như nói: “Ngài nói dối nhé! Ngài vốn là một vị Tổ sư, mà Ngài nói không phải là bậc chí tôn”. Tổ tri kỳ ý: Tổ thứ mười ba biết trong lòng Ngài nghĩ gì. 

Long Thọ hối tạ: Bởi thấy Tổ biết hết những gì mình nghĩ trong lòng nên Bồ-tát Long Thọ xin Tổ cho Ngài được sám hối tạ tội, tự nhận sự lỗi lầm, đại khái như chúng ta thường nói bằng tiếng Anh câu “I am sorry! I am very stupid!” (Con xin lỗi! Con thực ngu xuẩn!)

Tổ tức dữ độ thoát, cập ngũ bách long chúng câu, thọ cụ giới, phó dĩ Đại Pháp: Tổ thứ mười ba độ cho Ngài, rồi độ luôn cả cho năm trăm con rồng, lâu nay theo Ngài tu đạo. Tất cả đều thọ giới Cụ túc và Tổ truyền pháp tâm ấn cho Ngài (chú 2). Đắc pháp dĩ, hành hóa chí Nam Ấn Độ: Sau khi đắc pháp, Bồ-tát Long Thọ du hóa đến Nam Ấn Độ. Bỉ quốc chi nhân đa tín phúc nghiệp: Con người nơi này, phần nhiều tu phước báo của trời người, không biết cầu học Phật pháp. Họ chỉ biết gieo phước, cầu phước. Tổ vị thuyết Phật tánh nghĩa: Tổ dạy họ về Phật tánh, về nghĩa của tự tánh, gồm đầy đủ vô lượng công đức và hết thảy mọi phước báu; chúng văn, tất hồi sơ tâm: Sau khi nghe xong, mọi người đều bỏ Tiểu thừa tu theo Đại thừa và hoàn toàn thay đổi tâm cầu phước trước kia của họ.

Phục ư tọa, hiện thân như mãn nguyệt luân: Ở trên tòa, Bồ-tát Long Thọ hiện thân như mặt trăng tròn, thân Ngài sáng như ánh sáng của mặt trăng.

Chúng trung hữu Ca-na-đề-bà viết: “Thử thị Tôn giả, hiện Phật tánh thể tướng, dĩ thị ngã đẳng.”: Lúc đó, trong đại chúng có Ca-na-đề-bà, về sau là Tổ thứ mười lăm, nói rằng: “Cảnh tượng này là do Tôn giả thị hiện, hiển bày thể và tướng của Phật tánh xưa nay, nhằm giáo hóa chúng ta”.

Hậu phó Pháp ư Ca-na-đề-bà dĩ, nhập Nguyệt luân tam muội, quảng hiện thần biến, ngưng nhiên thị tịch.: Về sau Bồ-tát Long Thọ truyền pháp cho Tổ thứ mười lăm- Ca-na-đề-bà, rồi nhập định Nguyệt luân, thị hiện thần thông, sau đó an nhiên thị tịch.

 

Bài tán:

Phật tánh chi nghĩa, Phi hữu vô tướng: Phật tánh chẳng phải có, chẳng phải không.

Hiện tam muội luân, San hô nguyệt thượng: Hiện tướng tam-muội như vầng mặt trăng, trông như mặt nguyệt bằng san hô vậy.

Thị khắc gia nhi, Bất lạc thú hướng: Đúng là một bậc trượng phu con nhà Phật, chẳng theo lối nào khác, cũng chẳng lạc vào thứ bậc nào.

Yết khước song my, Nhất chùy lưỡng đương: Đôi mày ấy đều không. Đánh một tiếng kiền chùy có hai âm thanh phát ra, vậy đánh thế nào nhỉ?

 

Bài kệ:

Thiên Trúc thập tứ tổ truyền tâm: Tổ thứ mười bốn là Bồ-tát Long Thọ, người Thiên Trúc được truyền tâm ấn.

Long cung tầm bảo thủ đại kinh: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm của chúng ta chính là do Bồ-tát Long Thọ đến long cung trong biển lớn lấy đem về (chú 3).

Pháp giới vi thể vô biên tế: Bộ kinh lớn này lấy Pháp giới làm thể, không có giới hạn.

Hư không thị dụng hữu hà ngân: Lấy hư không làm dụng thì làm gì có vết tích? Dấu vết gì cũng không có!

Bao la vạn vật hàm chúng diệu: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm này bao trùm cả vạn vật, nghĩa là chứa đựng tất cả mọi thứ, không có cái gì mà không nằm trong đó, chỗ nào cũng là diệu dụng.

 Quyển tàng nhất mật huýnh căn trần: Thâu gọn lại, giấu kín tại một nơi nào bí mật, lúc đó chẳng còn sáu căn, chẳng có sáu trần, mà xa lìa tất cả!

Hỏa trạch nguy hiểm hưu lưu luyến: Ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới là một nhà lửa, rất nguy hiểm, một khi mất thân người thì vạn kiếp khó được lại.

Thế Tôn thọ hạ kiến minh tinh: Lúc xưa, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi bên cội cây bồ-đề, quyết không đứng dậy, đêm thấy sao sáng mà ngộ đạo. Chúng ta nên biết, Đức Phật Thích-ca Mâu- ni tu hành khổ hạnh thế nào mới thành Phật. Vì vậy, chúng ta tu hành cần phải có chút tinh thần khổ hạnh, phải xả bỏ hết tất cả, đừng sợ khổ. Quý vị nếu không xả được cái tử, tức không đổi được cái sanh; không xả được cái giả, tức không thể thành tựu được cái chơn; không chịu được khổ thì không thể hưởng được phước.

 

(Tuyên Công Thượng Nhân giảng ngày 20, tháng2, năm1979)

 

----------------------------------------------

Chú 1: Về nguồn gốc tên của Bồ-tát Long Thọ, trong Truyền Pháp Chánh Tông Ký có ghi như sau:

Bồ- tát Long Thọ người nước Tây Thiên Trúc, nhưng không rõ Ngài họ gì. Có thuyết nói: Ngài xuất thân từ dòng Phạm chí, rất thông minh, tài giỏi và trí tuệ siêu việt hơn người, chẳng phải là người bình thường. Lúc trẻ, Ngài đã thuộc bốn bộ kinh điển Vệ-đà, lớn lên lại giỏi về thiên văn, địa lý, lại thông hiểu nghệ thuật[4] của các dân tộc và biết những điều thần kỳ. Xưa, nước Ngài có ngọn núi cao tên là Long Thắng, giống rồng thường trú ngụ nơi này. Trên núi có nhiều cây lớn, các loài rồng thường ở dưới bóng cây. Đến khi Bồ-tát giác ngộ, muốn xuất gia, liền vào núi đó tu hành và ở bên. Về sau, khi đã thông hiểu nghĩa lý sâu xa của Tam tạng kinh điển, Ngài thuyết pháp cho loài rồng nghe, nên có hiệu là “Long Thọ”.

Chú 2: Bài kệ truyền pháp của Tổ thứ mười ba phó chúc cho Tổ thứ mười bốn thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục ghi:

Phi ẩn phi hiển pháp 

Thuyết thị chân thực tế 

Ngộ thử ẩn hiển pháp

Phi ngu diệc phi trí[5]

Dịch: 

Pháp chẳng ẩn chẳng hiện

Là bờ mé chân thật

Hiểu pháp ẩn hiện này

Chẳng ngu cũng chẳng trí

 

Chú 3Sự tích Bồ-tát Long Thọ vào long cung lấy kinh, nay căn cứ vào Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện, lược thuật như sau:

……Bồ-tát Đại Long dùng thần lực dẫn Bồ-tát Long Thọ vào long cung trong biển lớn, mở hòm bảy báu, lấy kinh Phương Đẳng Đại Thừa thậm thâm vi diệu và vô lượng diệu pháp cất giữ trong long cung trao cho Bồ-tát Long Thọ. Trong chín mươi ngày ở long cung Bồ-tát Long Thọ thông hiểu rất nhiều. Ngài lại đi sâu vào kinh tạng, lãnh hội được ý nghĩa vi diệu, được lợi ích lớn và thọ dùng vô cùng.

Long vương biết tâm niệm của Ngài, hỏi: “Ngài đọc hết kinh chưa?” Bồ-tát Long Thọ đáp: “Kinh điển trong kho tàng vô lượng vô biên, tôi không thể xem hết được, nhưng những gì tôi đã đọc thì đã vượt quá gấp mười lần kinh điển có ở Diêm-phù-đề”.

Long vương lại nói: “Kinh điển Thích-đề-hoàn-nhân cất giữ trên trời Đao-lợi nhiều hơn long cung của ta gấp trăm ngàn vạn lần; kinh điển của ta cất giữ nhất định không thể so sánh với trên ấy”. 

Sau khi tụng đọc những kinh điển này, Bồ-tát Long Thọ hoát nhiên thông suốt, hiểu rõ pháp nhất tướng, thông đạt thật tướng, thấu triệt vô sinh, đầy đủ sinh nhẫn và pháp nhẫn. Long vương biết Ngài đã ngộ đạo liền đưa Ngài rời khỏi long cung……


[1]佛性之義 非有無相 現三昧輪 珊瑚月上
是克家兒 不落趣向 揭卻雙眉 一鎚兩當

[2] Thứ bậc : Dịch từ ngữ giai thê (階梯). Hai từ ngữ giai thê và thú hướng (趣向thường được dùng để chỉ các loại thiền của giáo môn, gồm nhiều thứ bậc như tứ thiền bát định chẳng hạn. Còn như Thiền tông, thì khác hẳn, không lọt vào thứ bậc, bởi đây là pháp môn minh tâm kiến tánh – ngộ bổn tâm, thấy bổn tánh – đặt trọng tâm vào sự khế ngộ, vào tri kiến, không còn một thứ bậc nào nữa.

 

[3]天竺十四祖傳心 龍宮尋寶取大經
法界為體無邊際 虛空是用有何痕,
包羅萬物含眾妙 捲藏一密迥根塵
火宅危險休留戀 世尊樹下見明星

[4] Nghệ thuật 藝術: như văn học, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, vũ đạo, hý kịch, điện ảnh, khúc nghệ...

 

[5]非隱非顯法 說是真實際
悟此隱顯法 非愚亦非智

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Mười 2014(Xem: 8229)
...Điều cuối cùng đáng nói nữa, là chẳng có tư liệu nào là chính xác hoàn toàn, do các vị kết tập sư viết sau cả 500 năm, và cũng khó tránh khỏi sự hư cấu, thêm bớt của hàng sa-môn hậu học. Ta học Phật, tu Phật là học và tu theo giáo pháp. “Khi Như Lai diệt độ rồi thì Pháp và Luật là thầy của các ông”. Và, “Ai thấy Pháp là thấy Như Lai!” Vậy, Pháp mới là quan trọng!...
13 Tháng Mười 2014(Xem: 6605)
Phật giáo được truyền đi hai hướng: một hướng đi về phía Nam Ấn, truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, và Campuchia. Phật giáo truyền theo hướng này bằng ngôn ngữ Pali và được gọi là Phật giáo Nam Truyền. Một hướng khác đi về phía Bắc Ấn qua A Phú Hãn (Afghanistan) đến Trung Hoa. Từ Trung Hoa, Phật giáo truyền đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
26 Tháng Chín 2014(Xem: 9125)
Đức Phật - The Story of Siddhartha Gautama là một phim tài liệu của PBS thực hiện bởi nhà làm phim từng đoạt giải thưởng David Grubin và lời thuyết minh của tài tử điện ảnh Richard Gere, kể câu chuyện về cuộc đời Đức Phật... Phim nói tiếng Anh
03 Tháng Chín 2014(Xem: 11929)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự. Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
12 Tháng Tám 2014(Xem: 24299)
Đây là bộ sách nói về cuộc đời đức Phật Thích Ca từ khi ngài Đản sinh đến lúc ngài Nhập diệt, qua lối văn kể chuyện vừa “giàu tính văn chương nghệ thuật vừa đầy đủ những chi tiết khách quan và trung thực nhất về cuộc đời đức Phật”.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 6413)
Phật Tổ Đạo Ảnh, đúng theo danh xưng là một tác phẩm miêu họa pháp tướng cùng ghi chép đạo hạnh các lịch đại Tổ sư Ấn-độ và Trung Hoa, mong để lại cho kẻ tu hành đời sau những tấm gương soi, không ngoài ý nghĩa “kiến hiền tư tề”, tức nhằm mục đích khích lệ mọi người trông thấy gương các bậc thánh hiền mà khởi tâm nối gót theo .
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 5164)
Sau khi viết bài “Những chi tiết dị, đồng về đức Phật lịch sử”, BBT. Thư Viện Hoa Sen gợi ý tôi xem lại trang Wikipedia Tiếng Việt cùng một đề tài liên hệ. Xem xong, tôi nghĩ, mình không dám và cả không có khả năng thò tay vào đấy để sửa hay điều chỉnh được; vả lại đấy là công việc của các nhà nghiên cứu, họ có chuyên môn về cách làm hơn. Tôi thì xin chịu. Do vậy, tôi bèn copy lại, dựa theo trang Wikipedia ấy, rồi thêm chỗ này, bớt chỗ kia, dĩ nhiên là theo chủ quan kiến thức Phật học của mình.
16 Tháng Bảy 2014(Xem: 5936)
Sau khi bộ đại sử đức Phật Sakyā Gotama “Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt” 6 quyển, 3000 trang được in ấn và phổ biến trên các trang mạng Phật học, được đọc lại trên các trang Pháp Âm, và được độc giả đọc nhiều nhất là “thuvienhoasen.org” ở Mỹ và “quangduc.com” tức là Tu viện Quảng Đức ở Úc – tôi, tác giả, nhận được khá nhiều câu hỏi về những chi tiết lịch sử, có những dị biệt, mâu thuẫn nơi này và nơi khác.