Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đến Đời Sống Văn Hóa Vùng Quảng Nam

28 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 26441)

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÙNG QUẢNG NAM 
Thích Nữ Chúc Kim

DẪN NHẬP

Dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn đề cao tinh thần đoàn kết bền chặt, luôn tạo nên một sức mạnh có thể vượt qua tất cả những thử thách chông gai, những nỗi áp bức nặng nề. Lịch sử đất nước ta đã trải qua biết bao thăng trầm, khi cam chịu nô lệ, lúc độc lập tự chủ, khi thống nhất một dải, lúc phân đôi sơn hà. Qua đó, lịch sử cũng đã để lại những trang sử oanh liệt, hào hùng cũng như những đêm dài đen tối nô lệ hàng thế kỷ. Do đó, con người Việt Nam vừa có tinh thần độc lập, tự cường rất cao, với tinh thần đoàn kết gắn bó keo sơn nên đã giành lại đất nước, đánh tan quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Như chúng ta được biết, nước ta nằm trong khu vực thuở xa xưa đã có một nền văn minh cổ đại vững chắc, đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn đã đủ sức tạo nên một cốt lõi có sức hấp thụ, thích nghi, chuyển hóa du nhập về sau một cách nhuần nhuyễn. Đành rằng hai ba ngàn năm phải nằm ở một miền ngoại vi của nhiều nền văn minh, đành rằng chưa tự tạo nên một hệ thống triết học, một ý thức hệ tôn giáo, dân tộc Việt Nam đã có thể kết hợp những yếu tố tôn giáo nội sinh với những yếu tố kế thừa của văn minh Trung Quốc, Ấn Độ và gần đây của Châu Âu để tạo nên một bộ mặt tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam thống nhất và đa dạng.

Như vậy, Việt Nam một quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa, trong đó Phật giáo là một tôn giáo lớn đã du nhập vào Việt Nam từ rất lâu. Rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học hiện nay cho rằng Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ trước công nguyên. Mặc khác, Phật giáo đã thấm sâu vào nền văn minh Việt Nam (văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần tâm linh và văn hóa xã hội) và nền văn minh Việt Nam đã dung hóa (bản địa hóa) trở thành một bản chất và bản sắc dân tộc, phù hợp với đời sống và tâm hồn người Việt Nam.

Phật giáo truyền vào Việt Nam, đã hội nhập vào cuộc sống của con người, đã xóa tan mọi khoảng cách giữa người và thần thánh. Con người Việt Nam thường sợ thần, sợ thánh, sợ ma, sợ quỷ. Nhưng với Bụt thì không hề có một ý niệm sợ hãi, bởi vì Bụt hiền lành, bởi ông Bụt tuy có quyền năng vô hạn như có thể thấy trong truyện Tấm Cám luôn giúp cho người hiền lành, không hề có ý niệm trừng phạt ai. Và trong công cuộc xây dựng đất nước và giữ nước suốt chiều dài lịch sử, các vị thiền sư và tín đồ Phật giáo đều đã có mặt và đóng góp sự hy sinh của mình trong các cuộc đấu tranh chiến thắng quân xâm lược và sau đó xây dựng đất nước.

Cùng hòa nhịp với sự phát triển của đất nước, Phật giáo tại xứ Quảng cũng theo dòng lịch sử thăng trầm của đất nước, để rồi ngày nay vẫn đứng vững chắc và hòa quyện với dân tộc, đã góp phần vào sự phát triển của thành phố, đã hội nhập vào lòng người một cách sâu sắc với những giáo lý căn bản và cũng đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền văn hóa bản xứ.

1. Lý do chọn đề tài:

Trong công cuộc xây dựng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, xây dựng một đất nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, một nền văn hóa truyền thống và hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, giáo hội Phật giáo cũng như các tín đồ đã tích cực đóng góp theo lời kêu gọi: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối “tốt đời, đẹp đạo”. Cùng chung với những công cuộc xây dựng ấy, Phật giáo tại xứ Quảng cũng đang trên đà phát triển, những cơ sở sinh hoạt, những ngôi chùa, những cơ sở văn hóa Phật giáo, những điểm du lịch mang rõ nét văn hóa Phật giáo cũng đang được nở rộ. Vì vậy, người viết được sinh ra và lớn lên tại vùng đất này nên người viết chọn đề tài: “ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÙNG QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG” cho luận văn tốt nghiệp của mình, đồng thời từ đây, người viết mới có cơ hội tìm hiểu về văn hóa tại địa phương mình, tìm hiểu thêm về sự ảnh hưởng của Phật giáo đã đóng góp cho văn hóa bản xứ như thế nào, qua đó để biết được tầm quan trọng của Phật giáo.

Do đó, là một học viên đã biết suy nghĩ và tiếp thu ý kiến của Giáo sư, người viết thấy có nhiều vấn đề mà mình chưa hiểu và chưa được biết tường tận, nên người viết mạo muội mang khả năng và suy nghĩ khiêm tốn của mình đã học được để tìm hiểu về sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa vùng Quảng Nam Đà Nẵng.

Tuy nhiên, với khả năng hạn hẹp của mình không sao tránh khỏi những sai sót, người viết kính mong được Giáo sư và các bậc cao minh chỉ dạy thêm để sau này có dịp người viết sẽ thực hiện tốt hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài: 

Vấn đề nghiên cứu Phật giáo trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và những tác phẩm liên hệ đến Phật giáo đáng chú ý của các tác giả:Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Thanh Kiểm, Hòa thượng Thích Mật Thể, Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hòa thượng Thích Trí Quảng, các nhà nghiên cứu Lê Đình Thám, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đăng Thục, Lê Mạnh Thát, Hà Văn Tấn, TS Trần Hồng Liên, TS Phan Lạc Tuyên, GS Minh Chi, GS Trần Tuấn Mẫn cùng một số nhà nghiên cứu nước ngoài và các công trình của viện nghiên cứu Phật học.

3. Phương pháp và phương pháp luận:

Dùng để viết luận văn này là phương pháp luận khoa học lịch sử, những quan điểm của Ban Tôn Giáo chính phủ cũng như những chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước đã ghi trong bản pháp chế luật về Tôn giáo của quốc hội ban hành năm 2004. Người viết sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, đi điền dã và khai thác những tư liệu của các sách nghiên cứu.

4.Vấn đề thực hiện:

Việc thực hiện luận văn đúng theo quy định của Học viện Phật giáo Việt nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, dưới sự hướng dẫn của GSTS Phan Lạc Tuyên, Giáo viên thỉnh giảng bộ môn Văn Minh Việt Nam tại Học viện mà người viết đã được học. Khi cần thiết, người viết sẽ thỉnh giáo quý Thượng Tọa tại Học Viện.

 

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

1.1.Khái quát về địa lí nhân văn và sinh thái vùng Quảng Nam Đà Nẵng:

Sinh thái là sự tổng hợp của thiên nhiên, vũ trụ, thời tiết, gió mùa. Cái rộng lớn của biển cả, của núi rừng đã che chở cho vùng đất Quảng Nam một địa thế hùng vĩ. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi: “địa hạt tỉnh, phía đông có biển bao vòng, phía tây có núi che chở phía Nam liền tỉnh Quảng Ngãi, rừng Trí Bình giới hạn cõi bờ, phía Bắc hướng về Kinh Đô, cửa Hải Vân chen chỗ xung yếu. Núi cao thì có núi Tào, Núi Ấn, Núi Chủ, Núi Ngũ Hành Sơn. Sông lớn thì có Sông Chợ Củi (sài thị), Sông Cẩm Lệ và Sông Bến Ván (Bản Tân), ải sông hiểm trở, lao đảo xây quanh, đồng nội rộng bằng, dân cư đông đúc. Đặc điểm thì phía Tây Nam có các bảo định vàYên Sơn khống chế giặc Man mà dẹp yên biên cảnh. Phía Đông Bắc có các thành Yên Hải và Điện Hải ngăn cản giặc Tây mà giữ vững mặt biển. Cửa biển Đại Chiêm thuyền bè sum họp, chợ phố Hội An hàng hóa nhóm đầy, thực là nơi đô hội mà là một tỉnh lớn trong khu Nam trực vậy” [13,296]

Với địa hình như vậy, sinh thái đã ảnh hưởng đến con người, đến cuộc sống, đến tánh tình của người dân xứ Quảng. Được bao bọc bởi núi non biển cả, bờ biển chạy dài từ cực Bắc đến cực Nam. Sau lưng là dãy trường Sơn án ngự cả biên giới Việt Lào, núi non trùng trùng bốn phía đều là núi non biển cả.Vì thế ảnh hưởng của địa lý sinh thái đã làm cho con ngươì Quảng Nam luôn có một nghị lực phi thường một sức chịu khó. Đất Quảng Nam xưa nay vẫn để lại trong lòng nhiều người một ấn tượng không lấy gì tốt đẹp, đa số nhân dân lao động một cụôc đời lầm than khốn khổ, quanh năm suốt tháng cặm cụi cùng vạt khoai nương sắn, con người nông dân bị bao quanh bởi bốn bờ ruộng. Hơn nữa, khí hậu thêm phần khắc nghiệt, có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ ràng nói chung vùng Quảng Nam Đà Nẵng so với các vùng phía Nam thì không bằng.Tuy thế, thiên nhiên cũng đã ban tặng cho vùng đất Quảng Nam Đà Nẵng những nguồn sống khác. Biển cả đã cưu mang cho người dân có được cuộc sống ấm no hơn, núi rừng cũng thế.Với núi non biển cả như thế đã tạo cho Quảng Nam một khí hậu dễ chịu bởi gió biển, những bóng mát từ những dãy núi đồ sộ. Thiên nhiên vẫn có phần ưu ái cho vùng đất Quảng Nam nhiều thắng cảnh, những khu du lịch tự nhiên lý tưởng như Non Nước Ngũ Hành Sơn, Bà Nà núi chúa, Bán Đảo Sơn Trà v.v…(sẽ được trình bày ở phần sau). Những điều kiện ấy có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người. Nói chung Quảng Nam Đà Nẵng là một tỉnh trù phú, đồng bằng ở đây chỉ chiếm 12% diện tích toàn tỉnh, còn lại là rừng núi, nhưng so với các tỉnh khác ở miền Trung bộ ở nước ta thì đồng bằng Quảng Nam Đà Nẵng vẫn tương đối rộng lớn.

“Quảng Nam là đất quê mình

Núi đồng sông biển rành rành từ đâu

Bắc thừa thiên giáp Hải Vân

Nam thì Quảng Ngãi giáp gần núi phong

Tây thì giáp đến gần sông Buong

Rừng cao rừng thấp mấy tầng mây xanh

Đông thì biển rộng thênh thang

Đất đai trăm dặm rành rành như ghi” [4,15]

Ngày nay, với sự chuyển mình theo sự phát triển của cả nước, vùng đất Quảng Nam Đà Nẵng đã tách ra hai tỉnh thành là Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam riêng biệt. Tuy thế hai tỉnh này cũng vẫn gắn bó với nhau bởi những điều kiện thiên nhiên, bởi những bờ biển chạy dài đến vô tận.

Tóm lại, vùng sinh thái Quảng Nam Đà Nẵng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người. Với những khắc nghiệt của khí hậu, những trận bảo lụt, những tai họa của thiên nhiên đã làm cho con người của vùng đất này có một sức chịu đựng, một sự đoàn kết để chống chọi lại với những thiên tai hạn hán. Vì thế trong cuộc sống, con người phải nỗ lực làm việc, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc có thể xảy đến bất cứ lúc nào nên họ ít khi ngừng nghỉ. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi: “đàn ông thì lo cày ruộng, đàn bà chăm lo nuôi tằm, dệt lụa. Núi sông hùng vĩ, nên con người tư chất thông minh, kẻ sĩ có lòng trung trực, lời nói ngay thẳng. Tuy thế đất thì xấu, sông núi thì chảy xiết nên tính người hay nóng nảy, ít trầm tĩnh, chỉ những người học vấn uyên thâm mới không bị phong khí ràng buộc, việc qua lại thường xuyên, tình giao kết như ngày xưa và đều đặn, liên lạc, cúng tế bằng xướng ca. Đất thì xấu phong tục tiết kiệm, nhưng thật thà chất phác, phong thổ tất cả đều là như thế”.

1.2. Bối cảnh lịch sử và địa lí nhân văn:

Xét về lịch sử, tỉnh Quảng Nam được các lưu dân miền Bắc (Thanh, Nghệ, Tĩnh) vào khai phá lập nghiệp tạo thành. So với các tỉnh Nam Trung Bộ trở vào, thì Quảng Nam là đất nước Vua Lê chúa Nguyễn chú ý nhiều trong việc mở mang bờ cõi, cũng như phòng thủ kinh đô.

Ngược dòng thời gian thì Quảng Nam là quận Nhật Nam đời Hán, bị nước Lâm Ấp (chiêm thành) nhà Nhuận Hồ đánh lấy được động Chiêm, động Cổ Lũy, chia đặt thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt các chức Thăng, Hoa, An Lộ Phủ Sứ để cai trị, lại di dân đến ở. Như vậy, phần đất này tương đối mới của nước Đại Việt, vừa mới khai khẩn, dân cư mới đến lập nghiệp.

Quảng Nam, một quê hương từng là bãi chiến trường của các lực lượng giao tranh trong nhiều tháng năm, và cũng là nơi nghĩ chân của những lưu dân về miền Nam trong các giai đoạn lịch sử. Nhưng dầu cho triều đại trải qua bao nhiêu lần hưng vong, giang sơn tuy bao lần đổi chủ đất đai này cuối cùng vẫn là của người dân đất Quảng.

Kể từ đầu thế kỷ 15(năm 1403) khu vực Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa đã chính thức thông thuộc vào quyền lực nhà nước Đại Việt. Từ lãnh vực hành chính công quyền đến phương diện công pháp quốc tế, sử Trung Quốc, Việt Nam, Chiêm Thành đều cho rằng vào đầu thế kỷ 15, cả khu vực trên đã do người Việt cai quản. Năm 1403, triều đại nhà Hồ sau khi thương thảo với triều đình Chiêm Thành, họ đã thuận giao nộp cả Chiêm động (Bắc Quảng Nam), Cổ Lũy động (Nam Quảng Nam ngày nay) cho người Việt. Từ đó nhà Hồ(1400-1407) chia đất Chiêm động và Cổ Lũy thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa rồi đặt lệ Thăng Hoa thống lãnh bốn châu.

Sang giữa thế kỷ15, vua Lê Nhân Tông (1446) đã cải tổ nền hành chánh trong nước bằng cách đặt các ty sở ở các Đạo. Sau đó(1471) vua Lê Thánh Tông (Hồng Đức năm thứ 2) đã tổ chức hành chánh, tại các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đồng thời đặt làm đạo thừa tuyên Quảng Nam như các đạo đã có từ Quảng Bình trở ra. Danh xưng Quảng Nam bắt đầu có từ đó trong lịch sử mở nước của tiền nhân ta.

Năm 1471 Đạo Thừa Tuyên Quảng Nam thống lĩnh ba phủ chín huyện. Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập cho rằng đời Hồng Đức khi vẽ bản đồ Đại Việt thì Quảng Nam Thừa Tuyên sứ ty thống lĩnh ba phủ chín huyện. Như vậy khu vực đạo Thừa Tuyên Quảng Nam vào thế kỷ XV bao gồm một vùng rộng lớn từ Nam Thuận Hóa vào sát núi Thạch Bi ở Phú Yên (nay thuộ tỉnh Phú Yên). Do đó, cả khu vực từ rừng núi xuống đồng bằng và các hải đảo dọc theo lãnh thổ trên đều thuộc đạo Thừa Tuyên Quảng Nam. Sau đó (1490) đổi lại gọi là xứ Quảng Nam. Năm 1520 gọi là trấn Quảng Nam, năm 1602 (đời Gia Dũ-Nguyễn Hoàng) gọi là dinh Quảng Nam gồm cả ba phủ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và Hoài Nhơn, phía bắc là phủ Điện Bàn và chúa Tiên sai con trai thứ 6 là Nguyễn Phước Nguyên (1563-1635) vào trấn thủ vì chúa và các cận thần đều xem đây là “đất yếu hầu của Miền Thuận Quảng”. Từ đó, ông cho lập dinh trấn ở xã Cần Húc thuộc đất Duy Xuyên, huyện Điện Phước phủ Điện Bàn làm ty sở. Năm 1604 cải đặt và đổi tên các khu vực hành chánh hai xứ Thuận Hóa Quảng Nam lập ra huyện Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa (nay là các phủ Duy Xuyên) kể từ đó, dinh Quảng Nam là đất các thái tử thực sự cầm quyền ở một vùng đất mà chúa xem là quan trọng bậc nhất, như thái tử Nguyễn Phước Nguyên trấn thủ từ năm 1602-1613, sau khi kế nghiệp chúa Tiên rồi chúa Nguyễn Phước Nguyên trao dinh Quảng Nam lại cho thái tử Phước Kỳ, tiếp theo là Phước Lan… cho đến thế kỷ thứ XVIII khi vương quyền chúa Nguyễn tan rã mới chấm dứt.

Năm Tân Dậu (1801) cũng gọi là Quảng Nam Dinh đến năm 1806 Vua Gia Long đổi là Trực Lệ Quảng Nam dinh thuộc kinh sư, và đến năm 1832 đời Vua Minh Mạng thứ 13 đổi thành tỉnh Quảng Nam.

Mặc dầu trải qua bao lớp sống phế hưng, hai xứ Thuận Quảng nhân dân vẫn sung túc thanh bình.Với đất nước đó, chẳng bao lâu sau Nguyễn Hoàng (1558-1613) vào trấn thủ Thuận Hóa kiêm lãnh trấn Quảng Nam. Kể từ đó, tiền nhân ta đã lật sang một trang sử mới cho bức dư đồ Đại Việt và Quảng Nam trở thành một đơn vị hành chánh lớn của tổ quốc.

“Lịch sử mở đất phương nam của dân tộc là một quá trình dựng nước và giữ nước khởi đi từ buổi bình minh mở cõi của dân ta. Quá trình đó đã phát triển trong trường kỳ lịch sư ũdân tộc qua đời Lê – Trịnh – Nguyễn và cuối cùng là triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945). Trong chiều dài lịch sử dựng nước và mở nước, nhân dân ta đã đỗ biết bao mồ hôi, nước mắt và không ít máu đào mới có một biên cương rộng lớn như ngày hôm nay. Biên cương ấy duỗi dài vào Nam, ra biển đông, khởi nguyên từ đời nhà Hồ (1400 – 1407), qua Vua Lê chúa Nguyễn (1558 – 1788), triều Nguyễn (1809 – 1945) tiền nhân ta đã vạch lau lách, rừng bụi, núi non, bùn lầy để vươn dài lãnh thổ vào Nam, vượt trùng dương sống lớn đến quần đảo Hoàng Sa, Cù Lao Chàm … làm thành trì bảo vệ đất nước”. [28,31]

Sách Lịch Sử Việt Nam của Đào Duy Anh có ghi: “muốn gây cơ sở kinh tế cho công cuộc cát cứ, vì đất Thuận Quảng hẹp quá, chúa Nguyễn cần phải mở mang thêm bờ cõi. Bởi vậy chúa Nguyễn lại tiếp tục công cuộc Nam tiến của các triều Lý – Trần – Lê và ngay buổi đầu Nguyễn Hoàng đã lấn đất của Chiêm Thành đến Đại lãnh.

Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, sau kiêm lãnh xứ Quảng Nam, mà đất cực nam của Quảng Nam là huyện Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn tức là phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định ngày nay. Bên kia đèo Cù Mông là nước Chiêm Thành.

Năm Tân Hợi (1611) chúa Nguyễn sai chủ sự là Văn Phong đem quân vào đánh Chiêm Thành, lấy đất bên kia đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi đặt làm Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa cho Văn Phong làm lưu thủ. Đó là bước Nam Tiến đầu tiên của các chúa Nguyễn.

Chúa Nguyễn khi lâm chung dặn công tử thứ sáu (chúa Hi Tông) rằng: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Thạch Bi vững bền; núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng, nếu biết dạy dân luyện binh để chóng chọi với nhà Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời, còn nếu thế lực không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chớ đừng bỏ quên lời dạy của ta”. Xem đó ta thấy rằng chúa Nguyễn đã nuôi chí mở rộng về phía Nam, phía các triều đại trước Lê – Lý – Trần đã hướng về và chính chúa đã tiến bước năm Tân Hợi. [19,296]

Xứ Thuận Hóa và Quảng Nam là vùng đất mới chiếm lại được của nhà Mạc năm 1554, lòng dân ở đây chưa tôn phục vua Lê chúa Trịnh. Đồng thời nhà Mạc cũng cho người khuấy động cho dân chúng nổi loạn và âm mưu đánh chiếm lại. Ngoài ra, đất Thuận Quảng là vùng đất mới, rừng núi hiểm trở, sương lam chướng khí và khí hậu độc địa. Trịnh Kiểm thấy rằng: nếu Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa thì không còn sợ bị tranh quyền, lại có người tài giữ đất, không cho nhà Mạc chiếm lại, bảo vệ được mặt nam của Tây Đô, chỉ còn lo đối phó với nhà Mạc ở phía Bắc mà thôi. Vì vậy, Trịnh Kiểm dâng biểu xin vua Lê Anh Tông cử Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa và được toàn quyền quyết định mọi việc ở địa phương.

Năm Mậu Ngọ (1558) Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa Đoan Quận Công chăm lo cho dân chúng, trấn Thuận Hóa trở nên thịnh vượng, trật tự an ninh vững chắc. Vua lại cho Nguyễn Hoàng trấn thủ luôn trấn Quảng Nam, mỗi năm chỉ phải nộp thuế cho triều đình 400 cân bạc và 500 tấn lụa.

Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng cai trị nhân hậu và tài giỏi nên xứ Thuận - Quảng được thái bình và thịnh vượng; trong khi đó, các vùng đất khác đều bị nghèo nàn và loạn lạc vì cuộc chiến tranh giữa nhà Mạc ở bắc triều (Đông Đô) và vua Lê chúa Trịnh ở Nam triều (Tây Đô). Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã ca ngợi tài đức của Đoan Quận Công như sau: “Nguyễn Hoàng trị nhậm xứ Thuận – Quảng mấy chục năm, chính lệnh khoan hào, thưởng ban ân hậu, dùng pháp luật công bình, biết khuyên răn bản bộ, cấm trấp những kẻ hung ác. Dân hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam đều cảm lòng mến đức; thay đổi phong tục, chợ không nói thách, dân không trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng thuyền buôn nước ngoài đều đến buôn bán, trao đổi phải giá. Quân lệnh nghiêm cẩn, mọi người đều ra sức… từ đó, nhà Mạc không dám dòm ngó, trong cõi được yên ổn làm ăn”.

Qua những sự kiện đã nêu trên, chúng ta thấy được rằng vùng đất Quảng Nam đã được các vua chúa triều Nguyễn mở mang thêm rộng lớn. Đồng thời có một sự kiện quan trọng khác đó là Vua Trần Anh Tông gả em gái là Công Chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân, vua Chế Mân dâng hai châu là Châu Ô và Châu Lý làm sính lễ, vì vậy vùng đất Quảng Nam được mở rộng. Theo Khâm Định Việt Sử thì Châu Lý là các huyện Phú Vang, Phú Lộc (tỉnh thừa thiên) và các huyện Diên Phước, Hòa Vang (tỉnh Quảng Nam). Như vậy vùng đất Quảng Nam này có sự đóng góp của công chúa Huyền Trân. Ngày nay vùng đất này theo sự chuyển biến của xã hội đã thay da đổi thịt, trở thành một thành phố lớn thứ ba của đất nước.

Khi nói đến nhân văn là đề cập đến con người. Vùng đất này là vùng đất đầu Nam Tiến của Việt Nam, tập trung tất cả những sự kiên cường, là vùng địa lý nhân kiệt. Lịch sử Việt Nam mấy thế kỷ qua đã chứng minh đất QuảngNam đã hun đúc và sản sinh ra nhiều nhà yêu nước, những chiến sĩ cách mạng. Ngay từ khi đặt chân đến nước ta, Quảng Nam trở thành một căn cứ vững chải để tụ họp các phong trào chống Pháp và cũng là nơi cung cấp những người con ưu tú nhất để hiến dâng đời mình cho đất nước như:

Hoàng Diệu: Liệt sĩ danh tướng tự là Quang Viễn hiệu Tĩnh Trai, quê làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Phan Chu Trinh (1872 – 1926): Chí sĩ, là danh sĩ sinh ngày 9 – 9 – 1872 tự là Tử Cáo, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu là Hi Mã, quê làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Trần Cao Vân (1866 -1916): Liệt sĩ, nhà yêu nước, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Duy Tân, quê làng Tư Phú, tông Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Huỳnh Thúc Kháng (1876 – 1947): Chí sĩ, danh sĩ, sinh vào khoảng tháng 11 năm 1876. Ông họ Huỳnh, tiểu danh là Thước, trước gọi là Hanh sau đổi là Thúc Kháng tự là Giới sanh, hiệu là Minh Viên. Quê làng Thạch Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Lê Đình Thám (1877 -1969): Bác sĩ, cư sĩ Phật giáo, nhà hoạt động hòa bình, pháp danh Tâm Minh, quê làng Đông Mĩ, tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Lê Đình Dương (1893 -1919): liệt sĩ cận đại, y sĩ Đông Dương, anh ruột bác sĩ Lê Đình Thám, con thượng thư Đông Các đại học sĩ Lê Đĩnh. Quê làng Đông Mĩ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Trên đây là những người con được sinh ra từ vùng đất Quảng Nam, còn rất nhiều thiên tài được sinh ra từ vùng đất này, nhưng người viết chỉ nêu vài người mà thôi.

Sách Đất Việt Trời Nam của Thái Văn Kiểm có ghi khoa thi hội năm Mậu Tuất (1898) trong số 18 vị chiếm bảng vàng, riêng tỉnh Quảng Nam có đến 5 vị (3 tiến sĩ, 2 phó bảng) cho nên Vua Thành Thái mới ban cho mỗi vị bốn chữ: “Ngũ Phụng Tề Phi” (năm con Phụng cùng bay). Người đương thời đã tặng cho năm vị ấy “ Ngũ Hổ”.

1. Phạm Liệu ở Trừng Giang (Điện Bàn)

2. Phạm Tuấn ở Xuân Đài (Điện Bàn)

3. Phan Quang ở Phước Sơn (Quế Sơn)

4. Dương Hiển Tiến ở Cẩm Lâu (Điện Bàn)

5. Ngô Lý ở Cẩm Sa (Điện Bàn)

Ngoài Ngũ Hổ, tỉnh Quảng Nam còn có Tứ Hùng là :

1. Phạm Liệu ở Trừng Giang (Điện Bàn)

2. Huỳnh Hanh tức Huỳnh Thúc Kháng ở Thăng Bình (Tiên Phước)

3. Võ Hoành ở Nam Phước (Duy Xuyên)

4. Nguyễn Đình Hiến ở Trung Lộc (Quế Sơn)

Bốn vị này đã liên tiếp đậu thủ khoa trong các khoa thi Hương. Người đương thời đã ghép thành vần cho dễ nhớ: Nhất Liệu, Nhì Hanh, Tam Hoành, Tứ Hiến .

Ngoài Ngũ Hổ và Tứ Hùng, Quảng Nam còn có Tứ Kiệt với bốn vị phó bảng đã đổ đầu khoa thi hội năm giáp thìn (1904)

1. Nguyễn Đình Hiến ở Trung Lộc (Quế Sơn)

2. Phan Châu Trinh ở Tây Hồ (Tiên Phước)

3. Võ Vĩ ở An Phú (Thăng Bình)

4. Nguyễn Mậu Hoán ở Phú Cốc (Quế Sơn)

Chúng ta nhận thấy rằng trong các bậc túc nho hồi đó có hai nhà cách mạng lừng danh là Huỳnh Thúc Kháng và Phan Châu Trinh đã từng mở đường giải phóng và dân chủ hóa nước Việt Nam. [20,389]

1.3. Phật giáo trong quá trình lịch sử ở Quảng Nam Đà Nẵng hiện nay:

Các chúa Nguyễn ngoài việc bảo vệ và mở mang Đàng Trong thì hầu hết đều là những người phật tử mộ đạo, hộ trì cho Phật giáo phát triển ở Đàng Trong, chăm lo xây dựng, trùng tu Chùa chiền luôn tạo điều kiện thuận lợi cho chư tăng tu học yên ổn. Từ đó những di tích thắng cảnh của Phật giáo được phát triển và những di sản văn hóa, những khu du lịch sinh thái từ đó mà được khai thác và phát triển cho đến ngày nay.

1.3.1. Phố Cổ Hội An: Phố cổ Hội An trước đây đã từng là thị xã và tỉnh lị của tỉnh Quảng Nam dưới thời Pháp thuộc (1898) và cũng là thị xã và tỉnh lị của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng trong thời kỳ độc lập (1945) và sau đó là thị xã tương đương cấp huyện của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng sau khi miền nam được giải phóng (1975) và của tỉnh Quảng Nam sau khi chia tách tỉnh (1996).

Vào đầu thế kỷ thứ XIV, vùng đất thị xã Hội An ngày nay còn thuộc đất Lâm Ấp phố, một thương cảng nằm bên bờ sông chợ cũi (về sau được gọi là sông Thu Bồn), gần với biển hải khẩu Đại Chiêm (cửa đại ngày nay).

Sau khi vua ChămPa Chế mân dâng tiến hai Châu Ô, Châu Lý cho nhà Trần làm lễ vật nạp trưng để xin cưới công chúa Huyền Trân con gái thái thượng hoàng Trần Nhân Tông vào giữa năm 1306, vùng Đại Chiêm Lâm Ấp Phố đã nằm trong lãnh thổ Đại Việt.

Năm 1037 Vua Trần Anh Tông đã đặt tên cho hai châu mới đó là Thuận châu và Hóa châu. Hóa châu có huyện cực Nam là Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong mà ở đó có Lâm Ấp Phố, về sau địa danh Hội An mà người phương tây gọi là Faifoo đã thay thế cho Lâm Ấp Phố. Sau khi thuộc lãnh thổ Đại Việt, Hội An đã trở thành một đô thị thương cảng nổi tiếng ở Đàng Trong, quan hệ với đường hàng hải quốc tế từ phương tây sang phương đông, một trung tâm trung chuyển của con đương tơ lụa và gốm sứ xuyên đại dương trong những thế kỷ XVI – XVIII.

“Theo các nhà nghiên cứu, Hội An có nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử như : Hoài Phố, Hai Bô, Hổ Bi, Hai Phố, Cổ Trai, Cổ Tam”. [34,7]

Sách Kể Chuyện Đất Việt của Nguyễn Khắc Viện cũng đề cập đến những tên gọi khác nhau như : Hội Phố, Hoài Phố, Hải Phố, Hoa Phố.

Theo Sách “Ô Châu Cận Lục” do Nguyễn Văn An nhuận sắc và được in dưới thời Nam Bắc triều (1527 – 1592) vào năm 1553 đã cho thấy vào thời kỳ đó, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã Bàn Thạch, Hoài Phố, Cẩm Phố, Lai Nghi nhưng chưa thấy địa danh Hội An. Có nhà nghiên cứu đã cho rằng Hoài Phố là tên gọi của Hội An xưa. Vùng đất thị xã Hội An ngày nay từ giữa năm 1306, sau khi Công Chúa Huyền Trân trở thành hoàng hậu nước ChămPa đã thuộc lãnh thổ của Đại Việt Việt Nam.

Vào thế kỷ thứ XVI, Nguyễn Hoàng thấy đây là nơi giàu có (vàng, yến sào, quế, đường, mật ong, ruộng muối, cẩm thạch) nên mới lập thành trấn và cử con trai là Nguyễn Phước Nguyên trấn giữ, mở cửa Hội An buôn bán với bên ngoài. Người Trung Quốc và Nhật Bản đến buôn bán và thường trú ở những phố riêng. Sau đó còn có người Hòa Lan và những người phương tây khác. [36,66]

Thị xã Hộiả An là một đô thị nằm trên cửa đại, nơi con sông Thu Bồn đổ ra biển đông. Nơi đây vào thế kỷ XVI, XVII đã nổi tiếng với tên gọi Faifoo và rất quen thuộc với các thương nhân Nhật Bản, Inđônêxia, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Italia… Thời đó, thương cảng Hội An rất sầm uất bởi nó là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á. [31,445]

Như vậy, qua những dẫn chứng trên chúng ta biết được rằng trước khi phố Cổ Hội An được mang tên là Hội An thì đã có nhiều tên khác nhau như đã nói trên.

Tên gọi Hội An đã được nhắc tới trong các thư tịch cổ vào đầu thế kỷ XVII và đã phát hiện lần đầu tiên trên một văn bia dựng vào năm 1640 tại động Hoa Nghiêm của Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng.

Hội An nhờ chính sách mở cửa của thời các chúa Nguyễn mà cảng thị Hội An đã phát triển cực thịnh trong các thế kỷ XVII và XVIII và bắt đầu suy thoái vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX , để lại dấu ấn vàng son rực rỡ một thời của một đô thị cổ xưa nhất của miền trung Việt Nam. Vào thời phát đạt nhất không gian của cảng thị Hội An dọc ven hai bờ sông Thu Bồn mà ngày xưa người ta gọi đoạn sông này chảy qua Hội An là Sài Giang Thị, kéo dài từ ngã ba sông Câu Lâu – Chợ Củi ở phía tây cho đến tận Quận Đảo Cù Lao Chàm ngoài biển đông, mở rộng từ các cồn cát thuộc các xã Cẩm Châu, Cẩm Hà ở phía Bắc cho đến ngã ba sông Bà Rén – Thu Bồn và Trường Giang –Thu Bồn về phía Nam.

Từ thế kỷ XVI Đại Việt hay Việt Nam ngày xưa chia thành hai miền : miền Bắc hay Đàng Ngoài của triều đại Vua Lê chúa Trịnh và Miền Nam hay Đàng Trong thuộc quyền kiểm soát của chúa Nguyễn. Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có ý đôà thông qua việc quan hệ ngoại giao và buôn bán với người nước ngoài để mua sắm những vũ khí, đạn dược v.v… nhằm chuẩn bị cho việc chiến đấu lâu dài.

Ở phía Nam, các chúa Nguyễn đã tỏ ra cởi mở hơn trong việc quan hệ chính trị và thương mại đối với người nước ngoài nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế và xã hội, tạo nên được một sức mạnh quân sự đương đầu với chúa Trịnh ở phía Bắc. Vì vậy các tàu thuyền buôn bán của các nước Đông Nam Châu Á đã đến buôn bán ở Hội An.

Những gười đến buôn bán đầu tiên tại Hội An là người Nhật Bản. Có thể từ năm 1598, một số thương gia Nhật Bản đã đến Hội An và xin phép chúa Nguyễn lập phố và dựng Chùa. Họ cũng là người lưu trú đầu tiên sống ở Hội An và đã xây dựng ở phía Đông cảng thị này. Ở cuối phố của họ ở phía Tây, người Nhật đã xây dựng một chiếc cầu Nhật Bản hay Viễn Lai Kiều, nhưng đối với người dân địa phương thì họ vẫn gọi bằng cái tên thân mật, dân dã “Chùa Cầu”. Thật khó có thể tưởng tượng nếu Hội An không còn Chùa Cầu. Nó nằm trong tiềm thức của mọi người như vị trí Hồ Gươm của Hà Nội, cầu Tràng Tiền của Huế … ca dao địa phương có câu:

Ai xa Phố Nội, Chùa Cầu

Để thương, để nhớ, để sầu cho ai

Để sầu cho khách vãng lai

Để thương, để nhớ cho ai chịu sầu. [24,103]

“Vị trí cây cầu này nối con đường cầu Nhật Bản (sau đổi tên Cường Để và nay là Trần Phú) và Duy Tân nay đổi Nguyễn thị Minh Khai) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII và được trùng tu vào khoảng năm 1763, 1817, 1875, và 1917. Ta hãy đọc lại văn bia ghi việc trùng tu cầu do “Đinh Tường Phủ, Bá Tước Đình Khê, Đốc hộc Trực Lê, dinh Quảng Nam” soạn dưới đời Gia Long, năm 1817”. [24,104]

Người Nhật Bản bán ở Hội An những mặt hàng dùng để chế tạo vũ khí và đạn dược như Đồng, Sắt, Diêm Tiêu, Lưu Huỳnh, các mặt hàng Mỹ phẩm như Nhung, Gấm các mặt hàng tạp hóa chế tạo theo kiểu Nhật.

Bên cạnh đó, người Hoa là người thứ hai đến buôn bán tại Hội An, họ đến sau người Nhật khoảng hai mươi năm. Có thể trước năm 1618, họ được phép của chúa Nguyễn xây dựng phố khách ở bên kia cầu Nhật Bản. Tuy nhiên, trước khi phố Nhật thiết lập ở Hội An cũng đã có những thương nhân người Hoa đến buôn bán. Họ bán những mặt hàng như: dược liệu, tơ lụa, nhung gấm, nhũ sắc, dầu thơm, đồ thủy tinh, đồ pha lê, bạc, đồ sứ, lồng đèn, trái cây khô vv… Người Hà Lan buôn bán những mặt hàng: đồng, chì, kẽm, bạc nén, các loại vải quý như len dạ, nỉ đỏ, nỉ đen vv… Còn các mặt hàng xuất khẩu của Đàng Trong tại cảng thị Hội An gồm có các Lâm Sản, Trầm Hương, Tinh Dầu, Xạ Hương, Gỗ v.v… các dược liệu quế, hồi, mật ong, mật gấu, sa nhân, thảo quả v.v… các hải sản như: ngọc trai, vây cá, hải sâm, đồi mồi, cá, mực, tôm khô v.v…các nông sản như gạo, các loại đường, tiêu, thuốc lá vv…Các loại tơ tằm có thể cạnh tranh với tơ tăm Trung Hoa, các sản phẩm thủ công nghiệp đồ gốm (với men đẹp hơn của Nhật Bản) ấm trà, độc bình vv…Người ta có thể nói rằng cảnh thị Hội An là điểm trung chuyển của con đường tơ lụa và gốm sứ xuyên đại dương trong các thế kỷ XVII –XVIII giữa các nước phương Tây và phương Đông.

Theo lịch sử Trung Hoa, hoàng đế Minh Thái Tổ sáng lập nhà Minh đã thực hiện từ năm 1371 đường lối lục địa đóng cửa cấm các tàu thuyền buôn bán ở nước mình không được đi ra nước ngoài. Cho đến giữa thế kỷ thứ XVI vào năm 1567, hoàng đế Trung Hoa Minh Mục Tông đã dỡ bỏ lệnh cấm, và các thương nhân người Hoa lại ồ ạt đến Hội An”. [34,27]

Đến một thời gian sau đó, có những nguyên nhân khiến phố Nhật đã biến mất trên bản đồ cảng thị Hội An. Để chốùng lại bọn hải tặc người Tây Ban Nha và Hà Lan nên (tướng quân Tôkưgawa Ieyasu) Mạc phủ ban chiếu chỉ cấm việc xuất dương của các thương thuyền Nhật Bản nhằm tránh mọi vụ hải tặc. Đến năm 1635, Mạc phủ đã cấm các công dân Nhật Bản đi ra nước ngoài và buộc những người Nhật đang lưu trú ở hải ngoại phải hồi hương nếu không họ sẽ bị xử tội. Do đó, những người Nhật đang sống và buôn bán ở cảng thị Hội An phải trở về tổ quốc và đó là nguyên nhân của sự suy thoái Phố Nhật ở Hội An, chỉ có bốn năm gia đình người Nhật xin phép nhà đương cục Việt Nam cư trú vĩnh viễn.

Trong cuộc nội chiến vào thế kỷ XVII giữa lực lượng quân Trịnh và quân Nguyễn, cảng thị Hội An đã bị tàn phá nặng nề, vào năm 1775 sau khi chiếm được Hội An quân Trịnh đã triệt phá nhà cửa của khu vực thương mại và chỉ để lại các công trình tín ngưỡng. Tuy nhiên may mắn thay Cầu Nhật Bản, Miếu Quan Công, Chùa Phật Quan Âm, Chùa Kim Sơn, Hội Quán Thương Dương không bị tàn phá.

Khoảng năm năm sau, cảng thị Hội An dần dần hồi sinh, hoạt động thương mại được phục hồi nhưng không đạt được như mức độ trước đây. Người Việt, người Minh Hương và người Hoa đã xây dựng lại Hội An từ những đổ nát của khu phố cũ, họ xây dựng những nhà cửa mới theo kiểu kiến trúc của họ và điều đó vô tình lại xóa đi mãi mãi các dấu vết của phố Nhật trên cảng thị Hội An.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng sau khi thống nhất nước Việt Nam, hoàng đế Gia Long đã cảm thấy ý đồ bành trướng và xâm lược của các nước phương tây đối với các nước Đông Nam Châu Á. Ấn Độ đã bị Anh chinh phục năm 1819, Philippin bị Tây Ban Nha cai trị từ năm 1565, người Anh xâm chiếm Mianma năm 1826, người Hà Lan đã tiến hành công cuộc thực dân ở Inđônêxia vào năm 1799, người Pháp đã có âm mưu toan xâm chiếm Việt Nam. Vì vậy mà Vua Gia Long và những Vua kế vị Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức của Việt Nam đã thực hiện một chính sách đóng cửa không quan hệ với các nước ngoài, nhất là các nước phương tây trừ Trung Hoa. Do đó, các thương thuyền nước ngoài không đến hội An nữa, đó là lý do tiên quyết của sự suy thoái của cảng thị Hội An mà nó đã bắt đầu từ cuối thế kỷũ XVIII trước khi các con đường giao thông, đường thủy dẫn tới Hội An bị trở ngại. [34,33]

Về nghệ thuật kiến trúc của các di tích lịch sử ở đô thị cổ Hội An là sự hòa điệu của các nghệ thuật Việt Nam, Trung Hoa và Nhật Bản. Đây là kết quả của một sự hỗn dung văn hóa của các nước Đông Nam Châu Á và Viễn Đông.

“Kiến trúc hệ mái truyền thống Việt Nam của các di tích lịch sử ở đô thị Hội An đều có độ dốc mái khá thống nhất với tỷ lệ 5/10 tức là 50%. Trong khi đó Chùa Cầu hay Lai Viễn Kiều do người Nhật thiết kế trước đây và được các nghệ nhân Việt Nam thi công lại có hệ mái với độ dốc khá nhỏ, gần như nằm ngang. Đó là một đặc điểm kiến trúc ít gặp thấy ở các nước Đông Nam Châu Á nhưng phổ biến ở vùng Viễn Đông, điều đó làm cho di tích cổ mang sắc thái kiến trúc Nhật Bản. Điều này đã làm cho không một ai có thể phủ nhận được sự có mặt của nền văn hóa Nhật Bản đã cấy trồng ở Hội An trong quá khứ. Song mái cầu Hội An đã kết hợp một cách hài hòa với những bộ phận khác còn lại của công trình làm cho chiếc cầu mang một vẻ đẹp riêng nhưng gần gũi. Cấu trúc của bộ khung và độ cong thoải mái của nền cầu bằng gỗ là điểm gặp gỡ giao duyên của hai nền nghệ thuật, kiến trúc Việt Nam, Nhật Bản”. [34,41]

Hội họa dân gian ở đô thị cổ Hội An thể hiện phổ biến dưới hình thức tranh vẽ trang trí nội thất với những bức tứ bình, tứ quý, các tranh phong cảnh, sơn thủy, chim thú bằng chất màu tươi sáng và các bức chân dung thờ bằng mực Tàu trên giấy đỏ mang dáng dấp Trung Hoa, có sức thấm đọng sâu sắc vào lòng người. Các bức tượng Phật lớn nhỏ, các vị thần trong các công trình tín ngưỡng, dù đứng riêng lẻ hay trong một tập thể đều là những công trình nghệ thuật tạc tượng độc đáo, gây được những ấn tượng thẩm mỹ mạnh mẽ.

Nói tóm lại, đô thị Hội An trải qua nhiều thế kỷ, qua nhiều chuyển biến vẫn mang trong lòng mình những kiến trúc, những cách trang trí và vẻ đẹp cổ xưa trong mọi di tích lịch sử được thể hiện hài hòa của nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau, từ đó tạo ra một phong cách riêng của Hội An. Đây là sự tổng hòa của quá trình hội nhập, thẩm thấu, dung hóa một cách chọn lọc các yếu tố văn hóa ngoại lai, một sự giao lưu và kết hợp giữa nền văn hóa dân tộc với nền văn hóa của thế giới ở khu vực Đông Nam Châu Á và Viễn Đông. Những di tích kiến trúc đã hội tụ, tổng hòa được các yếu tố của nền nghệ thuật truyền thống được làm phong phú thêm nhờ những yếu tố nghệ thuật nước ngoài, đa dạng về chủng loại, phong phú về đồ án, điêu luyện về đường nét. Tuy nhiên trong quá trình dung hóa văn hóa bên ngoài đó, phong cách Hội An vẫn truyền thống và bảo tồn được vững chắc các nền tảng truyền thống bản sắc độc đáo và sâu sắc của dân tộc. Vì vậy mà tạo nên được sự hài hòa và tính chất riêng của Hội An.

Ngày qua ngày, những người dân Hội An cảm nhận thêm rằng quê hương mình là một bộ phận sáng ngời của di sản văn hóa Châu Á và có thể là toàn thể nhân loại, đã được các nhà khảo cổ học trên thế giới hết sức trân trọng. Chính vì vậy mà giáo sư người Pháp Denys Lombas đã phát biểu: “Kiểu mẫu tiêu biểu của thành phố thương mại ở Việt Nam, ở Đông Nam Châu Á có thể chỉ ra là Hội An” [34,46]

Đô thị cổ Hội An, thành phố quê hương muôn vàn yêu dấu, đã ra đời trong thời gian và không gian lịch sử của thời kỳ của Trung Đại Việt Nam, tồn tại qua các thế kỷ và các thế hệ, rực rỡ trong phát triển, huy hoàng trong chín muồi, vàng son trong phồn thịnh, chìm đắm trong suy thoái, quằn quại trong chiến tranh để rồi lại hồi sinh mãnh liệt hơn bao giờ hết trong hòa bình với sự cuốn hút mới, không phải bằng một nền ngoại thương phong phú hàng hóa như xưa mà bằng một nền du lịch đầy sức hấp dẫn nhờ một quần thể kiến trúc cổ kính tuyệt vời của nền văn hóa với phong cách một không hai và đô thị cổ Hội An vẫn sống, vẫn duy trì sự tồn tại hiếm thấy của mình như một bảo tàng sống, vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa độc đáo của mình, vẫn bảo tồn được các phong tục, tập quán riêng biệt của mình qua bao thế hệ. Những ngôi nhà cổ sẽ giảm đi giá trị nếu như vắng bóng các chủ nhân đang sống hằng ngày ở đó để giữ gìn chúng. Cuộc sống ở đây thiêng về nội tâm, phảng phất nét trầm lắng. Sự ngưng đọng trong các đình chùa, các nhà thờ tộc, các hội quán, các nhà hình ống, các đường phố nhỏ hẹp như gợi nhớ những quá khứ vàng son, như lắng nghe tiếng nói của tiền nhân thầm thì trong các di tích, như ôm ấp bước chân thăng trầm qua các thời đại. Đô thị của họ vẫn giữ được tính cách riêng biệt, lối sinh hoạt lịch lãm, cách ứng xử ân tình của mình. Môi trường ở đây không bị chèn ép bởi các hoạt động công nghiệp náo nhiệt, bởi các phương tiện giao thông ồn ào, bụi bặm mà được trả về cái yên tĩnh, vỗ về cái êm đềm ấp ủ, cái lắng động trong chiều sâu tâm hồn để mà hoài niệm, để mà suy ngẫm, để mà chiêm ngưỡng, để mà nhớ thương.

Hội An Phố Cổ êm đềm

Xa người ta nhớ ngày đêm hỡi người

Phố xưa ai nhớ nụ cười

Cho lòng rạo rực bóng người không nguôi

(thơ Nguyễn Phước Tương)

Ngay từ ngày xưa, giáo sĩ Cristoforo Borri đã từng đến Hội An nhiều lần từ 1618 cũng đã nhận thấy được bản chất tốt đẹp của người dân Hội An, người dân Đàng Trong của Đại Việt, ông đã viết trong nhật ký của mình: “Bản năng tự nhiên của họ là tử tế, ưa làm việc thiện, nhất là đối với người nghèo khi kêu gọi giúp đỡ, nếu từ chối họ sẽ bị coi là thiếu bổn phận như pháp lệnh buộc họ phải làm như vậy. Người Hội An có sự hòa hợp hoàn hảo, họ cư xử thân tình như anh em một nhà cả trước khi họ quen biết nhau” [34,50]

Một thương gia khó tính người Pháp Pierre Poivre đã từng đến Hội An và Huế từ cuối năm 1794 đầu năm 1750 cũng đã từng nhận xét tương tự về người Hội An: “Người Hội An dũng cảm, cần cù, bản tính giản dị, thẳng thắn, tôn trọng sự thật, họ nghèo, ít học nhưng lịch thiệp, đặc biệt đối với người nước ngoài”. [34,50]

Ngày nay, khu phố cổ Hội An từng ngày đón một lượng khách du lịch đáng kể bởi do giá trị văn hóa nghệ thuật của các di tích lịch sử, kết hợp với các hoạt động văn hóa độc đáo và sự hiếu khách của nhân dân Hội An mà đô thị cổ đón khách càng ngày càng đông hơn, đặc biệt là khách nước ngoài. Hơn nữa nhờ sự quyết tâm của chính quyền và sự đồng tình chấp hành của nhân dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của thị ủy Hội An mà các công tác quản lý, bảo tồn, trùng tu các di tích cũng như các hoạt động nghiên cứu khảo cổ, điều tra đã được tiến hành và khai triển có hiệu quả. Bởi vậy mà Ủy Ban Di Sản Thế Giới của tổ chức giáo dục khoa học văn hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO trong phiên họp toàn thể lần thứ 23 từ ngày 29.11 đến ngày 5.11.1999 tại thành phố Marrakech vương quốc Marốc, vào ngày 4.12.1999 đã công nhận đô thị cổ Hội An là di sản thế giới.

1.3.2. Khái quát cảnh quan sinh thái về Thành phố Đà Nẵng:

Thành phố Đà Nẵng được thành lập từ năm 1888. từ xa xưa đã là hải cảng quan trọng của Việt Nam, nay là một trung tâm kinh tế văn hóa, lịch sử một thành phố lớn nhất miền Trung. Đà Nẵng không những gắn bó mật thiết với Quảng Nam mà còn với cả miền Trung, Tây Nguyên, Nam Lào và đông bắc Campuchia.

Ngày 1.1.1997 Thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc trung ương cùng với Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng là một trong bốn thành phố lớn nhất Việt Nam. Với diện tích 942,45km2, dân số tính đến năm 2002 là 741.413 người, hiện nay Đà Nẵng có bảy đơn vị hành chánh là; Quận Hải Châu, Quận Thanh Khê, Quận Liên Chiểu, Quận Sơn Trà, Quận Ngũ hành Sơn, Huyện Hòa Vang, Huyện Đảo Hoàng Sa. [22,122]

Theo Cẩm Nang Du Lịch của Phạm Côn Sơn, Thành Phố Đà Nẵng về hành chính trực thuộc trung ương, diện tích 1.256,2 km2, có địa hình khá đa dạng. Phía Bắc giáp Thừa Thiên Huế, Nam và Tây giáp Quảng Nam, phía đông là biển, một bên là đèo Hải Vân cùng những dãy núi cao, một bên là Bán đảo Sơn Trà hoang sơ nhưng có những bãi biển tắm tuyệt đẹp. Ngoài xa khơi là quần đảo Hoàng Sa với ngư trường rộng lớn.

Vào thế kỷ thứ XVI, chúa Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để tránh việc bị Trịnh Kiểm giết hại. Khi vượt đèo Hải Vân tiến xuống Đà Nẵng – Quảng Nam, các chúa Nguyễn đã thấy được Hội An là chỗ thuận tiện cho việc buôn bán, trao đổi với thuyền buôn nước ngoài. Từ đây, thuyền buôn nước ngoài ồ ạt đến Hội An và quân đội nhà Nguyễn cũng ngày càng hùng mạnh nhờ mua được vũ khí dễ dàng. Trong khi Hội An đang nhộn nhịp tưng bừng, trong cảnh náo nhiệt ấy, Đà Nẵng đã lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ như một địa danh có vị thế. Để vào cảng thị Hội An, các tàu buôn thường đi thẳng vào sông Thu Bồn. Nhưng sau này do quá đông đúc, nhiều tàu lớn tìm đường đi vòng vào vịnh Đà Nẵng và từ đây Đà Nẵng đã trở thành một tiền cảng vào những thời kỳ sầm uất nhất của Hội An.

Những năm cuối thế kỷ XVIII, khi nhà Tây Sơn đã toàn thắng và bình định đất nước thì Đà Nẵng đã nổi lên như một đô thị quan trọng và náo nhiệt. Những người Anh khi đến đây đã thấy trong các công quán có nhiều vải lụa, hàng hóa Châu Âu. Một nhân viên trong sứ đoàn Anh Quốc trên đường đi Trung Hoa có ghé Đà Nẵng năm 1793 đã mô tả vịnh Đà Nẵng là nơi mà người ta có thể cho thuyền chạy khắp bờ biển mà không gặp tai nạn, đáy biển sâu từ 17-20 sải, vịnh Đà Nẵng xứng đáng mang danh là cảng lớn mà vững chắc nhất được thấy (trong khu vực mà xứ đoàn đi qua). Nó rất sâu cho nên khi cần thiết phải di chuyển các tàu bè vẫn yên ổn dù gió to bão lớn. Đáy biển đầy bùn nên neo rất bám. [15,23]

Theo đà phát triển của xã hội, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà Nước, cùng với sự lãnh đạo của các cấp Chính Quyền, với sự nhiệt tâm và đồng lòng của người dân Đà Nẵng mà hôm nay Thành Phố Đà Nẵng đã thay da đổi thịt, đã vươn lên để bắt kịp với những thành phố khác. Những con đường được mở rộng và khang trang, với hệ thống thắp sáng thuận tiện, với sự mở rộng của thành phố đã làm thêm những chiếc cầu để thuận tiện cho việc sinh hoạt của dân. Cầu Sông Hàn, một chiếc cầu đẹp nổi tiếng, có hệ thống trục quay, đây là hệ thống trục quay đầu tiên tại Việt Nam. Chiếc cầu được bắt từ đường Trần Phú qua đến đường Ngô Quyền, nối hai quận Hải Châu và Sơn Trà rất thuận lợi cho việc đi lại buôn bán, sinh hoạt của người dân. Cầu Tuyên Sơn mới được thành lập nối quận Ngũ Hành Sơn với quận Hải Châu làm cho sự đi lại và sinh hoạt của hai quận này càng gần nhau hơn. Thêm nữa, một dự án đang được thi công đó là cầu Thuận Phước, được bắt từ Quận Hải Châu qua đến cảng Tiên Sa, chiếc cầu này rất dài, quy mô lớn, hiện nay đang được tiến hành đã được mấy trụ.

Nhà ở của dân được nhà nước di dời và đưa về thành những khu phố văn hóa rất khang trang, ngay ngắn làm cho thành phố thêm đẹp hơn. Hiện nay thành phố Đà Nẵng đang được công nhận là đô thị loại một. Nói chung người dân thành phố Đà Nẵng đang trên đà hoàn thiện và thực hiện một nếp sống văn minh hơn.

Đà Nẵnghôm nay được sáng lên với những khu du lịch sinh thái, những bãi tắm đẹp, những khu nghỉ mát lý tưởng như khu du lịch Bà Nà, bán đảo Sơn Trà… Bây giờ người viết muốn trình bày sơ qua và giới thiệu những điểm du lịch này.

Khu du lịch sinh thái Bà Nà Núi Chúa:

Câu nói nổi tiếng rằng “Đà Nẵng là một Việt Nam thu nhỏ” sẽ có thể bị coi là không chính xác nếu như ở Đà Nẵng không có Bà Nà, một dãy núi nhấp nhô cao vút với những cánh rừng nguyên sinh, suối thác và những huyền thoại xa xưa. Bà Nà uy nghi kề vai với các ngọn núi của Trường Sơn, thanh thản nhìn xuống thành phố cảng nhộn nhịp ngay dưới chân mình.

Núi Bà Nà cách trung tâm thành phố Đà Năng 48 km về phía tây, đỉnh nằm trên độ cao 1487m so với mặt nước biển, khí hậu dịu mát quanh năm (nhiệt độ trung bình năm 17 0c - 20 0c. Vào năm 1894 tức là chỉ với có mười năm sau khi thiết lập bộ máy đô hộ trên đất Việt Nam, viên toàn quyền Pháp Doumer đã nghĩ đến việc xây dựng những khu nghỉ mát dưỡng sức cho các nhân viên dân sự và sĩ quan Pháp. Ở phía Bắc người ta tìm thấy Sapa và Tam Đảo, phía Nam người ta tìm ra Đà Lạt những nơi lý tưởng để nghỉ mát. Còn ở miền Trung, dưới sự phụ trách của viên đại úy pháo binh tên là Debay trong nhiều năm liền trèo đèo vượt suối, từ Thừa Thiên Huế cho đến Quảng Nam, Quảng Ngãi. Mãi cho đến đầu năm 1901 họ mới tìm thấy Bà Nà là địa điểm tốt nhất trong mấy chục ngọn núi ở sườn đông dãy Trường Sơn.

Năm 1919, con đường lên đỉnh Bà Nà được khởi công và từ đây những ngôi biệt thự tư nhân, khách sạn liên tục mọc lên.

Năm 1922, Ty Lục lộ Đà Nẵng bắt đầu được lệnh thiết kế và sửa sang đường xe hơi từ chân núi lên đỉnh và các đường lưu thông khác giữa các đỉnh núi với nhau.

Năm 1923 – 1945 Bà Nà đã thực sự trở thành một khu nghỉ mát của các viên chức cai trị cao cấp. Sau năm 1945 cách mạng tháng tám thành công, Pháp rút khỏi Đông Dương, Bà Nà vắng bóng người. Lúc Pháp lâm le tái chiếm Việt Nam, để ngăn chặn ý đồ và không cho chúng lợi dụng vị trí Bà Nà nằm sâu trong lòng hậu phương của ta, nhân dân đã quyết tâm triệt hạ Bà Nà theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến. Từ đây khu nghỉ mát này trở thành một bình địa hoang tàn, tiêu điều chìm mất dần trong rừng cây phủ kín.

Năm 1992 công ty dịch vụ Đà Nãng dự án khôi phục lại khu nghỉ mát Bà Nà nhưng bất thành vì không có kinh phí đầu tư.

Tháng 4 -1997 sở du lịch Đà Nẵng trình dự án khác với số vốn đầu tư dự kiến gần 60 triệu USD .

Tháng 10 – 1997 Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố chính thức ký quyết định số 3754 phê duyệt dự án đầu tư tuyến đường lên khu nghỉ mát Bà Nà. Như vậy sau gần 100 năm được phát hiện, Bà Nà mới chính thức có chủ trương hoàn thiện từng bước cơ sở hạ tầng tiến đến khai thái tiềm năng du lịch trọn vẹn nhất.

Tháng 9 -1998 chính thức khai trương khu du lịch này. Từ đây, đỉnh núi Bà Nà trở thành khu du lịch thu hút một số lượng du khách khổng lồ từ mọi miền đất nước. Với một địa hình bằng phẳng như một cao nguyên nhỏ, Bà Nà có những cánh rừng nguyên sinh đại ngàn, hệ động thực vật phong phú đa dạng, là nơi nghỉ mát lý tưởng. Vào những lúc trời quang mây tạnh, từ trên đỉnh núi du khách có thể phóng tầm nhìn bao quát cả một vùng không gian rộng lớn. Thành phố Đà Nẵng, thấy từ chân đèo Hải Vân đến Bán Đảo Sơn Trà, sông Thu Bồn uốn quanh ôm lấy những cánh đồng trù phú, những bãi biển Mỹ Khê, Bắc MỹAn, Non Nước Ngũ Hành, tất cả cảnh thiên nhiên như một bức tranh sống động hiếm nơi nào có được.

Trên đỉnh núi, được sự cho phép của Chủ Tịch Thành Phố, được sự ủng hộ của các cấp chính quyền mà Thượng Toạ Thích Thiện Nguyện đã khai sơn một ngôi chùa tại khu du lịch này, với tên gọi là Chùa Linh Ứng Bà Nà, thu hút rất nhiều khách thập phương vào lễ Phật, viếng chùa, tạo điều kiện cho tôn giáo được truyền bá rộng rãi, ấy là nhờ sự quan tâm giúp đỡ của nhà nước.

Ngũ Hành Sơn Non Nước:

Cách thành phố Đà Nẵng khoảng 8km về phía Đông Nam, bên bờ biển Đông và dòng sông Trường Giang. Năm ngọn núi cao ngạo nghễ đứng giữa trời mây, mỗi ngọn một dáng vẻ rất ấn tượng. Núi gần biển và sông nên người dân thường gọi là Hòn Non Nước (sẽ được trình bày ở phần sau)

Bán đảo Sơn Trà:

Tại Thành phố Đà Nẵng có một miền đất vừa rất gần và vừa rất xa, vừa thân quen và vừa cách trở, đó là Bán Đảo Sơn Trà, một vùng đất thấp phủ kín vùng nguyên sinh nhô hẳn ra ngoài biển. Đây là tấm lá chắn khổng lồ, là luồng phổi xanh của khu đô thị trung tâm, đối diện bên kia là Hải Vân, hai vùng núi này quay vùng cửa Sông Hàn thành một vùng biển vừa rộng vừa kín đáo. Đứng ở bất kỳ chổ nào trên đất Đà Nẵng cũng nhìn thấy được những mái rừng xanh thẳm nhấp nhô của bán đảo Sơn Trà. Tuy gần gũi và thân quen như thế, nhưng cũng có rất nhiều người chưa từng biết và đặt chân dù một lần trên mõm núi này.

Thực ra hàng chục ngàn năm trước, đây là một hòn đảo bốn bề nước biển vây quanh, nhưng rồi phù sa từ các cửa sông đổ ra đã tạo thành dải đất nối Sơn Trà với đất liền. Là các ngọn núi vươn ra biển, lại nằm ở khúc lồi nhất của vòng cung bờ biển Tổ Quốc; cũng từ trên đỉnh Sơn Trà ta có thể nhìn thẳng ra tới Trường Sa bao quát toàn bộVịnh biển Đà Nẵng Thành Phố, Sông Hàn, Hải Vân, Ngũ Hành Sơn… cũng chính vì thế, ngay từ đầu thế kỷ thứ XIX các ông Vua nhà Nguyễn đã cho lập các đồn phòng thủ, đồn quan sát tiền tiêu ở đây. Năm 1858, chính Sơn Trà là nơi hạm đội liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã tấn công mở màn cho kế hoạch xâm lược Việt Nam.

Thực dân Pháp sau khi chiếm đóng Đà Nẵng đã xây dựng trên Sơn Trà những lô cốt, đồn an trú án ngữ con đường biển đi vào vịnh cảng, xây những đài quan trắc Rađa từng giờ từng phút quét đôi mắt thần kiểm soát mặt nước biển đông, kiểm soát vùng trời miền Trung, dẫn đường bay cho các hành lang hàng không quốc tế bay qua không phận Đà Nẵng. Nhìn lên đỉnh Sơn Trà, chúng ta sẽ thấy ba quả cầu trám màu trắng đục trong như các quả bóng Golf, đó chính là các trạm Rađa quan trắc.

Với dáng vẻ trữ tình, bán đảo Sơn Trà luôn gây ấn tượng hiền hòa phóng khoáng và thoải mái cho khách nhàn du. Người ta luôn có cảm giác an lành, thư thái trước cảnh trời nước mênh mong, cảnh sắc hài hòa hữu tình cùng với những luồng gió lộng từ ngàn khơi làm cho khách du lịch được sảng khoái hơn. Bán đảo Sơn Trà có hình dáng như một bức bình phong vươn ra biển khơi che chắn gió cho thành phố Đà Nẵng, giữ cho thành phố Đà Nẵng được yên ổn luôn với thời gian.

Ngày nay, cùng hòa nhịp với nhịp phát triển của thành phố, bán Đảo Sơn Trà cũng đang chuyển mình với những bãi du lịch sinh thái hấp dẫn như phía bắc có bãi Tiên Sa, Bãi Bắc; phía nam có Bãi Bụt, Bãi Xếp, Bãi Rạng, Bãi Nam…thu hút một lượng đồ sộ khách du lịch không ngớt đổ sô về đây. Điểm nổi bật ở đây người viết muốn nói đến là dù thành phố phát triển đến đâu thì luôn tạo điều kiện cho tôn giáo (Phật Giáo) cũng phát triển đến đó. Bãi Bụt hiện nay cũng đang được sự cho phép của các cấp chính quyền, luôn tạo điều kiện cho Thượng tọa Thích Thiện Nguyện được khai sơn và đang thi công ngôi chùa mang tên Linh Ứng Bãi Bụt tại khu du lịch này. Ngôi chùa Linh Ứng này là tên gọi thứ ba trong thành phố Đà Nẵng đó là: Linh Ứng Non Nước, Linh Ứng Bà Nà và đây là Linh Ứng Bãi Bụt. Như vậy Phật giáo tại thành phố Đà Nẵng cũng đang trên đà đi lên theo nhịp bước của thành phố.

Đèo Hải Vân:

Cho đến ngày nay, tất cả các thành phố trên đất Việt Nam, chưa đâu có Khải Hoàn Môn. Thế nhưng thành phố Đà Nẵng non trẻ từ mấy thế kỷ nay đã có cho mình một Khải Hoàn Môn hùng vĩ trấn ngự ngay cửa ngõ đầu tiên bước vào thành phố Khải Hoàn Môn bằng đá gạch cổ kính uy nghi này chính là Hải Vân Quan trên đỉnh đèo Hải Vân, nơi đã được Vua Lê Thánh Tông đặt cho tuyệt danh là “ Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. [15,61]

Đèo nằm sát cạnh thành phố Đà Nẵng, giúp cho thành phố biển giữa hai miền đất nước này thêm vẽ kỳ quan ngoạn mục, đỉnh đèo xưa kia là một quan ải có đồn canh gác giữ ranh giới hai nước Việt Nam và Chiêm Thành, nay còn di tích Hải Vân Quan và là ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và Thành Phố Đà Nẵng.

Đèo Hải Vân có chiều dài khoảng 20 km, kéo dài từ địa phận Thừa Thiên Huế đến Thành Phố Đà Nẵng. Đây là một bức tường thành thiên nhiên quan trọng ngăn các đợt gió mạnh từ phương bắc tràn về. Vì vậy, các tỉnh từ Đà Nẵng, Quảng Nam trở vào hầu như quanh năm ấm áp và không có mùa đông như các miền ở phía Bắc. Dãy núi này không chỉ là ranh giới phân chia hành chánh mà nó còn là ranh giới phân chia hai vùng khí hậu khác hẳn nhau ở Việt Nam. Vì vậy Tản Đà có viết:

“Hải Vân đèo lớn vừa qua

Mưa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè”

Như vậy, Hải Vân là một bức bình phong thiên nhiên khổng lồ che chở cho Tthành phố Đà Nẵng nằm ngay dưới chân mình. Ngăn che những luồng gió mùa đông bắc mang cái rét thổi vào đồng ruộng và những đợt gió lào thổi sang. Vì vậy, đèo Hải Vân đã giữ cho Đà Nẵng được yên lành, một cuộc sống êm đềm ít bị bão lụt.

Trong thời kháng chiến chống pháp của nhân dân ta, quân Pháp rất lo ngại đường đèo này vì thường bị tấn công bất ngờ mà lần nào cũng bị tiêu hao lớn, thiệt hại nặng nề. Người dân Quảng Đà có câu:

Hải Vân cao ngất tầng mây

Giặc đi đến đó bỏ thây không về.

Vào thế kỷ thứ XVIII, danh sĩ Ngô Thì Chí đã ghi nhận vẽ hùng vĩ của Hải Vân: “Ngọn núi này khí át sông ngăn, thế nuốt biển, tầng đá chập chùng khó vịn, cây cối sum sê rợp bóng, sóng vỗ ầm ầm như vang lên tiếng sóng vang trời, suối chảy rào rào như mưa tuôn nước từ lưng chừng trời đi xuống.”

Đèo Hải Vân ngày nay và mai sau càng thêm khởi sắc, đường hầm xuyên sơn đã thông nhau hai phía Bắc Nam. Khi đường này thông xe vào khoảng 2005, thành phố Đà Nẵng sẽ thêm phần sinh động. Các hoạt động du lịch sẽ thuận lợi, hào hứng thêm do những điều kiện đi lại dễ dàng, nhanh chóng hơn.

1.3.3. Non nước Ngũ Hành một phong cảnh kỳ ảo và độc đáo:

Cách thành phố Đà Nẵng 8km về hướng Đông Nam và vượt qua con sông Trường Giang, người ta thấy mọc lên trên bãi cát trắng mênh mông gần bờ biển Tiên Chà những hòn núi tuy không cao nhưng có vẽ đặc sắc kỳ lạ đó là Ngũ Hành Sơn.

Cảnh trí nào hơn cảnh trí này

Bồng lai âu cũng hẳn là đây

Đá chen với núi màu năm sắc

Chùa nực hơi hương khói lượn mây

Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước

Tiều phu chóng búa dựa lưng cây

Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách

Khen bấy thợ trời khéo đắp xây. [27,17]

Tọa lạc của quần thể Ngũ Hành Sơn nay thuộc phường Hòa Hải, Quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng. Giữa cảnh trời mênh mông, giữa bãi cát trắng, bên dòng sông xanh uốn khúc, Ngũ Hành Sơn hiện lên gây thú vị cho những du khách đi tìm cảnh đẹp. Người Quảng Nam thường nói đất quê mình giàu linh khí, rõ ràng ở đây thiên nhiên đã tạo nên những cảnh đẹp tự nhiên thơ mộng

“Quê em có dãy Sông Hàn

Có hòn Non Nước có hang Sơn Trà”

“Sự tích của núi Ngũ Hành Sơn theo kho tàng truyện cổ Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi thì đây là năm ngón tay của Đức Phật đè lên mình Tề thiên đại thánh tương tự như trong truyện Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân. Năm ngón tay ấy là năm ngọn là: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn. Còn tại Quảng Nam thì người ta lại cho rằng: ngày xưa Thần Kim Quy rẽ sóng biển đông vào đây đẻ một quả trứng rồng. Về sau, có năm mảnh trứng rồng nứt ra, lớn mãi thành năm ngọn như ta đã biết”. [24,70]

Quần thể này còn có nhiều tên khác là: Ngũ Uẩn Sơn, Ngũ Chỉ Sơn. Khoảng đầu thế kỷ XIX là Ngũ Hành Sơn và tồn tại cho đến ngày nay. Năm 1837 lần thứ ba vua Minh Mạng ngự du và nhận ra thế đứng của năm ngọn núi ở đây theo phương vị Ngũ Hành của học thuyết Kinh Dịch Đông Phương nên đã đặt tên năm ngọn núi là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Sơn và cho khắc tên vào núi. Trong số đó ngọn Thủy Sơn là đẹp nhất. Nhà vua rất thích cảnh non nước hữu tình của Ngũ Hành Sơn nên đã cho xây hành cung tại núi Thủy Sơn.

Khi nói đến núi non thì đâu đâu cũng có non núi cả, nhưng Ngũ Hành Sơn có một đặc tính cho lịch sử đất nước Việt Nam nói chung và Quảng Nam Đà Nẵng nói riêng, là lịch sử hùng vĩ của đất Việt và người Việt. Tạo hóa đã giảng bày đâu đâu cũng có núi đá, các hiện tượng khắp trong trời đất, núi non muôn hình vạn trạng, nhưng Ngũ Hành Sơn là nơi có nhiều hiện tượng kỳ quan tự nhiên, nó tiêu biểu cho sự huy hoàng của xứ sở và nhân vật lỗi lạc oai hùng.

Vị trí của năm ngọn núi này được hình thành như sau:

Mộc Sơn: Nằm ở phía đông trên đường từ Đà Nẵng đi Hội An, sườn núi dựng đứng, trong núi có hang động nhỏ, xưa kia là nơi trụ trì của bà sư ni, tục danh “Bà Trung”; ngoài ra còn có một tảng cẩm thạch trắng tượng hình ấy có người gọi Phật Quan Thế Âm tọa sơn, có người gọi là Cô Mụ. [24,73]

Kim Sơn: Nằm hướng tây bắc, nằm giữa Thổ Sơn và Hỏa Sơn, gần Sông Trường Giang. Tại đây thời nhà Nguyễn có bến đò gọi là “Bến Ngự” vì trước đây nhà Vua Minh Mạng thường neo thuyền tại đây lúc viếng Ngũ Hành Sơn. Vào khoảng năm 1950, dân địa phương đã phát hiện ra một hang động dưới chân núi, đặt tên là động Quan Âm. Năm 1956 nhà sư Thích Pháp Nhãn đã mở rộng lối vào hang động và cho xây chùa Quan Âm bên trong.

Thổ Sơn: Là ngọn núi thấp hơn so với những ngọn núi khác, cây cối thưa thớt có nhiều dấu tích của kiến trúc Chăm thuở xưa còn sót lại.

Hỏa Sơn: Hai ngọn âm dương đối diện nhau, ngăn cách bởi một cánh đồng lúa xanh rờn. Trong Âm Hỏa Sơn có một thạch động, trên cửa vào có khắc “Chư Tiên Khách Hội Động” tương truyền là nơi tu tiên của một cao nhân ẩn sĩ; trong dương hỏa sơn cũng có một động, trên khắc “Quan Âm Động” và “Phổ Đà Sơn”. Các bậc cao niên cho biết nơi đây vua Lê Thánh Tông cho dựng tấm bia nói rõ: “một ngàn năm trước là đường bể, một ngàn năm sau là một ngọn núi nổi danh”. Chẳng rõ thực hư ra sao vì ngày nay giới khảo cổ chưa tìm ra được tấm bia này. Cũng tương truyền nơi đây về thời vua Minh Mạng có một vị công chúa vứt bỏ cám dỗ trần tục đến tu tại ngọn núi này.

Thủy Sơn: Là nhọn núi cao hơn cả trong năm ngọn núi, nằm song song với Mộc Sơn, đây là ngọn núi có nhiều kỳ quan thắng cảnh nhất. Ngay từ dưới chân núi, có hai đường lên đỉnh: đường tam cấp bằng đá, phía Tây Nam dẫn lên chùa Tam Thai với 156 bậc; đường tam cấp bằng đá phía Đông dẫn lên chùa Linh Ứng với 108 bậc. Ở ngọn núi này có rất nhiều chùa và Hang động. Chính những hang động này đã là các hình thế thiên nhiên thuận lợi cho các tu sĩ Phật giáo tìm đến trú ngụ, hành trì tu tập và xây đắp bàn thờ chùa Miếu. Đó là vào thế kỷ XVI, lúc nhà Mạc tích cực đưa dân binh các vùng phía Bắc Hải Vân vào định cư ở Quảng Nam Đà Nẵng. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo đang phát triển mạnh mẽ, khi ấy cây rừng còn bao phủ khắp nơi trên núi và cả vùng đồng bằng xung quanh, các nhà sư đầu tiên đã sống ngay trong các hang động kín đáo, dần dần các đời tăng ni tiếp tục sau đã lập thêm các bàn thờ, dựng chùa mới, quyên góp tiền của mở mang đường lên núi, lập am miếu, đến khi dân cư trong vùng càng ngày càng đông đúc, các Phật tử tín đồ quanh vùng thường xuyên tìm lên đây cúng bái, thờ tự, nơi đây trở thành một trung tâm Phật giáo độc đáo của miền đất phía Nam kinh thành Huế. Dưới đây, người viết muốn nói đến những hang động ở Thủy Sơn, còn những chùa tại đây sẽ được nói ở phần sau như chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng.

Động Huyền Không: nằm phía sau bên phải chùa Tam Thai, đi qua cổng vòm có ba chữ Huyền Không Quan, tức là Động Huyền Không, cửa động rất tối, những bậc cấp dẫn sâu xuống lòng núi. Phải nói rằng tại Ngũ hành sơn có gần 30 thạch động mà chỉ có Động Huyền Không là đẹp nhất. Cái đẹp ở đây không phải lộng lẫy như ta tưởng mà cái đẹp có vẽ thiêng liêng huyền bí, cổ kính mầu nhiệm, khó mà tưởng tượng và mô tả cho hết. Động có dạng hình tròn, trong động không có các cột thạch nhũ, vách động tạo nên những hình tượng kỳ lạ thú vị, nơi thì trông giống như con hạc, con voi, nơi giống con kim quy, hình người thượng cổ hoặc hình con công bay, hay hình chim đại bàng, màu sắc và hình ảnh trong rất khó nhận định thật là huyền ảo giống như cái tên gọi của nó là “Huyền Không”. Trong động này có một nơi kỳ dị là động thạch nhũ, người ta tương truyền ở đây có hai mỏm đá thòng xuống tròn vo, từ khi có núi Ngũ Hành thì hai thạch nhũ này đã thường nhỏ nuớc, khi khai thiên lập địa có non nước là có thạch nhũ. Thạch nhũ này mùa nắng cũng như mùa mưa, nước thường xuyên nhỏ xuống, tương truyền trước đây ai đến cầu tự đều lấy nước đó để uống thì sẽ được như mong muốn. Nhưng từ khi Vua Thành Thái sờ tay vào thì một trong hai thạch nhũ không nhỏ nước nữa. Tóm lại, đây là hang động đẹp nhất mà thiên nhiên đã tạo ra. Ngài Thích Đại Sán (Ngài Thạch Liêm) người Trung Hoa đến đây năm ất hợi (1695) viếng thăm và ca ngợi rằng: Đây là động đẹp và sạch sẽ nhất trong tất cả các động, giữa động có hai pho tượng người ta thường gọi là ông Thiện và ông Ác đứng chóng kiếm uy nghi như để nhắc nhở con người về cái thiện cái ác, như để khuyên con người sống một đời sống hoàn thiện, đem lại cho đời cuộc sống an lành hạnh phúc hơn.

Động Tàng Chơn: Nằm sau chùa Linh Ứng, một cửa đá trên thềm lởm chởm khoảng hai bước, mở ra một hành lang ngắn, những cây cối nho nhỏ mọc tựỉ do trong đất được các tượng đá lồi lõm giữ lại đó là cửa bên phải; trong khi trên tường đá bên trái thấy ghi tích từ xa xưa thời Minh Mạng “Tàng Chơn Động” (động của sự tỉnh tâm đích thực). Nghe tên Tàng Chơn Động, người ta cũng nghĩ ngay ý nghĩa mà người xưa đã đặt cho nó cái tên ngụ ý chứa đựng tất cả thiên nhiên chơn thật của vũ trụ, con nguời như là chứa tàng trữ kho tàng chơn lý, chơn thật nên gọi là Tàng Chơn. Động này khó diễn tả vì tình thế không phải là một, vào đến động người ta thấy một thung lũng chiều dài 10 thước, chiều ngang bảy thước hình chữ nhật, hoàn toàn có ánh sáng mặt trời đầy đủ, thoáng đãng nhờ thông lên trời qua cửa hang “Thiên Long Cốc”, giữa động có thờ Thái Thượng Lão Quân, bên trái thờ Bát Bộ Kim Cang, bên phải thờ Thần Chiêm Thành. Ánh sáng trời xuyên qua động càng làm tăng vẽ đẹp trong động. Khi nói Tàng Chơn Động là tên của một đông chính, ngoài ra còn có năm động nhỏ là: Động Tam Thanh, Động Hang Gió, Động Chiêm Thành (Hời), Động Bàn Cờ và Động Hang Ráy. Trong Động Tam Thanh trước đây người ta thờ thần gió là thượng Thanh, trung Thanh, hạ Thanh (bây giờ không còn nữa), vì thế nên gọi là Động Tam Thanh. Động có hình thế dài dài, tròn tròn, có thể đi vào sâu và tối om. Kế đến là Động Hang Gió, đến đây bước thêm khoảng mười tầng cấp và quẹo lại, trong khi đang mệt mỏi thì nghe những luồng gió vi vu thổi đến để đón chào và tiếp đãi mọi người bằng một buổi tiệc mát dịu, đứng lại và thưởng thức sự khỏe khoắn của luồng gió thổi. Nơi đây, quanh năm suốt tháng gió thổi lòng lộng. Sau khi rời khỏi Hang Gió, ta phải trở về Động Tam Thanh, xuống cấp để tiến về Động Hang Hời. Người ta trang trí trước cửa động những hình tượng bằng đá theo phong tục Chiêm Thành, hình tượng này như các vị thần đứng gác cửa. Động có hình bán nguyệt, vùng đất này ngày xưa là của người Chiêm Thành ở, bây giờ người ta kỷ niệm gọi là Động Hang Hời (Động Chiêm Thành). Rời khỏi động Chiêm Thành và tiến bước qua Động Hang Ráy, hình thế của cổ tích cẩm thạch bao phủ, màu đá cũng hiện đủ ngũ sắc rất là cổ kính, động này thông ra ngoài trời, ở phía ngoài động có loài cây ráy xanh xanh mọc lên rất nhiều nên người ta gọi là Động Hang Ráy. Sau khi rời khỏi Động Hang Ráy đến động cuối cùng là Động Bàn Cờ. Theo sự tương truyền trên đỉnh núi các vị tiên hay xuống đây đánh cờ (bây giờ không còn nữa), trải qua với tuế nguyệt lâu đời, lại theo vết thăng trầm của thế sự, của thời gian vận hội nước nhà, sự tương truyền huyền thoại này không còn nữa. Người ta lập tại đây một tảng đá vuông vức giống như bàn đánh cờ tướng, ngoài ra, người ta còn đặt những tảng đá tròn chung quanh bàn làm đòn ngồi. Đây là biểu hiện cho bàn cờ tại Ngũ Hành Sơn. Trải qua hàng nghìn năm, Động Tàng Chơn được coi là động lưu giữ mọi chân lý của vũ trụ, vẻ đẹp nguyên thủy của nó dường như không thay đổi.

Động Huyền Vi: Động nằm sau chùa Linh Sơn, thuộc ngọn Dương Hỏa Sơn ở Ngũ Hành sơn, hội Phật giáo xã Hòa Hải đã phát hiện ra động vào năm 1953. Động Huyền Vi trông như một bức tranh thiên nhiên sống động, qua cửa hang dài 3m là vào động, chiều dài khoảng 10m, chiều ngang 2m, có nhiều ngách hang nhỏ. Trên các ngách hang do nước và gió xâm thực đã tạo nên những hình ảnh cỏ cây, hoa lá, muôn thú, trước cửa hang có một con cá sấu thiên tạo rất đẹp. Động còn có tên là động Di Đà, động này có dấu đặc biệt là trong cổ tích có hiện ra hình tượng Phật và Thánh Giống như một nơi thờ tự. Tượng Đức Phật Di Đà, cùng Đức Hộ Pháp và Tứ Thiên Vuơng coi rất oai vệ, uy nghi. Tượng Đức Hộ Pháp và Tứ Thiên Vương phải nhờ ánh đèn mới thấy rõ, vì thế sau khi khánh thành động có đặt bàn thờ. Từ đó mới có danh từ là động Di Đà hay Huyền Vi Động. Ngoài ra tại Ngũ Hành Sơn còn có rất nhiều động như Động Hoa Nghiêm, Động Quan Âm Động Âm Phủ, Động Vân Thông…

Tại Ngũ Hành Sơn, ngoài những thắng cảnh thiên nhiên hữu tình, những chùa chiền, hang động thì chúng ta không thể không nói đến làng nghề chạm khắc đá. Tại đây, đa số người dân sống quanh vùng này đều làm nghề khắc đá. Khi đến Ngũ Hành Sơn, hai bên đường các cửa hàng nằm sát nhau. Với vô vàn các bức tượng khác nhau, các đồ vật, phù điêu, mỹ nghệ bằng đá muôn màu muôn vẻ. Lùi sâu vào trong một chút là các khu nhà xưởng ngổn ngang đá, ngổn ngang tượng đang làm dở với những người thợ đang lúi húi đục khắc xung quanh. Rẽ lên một chút, bám vào chân núi là những khu vườn tượng khổng lồ, tượng đứng, tượng nằm, tượng cổ, tượng hiện đại, điêu khắc Châu Âu, mang nét điêu khắc mỹ thuật Ấn Độ và Trung Hoa muôn màu muôn vẽ chen vai thích cách, tượng la liệt trên mặt đất, trên các hang động nhỏ ẩn vào vách đá với đủ loại đá trắng, đá đen, đá vân đá hồng khiến cho người xem phải bối rối không biết nên bắt đầu ngắm nhìn từ đâu và sẽ nhìn những gì. Đây là một làng nghề, là cả một dãy phố nghề luôn tưng bừng đón khách tham quan du lịch và mua sắm quà lưu niệm.

Mặt hàng này không những thịnh hành khắp cả nước và mỗi ngày có hàng chục container chở những kiệt tác này vượt đại dương đi đến khắp nơi trên thế giới. Không chịu thỏa mãn với việc chỉ làm tượng theo mẫu, nhiều nghệ nhân trẻ đã say sưa sáng tác ra những tác phẩm hiện đại thi thố với bạn bè năm châu. Đã và đang có những ý tưởng táo bạo về các vườn tượng sáng tác có quy mô hoành tráng, đã có những dự định làm thay đổi bộ mặt làng nghề nơi chân núi chờ đón du khách và các nhà điêu khắc Quốc Tế.

Những người dân sống dưới chân núi đã được hưởng nhiều phúc lộc của Ngũ Hành Sơn. Thuở xưa núi cho cho đá để làm nghề, rồisau núi gọi du khách bốn phương đến cho họ sống, cho họ phát triển. Bây giờ làng nghề có thể trả ơn Ngũ Hành Sơn khi họ làm cho núi đẹp hơn, họ gọi khách du lịch đến với núi nhiều hơn. Tất cả là nhờ vào đất nước ổn định hòa bình, nhờ vào du lịch quảng giao. Nói văn hoa ra thì ở Ngũ Hành Sơn lúc này có cả thiên trời, địa lợi, nhân hòa. Bây giờ làng nghề tượng đá Ngũ Hành Sơn đã là một phần tất yếu không thể thiếu được của Đà Nằng cả về kinh tế du lịch, cả về nghệ thuật và văn hóa. Tương lai của làng còn rộng mở và đầy hứa hẹn, tên tuổi của làng này đã nghiểm nhiên nằm trong danh mục của mạng lưới du lịch và của giới điêu khắc trên khắp thế giới.

Tóm lại Ngũ Hành Sơn là một nơi danh lam thắng cảnh, một kỳ quan của thành phố Đà Nẵng, càng lúc thành phố Đà Nẵng càng đông khách du lịch. Với Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn chẳng những là một trung tâm Phật giáo, một miền đất hành hương mà còn là một quần thể du lịch đầu tiên trong biên niên sử du lịch của thành phố. Người dân địa phương tin rằng đây là một vùng đất thiên của Đà Nẵng, tự hào với Ngũ Hành Sơn, năm ngọn núi Cẩm Thạch kề sát bên nhau tạo nên một kỳ quan hùng vĩ và thơ mộng.

1.3.4. Những di tích còn lại của Chăm Pa tại Mỹ Sơn:

Khu di tích văn hóa Mỹ Sơn thuộc địa bàn xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70km về phía Tây Nam, khu đền tháp Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng kín đáo, có đường kính chừng 2km, xung quanh là đồi núi.

Cho đến thời kỳ du khách thế giới đang có phong trào đi tìm đến các địa chỉ du lịch tiên phong vào Việt Nam, cái tên Mỹ Sơn đã nổi lên như một phát hiện độc đáo. Nằm trong một thung lũng hoang vắng phủ kín cây rừng, mấy chục ngôi đền tháp nằm san sát nhau đổ nát vì bom đạn chiến tranh tàn phá, câm lặng và bí ẩn nhưng người ta có thể hình dung ra sự bề thế uy nghi và không khí tâm linh huyền bí của một rừng các ngọn tháp lớn nhỏ vào thời huy hoàng xa xưa kia.

“Qua những bia ký, người ta biết được vào những thế kỷ V –VII , người Chăm đã bắt đầu xây dựng nhiều đền tháp thờ cao đẹp, bia ký cho biết ôngVua Bhadravaman đã xây dựng đền tháp thờ vào thế kỷ thứ V tại thánh địa Mỹ Sơn. Nhưng đến thế kỷ sau điện thờ này bị cháy trong một cơn hỏa hoạn. Đến các thế kỷ thứ VII –VIII người Chàm đã khôi phục lại đền thờ này và đặt cho nó một cái tên mới Sambubhadresvara (sambu – tên vua, Bhadervara – một tên gọi thần siva ), sau đấy đến thời vua Vikratavarman (657 -689 ) đã tô điểm thêm cho Mỹ Sơn và chỉ vào thời kỳ này, chúng ta mới có những chứng cứ đầu tiên về nghệ thuật Chămpa, rủi thay kiến trúc thời vua Vikrantavaram không còn, nhưng những mãng trang trí kiến trúc còn lại như cột, mi cửa, của phế tích tại Mỹ Sơn chứng tỏ nơi đây đã từng có một ngôi tháp thật sự”. [7,31]

Nhờ bia ký mà ngày nay chúng ta biết được người đầu tiên lập nên thánh địa Mỹ Sơn là Bhadravarman I này, các nhà khoa học mới tìm ra tên được viết bằng chữ phạn của ông, theo các nhà nghiên cứu đó chính là Phạm Phật nói trong các thư tịch cổ Trung Quốc (43), tên Vua được ghi bằng chữ phạn đã chứng tỏ những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đã để lại dấu ấn sâu đậm ở nước Chămpa vào thế kỷ thứ IV. Tôn giáo chính thống của vua chúa Chămpa chủ yếu là thờ thần Siva và các thần Ấn Độ khác. Bhadravarman đã dựng đền thờ Bhadresvara ở Mỹ Sơn và dâng cúng vùng đất này trở thành thánh địa của cả vương quốc Chămpa cho vị thần tối thượng này.

“Dưới thời vua IndravarmanII (854 -893), đức Vua lập kinh đô lấy tên là Indrapura (tỉnh Quảng Nam) khôi phục quan hệ tốt với Trung Quốc và trong triều đại này các nhà sử học Trung Quốc bắt đầu gọi nó bằng cái tên thứ ba là Chang Cheng, có nghĩa là thành phố của Chan, theo tiếng phạn là Champapuro. Đây là một triều đại thanh bình nổi tiếng về cơ sở Phật giáo to lớn, một tu viện mà những dấu ấn đã được xác định ở Đông Dương Đông Nam của Mỹ Sơn. Đây là bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của Phật giáo đại thừa ở Chămpa”. [16-294]

Năm 972 Chămpa xuất hiện một vị Vua mới, theo các nhà khoa học vị Vua này có tên là Paramesvaravarman, còn các sử liệu Việt Nam gọi là Phi Mê Thuế. Vị Vua này một mặt thì duy trì quan hệ với triều đình Trung Quốc, mặt khác thì luôn có ý đồ lấn chiếm Việt Nam. Khi vua Lê Đại Hành lên ngôi (982) sai sứ sang giao hiếu với Chiêm Thành và đã bị người Chiêm Thành bắt giữ và chính Paramesvaravarman là vua Chămpa đầu tiên gây sự bất hòa với Việt Nam.

Năm 988 một vị vua khác là Harivarman II lên ngôi (sử Việt Nam gọi là Cu Thi Lị Ha Thân Bài – Ma – La) luôn giữ mối quan hệ tốt với nhà tiền Lê. Từ sau Harivarman II tình hình triều chính Chămpa không yên nên không có tài liệu nào đề cập đến các vị vua nối tiếp nhau. Cho đến năm 1050, chỉ có tài liệu Việt Nam cho biết ít nhiều về cuộc đụng độ giữa hai nước vào thời nhà Lý. Để trừng phạt cho những lần vào cướp phá Đại Việt, năm 1044 vua Lý Thái Tôn cầm quân chinh phạt Chiêm Thành và cứ như thế, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, trải qua nhiều thế kỷ, Mỹ Sơn cũng bị chi phối theo những bước thăng trầm và hầu như đã bị bỏ quên suốt nhiều thế kỷ và chỉ biết trở lại vào cuối thế kỷ thứ XIX .

Các di tích tại Mỹ Sơn lần đầu tiên được phát hiện cuối năm 1897 đầu năm 1898 do một nhà khoa học người Pháp tên là M.C Paris. Trước năm 1898 ông đã phát hiện và công bố những phế tích Chămpa ở Trà Kiệu (tỉnh Quảng Nam). Trong khi nghiên cứu những di tích ấy, theo chân những người dân địa phương M.c Paris đã đến thung lũng hình lòng chảo thuộc thôn Mỹ Sơn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Tại đây ông đã phát hiện ra cả một quần thể di tích kiến trúc cổ Chămpa nằm thành từng cụm dọc hai bên bờ suối bị che phủ bởi cây cối và rừng rậm. Thế là ngay lập tức, Mỹ Sơn đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học thuộc những chuyên môn khác nhau. Ngay năm sau, hai nhà khoa học thuộc viện nghiên cứu Viễn Đông Pháp là L.Finot và L.Lajonquiere đã đến Mỹ Sơn nghiên cứu các văn bia và các di tích.

Sau một số những công cuộc nghiên cứu, phát quang và tu bổ vào đầu thế kỷ thứ XX và giữa thế kỳ thứ XX, khu di tích Mỹ Sơn một lần nữa bị bỏ quên và bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thung lũng Mỹ Sơn còn bị đặt trong khu vực “tự do oanh kích” chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

“Năm 1977 mười bảy chiến sĩ công binh thuộc tỉnh đội Quảng Nam – Đà Nẵng đã hy sinh và bị thương trong đợt gỡ mìn khai quang để phục vụ cho công tác điều tra nghiên cứu. Theo con số điều tra hiện trạng ở Mỹ Sơn chỉ còn lại 30 đền tháp có tường cao từ 1m trở lên”. [7,160]

Sau năm 1975 ở Mỹ Sơn còn khoảng 20 tháp còn giữ được hình dáng nhưng hầu như không còn nguyên vẹn. Năm 1980 trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam – Ba Lan, tiểu ban phục hồi các di tích Chămpa đã làm việc tại Mỹ Sơn, kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz trực tiếp tham gia và chỉ đạo về mặt kỹ thuật, sau mười năm gia cố tu sửa, trung tâm kiến trúc bậc nhất của nghệ thuật Chămpa đã được hồi sinh, Mỹ Sơn đã được phần nào trở lại dáng vẻ ban đầu của nó, làm cho người ta có thể hình dung được một thánh địa uy nghiêm kỳ vĩ của vương quốc Chămpa xưa kia. Trong thời gian này, nhiều tác phẩm điêu khắc có giá trị đã được tiếp tục tìm thấy, tất cả được trưng bày tại Mỹ Sơn. Có thể nói thánh địa Mỹ Sơn được như ngày nay là nhờ sự quan tâm, hỗ trợ rất lớn của đảng và nhà nước đã làm cho khu di tích Mỹ Sơn được phần trang trọng hơn.

Năm 1977 khu Mỹ Sơn được gỡ mìn, dọn dẹp để phục vụ cho công việc nghiên cứu khoa học.

Năm 1979 khu di tích Mỹ Sơn được chính thức xếp hạng di sản văn hóa quốc gia theo quyết định của bộ văn hóa.

Từ đầu năm 1981 tiểu ban hợp tác Việt Nam – Ba Lan phục hồi các di tích Chăm được thành lập với nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu, tu bổ các di tích Chăm ở các tỉnh miền Trung mà trọng tâm là khu di tích Mỹ Sơn.

Năm 1982 – 1986 sửa sang các ngôi tháp theo phương pháp gắn chắp những chổ đã bị hư hỏng.

Đầu năm thập niên 90 của thế kỷ XX, với sự tài trợ của hội những người yêu tháp Chàm, đã cải tạo hai dãy nhà dài thành những nhà trưng bày tại chổ các hiện vật của khu di tích Mỹ Sơn.

Năm 1989 Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng (cũ) ra quyết định khoanh vùng cấm nhằm bảo vệ khu di tích lịch sử văn hóa hòn đền Mỹ Sơn.

Năm 1997 theo đề nghị của bộ văn hóa thông tin, Mỹ Sơn là một trong sáu di sản văn hóa thiên nhiên tiêu biểu được thủ tướng chính phủ Việt Nam cho phép lập hồ sơ để đăng ký đến với hội đồng di sản văn hóa thế giới đưa vào danh sách di sản thế giới.

Từ đầu năm 1997 đến giữa năm 1998 đã triển khai và hoàn thành hồ sơ đăng ký di sản văn hóa thế giới cho Mỹ Sơn.

“Năm 1999 Mỹ Sơn được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tại phiên họp lần thứ 23 ở thành phố Marrakesh (MaRốc) ngày 1/12/1999 Ủy Ban Di Sản UNESCO đã long trọng tuyên bố công nhận khu di tích Mỹ Sơn là di sản thế giới. Về Mỹ Sơn, Ủy ban di sản đã ghi nhận: “Mỹ Sơn là điển hình nổi bật về giao lưu văn hóa với sự hội nhập vào bản địa những ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ của tiểu lục địa Ấn Độ”. [7,163]

Tóm lại, có thể nói Mỹ Sơn không chỉ được mọi người biết đến bởi các công trình kiến trúc mà nơi đây còn nổi tiếng bởi hàng trăm tác phẩm điêu khắc vô giá. Nghệ thuật điêu khắc Chămpa là sự kết hợp những yếu tố bản địa với các nền văn hóa bên ngoài một cách có chọn lọc và sáng tạo. Các tác phẩm điêu khắc được thể hiện trên gạch đá nhưng không thô cứng, cái tài tình của những nghệ thuật điêu khắc Chăm xưa kia là đã biến những tảng đá vô tri thành những tác phẩm nghệ thuật sống động. Mỗi phong cách có một vẻ đẹp riêng dù cho mỗi thời kỳ tư duy thẩm mỹ mỗi khác.

1.3.5. Dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam Đà Nẵng :

Vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Phật giáo được phục hưng ở cả hai miền Đàng trong và Đàng ngoài.

Ngay sau khi Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) vào trấn thủ đất Thuận Hóa, Ông đã nghĩ đến việc lập chùa. Từ năm 1601 đến năm 1609 ông lập rất nhiều chùa từ Huế trở vào đến Quảng Nam. Chúa luôn chú trọng đến vấn đề tâm linh và cho lập trai đàn và làm lễ bố thí. Như vậy trong thâm tâm của chúa Nguyễn, đạo Phật có thể làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn. Cũng vì vậy, sau này các chúa Nguyễn đều có vẽ sùng thượng đạo Phật và nhân dân Đàng Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung Quốc với một tấm lòng chân thật mặn nồng. Trong thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh Thanh, nhiều cao tăng Trung Hoa đã tới Đàng Trong hành hóa.

Phật giáo Đàng Trong bắt đầu phục hưng với các thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm (Viên Cảnh – Lục Hồ, Viên Khoang – Đại Thâm, Minh Châu – Hương Hải) ở vùng Quảng Trị Thuận Hóa và các thiền sư thuộc phái thiền Lâm Tế (Nguyên Thiều – Siêu Bạch, Minh Hải – Pháp Bảo, Thành Đẳng – Minh Lượng) ở vùng Quảng Nam Bình Định.

Đàng Trong một vùng đất mới, Phật giáo mới được phục hưng nên số tăng sĩ rất ít, vậy mà vào năm 1682 Tổ sư Hương Hải dẫn khoảng 50 đệ tử bỏ Đàng Trong ra Đàng Ngoài khiến cho số tăng sĩ đã ít lại càng thêm hiếm hoi, làm cho chúa Hiền (Nguyễn Phước Tần) nghi ngờ thái độ chính trị của các thiền sư thuộc phái thiền trúc Lâm. Vì vậy chúa Hiền phải trọng dụng tổ sư Nguyên Thiều của phái Lâm Tế và nhờ Tổ sư Nguyên Thiều ra Thuận Hóa thay thế Tổ sư Hương Hải hoằng dương Phật pháp tại đây.

Năm 1687 chúa Hiền mất, con là Nguyễn Phúc Trăn lên nối ngôi được gọi là chúa Nghĩa (1687 – 1691). Chúa Nghĩa muốn phát triển Phật giáo mạnh mẽ hơn nên nhờ Tổ sư Nguyên Thiều trở về Trung Hoa thỉnh thêm các danh tăng, cùng kinh sách tượng Phật, pháp khí sang Đàng Trong. Tổ sư Nguyên Thiều đưa sang Đàng Trong nhiều thiền sư, chúa Nguyễn cho mở đại giới đàn ở chùa Thiên Mụ và cử Tổ Nguyên Thiều làm Hòa Thượng Đàn Đầu. Với giới đàn này kể như phái thiền Lâm Tế được triều đình chúa Nguyễn trọng dụng. Vì những lí do trên mà sau này không còn thấy thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm được nhắc đến ở Đàng Trong mà hầu hết là các thiền sư thuộc phái thiền Lâm Tế và một số ít thiền sư phái thiền Tào Động. Cũng vì những lí do trên mà chúng ta thấy rằng phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong (cũng như Đàng Ngoài) không còn giữ đúng môn phong của phái thiền Lâm Tế ở Trung Hoa mà đã mang nhiều đặc điểm của phái thiền Trúc Lâm của Đại Việt.

Tổ sư Nguyên Thiều với các đệ tử như : Minh Giáo– Phương Kỳ, Thành Đẳng – Minh Lượng, Minh Vật– Nhất Tri, Minh Hải – Pháp Bảo, Minh Hoàng – Tử Dung cùng các pháp tôn như Thiệt Diệu– Liễu Quán, Thiệt kiến – Liễu Triệt, Thiệt Địa – Pháp Ấn v.v… mở rộng phạm vi hoằng pháp khắp lãnh thổ Đàng Trong giúp cho Phật giáo phát triển mạnh, ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng ở mọi nới. Về sau để tiếp nối ngọn đèn pháp của tổ sư Nguyên Thiều, các đệ tử của Tổ đều là những bậc long tượng của thiền tông, tiếp nối truyền thừa tông phong của phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong rực sáng, hưng thịnh hơn và còn lưu truyền mãi cho đến hôm nay .

Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch có các đệ tử và hàng đệ tử nổi danh như:

Thiền sư Minh Giác – Kỳ Phương hay Thành Đạo (hoằng hóa ở chùa Thập Tháp Di Đà Quy Nhơn)

Thiền sư Minh Vật – Nhất Tri hoằng hóa ở chùa Kim Cang (Đồng Nai)

Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo hay Pháp Hóa (hoằng hóa ở chùa Chúc Thánh Quảng Nam ) và chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi)

Thiền sư Minh Hoàng – Tử Dung hoằng hóa ở chùa Từ Đàm (Phú xuân)

Thiền sư Thành Đẳng – Minh Lượng hoằng hóa ở chùa Vạn Đức (Quảng Nam)

Thiền sư Thành Nhạc – Ẩn Sơn hoằng hóa ở chùa L ong Thiền (Đồng Nai)

Và còn rất nhiều đệ tử khác. Các vị thiền sư này đã kế tục Tổ sư Nguyên Thiều - Siêu Bạch truyền thừa nối tiếp theo nhiều bài kệ truyền pháp khác nhau ở khắp lãnh thổ Đàng Trong. Về sự truyền thừa phái Lâm Tế ở Trung Hoa có rất nhiều bài kệ truyền pháp, khi truyền sang Đàng Trong và Đàng Ngoài của nước Đại Việt chỉ dùng tiếp một vài bài kệ như ở Trung Hoa, một số thiền sư thuộc phái Lâm Tế ở Đàng Trong và Đàng Ngoài đã xuất phát thêm vài bài kệ mới và còn truyền cho tới nay như trường hợp của thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo, thiền sư Thiệt Diệu – Liễu Quán ở Đàng Trong và thiền sư Minh Hành – Tại Tại ở Đàng Ngoài.

Dưới đây là dòng kệ Chúc Thánh thuộc phái Lâm Tế tại Quảng Nam do Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo xuất kệ.

Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo tự Đắc Trí hay Pháp Hóa thuộc phái Lâm Tế đời thứ 34, tên tục là Lương Thế Vinh và còn có tên khác là Lê Duyệt, quê ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) sanh năm canh tuất (1670). Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo sang Việt Nam cùng với các thiền sư Giác Phong khai sơn chùa Hàm Long (tức chùa Báo Quốc ngày nay) ở Phú Xuân, thiền sư Từ Lâm khai sơn chùa Từ Lâm ở Phú Xuân, thiền sư Minh Hoàng Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tông (nay là chùa Từ Đàm) ở Phú Xuân, thiền sư Hưng Liên – Quảng Hoằng trụ trì chùa Tam Thai trên núi Ngũ Hành Sơn khi Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch về nước thỉnh danh tăng theo yêu cầu của chúa Nguyễn Phúc Trăn (1667-1691) và sau khi tham dự giới đàn tại chùa Thiên Mụ do Tổ sư Nguyên Thiều – Bạch làm Hòa Thượng đàn đầu, thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo vào Hội An (Quảng Nam) khai sơn chùa Chúc Thánh. Trong thời gian hoằng dương Phật pháp ở chùa này, Ngài phát xuất một bài kệ truyền phái mới cho môn đồ thuộc chi phái thiền “Chúc Thánh”. Bài kệ như sau:

Minh thiệt pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Chúc thánh thọ thiên cửu

Kỳ quốc tộ địa trường

Đắc chánh luật vi tông

Tổ đạo hạnh giải thông

Giác hoa bồ đề thọ

Sung mãn nhân thiên trung

Dịch

Hiểu thấu pháp chân thật

Ấn chơn như hiện tiền

Cầu thánh quân tuổi thọ

Chúc đất nước vững bền

Giới luật nêu trước tiên

Giải và hạnh nối liền

Hoa nở cây giác ngộ

Hương thơm lừng nhân thiên. [21,593]

Năm 1694 do cuộc âm mưu nổi loạn trong đó có những người Hoa kiều sống ở Quy Nhơn chắc hẳn là đệ tử của sư tổ Nguyên Thiều tại chùa Thập Tháp và thiền sư Pháp Bảo ở chùa Chúc Thánh Quảng Nam bị đổ bể, Tổ sư Nguyên Thiều cùng các đệ tử trong phái thiền Lâm Tế như Minh Hải – Pháp Bảo bị liên lụy nên phải bỏ chùa trốn đi nơi khác, đổi pháp danh để lánh nạn. Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo rời chùa Chúc Thánh vào núi Thiên Ấn ở Quảng Ngãi lập chùa ẩn tu, đổi pháp danh là Pháp Hóa, chùa này sau phát triển thành Tổ đình Thiên Ấn cho đến nay.

Sau thời gian hoằng hóa ở chùa Thiên Ấn, thiền sư Pháp Hóa nổi danh, triều đình chúa Nguyễn cũng tôn sùng nên năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) chúa Nguyễn Phước Châu ban biển ngạch cho chùa Thiên Ấn sơn son thiếp vàng trên đó đề “Sắc Tứ Thiên Ấn Tự”. Trong quá trình hoằng hóa, Ngài có nhiều đệ tử nổi danh như sau:

Thiền sư Thiệt Dinh - Chánh Hiển hiệu Ân Triêm hoằng hóa ở chùa Phúc Lâm, có đệ tử nổi danh là Pháp Chuyên – Luật Truyền hiệu Diệu Nghiêm và pháp tôn là Toàn Nhật – Quang Đài nổi tiếng ở Phú Yên.

Thiền sư Thiệt Úy – Khánh Vân kế thế trụ trì chùa Thiên Ấn.

Thiền sư Thiệt Hội- Viên Quang có đệ tử là Pháp Tràng – Quang Chính hiệu Bảo Đài hoằng hóa ở chùa Tam Thai trên ngọn Thủy Sơn – Ngũ Hành Sơn

Thiền sư Thiệt Quảng – Cảm Ứng có đệ tử nổi danh là Pháp Nhân – Thiên Trường và pháp tôn là Toàn Tánh – Chánh Đắc nổi danh ở Gia Định.

Thiền sư Chánh Đắc trụ trì Chùa Khánh Hội và chùa Tập Phước ở Gia Định.

Như vậy, dòng kệ Chúc Thánh được truyền thừa và quảng bá nhiều nhất ở chùa Chúc Thánh vào đến Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên và các tỉnh miền nam. Khi công hạnh của Ngài đã mãn, vào ngày 27 tháng giêng năm Giáp Tuất (1754) giờ Ngọ, Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo viên tịch ở chùa Thiên Ấn, đồ chúng lập tháp thờ trong khuôn viên chùa. Riêng chùa Chúc Thánh vẫn có tháp của Tổ nhưng chỉ là tháp vọng.

Chùa Chúc Thánh tại Quảng Năm được thiền sư Minh Hải Pháp Bảo hay Đắc Trí (1670 – 1754) khai sơn vào cuối thế kỷ 17, tọa lạc ở khu đồng bằng thanh tịnh, phong cảnh xanh tươi ở ngoại ô đô thị Hội An Dinh Quảng Nam. Cũng tại đây dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh được truyền bá rộng rãi. Hiện nay đệ tử của Ngài được phân bổ nhiều nơi, không những ở Việt Nam mà còn ở các nước khác như ở Úc có Hòa Thượng Như Huệ, Hòa Thượng Bảo Lạc. Ở Mỹ có Hòa Thượng Như Điền, Hòa Thượng Hạnh Đạo, Minh Mẫn. Ở Đức có Hòa Thượng Như Điển, các vị cũng theo gót các vị Tổ truyền bá Phật pháp làm lợi lạc cho chúng sanh.

Hiện nay theo lời của Thượng tọa Như Tín trụ trì tại Hưng Long Cổ Tự là trưởng môn phái Chúc Thánh tại Quảng Nam nói rằng Tổ xuất bài kệ :

Minh thiệt pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Chúc thánh thọ thiên cửu

Kỳ quốc tộ địa trừng .

Bài kệ này dùng để đặt pháp danh cho các đệ tử xuất gia thuộc phái Lâm Tế Chúc Thánh. Bài kệ thứ hai dùng thế độ cho các đệ tử tại gia.

Đắc chánh luật vi tông

Tổ đạo giải hành thâm

Giác hoa bồ đề thọ

Sung mãn nhơn thiên trung .

Bài kệ này đến nay được truyền đến chữ “thọ”. Ngoài ra còn có bài kệ thứ hai, không biết tổ xuất kệ từ đâu, dòng kệ này được truyền thừa tại Bình Định. Bài kệ như sau:

Minh thiệt pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Vạn hữu duy nhất thể

Quán liểu tâm cảnh không

Giới hương hành thánh quả

Giác hải dẫn liên hoa 

Tín tấn sanh phước huệ

Hành trí giải viên thông

Ảnh nguyệt thanh trung thủy

Vân phi nhập khứ lai

Đạt ngộ vi diệu tánh

Hoàng khai tổ đạo trường

Tóm lại, dòng kệ Chúc Thánh tồn tại cho đến ngày nay được các hàng đệ tử của Tổ lưu truyền theo bài kệ Ngài đã xuất. Tính đến nay hàng đệ tử của tổ không sao đến cho hết được. Chúng ta hàng hậu lai, khi nghĩ đến công hạnh của các vị tổ thì không thể dùng văn tự diễn tả cho hết được. Các Ngài đến là đến với hạnh nguyện và đi là thì trở về với bản thể. Do đó những người hậu lai muốn đi tìm lại lịch sử của chư tổ để biết được cội nguồn, biết được công hạnh của chư tổ để mà noi gương, để mà học hỏi, để biết được cội nguồn của mình. Hiện nay những ngôi chùa mà Tổ đặt chân khai sơn tại Quảng Nam có thể kể đến như chùa Chúc Thánh, chùa Phước Lâm, chùa Vạn Đức. Người viết muốn thành kính đảnh lễ giác linh của Tổ “Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Tứ Thế Húy Minh Hải Thượng Đắc Hạ Trí Hiệu Pháp Bảo Tổ Sư”.

 

CHƯƠNG 2: PHẬT GIÁO VỚI VĂN HÓA

 

Chúng ta thật sự vui mừng và tự hào rằng Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đức và văn hóa Việt Nam như thi sĩ Hồ Dzếnh đã viết:

“Trang sử Phật đồng thời là trang sử Việt

Trải bao độ hưng suy, có nguy mà chẳng mất.”

Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch. Song đến thế kỷ thứ III mới truyền bá sâu rộng trong nhân gian do các vị tăng Ma Ha Kỳ Vực (Maha – Jivaka), Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương (Kalaruei). Từ đây có Kinh dịch chữ Phạn (Sanskrit) ra chữ hán. Như thế, Phật giáo đã thấm nhuần lan rộng trong quần chúng, mặc dù đất nước đang bị ngoại xâm cai trị. Trung tâm văn hóa Luy Lâu chính là nơi các vị sư Ấn Độ đến truyền đạo. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu là trụ sở của Giao Chỉ, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng Việt Nam, tức huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc ngày nay. Từ đây có những tuyến đường thủy bộ nối với Bành Thành và Lạc Dương. Các nhà buôn người Ấn Độ và người Trung Á đến buôn bán ở đây rất sớm và theo sau họ các nhà sư đến hành đạo và truyền đạo.

Sách Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam cũng đã kết luận: “Đạo Phật từ Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau mới do từ Trung Hoa truyền xuống”. [11,23]

Sách “Thiền uyển tập anh ngữ lục” (được soạn từ cuối thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIII) ghi chép về tình hình Phật giáo Luy Lâu trong buổi đầu khá rõ ràng. Cuốn sách có đoạn khi Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan) nhà Lý hỏi thiền sư Trí Không (quốc sư Thông Biện) về đạo Phật truyền vào xứ ta từ khi nào, nhà sư đã trình bày vắn tắt lịch sử truyền Phật giáo ở nước Trung Hoa và nước ta rồi dẫn lời sư Đàm Thiên người Trung Hoa trả lời vua Tùy Văn Đế về Phật giáo Giao Châu: “xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo vào Trung Quốc chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta”. [35, 31]

“Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái viết vào thời Trần có chuyện Chử Đồng Tử, chàng trai nghèo ở đầm Dạ Trạch (Hưng Yên), kết duyên với công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng. Sau đó, Chử Đồng Tử trên đường đi buôn, chàng đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều trên đảo Quỳnh Viên. Nhà sư giảng đạo cho Đồng Tử, Đồng Tư đã giác ngộ đạo Phật được nhà sư Ấn Độ cho một chiếc gậy và một nón lá để có thể chóng gậy úp nón lên làm phép cầu mưa cầu nắng. Khi trở về Chử Đồng Tử đã truyền Phật pháp cho công chúa Tiên Dung và nhiều người khác”. [11,10] 

Câu chuyện trên là phần nào cũng đã phản ảnh Phật giáo du nhập vào đồng bằng Bắc bộ khá sớm trước khi tiếp nhận văn hóa Trung Hoa. Vì Phật giáo trực tiếp với người Ấn Độ nên thời ấy dân Việt Nam gọi Phật là ông Bụt bởi từ chữ Buddha mà ra về sau khi Phật giáo đã qua Trung Hoa thì Buddha đựơc phiên âm qua tiếng hán là Phật Đà và để lại tiếng Phật được phổ biến sử dụng. Trong khi đó dân gian cũng vẫn gọi Phâỉt là ông Bụt. Như vậy qua những dẫn chứng trên, chúng ta biết được Phật giáo được truyền từ Ấn Độ sang nước ta rất sớm. Trước đó, lớp người cai trị đem Khổng giáo dạy dân. Song Khổng giáo đến do giai cấp thống trị áp đặt nên không phổ biến quần chúng. Phật giáo đến với dân tộcViệt Nam từ lòng hâm mộ kính ngưỡng của quần chúng, nhất là quần chúng ỡ thôn quê, vì Phật giáo dễ dung hội với tín ngưỡng dân tộc nên được quần chúng chấp nhận dễ dàng.

Trong mấy ngàn năm đạo Phật tồn tại ở Việt Nam, tuy đã hết một ngàn năm Trung Hoa đô hộ thì ta không thể không bị ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa. Nhưng Phật giáo Việt Nam vẫn giữ được bản sắc của mình chính là nhờ nó khéo thích ứng với hoàn cảnh lịch sử, địa lí và văn hóa của dân tộc, biến thành một cái gì gần gũi nhất, thân thương nhất của dân tộc Việt Nam.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam đến nay đã hơn hai ngàn năm. Trong suốt thời gian ấy, sự hoạt động truyền bá của Phật giáo trong lòng mỗi người dân Việt đã để lại trên đất nước ta biết bao tiếng nói văn hóa, những ngôi chùa tháp, những pho tượng thờ nói về kiến trúc, mỹ thuật, về ý nghĩa xã hội. Những nếp nghĩ, nếp sống theo Phật giáo của người dân Việt được biểu hiện ra ý thức, tư tưởng, quan niệm nhân sinh, đời sống chính trị, nếp sống tâm linh v.v… và một mảng lớn là Phật giáo để lại đối với văn học Việt Nam.

Chúng ta nhận thấy rằng Phật giáo Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa, nhưng đạo Phật hội nhập vào văn minh Việt Nam là cả một quá trình lâu dài mãi cho đến ngày nay và vẫn tiếp tục, đó là sự hòa mình của đạo Phật, với tư thế là một luồng văn hóa ngoại lai vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Có thể nói đó là quá trình đạo Phật dần dần được bản địa hóa, Việt Nam hóa, biến thành một phần cơ thể của nền văn minh Việt Nam.

Khi nói đến truyền thống văn hóa Phật Giáo Việt Nam là nói đến những gì tốt đẹp, cởi mở giàu nhân tính mà từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam đã đem lại cho con người việt Nam, cho đất nước Việt Nam, giúp cho đất nước giữ vững được quyền tự do độc lập, phát triển một nền kinh tế và văn hóa thịnh vượng giàu bản sắc dân tộc.

2.1. Ảnh hưởng Phật giáo đối với văn minh Việt Nam:

Từ chiều sâu lịch sử và không gian mở rộng, nói về Phật giáo ở Việt Nam xa xưa người Chăm cũng mộ Phật, với khu thánh địa Đồng Dương (Quảng Nam) được xây lên để thờ Phật (nhưng nay thì không còn nữa). Như vậy, Phật giáo mà xa xưa kia vua chúa và người dân Chăm hâm mộ đã không còn duy trì nữa.

Vào thế kỷ thứ XVII, XVIII trong phong trào phản Thanh phục Minh, một số ít người Hoa đi vào Nam bộ, họ cũng dựng một vài ngôi chùa Ông, chùa Bà nhưng tất cả đều mang tính đạo quán nhiều hơn. Gần đây Phật giáo cũng lan rộng lên một số dân tộc ít người. Ở người Mường Hòa Bình với số ít am thờ Bụt đực, Bụt cái. Người Tày Nùng ở Lạng Sơn, Tuyên Quang cũng đã có số ít ngôi chùa, kiến trúc điện thờ sơ sài. Hiện tượng Phật giáo ở các dân tộc ít người mới chỉ là thoảng qua đối với văn hóa lâu đời của họ. Trong khi đó lâu dài nhất, sâu rộng nhất trên lãnh thổ Việt Nam ở đâu có người Việt (Kinh) cư trú là ở đó có Chùa thờ Phật.

Đạo Phật có nguồn gốc tại Ấn Độ, một nước có truyền thống văn hóa lâu đời. Ngay ở Ấn Độ, đạo Phật cũng xuất hiện với một tư thế là một hệ tư tưởng tiến bộ cách mạng, làm lay chuyển đến tận gốc giá trị truyền thống của Bà La Môn giáo và tôn giáo chính thống đương thời của Ấn Độ.

“Sau đó, Phật giáo du nhập vào Trung Hoa và Việt Nam vào thời điểm đế chế nhà Hán suy tàn, có nghĩa là Khổng giáo chỗ dựa tinh thần của đế chế đó cũng bị đánh mất vị trí, hệ tư tưởng chủ đạo đối với nhân dân Trung Hoa. Đông đảo trí thức Trung Hoa xoay sang Lão Trang và thông qua đó hướng tới đạo Phật. Cuốn “Lý Hoặc Luận” do một nho sĩ Trung Hoa là Mâu Bác soạn vào cuối thế kỷ thứ II, là một tác phẩm điển hình nói lên cuộc đấu tranh thắng lợi Phật giáo chống lại Khổng giáo. Trong cuốn sách Mâu Bác đã ví đạo Phật như núi Thái sơn, với chim Phượng hoàng, với sông Hoàng hà và biển cả và ví Khổng, Lão với gò đống, với chim sẽ,với kênh ngòi, lạch. Mâu Bác cũng phản đối quan niệm truyền thống cho rằng Trung hoa có vị trí trung tâm của trời đất, Mâu Bác nói Ấn Độ chứ không phải Trung hoa có vị trí trung tâm vì Đức Phật sinh ra ở đó”. [5,106]

Như vậy, dân tộc Việt Nam tìm được ở đạo Phật một hệ tư tưởng mới, tiến bộ có thể dùng để đối trị hệ tư tưởng Khổng giáo vốn là chỗ dựa tinh thần của nền đô hộ Trung Quốc đối với Việt Nam.

Đạo Phật cho rằng tất cả chúng sanh đã có sẵn mầm giác ngộ trong mình tức là Phật tánh cho nên đều có thể thành Phật trong tương lai, đều bình đẳng trước chân lý. Đức Phật dạy: “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ. Không có giai cấp trong dòng nước mắt cùng mặn như nhau. Vì tất cả mọi người đều bình đẳng về mặt tính chất, bản thể và bình đẳng về sự hiện hữu của mình tại thế gian nầy” [23,57]. Vì vậy, tính bình đẳng, hình thức bình đẳng và khả năng bình đẳng là những định thức căn bản trong giáo đoàn của Phật tử từ ngàn xưa cho đến ngàn sau. Đức Phật dạy: “Như nước bốn sông khi đổ vào biển cả đều xả bỏ tên riêng. Bốn thành phần trong xã hội (Ấn Độ), khi xuất gia, vào trong giáo đoàn của Phật thì đều gọi là con nhà họ Thích, và đều chứng được pháp phần của Phật, là đệ tử Phật”. Nói khác đi, ca dao Việt Nam có câu:

“ Mỗi người mỗi nước mỗi non

Khi đến cửa Phật như con một nhà”.

Những tư tưởng ấy đã khắc sâu vào tâm lý của đông đảo nhân dân Việt Nam và từ đây giúp họ có một sức mạnh đoàn kết, hòa hợp đứng dậy phất cờ khởi nghĩa giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của Trung hoa. Điều này cho chúng ta thấy trong những triều đại độc lập đầu tiên như Đinh và tiền Lê trọng dụng tăng sĩ, nhiều thiền sư tham gia vào hoạt động chính trị như thiền sư Ngô Chân Lưu đóng góp rất nhiều trong việc xây dựng triều chính mà đã được Vua Đinh Tiên Hoàng phong là Khuông Việt đại sư. sư Pháp Thuận có tài đối đáp mà được vua Lê Đại Hành cử làm công việc đón tiếp sứ thần nước ngoài. Sư Vạn Hạnh có tài mưu lược giúp Lý Công Uẩn lập nên triều Lý. Tuy nhiên những triều đại này không phải là những triều đại Phật giáo đích thực. Các vua Đinh và Tiền Lê trọng dụng tăng sĩ, sử dụng Phật giáo chứ không là Phật tử. Việc họ tiếp tục sử dụng những hình cụ độc ác như vạc dầu, chuồng hổ cho thấy họ còn xa lạ với hạnh từ bi của Phật giáo, họ thiên về pháp trị chứ không phải đức trị, mà đức trị là đặc sắc của đường lối trị nước của Phật giáo.

Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, là mộỉt Phật tử thuần thành, ông liền cho bỏ hết tất cả những hành cụ trong ngục, cho xây dựng nhiều chùa mới trong nước. Lý Thánh Tông vị Vua thứ III của nhà Lý nổi tiếng nhân từ. Nói chung thời Lý Trần các ông vua đều lấy đức trị dân, đây là điều minh chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn hóa và chính trị – xã hội của dân tộc Việt Nam. Một điểm nổi bật nữa ở hai triều đại Phật giáo Lý Trần là có những ông Vua kiêm thiền sư, là những nhà học Phật uyên bác, viết sách giảng kinh không khác gì các cao tăng trong đạo như Lý Thái Tông học trò đắc pháp của thiền sư Thiền Lão và được suy tôn là tổ thứ 7 của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Lý Thánh Tông được suy tôn là tổ thứ 2 của phái thiền Thảo Đường và đặc biệt là hai ông Vua Trần Thái Tông dốc chí tu hành và viết nên tác phẩm nổi tiếng “Khóa Hư Lục”. Trần Nhân Tông đã trở thành vị tổ sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm.

Từ đây ta có thể thấy được sự nhập thế của đạo Phật, đã thấm sâu vào lòng người với tinh thần từ bi và trí tuệ, một khả năng thích ứng của một tôn giáo cởi mở không hẹp hòi, không giáo điều cứng nhắc. Tôn giáo của trí tuệ và tình thương, một tôn giáo không biết biên giới. Do đó mà trong tấm lòng rộng mở của đạo Phật không thể có chỗ cho thành kiến và mâu thuẫn chủng tộc, dân tộc, sắc tộc đẳng cấp và tôn giáo, tín ngưỡng. Nói gọn trong một câu đó là tôn giáo thực sự nhân bản, thật sự của con người, tôn giáo của sự đoàn kết và hài hòa, của hòa bình nội tâm và hòa bình xã hội.

2.1.1. Đạo Đức Phật giáo :

Như phần trên đã trình bày sơ qua về văn hóa. Văn hóa là những cái hay, cái đẹp, cái thiện. Là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử, là những biểu hiện phương thức sống của con người, là tổng hòa của mọi giá trị người. Ở đây, văn hóa đạo đức là những điều hay, đẹp, những tư tưởng, giá trị sống, những sáng tạo của con người được xã hội thừa nhận, là những quy định quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể. Nói chung văn hóa đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người.

Văn hóa đạo đức không phải chỉ có trong tôn giáo, mà nó có trong bất kì quốc gia nào, chủng tộc nào hay trong bất cứ một con người nào đều có đạo đức, đạo đức ấy là nếp sống phù hợp với cộng đồng, được cộng đồng chấp nhận và hướng tới thực hiện những cái hay, cái đẹp, cái mà làm cho con người được thăng hoa trong cuộc sống.

Có thể nói đạo đức là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý trí mà thiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều cấm làm, nêu ra một nguyên tắc tổng hợp để xếp loại và đánh giá các hành động. Đạo đức trong tôn giáo cũng không ngoài những điểm đã nêu trên, nhưng có điều đạo đức gắn với tôn giáo thường phát huy tác dụng vững bền và hiệu quả hơn. Phật giáo lấy con người làm trung tâm điểm giáo hóa. Những con người hiện đang có mặt, hiện đang tồn tại trên cuộc đời này nên nói : “Giáo hóa chúng sanh là đền ơn chư Phật”. Mục đích của đạo Phật là giáo dục con người đầy đủ đạo đức, chuyển hóa con người từ xấu đến tốt, từ ác trở thành thiện, từ mê mờ đến giác ngộ. Vì vậy vấn đề đạo đức là vấn đề không thể thiếu trong đạo Phật.

Xuất phát từ những nhận thức sai lầm, do vô minh điên đảo nên con người mới đắm mình trong đêm trường tăm tối, khắc khoải, chịu bao nỗi thống khổ để rồi phải lưu chuyển mãi trong lục đạo luân hồi. Đến một ngày, một vĩ nhân xuất hiện với lời dạy : “này các Tỳ kheo, đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt và đây là con đường diệt khổ”. Lời tuyên bố trên của đức Phật nêu lên hoài bảo tha thiết của Ngài là cứu khổ độ sanh, diệt hết mọi khổ ưu, đem hỷ lạc đến cho tất cả loài hữu tình. Như vậy, đạo đức của Phật giáo là nếp sống đem lại hạnh phúc và an lạc cho mọi loài chúng sanh, đặc biệt là loài người. Đây là một nếp sống chứ không phải là những lời dạy luân lý hạnh kiểm một cách máy móc thụ động mà là một nếp sống phải được hành trì, thực hiện, có như vậy thì mới thấy được hạnh phúc an lạc thiết thực ngay trong hiện tại.

Hình ảnh đạo đức trong đạo Phật được nhìn thấy qua nếp sống sinh hoạt của những người xuất gia tu hành, những người phật tử sống theo tư tưởng giác ngộ. Người xuất gia là người đại diện cho Phật pháp, đứng trong hàng ngũ của đức Phật, phải thừa hành Phật mà giáo hóa chúng sanh, nhiệm vụ của người xuất gia là “thừa như lai sứ, hành như lai sự”, tiếp nối chư tổ truyền đăng Phật pháp. Vậy điều trước tiên mà người xuất gia phải có là đạo đức, có đạo đức thì mới đủ nhân cách, đủ nghị lực hướng dẫn người khác và đem những cái đạo đức mà mình có chan rải đến tất cả mọi người với những lời dạy của đức Phật để làm phương châm cho chính mình và cho tất cả mọi người.

Đạo đức Phật giáo có thể thấy qua giáo lý Bát Chánh Đạo. Sỡ dĩ được gọi là Bát Chánh Đạo là vì con đường tám chi phần này do bậc thánh thực nghiệm và thực chứng, đồng thời con đường này có khả năng đưa mọi người từ chỗ bất an, lo lắng đến chỗ an lạc và hạnh phúc. Đã là người sống trên cuộc đời này không thể tránh khỏi những cám dỗ, những mánh khóe, những cái hơn, cái thua, cái hay cái dỡ, cái thiện cái ác v.v… luôn làm cho con người không phân định được. Thì đây, giáo lý Bát Chánh Đạo của Phật giáo có thể làm chuẩn mực, có thể làm điểm tựa để theo đó mọi người có thể thực hành thì sẽ có một cuộc sống an lành và hạnh phúc hơn. Bây giờ chúng ta tìm hiểu sơ qua tám con đường này.

Chánh kiến: Là sự thấy biết đúng như thật. Khi ta làm một việc gì, nếu ta có sự nhận biết đúng đắn thì kết quả lúc nào cũng được như ý. Theo Phật giáo thì sự thấy biết này có thể biết như thật về nhân quả, nghiệp báo, có thiện pháp ác pháp, thấy biết các pháp là vô thường v.v… và từ đây con người hành động đúng hơn.

Chánh tư duy: Nghĩa là tư duy, suy nghĩ đúng như thật các hành động mình sắp làm, tư duy một cách sâu sắc việc làm của mình có làm tổn hại đến ai không, tư duy như thật về những giáo lý nhân quả nghiệp báo, về vô thường sanh tử v.v… và như vậy mọi việc làm của mình sẽ được kiểm soát kỹ hơn.

Chánh ngữ: Là lời nói đúng thiện pháp, đúng với sự thật. Như không nói dối, không nói những lời thô ác, không nói những lời trau chuốt để lừa gạt người. Như vậy với chánh ngữ thì mọi người luôn dùng lời nói chân thật với nhau, làm cho cuộc sống này sẽ không có chiến tranh và hận thù. Vì vậy ca dao Việt Nam có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Chánh nghiệp: Là hành động đúng với thiện pháp, đúng với sự thật. Trong xã hội hiện nay, nếu ai ai cũng thực hành chánh nghiệp thì cuộc đời này sẽ đẹp biết bao. Trong giới luật của Phật tử tại gia có giới không trộm cướp, không tà hạnh v.v… Như vậy với chánh nghiệp của Phật giáo thì xã hội này sẽ giảm đi biết bao nhiêu chuyện tệ hại.

Chánh mạng: Là nuôi sống thân mạng với nghề nghiệp hợp pháp, lương thiện, làm lợi ích cho mình và cho mọi người.

Chánh tinh tấn: Là sự nỗ lực siêng năng thực hiện theo thiện pháp theo sự thật. Nhận rõ pháp vô thường mà luôn nỗ lực trong cuộc sống. Người xưa có câu: “Chớ hẹn tuổi già mới học đạo

Mồ hoang lắm kẻ tuổi xuân xanh”

Chánh niệm : Là sự suy tưởng, niệm tưởng đúng như thật, đúng thiện pháp.

Chánh định: Là sự nhất tâm vào một đối tượng đúng pháp, đúng với sự thật.

Như vậy với giáo lý Bát Chánh Đạo của Phật giáo sẽ giúp cho con người luôn được an lạc và hạnh phúc trong ba nghiệp thân, miệng, ý. Luôn chuyển đổi những tâm lý bất thiện thành thánh thiện. Từ đây mọi người có cuộc sống hạnh phúc hơn .

Đạo đức Phật giáo là nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng chính là một nếp sống đề cao con ngươiụ, đưa con người vào một vị trí tối thượng, xác định con người có khả năng đoạn trừ mọi khổ não, chấm dứt sanh tử luân hồi. Chính Đức Thế Tôn là cả một hình ảnh linh động về năng lực tự nội của con người, một con người tự mình đi tìm đạo, tự mình tu khổ hạnh không nhờ một thần lực nào. Với hình ảnh đó, với lời dạy đó người xuất gia cần phải tu dưỡng đạo đức bằng cách sống chan hòa, xóa bỏ mọi ham muốn của cá nhân, diệt trừ những tham, sân, si, mạn, nghi biết rõ đây là những tính xấu ngăn chặn thánh đạo, là những nguyên nhân làm tổn hại đạo đức, luôn sống một cuộc sống thiểu dục tri túc, thực hành những lời dạy của đức Phật một cách nỗ lực và luôn đem những lời dạy ấy, những kết quả, kinh nghiệm tu tập của mình, những kinh nghiệm sống, những cái hay, cái tốt, cái thiện rút ra từ giáo pháp để truyền trao, để chia sẻ, để hướng dẫn mọi người cùng hướng đến chân, thiện, mỹ. Như chúng ta được biết, con người do nhu cầu miếng cơm manh áo, gia đình v.v… nên luôn bị chi phối bởi hoàn cảnh, công việc, luôn chạy theo cuộc sống nên lúc nào cũng thấy tất bật, cũng thấy bận rộn để rồi có lúc đuối sức, căng thẳng, mệt mỏi, chán chường. Những lúc như vậy con người luôn cần có một khoảng không gian yên tịnh để nghĩ ngơi, để chiêm nghiệm về cuộc sống. Và từ đây hình ảnh giải thoát của các nhà sư, những cử chỉ an lạc, những lời pháp âm vi diệu về từ bi, về nhân quả, về nghiệp báo, về nhẫn nhục v.v… những lời dạy ấy từ từ đi vào lòng người như một cơn mưa rào làm tươi tỉnh biết bao cây cối đã từ lâu bị khô cằn. Từ đó họ được hun đúc bởi những giáo pháp ấy, những việc làm về từ bi bác ái, bố thí v.v… dần dần đã ăn sâu vào lòng người từ lúc nào không biết để rồi họ lại truyền trao cho nhau, sách tấn lẫn nhau làm tất cả những việc thiện mà họ có thể làm. Như vậy chúng ta thấy đạo đức qua tôn giáo đã đem đến cho con người cuộc sống an lạc và thánh thiện.

Từ một việc rất nhỏ như dắt người già qua đường, giúp một người khi họ gặp khó khăn, những việc như vậy cũng xuất phát từ những tấm lòng có đạo đức. Cũng từ ý này, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhắc nhở sinh viên rằng : “Việc gì phải thì cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Việc gì trái thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”. Như vậy, chúng ta thấy được đạo đức bắt nguồn từ những tấm lòng nhân hậu, những việc làm rất là tầm thường nhưng sẽ là nền tảng để tạo nên một khối lớn đạo đức lâu dài về sau. Ca dao Việt Nam có câu:

“Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người”.

Đạo đức Phật giáo với tinh thần từ bi là tình thương hoàn toàn vị tha, cốt đem lại sự an vui và làm vơi cạn nỗi đau của con người. Cho nên từ bi là nền tảng đạo đức của Phật giáo, là động cơ thúc đẩy con người làm mọi điều lành, ví như một dòng nước mát lành để cho mọi người tắm gội khi phiền não thiêu đốt, như bình nước cam lồ mát dịu ngọt ngào cứu nguy cho những người đang bị hoạn nạn. Tục ngữ Việt Nam có câu:

“Lá lành đùm lá rách”

Hay

“Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

Đó, tinh thần từ bi cũng thấy rõ qua ca dao tục ngữ, nói lên tinh thần thương yêu lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau. Với tinh thần ấy, ngày nay ta thấy nhiều hội từ thiện luôn sẵn sàng chia bùi sẻ ngọt với bất cứ nơi nào gặp khó khăn hoạn nạn. Như vậy, những việc làm ấy cũng đều xuất phát từ những tấm lòng đạo đức vậy.

Đạo đức Phật giáo với lý nhân quả nghiệp báo giúp cho con người có nhiều đức tính tốt hơn. Bởi nhân quả có tính chân thật, tính bình đẳng, tính khoa học. Đạo Phật nói nhân quả phần lớn là ứng dụng vào đạo đức nơi con người, do biết rõ mọi sự việc xảy ra đều từ nhân mà thành quả, không có một quả nào ngẫu nhiên mà có, không một thế lực thiêng liêng nào tạo ra, tất cả đều do con người gieo nhân rồi con người tự gặt quả, biết rõ điều này mỗi khi một việc tốt hay xấu xảy đến, chúng ta cũng không vội mừng hay hoảng sợ mà hãy bình tĩnh suy tìm nguyên nhân chính nơi mình. Từ đây, con người biết rõ nhân quả do chính mình gây thì chính mình nhận lấy. Vì vậy không ai muốn gieo hạt nhân xấu để rồi phải gặt quả xấu, từ lý nhân quả này nên ai ai cũng muốn gieo những hạt giống ngọt, những mầm tốt hầu hái được quả ngọt. Do đó, những cái nhân xấu sẽ không còn xảy ra trên cuộc đời. Đây chính là Đạo đức Phật giáo vậy. Những câu tục ngữ dưới đây cũng mang đầy ý nghĩa đó:

“Ở hiền gặp lành” hay “Ác giả ác báo”. Vì vậy con người rất sợ những quả báo không tốt. Có như vậy cuộc đời này sẽ vơi bớt những khổ đau, những chiến tranh, những tệ nạn v.v… làm cho cuộc sống này mỗi ngày được an lành hơn.

Một vấn đề nữa, Đạo đức Phật giáo được thấy qua tinh thần nhẫn nhục. Đức Phật dạy: “nhẫn nhục đệ nhất đạo”, khi đề cập đến vấn đề này, nhẫn nhục không phải là tinh thần khiếp nhược yếu hèn, cúi đầu cam chịu những nhục nhã mà người khác gây đến cho mình. Nói cho đúng, nhẫn nhục là sự nhẫn nại, là một sức chiến đấu phi thường nơi chính mình. Người ta thường nói: “một điều nhịn chín điều lành”, nếu sự nhẫn nại của mình mà giúp ích được nhiều điều lành như vậy thì đây là một chân lý sống. Trong kinh Pháp Cú có câu: “chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình, tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”. Con người có nhiều thói hư tật xấu, chiến thắng mình là khắc phục những tính lười biếng, giả dối, tham lam, sân hận, tình cảm si mê. Chiến thắng mình là chế ngự những dục vọng thấp hèn để làm phát triển những tình cảm cao đẹp như lòng vị tha, tình nhân ái, ý thức trách nhiệm đối với tập thể. Như vậy tự chiến thắng mình là cuộc chiến vô cùng khó khăn vì những kẻ thù ở trong ta vô ảnh vô hình, nó thường lẫn tránh một cách tinh ma, nó là ông thần tự ái trong ta, bao che, giúp đỡ, thắng được địch thủ lợi hại như vậy quả là oanh liệt, có như vậy ta mới làm chủ được mình sau mới làm lợi ích cho người khác. Nếu muốn làm lợi ích cho người mà chúng ta không khắc phục được mình thì những điều lợi ích ấy sẽ không được lâu dài thiết thực. Vì thế có nhẫn nhục mới có thể thực hiện được lòng từ bi, chính nhẫn nhục là căn bản đạo đức không thể thiếu được trong Đạo Phật.

Tóm lại vấn đề đạo đức Phật giáo luôn đem những cái tốt, cái thiện đến cho mọi người, giúp cho con người có cuộc sống thánh thiện hơn. Vì thế vấn đề đạo đức Phật giáo ở nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII đã ghi: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và còn tồn tại lâu dài. Đạo đức tôn giáo có những điều phù hợp nhất định với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Như vậy đạo đức của Phật giáo đã đi vào lòng người, đã thấm sâu vào lòng người, giúp cho con người hướng đến lý tưởng cao đẹp hạnh phúc.

2.1.2. Văn hóa tâm linh:

Theo dòng lịch sử trải qua hơn hai ngàn năm nay, Phật giáo với tư tưởng bình đẳng, từ bi, bác ái, với thuyết luân hồi chuyển kiếp đã sớm được người Việt tiếp thu, ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa tinh thần tâm linh, đến niềm tin thiêng liêng ở người Việt.

Người Việt với bản chất là nông dân lúa nước và nương rẫy, chăn nuôi gia súc gia cầm, trọng nhân nghĩa, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Phật giáo với tính chất từ bi hỷ xả, nêu cao hạnh cứu khổ cứu nạn cho nhân loài nên đã được người Việt sớm tiếp thu một cách sâu rộng, triển khai Phật giáo thành một mảng sinh hoạt văn hóa đậm nét kéo dài mãi cho đến hôm nay.

Khi nói đến văn hóa tâm linh, ta nghĩ ngay đến những cái gì đó thiêng liêng, sâu thẳm mà không thể diễn tả hết được. Bất luận là già hay trẻ, trai hay gái thì từ trong sâu thẳm của tấm lòng mỗi người vẫn có một phần tâm linh ẩn hiện. Chúng ta có thể hiểu tâm là tâm niệm, là niềm tin. Linh là linh thiêng, là cái thiêng liêng cao cả. Như vậy văn hóa tâm linh là ý thức của con người về sự linh thiêng cao cả, đời sống tâm linh là sự thiêng liêng thần linh và hồn thiêng sông núi thường trực trong ý thức con người qua tín ngưỡng tôn giáo, được biểu hiện ra qua sự thờ tự và hoạt động nghi lễ.

“Nội dung văn hóa tâm linh là đề cập đến niền tin, cái thiêng liêng cao cả. Do đó khái niệm văn hóa tâm linh có thể hiểu: văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”. [10,24]

Vấn đề tâm linh không chỉ có ở các tôn giáo, mà nó biểu hiện trên bất cứ lãnh vực nào, trong bất cứ con người nào dù họ không theo tôn giáo. Trong cuộc sống hằng ngày vẫn thấy rõ con người ít ai không có một phần tâm linh, một niềm tin thiêng liêng nào đó. Mặc dù họ không theo tôn giáo nhưng hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 3, dù chẳng đến được núi Lĩnh đền Hùng nhưng trong lòng mỗi người dân Việt cũng nhớ đến một ý niệm thiêng liêng về giỗ tổ Hùng Vương. Mặc dù không theo tôn giáo, không theo Phật nhưng cũng ít ai không một lần đến lễ Thần lễ Phật vào những dịp xuân về.

Trong cuộc sống hiện nay chúng ta thấy rõ thường thường gia đình nào, một gian bán hàng kinh doanh làm việc nào lại không có một góc nhỏ đặt một bát nhang cầu cúng một vị thần hộ mệnh nào đó, với một lòng thành cầu khẩn cầu nguyện đuợc an ổn. Đây là một sự cầu cúng một niềm tin thiêng liêng cao cả về tổ quốc, anh linh về Bác Hồ vĩ đại, về Đảng, nhà nước v.v…

Mỗi con người sống trên cõi đời này bất luận sang hèn đều có một phần tâm linh, mặc dù phần tâm linh ấy không thấy được. Như có một người được một người bạn thân hy sinh tính mạng để cứu lấy tính mạng mình trong cơn nguy kịch, và như vậy người này suốt đời luôn mang trong mình hình ảnh thiêng liêng của bạn lúc ngã xuống nên nguyện trong lòng sẽ không làm bất cứ chuyện gì trái đạo, trái với lương tâm để phải hổ thẹn với vong linh người bạn. Không ít những chiến sĩ cách mạng, biểu tượng về đảng, tổ quốc thiêng liêng đã giúp cho họ có thêm sức mạnh vượt qua những hà khắc của gông cùm, những khủng bố, tra tấn dã man của địch trong nhà tù đế quốc. Trong chiến tranh không ít người đã hy sinh, đã mất tích và những kỷ vật họ để lại, những hình ảnh của người chồng, người con đã hy sinh đã trở thành hình ảnh thiêng liêng tạo nên niềm tin, sức mạnh cho nhiều người vợ, người mẹ vượt qua mọi cám dỗ, khủng bố của Mỹ Diệm, kiên trinh với cách mạng cho đến ngày toàn thắng. Mỗi người trong chúng ta khi vào thăm nơi ở và làm việc của Bác Hồ trong phủ Chủ Tịch thì tất cả đều mong muốn được thắp nén nhang để tưởng nhớ Bác, ấy là nhu cầu tâm linh dấy lên niềm tin thiêng liêng đối với Bác. Tất cả những điều trên nói lên đời sống tâm linh về một niềm tin, lý tưởng cao cả mà xã hội thừa nhận.

Trong cuộc sống gia đình, phần tâm linh cũng khá phổ biến, không một gia đình nào lại không có bát nhang để thắp hương tưởng nhớ ông bà tổ tiên. Ngày xưa dân ta có câu:

“Sống về mồ về mả

Ai sống về cả bát cơm”.

Trong cuộc sống gia đình, cái cần cho sự tồn tại cuộc sống con người không phải chỉ có bát cơm mà phần tất yếu nữa đó là phần mồ mả, bát hương thờ cúng ông bà tổ tiên thiêng liêng, có sức mạnh truyền lệnh tập hợp con cháu trong mỗi gia đình, gia tộc xưa và nay. Hằng ngày chúng ta thường nghe những thông tin trên đài phát thanh về việc nhắn tin tìm mộ liệt sĩ, những việc làm như vậy cũng không ngoài việc tìm lại sự mất mát trong tâm linh người sống, đó là hình ảnh thiêng liêng của người ruột thịt mất đi, còn đọng lại ở một biểu tượng nấm mồ. Như vậy có thể nói bàn thờ tổ tiên là biểu tượng máu thịt thiêng liêng, là phần tâm linh bao trùm, lôi cuốn người ta quây quần đoàn tụ nhớ về cội nguồn, duy trì những giá trị thiêng liêng chuyển giao cho con cháu.

Vấn đề tâm linh trong Phật giáo ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người. Đức Phật nêu lên niềm tin vào thuyết vi tạo giả, không có thần linh nào tạo ra muôn vật, con người ở thuyết vô thường, vạn vật luôn biến đổi. Một tôn giáo có khả năng thích ứng, cởi mở, không hẹp hòi, không giáo điều cứng nhắc, tôn giáo của trí tuệ và tình thương, một tôn giáo không biết biên giới. Trong sinh hoạt hằng ngày, tăng sĩ và cư sĩ Phật giáo phải làm hết sức mình để truyền đạt tới mọi người, mọi gia đình những giá trị tâm linh và đạo đức của đạo Phật. Hình ảnh ông Bụt, nhà sư, ngôi chùa vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam, cho nên tiếng nói của Phật giáo rất thân thiết và gần gũi, dễ thấm vào lòng người.

“Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông”.

Thật đẹp, hình ảnh hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông được giữ gìn dưới mái chùa. Ở nông thôn, nếp sống và nhịp sống của bà con nông dân từ một thời rất xa xưa đã quyện chặt với nếp sống của nhà Chùa, của Phật giáo và chất siêu tục toát lên từ nếp sống đó, hẳn đã giúp cho người dân Việt Nam khi cần có thể vượt lên những cái tầm thường của đời sống thế tục như cái danh, cái lợi, hướng tới những giá trị tâm linh cao cả mà nếu thiếu chất vị ấy thì đời sống con người buồn tẻ và vô vị lắm.

Chúng ta có thể nhận thấy vào thời nhà Lê, Nho giáo được đề cao. Năm 1461 vua Lê Thánh Tông ra lệnh cấm xây thêm chùa quán, vua cho sát hạch sư sãi, ai đủ trình độ mới tiếp tục tu hành. Nhưng vua vẫn chấp nhận dựng đàn chay trong các chùa ở kinh đô để cầu mưa. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị đời Nguyễn ra lệnh cấm các đình thần tham gia vào Phật pháp, trong khi đó các bà hoàng hậu, hoàng phi vẫn thờ Phật, lễ Phật trong cung điện. Như vậy đủ cho ta thấy dẫu bề ngoài có cứng nhắc bao nhiêu đi nữa, thì trong sâu thẳm của cõi lòng vẫn có một chỗ niềm tin về tâm linh ngự trị. dù nơi này nơi khác, lúc này lúc khác, qua bao biến đổi, qua chiến tranh, khí hậu khắc nghiệt v.v… nhưng chẳng thời nào dứt được tiếng mỏ tụng kinh trong chùa.

Chùa là ý niệm rất gần gũi với con người, từ trong nếp sống, nếp nghĩ của con người, người ta đều luôn xem chùa là nơi dừng nghỉ của những âm linh quá cố, ở nông thôn mỗi ngôi làng đều có một chùa.

“Quê em có gió bốn mùa

Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm

Chuông hôm, gió sớm, trăng rằm

Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi”

Thật gần gũi và giản dị với con người, chùa là nơi để người ta dừng nghỉ những phiền muộn lo toan, để cho tâm tư lắng đọng. Chúng ta hãy suy nghĩ những câu thơ của Nguyễn Bính:

“Trên đường cát bụi một đôi cô

Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa

Gậy trúc dắt bà già tóc bạc

Tay lần tràng hạt niệm nam mô”

Văn hóa tâm linh cũng đã để lại biết bao giá trị văn hóa qua những kiến trúc nghệ thuật, những không gian thiêng liêng của các pho tượng Phật, những giá trị văn hóa tinh thần qua các nghi lễ, những ý niệm thiêng liêng trong ý thức con người.

2.1.3. Tín Ngưỡng:

Từ khởi nguyên lịch sử nhân loài nói chung và lịch sử dân tộc nói riêng, khi con người chưa có điều kiện giao tiếp, khi giao thông chưa đầy đủ thuận tiện, khi con người chưa hiểu biết lẫn nhau thì hình thức tín ngưỡng của mỗi dân tộc, mỗi địa phương được tôn trọng tuyệt đối.

Khi nói đến tín ngưỡng là nói đế sự sùng tín, nói đến sự thờ phụng, nói đến việc thi hành những nghi thức đặt ra bởi một phong tục tập quán bởi một tôn giáo. Mỗi nghi thức đều khác nhau, tùy theo tín ngưỡng của các tôn giáo mà có nghi thức khác nhau theo sự thờ cúng các vị thần linh v.v… Người Việt từ xưa đến nay theo nhiều tôn giáo, đối với bất cứ một tôn giáo nào khi người ta tin theo thì đều có sự ngưỡng mộ, cung kính và tin tưởng. Ngoài các tôn giáo ra, dân ta còn kính thờ tổ tiên, thờ kính các vị anh hùng của dân tộc và thờ bất cứ người nào đã có ơn với tổ tiên của họ.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và nhân dân ta chấp nhận dung hòa các tôn giáo nếu tôn giáo đó không đi ngược lại với căn bản đạo đức của dân tộc, không chống lại những điều đã được tổ tiên công nhận. Ngay từ trong văn hóa Đông Sơn, qua truyền thuyết và các hiện vật khảo cổ nhất là trống đồng, người Việt cổ đã có những tín ngưỡng phổ quát được bám rễ sâu rộng trong nhân dân. Về tín ngưỡng trong nhân gian thì có rất nhiều, nhưng ở đây chỉ nêu một vài tín ngưỡng tiêu biểu mà thôi.

Tín ngưỡng mặt trời: Với nền kinh tế công nghiệp trồng lúa là chính nên con người Việt cổ rất coi trọng và phụ thuộc vào nước và ánh sáng. Từ đây hình thành tín ngưỡng thờ mặt trời và các hiện tượng tự nhiên có liên quan. Trên tất cả các mặt của trống đồng, hình mặt trời bao giờ cũng được đúc nổi lên, cao hơn ở vị trí trung tâm trang trọng nhất. khi tiếng chuông vang lên là sự hô cầu của mọi người để rồi trời cao hưởng ứng với tiếng báo hiệu trời mưa. Vì vậy họ rất chí thành, tin tưởng đến thần mặt trời và luôn tôn trọng những tiếng chuông ấy mỗi khi cất lên.

Tín ngưỡng Mẫu: Các hiện tượng trực quan là Mây – Mưa – Sấm – Chớp được xem là các vị thần – bà đỡ của nghề nông mà người ta thường gọi là các Bà trong tín ngưỡng về Mẫu. Cho đến khi Phật giáo du nhập vào nước ta, trong phương thức tồn tại thì cộng sinh ngay với tín ngưỡng bản địa thì các bà Mây, Mưa, Sấm, Chớp được xem là con Phật đầy phép huyền nhiệm với tên Hán Việt là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện mà mọi người gọi chung là Tứ Pháp. Với huyền thoại và nguồn gốc của tứ Pháp là người mẹ Việt Nam – Man Nương trở thành Phật mẫu. Trên cơ sở tín ngưỡng Mẫu ấy, dân tộc ta đã có những anh hùng cứu nước đích thực đầu tiên là hai Bà Trưng, Bà Triệu với rất nhiều nữ tướng tài ba. Từ nguồn mạch ấy dân tộc ta tin vào triết lý “phúc đức tại mẫu” và mọi người đều xác định “nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Tín ngưỡng tổ tiên: Theo quan niệm của dân ta, tổ tiên sống ở thế giới bên kia nhưng vẫn theo dõi để phù hộ hay quở trách con cháu, do đó con cháu phải thờ cúng tổ tiên và ngày giỗ người thân trong gia đình trên hình thức tưởng niệm là cả một sinh hoạt văn hóa để mọi người cùng “uống nước nhớ nguồn”. Dù ở đâu, khi ngày cúng giỗ thì tất cả con cháu đều chí thành hướng lên bàn thờ thắp nén nhang tưởng niệm tổ tiên sinh ra mình. Từ đây bất cứ gia đình nào đều chọn phần trang trọng nhất trong ngôi nhà của mình để đặt bàn thờ tổ tiên và lấy việc chăm sóc phần mộ tổ tiên làm trọng, hàng năm đều có tảo mộ. Chính tín ngưỡng thờ tổ tiên này đã gây cho nhiều người một ý thức đoàn kết và trọng đạo hiếu của người con, bên cạnh đó còn bao hàm với ý nghĩa sống sao cho sáng danh tổ tiên và con cháu sau này không hổ thẹn và có ích cho xã hội. Trên đây là nói đến những tín ngưỡng dân gian mà từ xưa cho đến ngày nay vẫn ăn sâu vào lòng người mà con người luôn chú trọng, thành kính tôn thờ bởi nó không chống lại những điều mà từ lâu đời tổ tiên ta đã công nhận.

Tín ngưỡng trong Phật giáo là thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, một con người lịch sử, một con người như bao triệu người khác, cũng chịu những điều đã có là sinh, lão, bệnh, tử, cũng phải chấp nhận sự chi phối của nóng, lạnh v.v… Nhưng ở người đã đạt đến sự chứng ngộ do thiền quán, sự tu tập trải qua bốn mươi chín ngày nhập định dưới cội bồ đề để rồi bừng sáng lên một con đường giác ngộ, con đường Trung đạo và con đường ấy trải qua hơn hai mươi thế kỷ vẫn là chân lý, vẫn là lẽ sống của hàng triệu triệu con người.

Ngược dòng thời gian, đạo Phật trong thời Lê Mạc lâm vào trang thái suy đồi, nhưng đứng về phương diện tín ngưỡng dân gian thì đạo Phật trong thời ấy vẫn được phát triển. Trong tín ngưỡng Phật giáo đại chúng những vấn đề ăn chay, phóng sanh, giữ giới và chẩn tế là những việc làm mang lại công đức cho bản thân và cho gia đình. Hơn nữa muốn họ dựng công đức thì phải phát nguyện làm chùa xây tháp, đúc tượng, in kinh. Giới tín đồ đại chúng luôn hành đạo theo đường lối ấy. Họ tin rằng sẽ được nhiều phước báo, nhiều công đức bởi vì đức tin về nhân quả báo ứng càng ngày càng ăn sâu vào lòng họ. Với ý nghĩa ấy, họ ra sức xây chùa, lập tháp đến nỗi năm 1464 vua Lê Thánh Tông phải ra lệnh cấm xây thêm chùa mới. Mặc dù vua ra lệnh cấm, nhưng đức tin của quần chúng quá mạnh nên phải tác động đến hành động của vua quan. Trong thời Lê thường xảy ra nhiều vụ hạn hán, những nho thần kỳ thị đạo Phật không ưa việc tổ chức tụng kinh để cầu mưa và vì vậy những hiện tượng như mưa, lụt, hạn hán, sâu ăn lúa v.v… theo quần chúng chính là do nhà Vua, các quan ăn ở thất đức mà ra. Vì vậy vua quan phải chiều theo ý dân mà tự trách, sám hối, thả tù nhân, làm chay, đảo vũ. Mùa hạ năm 1434 buộc lòng vua Lê Thánh Tông sai các quần thần rước Phật từ chùa Pháp Vân về kinh đô để làm lễ cầu mưa, cho phóng thích một số tù nhân, lại dựng trai đàn chẩn tế ngay trong điện Cần Chánh để tu tạo công đức cầu mưa. Rằng tháng bảy năm ấy vua lại tổ chức đại lễ Vu Lan mời chư tăng đến cầu nguyện, cúng dường. Như vậy tín ngưỡng của đại chúng tín đồ đã làm lay chuyển đến tư tưởng của vua quan thời phong kiến thiên về đạo Khổng.

Lại nữa vào mùa hạ năm 1448 có hạn hán lớn, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho tất cả các quan văn quan võ phải ăn chay và giữ mình cho trong sạch để tới chùa Báo Ân ở cung Cảnh Linh mà làm lễ cầu mưa, đích thân vua tới lạy trước điện Phật, lại thỉnh chư tăng đến tụng kinh sám hối, cầu nguyện. Vua Lê Nhân Tông xuống chiếu tự trách mình: “Từ trước tới nay, tai dị xảy ra luôn luôn như lụt lội, hạn hán, mất mùa… không năm nào không có – hoặc triều chính của trẫm trên không thuận lòng trời, dưới chưa thỏa chí dân mà sinh ra thế chăng ? Hoặc các đại thần giúp đỡ không phải là người giỏi, điều hòa trái phép, xếp đặt trái lẽ mà sinh ra thế chăng? Nay các ngươi trên từ thần liêu trong ngoài, dưới đến các sĩ dân có người nào vì trẫm dám nói, chỉ ra những việc của trẫm và các tể thần hại đến nhân dân chính sự chăng” [21,503]

Năm 1449 lại có đại hạn, vua lại tổ chức lễ cầu mưa tại cung Cảnh Linh. Những việc cầu mưa, thả tù nhân, thỉnh tăng tụng kinh, sám hối như trên chứng tỏ rằng đạo Phật có gốc rễ rất sâu xa trong dân chúng, và triều đình không thể không chiều theo tín ngưỡng ấy mỗi khi có áp lực.

Phật giáo với giáo lý luân hồi lục đạo đã đi vào lòng người, những lý luận, những lời dạy khiến mọi người đều có một lòng tin rằng phải sống thật, sống hiền, sống tốt để khi chết được về cõi lành. Từ đây, con người biết sợ nhân ác, luôn làm những điều thiện, làm hết sức mình để đem lại niềm vui đến cho đời để nhận lấy những niềm vui. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, bất luận làm một công việc gì dù quyền quý giàu sang, quyền cao chức trọng như những người giám đốc, bộ trưởng vv…cho đến người nghèo cùng khốn khổ, hễ ai làm những việc ác, những việc trái với đạo lý, trái với luân thường thì tâm người đó luôn bất an, sợ hãi, lúc nào cũng lo lắng có người khác muốn trả thù, ghét bỏ. Vì vậy, ta có thể kết luận rằng giáo lý luân hồi nghiệp báo, nhân quả của Phậât giáo đã khiến cho con người có lòng tin rằng sẽ còn kiếp sau nên phải làm thiện, sống tốt để tránh khỏi những cảnh ác báo sau này.

Đức Phật đã tuyên bố rằng: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật”. Với câu nói này từ khi Phật giáo mới du nhập vào nước ta thì cái “gen” đạo Phật đã có gốc rễ rất thâm sâu trong máu người Việt Nam. Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi tiếp đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam nhân dịp đại hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam năm 1981 đã nói: “Trong lòng người Việt Nam nào cũng có một ông Phật” với câu nói thời danh đó đã nói lên một chân lý của Phật giáo đời Trần, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam, là thời đại mà thông qua sự lãnh đạo tài tình của những ông vua đồng thời là thiền sư, những tướng tá đồng thời là nhà Phật học, sức mạnh tín ngưỡng tâm linh của Phật giáo đã biến thành sức mạnh của cả dân tộc, một dân tộc nhỏ bé đương đầu thắng lợi với ba cuộc xâm lăng liên tiếp của Nguyên Mông. Chân lý trong câu nói ấy thật giản dị, đức Phật không ở đâu xa mà Ngài ở ngay tại tâm mình, lòng mình. Chỉ cần làm sạch lòng thì Phật sẽ hiện bởi vì Phật chính là mình chứ không ai khác, cũng như vua Trần Nhân Tông đã từng viết:

“Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa

Nhân khuấy bổn, nên ta tìm Bụt

Chỉn mới hay chính Bụt là ta”ụ 

Xã hội được tốt đẹp, tiến bộ là nhờ có những con người có niềm tin như thế. Chân giá trị của Phật giáo nói riêng và các tôn giáo nói chung là hướng con người tới cái toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ mà biểu tượng nhân cách hóa chính là Đức Phật cũng như các giáo chủ của các tôn giáo trên thế giới khác. Mà không riêng gì các tôn giáo, các tư tưởng gia trên thế giới, tuy có thể không tin theo một tôn giáo nào nhưng lại tin tưởng ở vai trò siêu việt của con người trong vũ trụ.

Với tinh thần từ bi cứu khổ của Phật giáo đã có một sự ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống con người. Đa số người dân cho rằng Quan Thế Âm là Phật Bà, là mẹ hiền Quán Thế Âm. Với hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm biểu hiện ra như một người Mẹ luôn sẵn sàng bảo bọc lấy những đứa con của mình, bằng hình tượng cứu khổ cứu nạn nên bao người lầm than, lạc lối thường đến lạy Mẹ hiền cứu khổ, và cũng từ đây chân dung của Mẹ được quan tâm đến, con người được sanh ra, lớn lên đều từ đôi tay của mẹ, cứ như thế hình ảnh Đức Quán Thế Âm Bồ Tát với hạnh nguyện từ bi đã đi vào lòng người một cách sâu sắc.

Từ xưa hai vị Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Nam Hải đã chiếm một vị trí khá quan trọng trong đức tin người dân quê Việt Nam. Thị Kính là hình ảnh của một lòng tha thứ bao la, một đức nhẫn nhục không bến bờ. Quan Âm Nam Hải hay Diệu Thiện là hình ảnh của một ý chí bền vững, một tình thương rộng lớn bao trùm tất cả.

“ Chân như đạo Phật rất mầu

Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân

Hiếu là độ được song thân

Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài”.

Trong truyện Nam Hải Quan Âm cũng có đoạn đức chúa Ba trả hiếu cứu cha bằng cách chặt đôi cánh tay và móc đôi mắt của mình để trị bệnh cho cha, cũng từ ý nghĩa này mà ngày nay trong Phật giáo luôn đề cao đạo hiếu. Mỗi năm rằm tháng bảy, noi gương đức Đại Mục Kiền Liên để trả hiếu cho cha mẹ. Như vậy đối với văn hóa tín ngưỡng, Phật giáo đã góp phần không nhỏ tô đậm thêm cho cuộc sống hoàn thiện hơn.

Phật giáo đề cập đến rất nhiều mặt trong cuộc sống con người. Từ ngày lập quốc, dân tộc ta đã trãi qua nhiều hoạn nạn, cho nên yếu tố đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong hoạn nạn đã trở thành truyền thống. Bất cứ lúc nào, nhu cầu này cũng đáp ứng đúng với nguyện vọng của người dân, tư tưởng bình đẳng và từ bi của Phật giáo đã đóng góp không nhỏ để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân thêm đậm đà tình thương yêu đùm bộc lẫn nhau trong nhân dân, không phân chia giai cấp sang hèn.

Một yếu tố nữa mà Phật giáo góp phần vào cuộc sống xã hội là vấn đề tự cường dân tộc, chủ thuyết nổ lực tối đa của Phật giáo hoàn toàn thích ứng. Phật giáo là một tôn giáo có triết lý tự cường đặc biệt, đã cung cấp cho dân Việt một hệ tư tưởng khả dĩ : “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” đã động viên, khích lệ mọi người hãy nương tựa vào chính mình, tự thắng mình cũng đồng nghĩa với việc con người có thể phát huy tối đa, triển khai tột độ sức mạnh bản thân, mở đường cho con người trở thành anh hùng vĩ đại, khẳng định mầm giác ngộ sẵn có trong mỗi con người. Dựa trên điều này, con người đã tự vũ trang cho mình một lòng tin, một niềm tự hào vô hạn. 

2.2. Khái quát về Phật giáo Đại Thừa Ở vương quốc cổ Champa Trung tâm thiền viện Đồng Dương:

“Phật giáo du nhập vào Champa có thể cùng lúc với Bà La Môn giáo, các quốc vương Champa thuộc phái thờ Civa (Civaisme), nhưng đặt biệt vào năm 875, quốc vương Indravarman II đã cho xây cất một trung tâm Phật giáo lớn tại Indrapura tức Đồng Dương ngày nay. Đó là quần thể của nhiều ngôi đền thờ Lakshmindralokecvara mà di tích còn lại tới nay trong cảnh hoang tàn đổ nát. Những pho tượng Phật hiện còn trưng bày tại viện bảo tàng Chàm tại Đà Nẵng đã chứng minh đạo Phật có thời kỳ thịnh hành ở Champa khoảng từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI. Nghệ thuật điêu khắc kiến trúc mang nhiều ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ nhưng đồng thời được bản địa hóa, sự thăng hoa này đã tạo nên một phong cách nghệ thuật Đồng Dương vừa siêu thoát vừa sinh động và gần gũi với cuộc sống con người”. [33,22]

Từ khi thành lập nhà nước dưới dạng sơ khai Lâm Ấp (192 SCN) đời sống văn hóa của cộng đồng người Champa đã chịu sự tác động mạnh mẽ của sự đối lưu qua các nền văn hóa bên ngoài. Đồng thời sự tiếp thu và biến thể của một số nền văn hóa ngoại lai để phù hợp với nền văn hóa bản địa, trong đó chịu sự tác động mạnh nhất văn hóa Ấn Độ – Nam Á là điều tất yếu không thể phủ nhận. Song song với sự chấp nhận ấy thì ảnh hưởng của Phật giáo là tính quyết định của một hướng chuyển biến tạo nên một thời kỳ văn hóa Champa rực rỡ và đặc sắc, giàu hình tượng tôn giáo qua cuộc sống tâm linh, cùng với sự phát triển tột đỉnh của Phật giáo sau này.

Theo các sử liệu của Trung Quốc và của một số nhà nghiên cứu cho biết, vào năm 605, quân nhà Tùy đánh chiếm Champa đã thu được rất nhiều lợi phẩm, trong đó nổi bật nhất là 1350 pho tượng Phật. Đồng thời dựa trên một văn bản tìm thấy trên bia Võ cạnh – Nha Trang – Khánh Hòa cho rằng vào thế kỷ thứ I Phật giáo là tôn giáo chủ đạo xung quanh khu vực trung tâm của xứ Kauthara. Sự sùng bái đạo Phật có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của cộng đồng Champa đương thời. Từ những sự kiện trên có thể cho rằng tư tưởng cùng dòng Phật giáo được truyền về và phát sinh ở đây bắt đầu vào những giai đoạn niên kỷ thứ I sau công nguyên.

Trong sự phát triển của Phật giáo không thể không kể đến thiền viện Đồng Dương vào loại lớn nhất Đông Nam Á trong triều đại Indrapura vào khoảng cuối thế kỷ thứ IX đầu thế kỷ thứ X, đó là một tổng thể kiến trúc đồ sộ có vòng thành chu vi 2 km, Phật viện mang tên Laksmindru _ Lokesvera (875), vốn là một vị thần bảo hộ nhà vua bấy giờ.

Cách thành phố Đà Nẵng khoảng 65km về phía tây nam, có di tích Phật giáo nổi tiếng. Phật viện Đồng Dương – thánh địa của các vương triều Champa sùng tín đạo Phật. Ngày nay di tích ấy rộng khoảng 2 km2, nằm ngay trên địa phận làng Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình – Quảng Nam.

Theo trang web của UBND tỉnh Quảng Nam cho biết: “ Phật viện Đồng Dương xây dựng dưới thời vua Indravarman trị vì vương quốc Champa vào cuối năm 875. đây là vị vua có thế lực hùng mạnh và giàu có lúc bấy giờ. Căn cứ một bia ký tìm được, người ta phát hiện vua Indravarman xây dựng Phật viện để dâng lên đấng Chí Tôn che chở cho nhà vua dưới hình thức đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là di tích Phật giáo đại thừa lớn nhất của vương quốc Champa hồi đó, có một tổng thể khá kỳ vĩ, chiều dài 326 mét, rộng 155 mét, có bàn thờ lớn áp sát tường phía tây. Các nghi thức lễ bái đều tiến hành trước Phật đài chứ không đi vòng quanh như các đền thờ thuộc Bà la môn giáo. Quanh Phật đường chính có nhiều đền thờ nhỏ thờ các đấng tiên vương Champa đã hiển thánh. Đối diện với khu Đồng Dương là các tăng viện hình chữ nhật, mái lợp ngói được chống bằng hàng cột hình chữ bát giác, xung quanh Phật đường và tăng viện là các bảo tháp hình trụ tròn, đế tám cạnh. Hình dáng này làm chúng ta nghĩ ngay đến việc ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo Trung hoa lúc bấy giờ đối với nghệ thuật Phật giáo Champa”.

“Quanh các đền thờ là các loại văn bia xoắn xít ngoằn nghèo như hình con sâu được trang trí nói lên niềm tin tuyệt đối vào đấng tối thượng luôn sẵn sàng phò trợ vương quyền của vua Champa trong thời hoàng kim nhất. bên cạnh những kiến trúc đồ sộ, nền nghệ thuật điêu khắc Champa phát triển trọn vẹn tính độc đáo đến mãnh liệt. Nếu như các pho tượng Phật, Bồ Tát của Camphuchia, Thái Lan đẹp đẽ dịu dàng thì ở đây hình tượng các đấng chí tôn rất uy nghiêm, thánh hạnh nhưng cũng rất gần với trần thế, tượng thần hộ pháp trấn giữ các góc Phật đường không có vẽ mặt dữ tợn mà luôn tỏ ra trang trọng trong sứ mệnh phò hộ độ trì các bậc hành giả trên con đường tu hành. Các phù điêu quanh đài thờ kể các mẫu chuyện về đời đức Phật Thích Ca và những minh họa giáo lý đạo Phật về nhân sinh như: sinh - lão - bệnh - tử. Hầu hết minh hoạ này đều có khắc trong khuôn hình vuông, viền quanh bằng các hoa văn. Nét độc đáo của nó là những hình người nổi bật hoặc vượt khỏi các khuôn vuông. Dựa vào không gian rộng mở đó, người ta diễn tả tích Phật một cách thoáng đạt hơn. Đây là biểu hiện bản lĩnh sáng tạo của các nghệ sĩ điêu khắc trong sự thay đổi bố cục, cách tân hình thức bằng cớ vượt trội của nghệ thuật điêu khắc Phật giáo cùng thời thường thấy ở nhiều nước Đông Nam Á. Rất tiếc quần thể di tích Đồng Dương đã bị bom đạn và thiên tai hủy hoại nghiêm trọng, cho đến ngày nay vẫn chưa đủ điều kiện vật chất để trùng tu, tôn tạo lại phần nào vẻ đẹp vốn có của nó”.

Sau khi nhà nghiên cứu người Pháp L . Finot công bố vào năm 1901 và một năm sau đó 1902 H . Parmentier tiến hành khai quật trên một quy mô lớn đã mở tung cánh cửa bí mật về một Phật học viện đã được các cổ sử Trung quốc, Đại Việt và trong ký ức của cổ sử Champa vẫn luôn thường nhắc đến một cách trân trọng. Nhờ cuộc khai quật có quy mô lớn này đã thu hút các nhà nghiên cứu tìm về, đồng thời đánh giá đây là một trong những di tích quan trọng của champa và Phật viện Đồng Dương chỉ thật sự được biết đến nhiều cho đến lúc các nhà khoa học đã công bố nhiều đề tài nghiên cứu, chúng ta mới thấy tầm vóc quy mô của nó. Nhà nghiên cứu L . Finot trong đề tài công bố của mình về vấn đề di tích Đồng Dương, ông đã giới thiệu 229 hiện vật đã được phát hiện, nỗi bật nhất là bức tượng Phật bằng đồng, bức tượng Phật đứng cao hơn 1 mét là đề tài nghiên cứu khá lý thú được các nhà khoa học đưa ra đoán định vì bởi theo nhận định chung bức tượng này được xem là nghệ thuật hoàn hảo và đẹp vào loại bậc nhất của khu vực Đông Nam Á.

Năm 1902 H . Pramentier đã khai quật khu Đồng Dương và tìm thấy kiến trúc chính của thánh địa này cùng nhiều tác phẩm điêu khắc quý giá. Theo khảo tả cùa H . Pramentier toàn bộ khu đền thờ chính và các tháp nằm lân cận phân bố trên một trục từ tây sang đông, dài khoảng 1.300 mét, khu đền thờ chính nằm trong một khu vực hình chữ nhật dài 326 mét, rộng 155 mét, chung quanh có tường gạch bao bộc, từ khu đền chính có một con đường dài khoảng 760 mét chạy về phía đông đến một thung lũng hình chữ nhật. Ngoài phần chánh điện được phát hiện hệ thống nền gạch của một khu tăng xá, giảng đường nối nhau trên một chu vi rộng lớn, những viên ngói dùng lợp cho các khu xây dựng cũng được phát hiện rải rác đâu đấy của một Phật viện cho phép ta liên tưởng đến một cấu trúc xây dựng bao gồm phần chánh điện dùng nơi thờ tự lễ bái, khu tăng xá là nơi lưu trú cho các chư tăng tu học và giảng đuờng dùng làm nơi diễn giảng có thể nói đây là một mô hình Phật viện khép kín rất lý tưởng cho công cuộc đào tạo tăng tài.

Qua những điều đã nêu trên, chúng ta biết được vương triều Đồng Dương (Indrapura) được xây dựng từ năn 875, nhưng đã mất đi từ lúc nào do chiến tranh. Theo nhà nghiên cứu tiến sĩ Ngô Văn Doanh (viện nghiên cứu Đông Nam Á) trong cuộc hội thảo “văn hóa Quảng Nam – những giá trị đặc trưng” tổ chức tại Tam Kỳ ngày 14-15.3.2001 cho rằng: “đến năm 972 xuất hiện một vị vua mới của triều đình Indravarman mà sử Trung Quốc và Việt Nam gọi là Ba Mỹ Thuế hay Phê Mi Thuế. Đây là vị vua Champa đầu tiên gây hấn với nước láng giềng Việt nam phía bắc lúc đó đã trở thành một nước có chủ quyền. Để đáp lại một loạt hành động xâm lấn và can thiệp vào nội bộ (người Chàm năm 979 cùng Ngô Nhật Khanh đem hơn nghìn thuyền đánh vào Hoa Lư, bắt giữ sứ thần). Năm 982 vua Lê Hoàn đã phải tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành và kết quả là cả tòa thành Indrapura và cả vương triều Indrapura đã bị phá tan. Với cuộc viễn chinh của Lê Hoàn năm 982 , không chỉ tòa thành Indrapura mà cả vương triều Indrapura cũng chấm dứt sự tồn tại của mình. và hiện tượng Đồng Dương là hiện tượng lịch sử văn hóa đặc biệt trong lịch sử văn hóa Champa. Sự ra đời, phát triển và sụp đổ của một vương triều gắn liền với một vùng đất quê hương được nâng lên làm quốc đô”. [24,78]

Cho đến nay Phật viện Đồng Dương đã không còn gì nguyên vẹn cho chúng ta nghiên cứu và chiêm ngưỡng. Sự xâm thực của thời gian, thiên nhiên và bàn tay con người nhất là giai đoạn gây hấn chiến tranh của Mỹ ngụy cùng những trận bom đạn oanh tạc không thương tiếc đã đưa Phật viện vốn chỉ còn lại những di tích hiếm hoi nay lại đi vào trạng thái hoang tàn thật sự. Tuy vậy, phong cách Đồng Dương thông qua phòng trưng bày ở viện bảo tàng Đà Nẵng, rồi đến Phật viện Đồng Dương trên đất bản địa đều có thể gây ấn tượng mạnh đối với du khách, đó là những nét đẹp sống động mạnh mẽ đến táo bạo. Thông qua những cổ vật còn lại đã phản ảnh được thời đại cực thịnh của một vương quyền khẳng định bằng sức mạnh của chính mình, đồng thời đưa nghệ thuật điêu khắc Chàm lên hàng tột đỉnh. Dưới gốc độ tôn giáo, Đồng Dương đã đóng góp đặc sắc vào nghệ thuật Phật giáo của nhân loại, mẫu mực trong cách phô diễn, trong ý nghĩa tượng thờ, phù điêu, bố cục và cũng thuộc loại hiếm hoi trong số di tích Phật giáo cổ xưa còn lại tới hôm nay ở Việt Nam và cả Đông Nam. 

2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo trong Ca dao Tục ngữ vùng Quảng Nam Đà Nẵng:

Khi nói đến ca dao tục ngữ, giáo sư Cao Huy Thuần nhận xét rằng: “Ca dao Tục ngữ là gia tài văn hóa của dân tộc. Chúng ta thừa hưởng gia tài đó từ quần chúng, vì quần chúng vừa là người sáng tạo, vừa là người lưu giữ bằng cách truyền miệng từ đời này qua đời khác, một lời thốt ra rồi đồng thanh tương ứng như thử đó là sự thật của chính lòng mình, như chính mình thốt ra”.

Phật giáo đã đến với cuộc đời, đã là nhịp thở của cuộc sống nên đã tô bồi cho đất nước một nền văn hóa có thể nói là sinh động hơn. Trong đó ca dao tục ngữ cũng mang chất vị của Phật giáo. Ca dao tục ngữ là một loại hình tư duy mang tính triết học của nhân dân, thể hiện lối sống phong tục tập quán của người dân đã lâu đời, đã ảnh hưởng sâu đậm trong văn minh Việt Nam. Vậy ca dao tục ngữ vùng Quảng Nam Đà Nẵng cũng đã diễn tả màu sắc, những nỗi bất công thống khổ của xã hội và của con người, cũng như những khát vọng và quyền tự do tinh thần của con người bị bóc lột, áp bức. Đồng thời nêu cao những tình cảm trong sáng bắt nguồn từ đời sống lao động cần cù, từ những sinh hoạt xã hội lành mạnh. Những bài ca dao ấy được sản sinh từ các “tác giả nhân dân” tại địa phương, từ dòng văn nghệ dân gian hay từ văn học thành văn, ca dao xứ Quảng cũng mang cái vẻ chân chất trong văn phong, trong ngữ điệu, không gột dũa trau chuốt như ca dao các tỉnh phía bắc

Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm

Rượu hồng đào chưa nhấm đã say

Lòng ta như chén rượu đầy

Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi

(Ca dao QNĐN)

Trong bài tham luận đọc tại hội nghị văn học dân gian miền Trung, tổ chức tại Đà Nẵng tháng 3 năm 1981 tiến sĩ Lê văn Hảo nhận xét: “Ca dao, dân ca Nam Trung Bộ (trong đó có Quảng Nam Đà Nẵng) có một cái gì rất độc đáo trong chất thơ, chất sống, chất tình ở đây. Nó nói lên một phần phong cách con người ở vùng đất mới mãnh liệt, thắm thiết nhưng mọc mạc, chất phác, thật thà đến vụng về, thô tháp không trau chuốt, ít mượt mà, có cái gì phóng khoáng đến táo bạo”. Tính cách này chúng ta thử nghe qua câu ca dao của xứ Quảng:

“Ăn không lo của kho cũng hết”. Câu tục ngữ như nhắc nhở con người nên siêng săng làm ăn, đừng ỷ lại mình nhiều tiền lắm của mà phung phí, không lo làm ăn thì đến một ngày nhìn lại của kho chất đống đến mấy đi nữa cũng sẽ hết. Từ ý này, ta biết rằng người xưa cũng hiểu qua giáo lý Phật giáo, đức Phật thường khuyên con người hãy tinh tấn lên, cho dù kiếp này ta có được hưởng giàu sang phú quý là do kiếp trước ta gieo những hạt giống tốt nên đời nay ta hái những quả ngọt như vậy, nếu ta không biết tạo thêm những hạt giống tốt khác thì dù phước đời trước ta có nhiều bao nhiêu đến khi hết thì ta cũng phải chịu cảnh cơ hàn. Vì vậy có câu ca dao sau:

“đạo đời báo phúc chẳng lâu

Hễ là thiện ác đáo đầu chẳng sai”

Hay:

“ Khuyên ai ăn ở cho lành

Kiếp này không được để dành khiếp sau”

Con người đất Quảng là vậy, tính tình ngay thẳng, chất phác còn có tiếng là “hay cãi”. Giáo sư Trần Quốc Vượng đã có nhận xét: “xưa thường bảo (Quảng Nam hay cãi) đó là vì Quảng Nam là đất có truyền thống hiếu học, có một nền học vấn cao và thích suy tư đắn đo” là bởi do khí hậu khắc nghiệt, con người luôn phải đối đầu với thiên tai bảo lụt nên con người luôn phấn đấu trong học tập, học hỏi những kinh nghiệm để đương đầu với những thiên tai đem lại, vì vậy con người hay suy tư đắn đo là vậy.

Quảng Nam là đất quê mình

Núi non sông biển rành rành từ lâu

Thương yêu đùm bộc trước sau

Cùng chung đại Việt chung nhau cơ đồ

Tây sơn giáp ngọ dựng cờ

Nhân dân đoàn kết cõi bờ đắp xây

( Ca dao QNĐN)

Qua câu ca dao ta thấy được tinh thần đoàn kết tương thân tương ái của người dân xứ Quảng, đồng sức đồng lòng mới chiến thắng được kẻ thù. Từ đây ta có thể liên tưởng đến lời Phât dạy: “Ta không sợ ngoại đạo phá hoại ta, mà Ta chỉ sợ chính con vi trùng trong áo ta phá hoại ta mà thôi”. Ở đây đức Phật muốn nhấn mạnh, hãy hòa hợp thì không ai có thể xen vào để chia rẽ, phá phách. Vậy nên trong giáo lý đạo Phật có pháp lục hòa khiến mọi người đều có pháp lạc trong cuộc sống. Như vậy với câu ca dao xứ Quảng, ta thấy đều có chất liệu Phật giáo ở trong đó.

“ Đất Điện Bàn vừa xanh vừa mát

Người Điện Bàn dào dạt tình thương

Dù đi chín huyện mười phương

Lòng ta vẫn thấy nhớ thương Điện Bàn”

( Ca dao QNĐN)

Ca dao ở xứ Quảng cũng như lịch sử hình thành xã hội của vùng đất này có lẽ chỉ mới xuất hiện từ sau thế kỷ XV, so với tuổi của ca dao Việt Nam vốn có từ sau thời đại Hùng Vương thì ca dao này quả là còn rất non trẻ, chủ yếu nói lên tinh thần tương thân giữa con người với con người. Nhưng điều này không phải đơn giản như ta nghĩ là giúp đỡ lẫn nhau mà ở đây nói lên tinh thần đoàn kết của dân tộc.

“ Dù cho cạn nước Thu Bồn

Hải vân hóa cát, biển đông thành đèo

Dù cho cay đắng trăm điều

Cũng không lay được tình keo nghĩa dày”

Hay:

“ Giúp nhau khi đói mới hay

Nói chi bù cặp những ngày ấm no”.

(Ca dao QNĐN)

Ở đây ta thấy được tấm lòng con người xứ Quảng ảnh hưởng tinh thần từ bi của đạo Phật. Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, tức là cho họ niềm vui lúc họ đang bị những điều bất an, những điều không như ý, sẵn sàng chia bùi sẻ ngọt với bất cứ hoàn cảnh nào. Trong Phật giáo ta thấy tấm gương của Quan Âm Thị Kính sẵn sàng chịu đựng mọi oan ức để đem đến niềm vui cho người khác.

“ Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người”

Hay :

“ Một miếng khi đói bằng một gói khi no”.

Như thế ca dao đã nói lên được đạo đức sống của con người, từ trong nếp sống, từ trong văn hóa, sinh hoạt, đạo đức ấy được thể hiện trong cuộc sống bình thường giữa người với người, đạo đức ấy tồn tại trong mấy ngìn năm qua, và trong khoảng thời gian ấy, ca dao cũng đã đi sâu vào đạo đức Phật giáo từ lúc nào không biết. Đôi khi trong cuộc sống, trong cư xử hàng ngày, họ sử dụng mà không biết đó là đã ảnh hưởng của Phật giáo. Đạo lý ấy hết sức đơn giản và thực tiễn, nó bao gồm những bổn phận phải làm và những điều nên tránh như đạo làm con, làm thầy, làm bạn, làm trò v.v…

“ Một ngày ở với người thân

Cũng như con cá vượt môn hóa rồng”

Hay

“ Người khôn chẳng đặng nói nhiều

Người khôn mới nói nửa điều đã khôn”

( Ca Dao QNĐN )

Người xưa muốn khuyên con cháu hãy học hỏi những cái hay, cái tốt, cái thiện nơi bạn mình, nơi cuộc sống hàng ngày và ngay trong xã hội, còn những cái không tốt thì chớ có bắt chước theo dù rằng người đó là Thầy, là ba, là mẹ mình hay chăng nữa, những cái không tốt, không đem lại lợi lạc cho cuộc đời và cho chính mình thì đừng nên học. Chư tổ thường dạy rằng:

“ Người khôn nói ít nghe nhiều

Lựa lời đối đáp, lựa điều hỏi han

Trước người hiền ngỏ khôn ngoan

Nhường trên một buớc rộng đàng dễ đi

Việc người chớ nói làm chi

Chuyện mình mình giữ mới là người khôn”

Ta thấy được chư tổ dạy phải biết nghe những điều nên nghe và tránh những điều không đáng nghe để mỗi ngày ta nuôi lớn những điều tốt ở trong ta, làm cho nó lớn dần thêm nữa và từ đó sẽ không có chổ cho những gì xấu, dỡ chiếm chỗ trong tâm mình. Trong Quy Sơn Cảnh Sách có dạy rằng: “Thân cận thiện hữu, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận”. Và ca dao cũng đã có câu:

“ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Tất cả những câu Ca dao Việt Nam nói chung và của Quảng Nam nói riêng đều khuyên con người những đạo lý sống làm sao để tốt đạo đẹp đời. Từ đây, ta có thể nhận định rằng đức tính cần cù trong lao động sẵn có, với tính thông minh sáng tạo trong cuộc sống thì ở con người xứ Quảng này dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, điều nhân nghĩa, lễ phép cũng được tôn trọng triệt để.

Người dân xứ Quảng vốn dĩ cần cù trong lao động, lại trọng thực tế nên những bài học kinh nghiệm được biểu hiện qua những câu ca dao, tuc ngữ là những nhận xét thực tiễn sinh động trong cuộc sống, và có thể nói hầu hết tục ngữ ở đây đều mang cái cốt cách “ăn to nói lớn” của con người xứ Quảng, nhưng chứa đựng và bao hàm tất cả những tinh hoa của cuộc đời. Trong đó, quan niệm hiếu thảo trong gia đình đối với cha mẹ cũng không bị ràng buộc hoàn toàn cứng nhắc theo những điều nho giáo vốn từ bao đời ngự trị trong tâm hồn nhân dân ta, lại thêm bị các điều đại phong kiến nhồi nhét những tư tưởng trung quân cực đoan khiến lắm khi tình cha con không bằng nghĩa vua tôi. Người dân ở vùng đất mới này có quan niệm phóng khoáng hơn so với những quan niệm thông thường của xã hội phong kiến.

“Ngó lên rừng thấy cặp cu đang đá

Ngó về dưới biển thấy cặp cá đang đua

Anh ra đi giúp nước thờ vua

Xây lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha

Chữ trung, chữ hiếu, chữ hòa

Đố anh ba chữ thờ cha chữ nào

Chữ trung anh để thờ cha

Chữ hiếu thờ mẹ, chữ hòa thờ em”

( Ca dao QNĐN)

Hay :

“Ơn cha tượng lắm ai ơi

Nghĩa mẹ bằng trời mang nặng đẻ đau”.

Đó những lời ca dao ấy cũng đề cao đạo hiếu, khuyên răn con cháu phải biết nghĩ đến công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Dù ngày nay ta giỏi đến bao nhiêu, tài đến chừng nào thì cũng phải nghĩ đến công ơn cha mẹ, nếu không có bàn tay chăm sóc của mẹ, nếu không có lòng lo lắng của cha thử hỏi ta có được ngày nay hay không? Ta tập tễnh bước những bước đầu tiên thử hỏi nếu không có bàn tay nâng đỡ của cha mẹ hướng dẫn, nâng đỡ thì ta có thể đi được như hôm nay hay không. Vì vậy ca dao Việt Nam có câu:

“Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”

Câu ca dao như nhắc nhở người con rằng bổn phận của mình là phải báo hiếu. Cho dù mình làm phước thiện cứu kẻ khác, hay là xa hơn nữa là phát tâm làm chùa, đúc tượng in kinh v.v… mà trong khi đó cha mẹ đói no mình không biết, đau ốm mình không hay, như vậy thì những việc làm của mình đâu có ích lợi gì. Phật dạy : “gặp thời không có Phật, thờ cha kính mẹ là thờ Phật vậy”. Hạnh hiếu trong đạo Phật không chỉ đơn thuần là lo cho cha mẹ miếng cơm chén nước, hay chăm sóc khi cha mẹ đau ốm, mà ở đây ta phải hướng dẫn cho cha mẹ vào con đường thiện, biết về nhân quả nghiệp báo, khuyên cha mẹ đừng gieo những nhân xấu để sau này phải chịu những quả đắng, hướng dẫn cha mẹ biết kính Phật, trọng Tăng v.v… ấy mới chính thực là người con có hiếu trong hàng Phật tử vậy.

“Đêm rằm tháng bảy Vu lan

Phận con báo hiếu muôn ngàn ghi âm”

Hay :

“Niệm Phật ba vạn sáu ngàn

Cầu cho cha mẹ đài vàng thảnh thơi”

Sau những đức tính cần cù trong lao động, nhân nghĩa trong cuộc sống, hiếu hạnh với cha mẹ thì ca dao, tục ngữ xứ Quảng còn chịu ảnh hưởng về nhân quả của Phật giáo, mọi người dân đều có thể áp dụng, họ nhắc nhở nhau một cách quá tự nhiên, quá thuần thục đến nỗi họ không để ý hay không ngờ rằng đó là giáo lý nhà Phật chăng. Chẳng hạn như khi gặp một cảnh khổ sở, một tai biến xảy ra trong đời, họ tự nhủ một cách tự nhiên “vì kiếp trước đã vụng đường tu” nói rất chân thật, rất nhiệt tình.

“Ham ăn thì lú, ham ngủ thì mê”

Hay :

“Ăn không lo của kho cũng hết”

Những lời nói thật đơn giản, dễ hiểu nhưng rất thấm về ý nghĩa, về sự chuyển hóa của con người. Con người vốn là vô thường, do nhân duyên mà sanh, do bốn đại hòa hợp mà thành, một mai tan hoại thì không còn nữa. Cho nên câu ca dao ấy bao hàm lý vô thường và nhân quả ở trong đó. Khuyên người hãy sớm nhận chân được sự thật của cuộc đời mà phấn đấu tranh đua với thời gian để một mai vô thường đến thì ta trở tay không kịp

“Đời người khác nữa là hoa

Sớm còn tối mất nở ra lại tàn” 

Sự sống của con người cũng vậy đó, rất nhanh nên phải nhận biết để có một sự sống tốt đẹp hơn. Trong kinh pháp cú có dạy:

“Tâm dẫn đầu các pháp

Tâm là chủ tạo tác

Nếu nói hay hành động

Với tâm niệm bất định

Khổ não liền theo sau

Như xe theo bò vậy” (PC. 1)

 

“Tâm dẫn đầu các pháp

Tâm là chủ tạo tác

Nếu nói hay hành động

Với tâm niệm thanh tịnh

An lạc liền theo sau 

Như bóng chẳng rời hình” (PC.2)

Như vậy, đạo Phật trong hơn hai ngàn năm nay đã chan hòa đời sống của mình trong đời sống của dân tộc nói chung, của người dân xứ Quảng nói riêng, đã vui cái vui của dân tộc, đã buồn cái buồn của dân tộc, và đạo Phật cũng đã chi phối tất cả mọi sinh hoạt của con người xứ Quảng từ triết lý đạo đức, kiến trúc, hội họa, âm nhạc, văn chương, tình cảm, nếp sống được thấy rõ trong những bài ca dao tục ngữ vậy.

2.4. Phật giáo với lễ hội:

Vấn đề lễ hội trong Phật giáo ta thường thấy bản thân Phật giáo không có hội mà chỉ có lễ. Thế nhưng có hai lý do, một là thời Lý – Trần mọi sinh hoạt văn hóa được diễn ra ở ngôi chùa, cho nên lễ hội diễn ra ở chùa được duy trì kéo dài mãi cho đến ngày nay. Hai là ở Phật giáo ngôi chùa đã hỗn dung tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu vào trong đó nên lễ hội diễn ra ở ngôi chùa. Cả hai khía cạnh hội chùa mang tính chất là hội làng.

2.4.1. Lễ hội Quan Thế Âm:

Phật Bà Quan Thế Âm, hình tượng một người phụ nữ tay cầm bình cam lồ, tay cầm nhành dương liễu luôn sẵn sàng rưới những giọt cam lồ để dập tắt những phiền muộn đau khổ của chúng sanh. Ngài thể hiện lòng đại từ, đại bi muốn cứu vớt tất cả chúng sanh đang mê ngủ bằng mọi cách, tâm của Ngài đau với nỗi đau của chúng sanh và sầu với nỗi sầu của chúng sanh. Ngài muốn bảo vệ, nuôi dưỡng và cứu vớt lấy chúng sanh như lòng của người mẹ hiền thương con chẳng muốn một phút xa rời. Người luôn nghĩ rằng: Nỗi sầu của các người là nỗi sầu của ta, niềm vui của các người cũng chính là niềm vui của chính ta” .

“Bồ tát Quán Thế Âm gắn liền với tín ngưỡng đức Phật A Di Đà tức tịnh độ giáo, một tín ngưỡng được hình thành ở bắc Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ I . Ngài được các kinh điển sơ kỳ của Tịnh Độ giáo nói đến cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí là hai vị thị giả của Đức Phật A Di Đà. Sau đó Ngài được nói riêng một mình như một vị Bồ Tát đầy lòng từ bi, thệ nguyện cứu khổ cứu nạn chúng sanh đang đau khổ trong cuộc đời này.” [8,107]

Kinh Bi Hoa nói vì sao Ngài có tên là Quán Thế Âm : “Lúc bấy giờ, Đức Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài nói rằng: Thiện Nam Tử do ngươi quán sát trời, người cùng tất cả chúng sanh trong ba đường ác, khởi lòng đại bi muốn đoạn trừ các khổ não cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh được an lạc, nên nay ta thọ ký cho ngươi tên là Quán Thế Âm”. Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng nói rằng: “Ngài cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí …bốn vị Bồ Tát vì lòng từ bi, thệ nguyện dấn thân vào con đường phụng sự, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, không chịu vào cảnh giới tối thượng của chư Phật”. Kinh Pháp Hoa ghi rằng: “Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hiện thành thân Phật, thân Bích chi Phật, thân Đại Tự Tại Thiên, thân Tiểu vương, thân người Nam, thân người Nữ cho đến thân Dạ xoa, La sát, Phi nhơn…tóm lại, vì bi nguyện độ sanh Ngài có thể hóa hiện trên từ thân Phật dưới cho đến thân quỷ Dạ Xoa, La Sát để hóa độ chúng sanh. Chính sự hóa thân đó đã làm cho hình ảnh của Ngài nói riêng, Phật giáo nói chung trở nên năng động và tích cực hơn trong sự cứu khổ độ sanh”. [8,111]

Qua những bài kinh đã dẫn, chúng ta thấy được hình ảnh của Ngài luôn hiện hữu bất cứ ở đâu để cùng chúng sanh san sẻ những niềm vui, nỗi khổ, có thể hiện tất cả các thân vì cứu độ chúng sanh. Hình ảnh của Ngài là hình ảnh của đại từ đại bi, của tình thương bao la phủ trùm tất cả.

Tín Ngưỡng Quan Âm ở nước ta đã có từ thời Lý với câu chuyện vua Lý Thánh Tông nằm mơ thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài sen, giơ tay đón mình lên và ngày nay chùa Một Cột ở Hà nội có liên quan đến tích ấy.

Tín ngưỡng Quan Thế Âm ở chùa Hương bắt nguồn từ chuyện Nam Hải Quan Âm của một nhà sư Trung Quốc thời Nguyên du nhập vào nước ta và đã được Việt hóa vào thế kỷ thứ XV. Nội dung câu chuyện nói về vua Diệu Trang Vương có ba cô công chúa, trong đó có cô công chúa Diệu Thiện tài sắc vẹn toàn, luôn có tín tâm với Phật pháp. Vua Trang Vương không có con trai nên muốn lập phò mã để kế vị, hai người phò mã của Diệu Thanh và Diệu Âm không có tài, hơn nữa muốn chiếm ngôi vị, vì vậy vua Trang Vương mong muốn công chúa Diệu Thiện kén phò mã. Diệu Thiện từ chối và cầu xin vua cha được tu theo đạo Phật, vua Trang Vương khuyên thế nào cũng không được nên đành giả vờ cho công chúa đến chùa Bạch Tước tu hành. Trong khi đó vua ra lệnh cho các sư phải bắt chúa Ba làm việc thật nặng, thật nhiều để công chúa thối chí mà nản đường tu. Nhưng ngược lại nàng Diệu Thiện vẫn kiên trì, chăm chỉ vui vẻ làm tất cả các công việc không phàn nàn:

“Chúa Ba thấy nói mừng rằng

Hữu thân hữu khổ lẽ hằng thế gian

Ta đà vào chốn thiền quan

Chỉ mong đắc đạo, há toan tiếc mình”.

Từ nơi tâm quyết tu vượt qua tất cả những chướng ngại nên động đến trời đất. Ngọc hoàng sai chủ Thần xuống bảo vệ chúa Ba, giúp chúa ba làm mọi việc mà không thấy mệt. Vua Trang Vương thấy nhà chùa không lay được ý định của công chúa nên nổi giận đốt chùa, giết sư. chúa Ba xúc độâng trước cảnh ấy nên tìm cách cứu lấy chùa và các nhà sư:

“Chúa Ba kêu lạy bốn phương

Vì tôi để vạ cho vương đến người

Mười phương Phật chín phương trời

Hoàng thiên hậu thổ chứng lời cho không

Cầm dao cắt máu ròng ròng

Lạy trời đem máu rảy tung lên trời

Tự nhiên chuyển động dời dời

Sấm ra, mưa xuống khắp nơi chùa chiền”.

Vua Trang Vương càng giận sai đem công chúa ra hành quyết, nhưng làm đủ mọi cách mà không hại được công chúa:

“…. Quan quân áp đến xôn xao

Bỗng đâu mãnh hổ nhảy vào tha đi”

Công chúa Diệu Thiện vào động Hương Tích tu chín năm đắc đạo thành Phật Bà Quan Âm

“Thần thông biến hóa tự nhiên

Một thân hóa được ra nghìn muôn thân

Mắt soi khắp hết cõi trần

Lắng tai nghe thấu xa gần bốn bên”

Trở lại vua Trang Vương do vì tính hiếu sát và đốt chùa giết sư nên bị thiên đình trừng phạt lỡ loét khắp mình hôi tanh ghê gớm, ghê tởm, thuốc nào chữa cũng không lành. Chúa ba thương cha bệnh hoạn đau khổ nên hóa thành một lão tăng đến xin chữa bệnh cho vua và chỉ cho vua đến chùa Hương Tích xin tay và mắt của tiên mới mong chửa khỏi. Chúa ba nhân tiện đó biến hóa cho tay và mắt của mình để cứu cha ra khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Từ đó, vua TrangVương mới thấu hiểu, cải hối giác ngộ Đạo Phật nhiệm mầu quyết chí tu hành và nhường ngôi lại cho thừa tướng trị nước. Như vậy, do sự tu hành và quyết chí tu hành của Chúa Ba nên đã cảm hóa được cả gia đình đều vào con đường giác ngộ, cuối cùng tất cả đều được chứng quả. Qua đây, chúng ta thấy rằng truyện Nam Hải Quan Âm nhằm nêu cao hạnh từ bi, thương người, vì lòng hiếu hạnh mà xả thân mình cứu cha, ở đây chữ hiếu này vượt lên trên chữ hiếu tầm thường, chúa ba muốn độ cha mẹ khỏi những ác nghiệp và đưa mọi người đến được với đạo:

“Chân như Đạo Phật rất màu

Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân

Hiếu là độ được đấng thân

Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài”

Câu chuyện Hương Tích là nơi đắc đạo của Phật Ba Quan Âm đã tạo thành sức mạnh niềm tin về sự cứu khổ cứ nạn nên đã bao đời nay trong lòng người lúc nào cũng có hình ảnh của Phật Bà Quan Âm luôn sẵn lòng chia sẻ với mọi người, sẵn sàng cứu vớt mọi loài. Như chúng ta đã biết Quan Thế Âm là vị Bồ Tát luôn quán sát, thấu hiểu những âm thanh của mọi người, là vị Bồ Tát được biểu tượng hóa của lòng từ bi. Do thế, để có thể nhận được sự gia hộ do Bồ Tát Quan Thế Âm trao tặng thì tất cả chúng ta phải học hạnh từ bi của người bằng cách hướng thẳng lòng thành kính của mình vào các việc làm từ thiện, giúp đỡ mọi người cứu tế những vật dụng cần thiết khi có người thiếu thốn nhằm phù hợp với đặc tính chân chánh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Bằng những việc làm như thế, chúng ta sẽ tích lũy đựơc nhiều công đức với hy vọng sẽ được tái sanh trong một thế giới lý tưởng, tức cõi cực lạc.

“ Ví như một cái ti vi được trang bị các thiết bị cần thiết để có khả năng đón nhận tín hiệu phát ra từ vệ tinh nhằm tạo ra âm thanh thích hợp và hình ảnh được truyền đến. Cũng thế trong lãnh vực tôn giáo người tiếp nhận cũng phải nổ lực trong một số điều kiện tất yếu nhằm thỏa mãn các nhu cầu của người cho. Nghĩa là bất cứ ai ước mong nhận được sự hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm mà tác giả ví như một vệ tinh tâm linh, người ấy cần phải tạo ra các thiết bị tương ứng luôn có sẵn trong thân thể vật lý của họ nhằm để tự liên kết với đặc điểm cao đẹp của Bồ Tát Quán Thế Âm, đó là lòng từ bi, phương pháp để tạo ra hoặc để xây dựng các thiết bị tâm linh nhằm đón nhận tín hiệu từ bi được ban phát ra từ vệ tinh tâm linh Quan Thế Âm là phải tu tập lòng từ bi. Kết quả người ta có thể chờ đợi là việc tu tập lòng từ bi không những sẽ không tạo ra bất cứ mâu thuẫn , xung đột nào với môi trường hiện nay chúng ta đang sống, mà việc làm ấy rõ ràng còn soi sáng cách hiểu biết và nắm bắt của Tín đồ Phật giáo về lý tưởng Bồ tát cũng như sự chứng ngộ lý tưởng ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách thực hành các thiện nghiệp”. [30,264]

Ngày nay, lễ hội Quan Thế Âm được tổ chức vào ngày 19 tháng 2; 19 tháng 6; và 19 tháng 9 mỗi năm để kỷ niệm ngày hiển linh của Bồ tát. Riêng tại Đà Nẵng, ngày vía Quan Thế Âm Bồ tát được tổ chức long trọng vào ngày 19 tháng 2. Lễ vía Ngài được tổ chức tại Chùa Quan Thế Âm thuộc ngọn kim của Ngũ Hành Sơn. Lễ hội này đựơc tổ chức lần đầu tiên vào năm 1960 nhân lễ khánh thành tôn tượng Bồ Tát Quan Thế Âm tại động Hoa Nghiêm. Sau đó, năm 1962 lễ hội được tổ chức tại động Quan Âm, sau ngày hoàn toàn thống nhất đất nước, từ năm 1991 lễ hội được tổ chức lại với quy mô lớn hơn, nội dung phong phú hơn và kéo dài trong ba ngày.

Cũng như bao lễ hội khác, lễ hội Quan Thế Âm bao gồm hai phần: phần lề và phần hội. Phần lễ mang đậm màu sắc nghi lễ Phật giáo bao gồm lễ dâng hoa, dâng lên Ngài những đóa hoa tinh khiết với tất cả lòng thành của những người con Đà Nẵng nói riêng và của cả nước chung, ai ai cũng hướng lòng mình lên đảnh lễ và cúng dường với ước mong rằng tất cả sẽ noi gương từ bi của Ngài. Tiếp đó là lễ cầu nguyện cho quốc thái dân an, để nhắc nhở mọi người hãy trải lòng từ bi cho tất cả. Muốn cho chúng sanh an lạc thì mọi người hãy sống với nhau bằng tất cả lòng từ bi thì không sợ gì chiến tranh, loạn lạc. Kinh Pháp Cú có câu kệ:

“Hận thù diệt hận thù

Đời này không thể có

Từ bi diệt hận thù

Là định luật ngàn thu” ( PC. 5)

Kế đến là lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm, lễ thuyết giảng này được một bậc cao minh ngồi trên pháp tòa, hướng về thính chúng nhắc lại, kể lại những hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm và qua đó khuyên thính chúng phải học những hạnh ấy bằng cách làm tất cả các việc thiện để có cảm ứng với hạnh nguyện của Ngài. Trong khi thuyết giảng, những câu ca dao, tục ngữ của Phật giáo cũng được nhắc đến. Vì thế, người nghe rất lấy làm gần gũi với cuộc sống hằng ngày của mình, rất dễ đi vào lòng người và dễ thực hiện:

“Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người”

Thật đẹp, thật có ý nghĩa và thật thân thương và gần gũi biết bao khi người viết chứng kiến cảnh có một chú Công An giao thông, với đồng phục của một người đang thi hành công vụ, đang làm trách nhiệm của mình, khi thấy một bà lão muốn qua đường nhưng do đường quá đông bà lão cứ đứng tần ngần mãi không thể qua được, thế là chú Công An lập tức chạy đến nắm tay bà lão ân cần dẫn qua đường dưới sự chăm chú và ngạc nhiên của những con mắt người đi đường, mặc dù việc của mình đang bận rộn. Đó là hạnh từ bi, đâu có xa lạ, đâu có to tát gì ngoài những việc làm như thế trong cuộc sống. Ca dao Quảng Nam có câu:

“Dù tu đến cửa thiên thai

Không bằng lượm một nhành gai giữa đường”.

Từ những lời dạy ấy, thính chúng dường như nhận thấy thấm hẳn vào lòng mình, và trong lễ hội ấy thường có sự chia sẽ, cứu tế đến những người nghèo khổ qua hạnh từ bi.

“Nam mô đức Phật Quán Âm

Ra tay cứu độ trầm luân mọi loài”

Trong phần lễ còn có phần lễ trai đàn chẩn tế. Đặc biệt là lễ rước tượng Quan Thế Âm đi quanh Ngũ Hành Sơn, mỗi quận, huyện, chùa đều có hóa trang làm Ngài Quán Thế Âm, ngồi trên đài sen và được Phật tử khiêng trên kiệu đi quanh Ngũ Hành Sơn với hàng ngàn người mặc lễ phục, theo sau là cả một dòng người rực rỡ hoa đăng, với một không khí thật trang nghiêm và thành kính.

Phần hội gồm những sinh hoạt văn hóa cổ truyền đượm tính nhân văn, giàu bản sắc dân tộc như hội cắm trại, trong đó có nhiều đề tài thi về Phật pháp, nấu ăn, hóa trang, hát dân ca, thi thơ, ca nhạc, thả đèn trên sông, đua thuyền trên sông và hát tuồng v.v… Đặc biệt, hội múa rồng và múa lân sẽ được tổ chức trên sông, du khách đi dự lễ hội sẽ được nhìn thấy một cảnh quang hoành tráng, ngoạn mục. Tất cả những sinh hoạt đó đều mang đậm bản sắc dân tộc nói chung và văn hóa Đà Nẵng nói riêng. Như vậy, qua lễ hội Quan Thế Âm chúng ta thấy lòng tín ngưỡng Bồ tát Quán Thế Âm của dân tộc Việt Nam quả thật rất sâu sắc và gần gũi với cuộc sống. Có thể kết luận lễ hội Quan Thế Âm với bài: Ngày hội Quán Âm của Tâm Thông – Trần Ngọc Cơ.

“Quảng Nam có núi Ngũ Hành

Mây năm sắc phủ non xanh bốn mùa

Bồng lai sánh hẳn không thua

Hoa thơm cỏ lạ cảnh chùa ở đây

Là chùa Non Nước xưa nay

Danh lam đệ nhất của rày Miền Trung

Có hang có động lạ lùng

Có đường xuống đất có hang lên trời

Vọng Giang, vọng Hải hai đài

Hang trong Huyền Lạc, động ngoài Thiên Long

Bên chùa có động Huyền Không

Cửa ngoài có tượng Quan Âm Phật Bà

Quỳ đây ta ngỡ là ta

Lạc vào tiên cảnh hay là thiên cung

Càng nhìn càng thấy lạ lùng

Đá như gấm dệt sắc tung muôn màu

Thêm nhiều hình đá xem lâu

Dường như cử động nhiệm mầu thần tiên

Lách vào qua một hang bên

Có hai thạch nhũ từ trên là đà

Nước đâu trong đó chảy ra

Từ từ từng giọt thiệt là lạ thay

Nầy ai chưa đến chốn này

Với ai đã có những ngày lên đây

Nhớ là khi sự năm nay

Tại đây sẽ mở hội ngày Quan Âm

Hội này thường có hàng năm

Tháng hai mười chín luôn trong mấy ngày

Mau mau chuẩn bị từ nay

Để cùng trẩy hội viếng rầy non tiên

Quan Âm là đấng mẹ hiền

Tình thâm mẫu tử một niềm vì ta

Những khi tai nạn xảy ra

Nhờ Ngài phò hộ mà ta an lành

Từ bi biến hóa muôn hình

Mười hai lời nguyện quyết tình độ sanh

Ơn Ngài hơn cả cao sanh

Muôn ngàn gọi chút tâm thành của ta

Hội này đừng chớ bỏ qua

Đừng vì công của đường xa ngại ngùng

Về đây ngày hội Quán Âm

Để cùng lễ Phật phát tâm bồ đề

Lấp bằng bể khổ sông mê

Dâng cao đuốc tuệ diệt bề tối tăm

Về đây cầu đức Quan Âm

Nước nhà thạnh trị muôn dân thái bình.

2.4.2. Lễ cầu an:

Theo dòng thời gian, Phật giáo cùng tồn tại trên cuộc đời này, và trong suốt thời gian đó những giáo lý, những kinh điển của Phật giáo đã thấm sâu vào máu tủy của mỗi người khiến mọi người đều ý thức được rằng mình là chủ nhân ông của nghiệp mà mình đã tạo, không ai có thể thay thế hay gánh chịu giúp mình được. Đức Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, ngọn đuốc ta đã sắm sẵn rồi, các ngươi hãy thắp lên và đi theo lý tưởng của mình”. Và cũng từ ý này, cổ đức có câu :

“ Mỗi người có sẵn đèn lòng

Tự mình soi lấy chớ trông tầm ngoài

Cũng đừng ỷ lại vào ai

Phật, Tiên, Hiền, Thánh chính ngay tự mình”.

Như vậy, lễ cầu an ở đây cũng không ngoài ý này. Như chúng ta biết, cầu nguyện theo đạo Phật không phải là sự ban ơn hay giáng họa của các thần linh, mà ở đây tuỳ theo đối tượng, mục tiêu, ước muốn cầu mong cho mưa hòa gió thuận, nhân dân được mùa, đất nước hòa bình, thế giới hết chiến tranh v.v … Sự cầu nguyện theo đạo Phật là sự hướng đến phúc lợi và hạnh phúc của người khác, mong điều vui và an lành đến với xã hội, loài người hoàn toàn không có lòng vị kỷ, tóm thâu về cho mình.

Như chúng ta thấy, trong cuộc sống hiện tại, mọi người đều hay gọi là cầu an mỗi khi gia đình có người đau ốm, bệnh tật, hay những chuyện bất như ý thì đều đến xin cầu an. Họ cho rằng cầu an là cầu cho người bệnh được khỏe mạnh, được an ổn, sống lâu v.v…nên họ luôn đặt hy vọng vào những vị sư đến cầu an. Điều mà người viết muốn nhấn mạnh ở đây là mỗi người xuất gia, nhiệm vụ cao cả của mình là “ Thừa như lai sứ, hành như lai sự” vì vậy khi được Phật tử mời đi cầu an thì phải làm sao chỉ cho họ thấy được mục đích của sự cầu an, chúng ta cũng không thể từ chối những khi được thỉnh mời như vậy. Đức Phật dạy: “ Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” và như vậy, từ những dịp cầu an đó, ta tiếp xúc với họ, gần gũi, khuyên răn, chỉ rõ cho họ biếi rằng cầu an này chỉ là sự trợ duyên mà thôi, không phải là hoàn toàn dựa vào sự cầu an đó mà được an ổn, an hay không an là do chính nơi hành động, việc làm, cách sống và cư xử hàng ngày của mình. ví như một người chuyên đi trộm cướp, giết người thử hỏi mời quý sư về để cầu an cho người đó thì người đó có được an hay không? Lại như một người chuyên đi làm phước, giúp đỡ mọi người, luôn sống trong sự bình thản thì cho dù không cầu an thì vị ấy vẫn luôn cảm thấy an lạc, hạnh phúc không sợ phải bất an. Vậy cầu an là sự mong muốn, là ước vọng được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc. Nó không giới hạn ở việc cầu cho người bệnh sớm lành mạnh, tai qua nạn khỏi như nhiều người đã hiểu lầm. Để được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm, theo Đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời sống đạo đức và trí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an trụ chánh niệm và tỉnh thức trong từng giây phút hiện tại, không hoài vọng về quá khứ để thoát khỏi thế giới đau thương, không hoài vọng về tương lai để không lo âu sợ sệt, sống một cách sáng suốt bình thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người sống được như vậy thì lúc nào cũng an, lúc nào cũng khỏe mạnh, cũng hạnh phúc không cần cầu nguyện và mong mỏi. Trái lại, nếu chúng ta sống buông lung, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, không làm các điều thiện, rơi vào con đường tội lỗi thì dù có cầu nguyện, cầu an bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không thể an ổn được. Như vậy, vấn đề cầu an trong Phật giáo là nhấn mạnh đến sự an trú trong giây phút hiện tại, từng cử chỉ, từng hành động của mình được ý thức, được chọn lọc, được cảnh tỉnh thì tâm mình luôn được an lạc.

Trong quá trình hướng đến giải thoát của người xuất gia, Đức Phật cũng đã tuyên bố làụ Ngài chỉ đóng vai trò của đạo sư dẫn đường, không thể ban bố cho chúng ta kết quả giải thoát. Do đó, để đạt được chân lý giải thoát thì chúng ta phải tu tập, phải thực hành mới thể nghiệm được. Đức Phật đã khuyên:

“Hãy tự siêng trau dồi

Như lai chỉ thuyết dạy

Tự hành trì thiền định

Tự giải thoát ác nghiệp”.

Hay

“Chẳng phải nương người khác

Mà đạt được niết bàn

Do tự điều tự nương

Mà đích đến kiên cố” .

2.4.3. Lễ cầu siêu:

Chúng sanh sở dĩ trôi lăn trong vòng lục đạo là do tạo nhiều ác nghiệp nên mãi chìm đắm trong biển sanh tử khổ đau. Với trí tuệ thấy biết như thật, Đức Phật đã xuất hiện trên cuộc đời để chỉ cho chúng sanh thấy được con đường lục đạo gồm có: Thiên, Nhơn, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Vì thế hiện đời người nào tu nhơn tích đức, ăn ở hiền lành thì sau khi mạng chung sanh về cõi lành, còn người nào ăn ở thất đức, làm việc ác thì sanh về đường dữ. Do đó cổ đức có bài kệ rằng:

Đảnh sanh cõi thánh, mắt sanh trời,

Bụng nóng ngạ quỷ, tim nóng người,

Bàng sanh thần thức ra đầu gối,

Nóng ở bàn chân địa ngục thôi.

Thật vậy, giờ lâm chung nếu từ tim trở lên mà nóng thì sanh về cảnh giới an lành, còn từ tim trở xuống nóng thì sanh về con đường dữ. Chính vì thế nên người con Phật khi thấy người thân của mình chết, sờ xem chỗ nào còn nóng sau rốt là biết được người ấy sanh về cảnh giới nào. Bởi vậy, họ tin có cõi lành, đường dữ nên lập đàn tràng cầu siêu hầu mong cho người thân của mình được siêu sanh về cảnh giới an lành. Vậy cầu siêu là gì? Và làm thế nào để hiểu cầu siêu không phải là một sự van xin.

Cầu siêu là cầu mong cho vong hồn người chết được sớm siêu thoát hay sanh về thế giới chư Phật. Do đó chữ “cầu siêu” có thể là hình thức viết ngắn của từ “cầu siêu độ” hay “cầu siêu sanh” hay đầy đủ hơn là “cầu siêu sanh tịnh độ”. Như vậy cầu siêu là nguyện vọng, là ước muốn nhắm tới chủ yếu là người quá cố.

Sau khi người thân qua đời, con cháu làm lễ cầu siêu cho Ông Bà, Cha Mẹ trong mỗi tuần thất, tiểu tường, đại tường hoặc lễ Trung nguyên bằng hình thức lập đàn cầu siêu tại chùa, hoặc thỉnh chư Tăng, Ni về gia đường tụng kinh chú nguyện, chủ yếu là nhắc cho người chết nhớ lại pháp môn niệm Phật “nhất tâm bất loạn” như là điều kiện tiên quyết để vãng sanh tịnh độ, để hương linh nương theo đó niệm Phật mà vãng sanh. Các kinh thường tụng trong dịp cầu siêu như: Kinh A Di Đà, Kinh Địa Tạng, Kinh Vu Lan. Chư tăng ni tụng kinh nhằm nhắc nhở cho con cháu của người quá vãng trau dồi tâm tánh cho thuần thục và noi theo gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên. Nói chung các bài kinh trên không chỉ có tác dụng tốt cho người quá cố mà hơn hết là nhằm giáo dục cho thân quyến của người chết về các phương pháp tu tập và làm nhiều điều phước thiện.

Song theo đạo Phật không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai cả, chỉ có mình tạo nghiệp lành hay dữ mà đến khi mạng chung chiêu cảm quả báo thiện ác, chứ không phải lúc sanh tiền tạo bao nghiệp ác rồi đợi sau khi chết người thân cầu siêu để được vãng sanh thì không thể được. Chính vì lẽ đó, nên người phật tử phải ý thức sâu sắc rằng, một khi đã tạo nghiệp ác, dù có van xin, chúng ta cũng phải là người gặt hái kết quả đau khổ của nó. Không ai có thể đánh đổ quy luật muôn đời này. Sau đây là một đoạn kinh cho thấy rõ điều đó: “ nếu ai làm mười nghiệp ác, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu khẩn van xin, thành kính mong rằng người ấy sẽ được sanh thiện thú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích, làm mười nghiệp ác phải rơi vào đọa xứ. Sự thể như có một người quăng tảng đá vào hồ nước, rồi nhiều người đến cầu khẩn, van xin cho tảng đá ấy được nổi lên, sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá, với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu khẩn. Cũng vậy, tạo mười nghiệp ác thì phải rơi vào đọa xứ”( Tương Ưng IV, 313). Ở đây, lời của Phật nhằm xác quyết rằng hành vi ác và bất thiện là nguyên nhân gây ra các hậu quả khổ đau, mà người đã tạo ra nó phải gánh chịu trong đời của mình, dù hiện tại hay về sau.

Như vậy, sự cầu siêu chỉ mang tính cách biểu tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ơn đối với người quá cố, và ở phương diện khác nhằm nhắc cho người quá cố biết về quy luật sanh tử mà không quyến luyến thế gian, dễ dàng ra đi hay tái sanh.

Tóm lại, để được siêu thoát, mỗi người phải tự trang bị cho mình các hành trang đạo đức khi còn mạnh khỏe, làm lành lánh dữ, bố thí cúng dường, tạo mọi phước đức, để khi thình lình cơn vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay, nghiệp thiện của chúng ta sẽ dẫn dắt chúng ta tái sanh về cảnh giới tốt hay vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Không nên cầu mong vào tha lực, tất cả tùy thuộc vào đời sống đạo đức, trí tuệ và thái độ sáng suốt của chúng ta.

2.5. Các ngôi chùa tiêu biểu tại Quảng Nam – Đà Nẵng:

2.5.1 Chùa Tam Thai:

Chùa Tam Thai nằm ở trên đỉnh núi non nước (Thủy sơn) thuộc Ngũ Hành Sơn, cách trung tâm Thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km. Chùa có thể do tổ sư Nguyên Thiều – Hoán Bích thành lập (khoảng năm 1682-1683) trước khi ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung và chùa Quốc Ân ở Phú Xuân (Huế). Do những biến loạn vào khoảng năm 1692-1694, tổ sư Nguyên Thiều vào Đồng Nai ẩn tránh và lập chùa Kim Cang tiếp tục hoằng hóa. Chúa (Nguyễn Phước Châu) đã cử thiền sư Hưng Liên Quả Hoằng thuộc phái thiền tào động trụ trì. Thiền sư Quả Hoằng là đệ tử của hòa thượng Thạch Liêm ở chùa Trường Thọ Trung Quốc, thiền sư Quả Hoằng được chúa Nguyễn Phước Châu trọng đãi và ban chức quốc sư.

Vào thời nhà Nguyễn và Tây Sơn tranh chấp, có ngài Huệ Đạo Minh thiền sư tu thiền tại động Huyền Không, lúc đó vua Gia Long lánh nạn, tại đây gặp thiền sư Huệ Đạo Minh giảng đạo, vua Gia Long nghe giảng xong, vua phát nguyện: “Sau này tôi phục quốc xong, tôi sẽ tô điểm thêm danh lam thắng cảnh này cho được huy hoàng, tráng lệ”. Sau một thời gian vua Gia Long phục quốc, vua bận công việc triều chính nên chưa thực hiện lời nguyện, nhà vua di chúc lại cho con là vua Minh Mạng để hoàn hành đại nguyện, mãi đến năm thứ sáu vua Minh Mạng mới ngự đến Ngũ hành Sơn (Non Nước), ngự đến chùa Tam Thai; chùa Linh Ứng danh xưng là quốc tự và cho thiết lập hoàng cung để mỗi khi vua ngự đến có chỗ tạm nghỉ. Nhà vua cũng tô tượng, đúc chuông, xây cất, khai các cửa động. Đồng thời vua cấp lương cho quý vị trụ trì và tăng chúng hai chùa (Tam Thai, Linh Ứng).

Hiện chúng ta không biết được sự truyền thừa ở chùa Tam Thai trong thời chúa Nguyễn vì chùa đã bị phá hủy trong thời Tây Sơn đánh chiếm Quảng Nam (1773 -1774). Sau đó, thiền sư Pháp Tràng – Quang Chính, hiệu Bửu Đài thuộc chi phái thiền Chúc Thánh, đời 36 Lâm Tế, đến đỉnh núi Thiên Thai ẩn tu trong động Tàng Chơn, sau đó lập am Dưỡng Chân để hoằng dương Phật pháp. Đại sư Bửu Đài là đệ tử của thiền sư Thiệt Hội – Viên Quang. Thiền sư Thiệt Hội – Viên Quang là đệ tử của tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo ở chùa Chúc Thánh (Quảng Nam), có lẽ thiền sư Bửu Đài trùng tu lại chùa Tam Thai và từ đó hai chùa Tam Thai và Dưỡng Chân Đường thuộc một thầy tổ.

Đại sư Bửu Đài viên tịch vào giờ sửu ngày 21 tháng 10 năm Canh Thân (1800), tháp thờ cạnh chùa, trên bia ghi: “Phụng vì viên tịch Tỳ Kheo Bửu Đài Đại sư thượng Quang hạ Chánh, húy Pháp Tràng giác công chi tháp”. Hiện chùa Linh Ứng có “Bảng Lâm Tế tông Phổ lịch Đại Giác linh” ghi rõ pháp danh các thiền sư trụ trì chùa Tam Thai và Linh Ứng:

Tam Thai trụ trì, 37 thế, húy Tiên Thường, thượng Viên hạ Trung thiền sư.

Tam Thai trụ trì, 38 thế, húy Chương Tín, thượng Hoằng hạ Ân thiền sư.

Tam Thai trụ trì, 38 thế, húy Chương Quảng tự Tuyên Châu – Nhật Hạnh Hòa thượng.

Tam Thai trụ trì, 38 thế, húy Chương Tư tự Tuyên Văn – Huệ Quang Hòa thượng.

Tam Thai trụ trì, 39 thế, húy Ấn Lan tự Tổ Huệ – Từ Trí Hòa thượng.

Tam Thai trụ trì, 39 thế, húy Ấn Thanh tự Tổ Đào, Chí Thanh Hòa thượng.

Tam Thai Tăng Cang, 39 thế, húy Ấn Diệu tự Tổ Truyền, Từ Nhẫn thiền sư.

Tam Thai Tăng Cang, 40 thế, húy Chơn Pháp tự Đạo Diệu – Phước Trí Hòa thượng.

Ngoài bảng Lâm Tế tông phổ trên, ở chùa Tam Thai và Linh Ứng còn thờ các Long vị của chư tổ sau:

Lâm Tế chánh tông, tam thập ngũ thế, húy Thiệt Hội thượng Viên hạ Quang giác linh.

Ngự chế Tam Thai – Linh Ứng tự, sắc tứ Tăng Cang, lâm tế 39 thế, Nguyễn Ấn Lang tự Tổ Huệ hiệu Từ Trí Hòa thượng.

Hiện nay trụ trì tại chùa Tam Thai là Hòa thượng Trí Giác 

2.5.2. Chùa Linh Ứng:

Tọa lạc tại thắng cảnh Thủy Sơn thuộc Ngũ Hành Sơn, mặt tiền của chùa hướng về phương đông, trông ra phía trước là mặt biển Đại Thanh, sau lưng chùa là đại Động Tàng Chơn, trước là cửa tam quan, hai bên nhà tổ, nhà giảng đường, nhà khách, nhà thiền v.v…

Trong thời nhà Lê niên hiệu Cảnh Hưng, có một vị ẩn sĩ đến tu tại Động Tàng Chơn, sau thời gian Ngài xây cất một am tranh để hiệu là “Dưỡng Chân Am”, sau một thời gian, Ngài tự xây cất một nhà bằng tranh lá tại trước động Tàng Chơn để hiệu là “Dưỡng Chân Đường” .

Khi việc tranh chấp giữa nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn, lúc bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh đến Ngũ Hành Sơn trông thấy cảnh trí kỳ quan hùng vĩ sơn kỳ thủy tú, vì thế khi Gia Long phục quốc bèn ra lệnh lập chùa tại Ngũ Hành Sơn – Quảng Nam, bây giờ Dưỡng Chân Đường được thiết lập hiệu là Ngự Chế Ứng Chân Tự. Từ khi đến ẩn tu tại Tàng Chơn Động, đến Dưỡng Chân Am và đến Dưỡng Chân Đường, sau đó là Ứng Chơn Tự đều là do sự tu trì và kiến thiết của Hòa thượng Quang Chánh, hiệu Bảo Đài đại sư. Như thế đương nhiên ngài Bảo Đài là người trước tiên khai sơn chùa Ứng Chơn, bắt đầu từ khi nhà Lê Cảnh Hưng đến nhà Nguyễn Gia Long và đến quốc gia độc lập bấy giờ, trong khoảng thời gian như thế, am viện và tăng sĩ ẩn hiện nơi đây sớm chiều với non nước trong cảnh tu hành thanh tịnh.

Từ thời Vua Gia Long đối với chùa Linh Ứng chỉ là trong thời kỳ sơ khai mà thôi. Sau khi vua Gia Long băng hà, vua Minh Mạng kế vị, Ông là người nổi tiếng giàu tư tưởng thi thơ và tôn sùng đạo Phật, thường hay ngoạn thưởng danh lam thắng cảnh, không những sùng đạo mà còn có một lịch sử xây dựng các quốc tự Ngũ Hành Sơn.

Trong thời vua Minh Mạng hoàng đế ngự chế (Ứng Chơn Tự Minh Mạng Tam Niên tạo ngự chế Ứng Chơn Tự).

Sau các đời Vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức đến vua Thành Thái, người ta đã đổi danh hiệu ngôi chùa Ứng Chơn trở thành hiệu chùa Linh Ứng Tự, việc thay đổi này chắc có lẽ vì lý do phạm những chữ cấm kỵ của nhà vua. Hiện bây giờ chùa Linh Ứng có hai biển vàng một ngự chế Ứng Chơn Tự Minh Mạng lục niên, hai bảng vàng cải tứ (đổi lại) Linh Ứng Tự Thành Thái tam niên. Từ đời Thành Thái người ta mới thường gọi chùa Linh Ứng Non Nước, có nghĩa là ứng nghiệm và linh thiêng. Thế là Quốc Tự Ấn Chơn từ đây đổi lại là Linh Ứng Tự.

Nói đến việc truyền thừa cũng như các quốc tự tại Ngũ Hành Sơn khác hẳn với các Chùa khác vì lẽ tại Ngũ Hành Sơn, Chùa thuộc Quốc Tự, vua chúa tạo lập hai nơi Tam Thai và Linh Ứng liên quan mật thiết với nhau, hội đồng tăng lữ ở đây cũng thống nhất một khối mà thôi. Tăng sự ở đây cũng chung một, riêng về truyền thừa tự tổ, chùa Linh Ứng từ Ngài Quang Chánh hiệu Bảo Đài khai sơn ở đây, sau khi hòa thượng thị tịch, bảo tháp được xây ngay sau chùa Linh Ứng. Bảng Lâm Tế tông Phổ lịch Đại Giác linh ở chùa Linh Ứng ghi rõ sự truyền thừa như sau:

Dưỡng Chân Đường thượng Bửu Đài sa môn, thượng Quang hạ Chánh, húy Pháp Tràng đại sư.

Ứng Chơn trụ trì, 37 thế, húy Tiên Trự, thượng Chơn hạ Như thiền sư.

Linh Ứng trụ trì, 40 thế, thượng Hải hạ Nghiêm hiệu Phước Nghi đại thiền sư.

Linh Ứng trụ trì, 40 thế, húy Chơn Thụy tự Đạo Các – Hưng Long thiền sư.

Linh Ứng trụ trì, 41 thế, húy Như Thông, tự Giác Minh – Tôn Nguyên thiền sư.

Linh Ứng trụ trì, 42 thế, húy Thị Năng, tự Trí Hữu – Hương Sơn Hòa thượng.

Hiện nay kế tiếp Hòa thượng là đệ tử của Ngài đang trụ trì là Thượng Tọa Thích Thiện Nguyện.

2.5.3. Chùa Phước Lâm:

Chùa Phước Lâm do thiền sư Thiệt Dinh – Chánh Hiển hiệu Ân Triêm (1712 – 1796) thành lập vào giữa thế kỷ 18, chùa Phước Lâm hưng thạnh thay thế vai trò của tổ đình Chúc Thánh sau khi Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo ẩn tu trên núi Thiên Ấn Quảng Ngãi.

Năm (1769) Thiền sư Thiệt Dinh – Chánh Hiển viên tịch, có lẽ thiền sư Phật Tuyết – Tường Quang kế thế trụ trì chùa Phước Lâm vì long vị ở chùa Vạn Đức có ghi: “Phước Lâm đường thượng, tam thập ngũ thế, húy Phật Tuyết hiệu Tường Quang Hòa thượng giác linh” (thiền sư Phật Tuyết là đệ tử của Hòa thượng Thành Đẳng – Minh Lượng) khai sơn chùa Vạn Đức.

Năm Nhâm Ngọ 1822, Tổ Bình Man – Tảo Thị trùng tu lại chùa Phước Lâm, đúc đại hồng chung mới cho chùa, chuông được chú tạo vào rằm tháng 7 năm nhâm ngọ, trên chuông có khắc: “Minh Giác Hòa thượng chứng minh”. Tổ Bình Man – Tảo Thị nối tiếp thắp sáng ngọn đèn pháp ở chùa Phước Lâm và làm hưng thịnh chi phái Chúc Thánh của phái thiền Lâm Tế.

Năm 1830 Tổ Bình Man - Tảo Thị viên tịch tại chùa Phước Lâm, đồ chúng lập tháp thờ ở sân phía trước chùa. Kế thế trụ trì là đệ tử của tổ thiền sư Toàn Nhâm – Vi Ý hiệu Quảng Thông. Nối tiếp thiền sư Toàn Nhâm – Vi Ý,ụ đệ tử là thiền sư Chương Tả – Tuyên Văn hiệu Huệ Quang lại thắp sáng ngọn đèn của chi phái thiền Chúc Thánh, đào tạo được nhiều đệ tử đắc pháp như: Ấn Thanh – Chí Thành (Tổ Đạo); Ấn Lan – Từ Trí (Tổ Huệ); Ấn Diệu – Từ Nhẫn (Tổ Truyền), Ấn Chánh – Huệ Minh và nổi tiếng nhất là Hòa thượng Vĩnh Gia hay thiền sư Ấn Bổ – Tổ Nguyên (1840 – 1918).

Năm Giáp Thân (1884) đời Vua Kiến Phúc, Hòa thượng Vĩnh Gia được cử trụ trì Chùa Linh Ứng. khoảng năm 1887 – 1888 Hòa thượng Vĩnh Gia kế thế trụ trì Chùa Phước Lâm sau khi bổn sư viên tịch, Hòa thượng trùng tu lại chùa.

Năm Canh Tuất (1910) đời vua Duy Tân, Hòa thượng Vĩnh Gia khai đại giới đàn ở chùa Phước Lâm có hơn một ngàn giới tử, trong đó có thiền sư Thích Tịnh Khiết và Thích Giác Nhiên (sau này là đệ nhất tăng thống và đệ nhị tăng thống của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam).

Ngày 20 tháng 3 năm Mậu Ngọ(1918) niên hiệu Khải Định thứ ba, Hòa thượng Vĩnh Gia viên tịch ở chùa Phước Lâm, đồ chúng lập tháp thờ trong khuông viên chùa, đệ tử là Phổ Minh và Phổ Truyền lập bia. Đệ tử của Hòa thượng là sư Chơn Thể – Phổ Minh (Đạo Viên) kế thế trụ trì chùa Phước Lâm, kế thế là sư Như Vạn – Giải Thọ, hiệu Trí Phước. Trụ trì chùa Phước Lâm hiện nay (1992) là hòa thượng Như Nhàn – Giải Lạc, hiệu Trí Giác.

2.5.4. Chùa Vạn Đức:

Chùa Vạn Đức ở xứ cây cau, đô thị Hội An, Tỉnh Quảng Nam, nay thuộc xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chùa Vạn Đức được thiền sư Minh Lương – Thành Đẳng (1686-1769) thành lập vào tiền bán thế kỷ 18. Chùa được cải tiến từ ngôi nhà của cha mẹ sư. Kế thế Hòa thượng Minh Lương trụ trì chùa Vạn Đức là đệ tử của Ngài, thiền sư Phật Tuyết – Tường Quan. Sư Tường Quang cầu pháp với Hòa thượng Thiệt Dinh – Chánh Hiển ở chùa Phước Lâm nên còn có pháp danh là Pháp Ấn và kế thế trụ trì chùa này một thời gian.

Tiếp theo thiền sư Tường Quang là thiền sư Phổ Triêm thuộc phái thiền Lâm Tế, chi phái Chúc Thánh, đời 36, sư trùng hưng lại chùa Vạn Đức. Kế thế Hòa thượng Phổ Triêm, đệ tử là thiền sư Toàn Đức – Hoằng Tuyên hay Hoằng Tông.

Năm 1818 sư Hoằng Tông trùng tu chùa Vạn Đức, đúc đại hồng chung cho chùa dưới sự chứng minh của hòa thượng Minh Giác. Đại hồng chung này hiện còn ở chùa, trên chuông có khắc: “ Vạn Đức Tự trụ trì Hoằng Tông đại sư, thiên vận Mậu dần niên, thất nguyệt cát nhật Minh Giác Đại lão Hòa thượng chứng minh”. Đại sư Toàn Đức – Hoằng Tông sinh giờ ngọ, ngày 20 tháng 12 năm kỷ hợi (cuối năm 1779 đầu năm (1780) tịch vào giờ Mùi, ngày 28 tháng 10 năm Quý Mão (1843).

Kế thế đại sư Toàn Đức – Hoằng Tông trụ trì Chùa Vạn Đức là các đệ tử và pháp tôn của Ngài.

 

KẾT LUẬN

Phật giáo vào Việt Nam đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc phát triển văn hóa. Vấn đề này chúng ta thấy là làm thế nào để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong khi bị đô hộ để giành độc lập, dân tộc Việt Nam vẫn là dân tộc Việt Nam, vẫn còn bản sắc văn hóa của mình. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn đã nói: “không phải súng đạn làm cho dân tộc bị tiệt chủng mà chính là văn hóa. Bảo vệ văn hóa chính là bảo vệ dân tộc”. Như vậy, Phật giáo đến với quần chúng, hòa cùng quần chúng đã góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc” [8,90]

Phật giáo vào Việt Nam đã thâm nhập và chan hòa với đạo lý cần kiệm, liêm chính, nhân nghĩa, trí dũng để trở thành Phật giáo Việt Nam vốn có truyền thống yêu hòa bình, tình nhân ái, nhưng đồng thời cũng biết sử dụng cái dũng đúng lúc, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, dù phải hy sinh cho đất nước, cho dân tộc. Nhận thức rõ điều này, nên dân tộc ta nói chung và người dân xứ quảng nói riêng sau hai cuộc chạm trán với kẻ thù, đã đề ra một sách lược cực kỳ quan trọng là phải bảo vệ cho được bản sắc văn hóa dân tộc, giáo sư sử học Phật giáo Lê Mạnh Thát nhận định: “Phật giáo từ thời Hai Bà Trưng đến vua Lý Nam Đế là Phật giáo chống nền văn hóa nô dịch của phương bắc và khẳng định bản lĩnh văn hóa Việt Nam”. [8,90]

Ngày nay, khi đọc lại những trang sử mở nước của ông cha, ta còn thấy hiện lên hình ảnh của hàng vạn, hàng triệu đồng bào kế tiếp nhau, hết lớp người này đến lớp người khác, trong cả một quảng thời gian dài của nhiều thế hệ, đuổi hùm voi, phá bờ bụi, sẻ núi, đào sông, chinh phục cảnh hoang sơ để xây dựng làng mạc, khắc phục sự khô cằn của đất đai, rừng rú để mở con đường sống và cống hiến tư lương, đảm bảo thể trường tồn, phát triển của dân tộc hào hùng.

Đọc lại những trang sử xưa, càng nghĩ tới công lao mở nước của tiền nhân, lớp con cháu càng có quyền tự hào và càng thấy rõ trách nhiệm bảo vệ mãnh đất thiêng liêng của tổ quốc, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong tình đồng bào ruột thịt, mặc dầu có những lúc chúng ta phải cam chịu cảnh nô lệ, nhưng chúng ta không thể đánh mất nét văn hóa của dân tộc mình, và Phật giáo cũng chung với sự thịnh suy ấy nên từ khi du nhập vào Việt Nam có lúc thịnh, lúc suy, gắn liền với vận mệnh thăng trầm tất yếu của đất nước. Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, Phật giáo với tinh thần từ bi cứu khổ, vô ngã vị tha, bình đẳng bác ái đã cùng với tinh thần yêu nước và đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc, tạo nên sức mạnh quật cường có thể đứng vững cho đến ngày hôm nay. Và không phải tới bây giờ mới thấy được đặc điểm ấy mà ngay trong những ngày xa xưa dân tộc Việt Nam nói chung và người dân xứ quảng nói riêng đã có ý thức làm chủ đất nước rất sâu sắc.

“Quảng Nam là đất quê mình

Núi, đồng, sông, biển rành rành từ lâu

Thương yêu đùm bọc trước sau

Cùng trong Đại việt chung nhau cơ đồ”.

Với dân tộc, Phật giáo không đặt niềm tin mù quáng không kiểm nghiệm được mà Phật giáo đặt trên nền móng của sự hiểu biết và thực chứng. Phật dạy: “giáo pháp của ta mời người đến để mà thấy chứ không phải đến để mà tin”. Điều này cho thấy rằng dù ở trong xã hội nào giáo lý của Ngài cũng mang tính thực hành, mà chính con người là chủ nhân của mọi hành vi thân, khẩu, ý nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây là điều mà Phật giáo góp phần trong việc giáo dục con người, nhắc nhở con người biết sống với thực tại, những gì hôm nay mình làm thì mình sẽ hưởng quả sau này. Vì vậy, ngay giờ phút hiện tại, mọi người hãy sống cho mình, cho mọi người, làm cho cuộc đời này được bình yên và hạnh phúc hơn. Phật giáo dạy con người không phải bằng luật lệ, mà bằng nguyên lý đời sống cao đẹp, lòng khoang dung, vị tha, một hệ thống nhân từ biết thương yêu đồng loại, biết sống cho người và vì người. Đức Phật đem chân lý bình đẳng soi sáng cho nhân loại lúc đó còn khe khắt đến ngột ngạt trong bốn giai cấp. Ngài dạy: “ không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn” mọi người đều có quyền sống bình đẳng như nhau, không phân biệt, chia rẽ, hận thù. Đây cũng chính là một nếp sống phù hợp với nền văn hóa dân tộc vậy.

Phật giáo không phải là một tôn giáo cứng ngắt với những giáo điều mà là những nguyên lý phù hợp với cuộc sống và sự sáng tạo của nhân sinh tức là phải khế lý và khế cơ. Đạo Phật chóng lại mọi thái độ cố chấp và giáo điều cứng ngắt mà phải biết cởi mở, biết đứng vào hoàn cảnh của kẻ khác và để hiểu kẻ khác. Với giáo lý nhân quả nghiệp báo đã khích lệ con người không ngừng phấn đấu để hoàn thiện mình, đó là hồi chuông cảnh tỉnh con người phải biết phân biệt thiện ác, từ bỏ điều ác, thành tựu hạnh lành. Chính con người phải chịu trách nhiệm gọt rửa thân tâm, làm chủ lấy nghiệp của mình qua những hành động trong cuộc sống hằng ngày mà mình đã tạo và từ đó con người biết rõ nhân quả nên cũng bớt gieo những nhân xấu và cuộc sống được an lạc hơn. Với con đường thoát khổ thật sự nhân bản, tích cực, với phương châm từ bi, hỷ xả, với con đường Bát Chánh đạo đã giải phóng con người ra khỏi mọi nỗi khủng hoảng, khổ đau một cách triệt để.

 

THƯ MỤC

[1]. Đào Duy Anh – Lịch Sử Việt Nam – NXB Văn Hóa Thông Tin 2002.

[2]. Đào Duy Anh – Văn Hóa Sử Cương – NXB Bốn Phương 1938.

[3]. Toan Ánh – Tín Ngưỡng Việt Nam – NXB Văn Nghệ 2000.

[4]. Nguyễn Văn Bôn – Văn Nghệ Dân Gian Quảng Nam Đà Nẵng (2 tập) – NXB Sở Văn Hóa Thông Tin 1984.

[5]. Minh Chi – Truyền Thống Văn Hóa và Phật Giáo Việt Nam – NXB Tôn Giáo 2003.

[6]. Nguyễn Khắc Chung – Chuyện Tâm Linh Việt Nam – NXB Văn Hóa Dân Tộc 2002.

[7]. Ngô Văn Doanh – Thánh Địa Mỹ Sơn – NXB Trẻ 2004.

[8]. Giác Dũng – Phật Việt Nam dân Tộc Việt Nam – NXBTôn Giáo 2003.

[9]. Nguyễn Đăng Duy – Văn Hóa Việt Nam Buổi Đầu Dựng Nước – NXB Hà Nội 2002.

[10]. Nguyễn Đăng Duy – Văn Hóa Tâm Linh – NXB Văn Hóa Thông Tin 2002.

[11]. Nguyễn Đăng Duy – Phật Giáo Với Văn Hóa Việt Nam – NXB Hà Nội 1999.

[12]. Nguyễn Sinh Duy (dịch) – Ngũ Hành Sơn – NXB Đà Nẵng 1996.

[13]. Phạm Ngọc Điền (phiên dịch) Quốc Sử Quán Triều Nguyễn Biên Soạn – Đại Nam Nhất Thống Chí (tập 2) – NXB Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1970.

[14]. Nguyễn Hiền Đức – Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong – NXB Thành Phố 1995.

[15]. Phạm Hoàng Hải – Đà Nẵng Trên Con Đường Di Sản – NXB Đà Nẵng 2004.

[16]. D-G-E- Hall – Lịch Sử Đông Nam Á – NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 1997.

[17]. TT. Thích Trung Hậu – Ca Dao Tục Ngữ Phật Giáo Việt Nam – NXB TP. HCM 2002.

[18]. Thông Thanh Khánh – Dấu Aán Phật Giáo Chămpa – NXB Mũi Cà Mau 1999.

[19]. Phan Khoang – Việt Sử Xứ Đàng Trong – NXB Văn Học 2001.

[20]. Thái Văn Kiểm – Đất Việt Trời Nam – Nguồn Sống Xuất Bản 1960.

[21]. Nguyễn Lang – Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập II) – NXBVăn Học Hà Nội 2000.

[22]. Đà Linh – Lấp Lánh Xứ Quảng – NXB Đà Nẵng 2003.

[23]. TT. Thích Thiện Nhơn – Tư Tưởng Kinh A Hàm – Lưu Hành Nội Bộ 1995.

[24]. Lê Minh Quốc – Hỏi Đáp Non Nước Xứ Quảng (4 tập) – NXB Trẻ 2003.

[25]. Lê Văn Siêu – Việt Nam Văn Minh Sử Cương – NXB Lá Bối 1967.

[26]. Phạm Côn Sơn – Văn Hóa Phong Tục Việt Nam ABC– NXB Văn Hóa Dân Tộc 2002.

[27]. TT. Thích Hương Sơn – Lịch Sử Ngũ Hành Sơn Chùa Non Nước 1971.

[28]. Nguyễn Quang Thắng – Quảng Nam Đất Nước Và Nhân Vật – NXB Văn Hóa 2001.

[29]. Trần Ngọc Thêm – Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - - Trường Đại Học Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh 1995.

[30]. Viên Trí – Khái Niệm Về Bồ Tát Quán Thế Âm – NXB Tôn Giáo Hà Nội 2003.

[31]. Trung Tâm Công Nghệ Thông Tin Du Lịch – Non Nước Việt Nam – NXB Hà Nội 2994.

[32]. Chu Quang Trứ – Di Sản Văn Hóa Dân Tộc Trong Tín Ngưỡng Và Tôn Giáo Việt Nam – NXB Mỹ Thuật 2001.

[33]. Phan Lạc Tuyên – Lịch Sử Bang Giao Việt Nam Đông Nam Á – Viện Đào Tạo Mở Rộng Khoa Học Đông Nam Á TP. Hồ Chí Minh 1993.

[34]. Nguyễn Phước Tương – Hội An Di Sản Thế Giới – NXB Văn Nghệ TP. HCM 2004.

[35]. Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam Viện Triết Học – Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam – NXB Khoa Học Xã Hội 1998, tr.31.

[36]. Nguyễn Khắc Viện – Kể Chuyện Đất Việt – NXB Ngoại Văn + Hà Nội 1988.

[37]. Việt Nam – Đất Nước Lịch Sử Văn Hóa – NXB Sự Thật 1991.

(Luận Văn Tốt Nghiệp của tác giả)
Tu Viện Quảng Đức

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn