Tết chữ

22 Tháng Giêng 201503:19(Xem: 10107)
tuyentaphuongphapmuaxuan 3
TẾT CHỮ
Hứa Xuyên Huỳnh

Cứ ngỡ chuyện “ăn Tết chữ” chỉ có trong trang viết của nhà văn Vũ Bằng từ  5 - 6 chục năm trước. Nhưng nhu cầu tâm linh (mùa xuân lên chùa) và nhu cầu văn hóa (xin chữ, xin thơ) vẫn còn tiếp nối ở Huyền Không sơn thượng, ngôi chùa danh tiếng xứ Huế qua thú tao nhã: bói thơ xuân.


Thiền soi nét bút…

tet chu 1
Thượng tọa Giới Đức giới thiệu thiếp thơ xuân với tác giả bài viết.

Chúng tôi mang theo những mẩu chuyện về Liễu Minh, Bất Đạt, Bất Ác, nhà sư già… mà tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh viết trong cuốn "Chuyện cửa thiền" tìm đến Huyền Không sơn thượng. Nhưng những cái tên ấy không còn nữa vì đi học tận Thái Lan, Ấn Độ, Tích Lan. Nơi chốn cũng khác: Một chốn thanh tu rộng rãi, bài trí đẹp, gầy dựng công phu, khác hẳn khung cảnh hơn 17 năm trước khi chúng tôi từng lạc bước đến. Lúc đó, Huyền Không sơn thượng vào cuộc gầy dựng chưa lâu ở địa điểm mới, núi Triều Sơn Phương tại huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Liễu Minh, Bất Đạt, Bất Ác là đệ tử của thượng tọa Giới Đức - tức nhà thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh, một trong những người sáng lập chùa Huyền Không (Huế) từ mái chùa lá ở đèo Hải Vân trước năm 1978. Hiện tại, Huyền Không sơn thượng nhân số đông hơn với 9 sư, 11 chú tiểu. “Các đệ tử của 30 năm trở lại đây, giờ phần lớn hoàn tục hết rồi”, thượng tọa Giới Đức nói.

tet chu 2Những mẩu chuyện trong sách hé mở sinh hoạt thường nhật, từ lao động đến tu tập, ở các ngôi chùa cũ. Bây giờ, nhịp điệu sinh hoạt ở núi Triều Sơn Phương khác hẳn, với 50ha khai hoang vùng đồi để trồng cây gây rừng, lập trang trại, thiết kế không gian chùa viện, vườn cảnh… Tục khách đến viếng không khỏi thán phục trước không gian ngoại viện đẹp, tinh tế, cứ như một bài-thơ-thiên-nhiên gồm am Mây Tía (Tử Vân am), Nghinh Lương đình, Chúng Hòa đường, Quá Thiện đường. Các cốc liêu chư tăng – chư ni cũng được đặt tên rất thanh nhã, như Tùng Vân sơn cốc, Thạch Vân sơn cốc, Tử Vân sơn cốc, Tử Tiêu sơn cốc, Ngọa Vân sơn cốc, Lan Vân sơn cốc… Những phiến đá đặt dọc lối đi cũng được vị sư trụ trì tốt chữ chép thơ vào đấy. Ở vài kiến trúc khác lại thấy treo câu đối, như “Lãng đãng càn khôn, thơ thắp con tim, tình ấm lại/ Phiêu bồng nhật nguyệt, thiền soi nét bút, chữ trong hơn” (Nghinh Lương đình); “Bút ẩn sĩ, chút trăng soi giọt mực/ Trí sa môn, chút lửa cháy câu kinh” (Chúng Hòa đường); “Bình bát rừng sâu, chim cúng trái/ Tâm thiền khe vắng, gió dâng hương”…

Một không gian thơ đúng nghĩa. Và trong không gian ấy, đã 3 năm nay, cứ đến đầu xuân lại thêm sinh hoạt thú vị: bói thơ.

Bói thơ xuân

blankCâu chuyện bói xuân bằng thơ ở Huyền Không sơn thượng được khởi sự một phần bởi vị trụ trì tài hoa – nhà thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh rất mê thơ, phần nữa cũng bởi áp lực từ phía… người chơi hội. Mỗi dịp xuân mới, sơn thượng này đón 1.500 khách, mà thú chơi xuân cũng cần đến chút quà tao nhã như thơ kèm theo những lời dự báo đầu năm, nên trò “bói thơ” ra đời. Chùa in thiếp thơ, khách có nhu cầu bói thơ xuân thì chọn lấy, được nghe giải nghĩa và phát tâm cúng dường. Đó là những câu thơ tự suy tự đoán, những tứ thơ viết lúc cao hứng thường nhật lại gợi ý sâu xa trong ngày đầu xuân. Giao thừa, thầy trò ở Huyền Không sơn thượng tự “bói thơ” trước, rồi mới đến lượt khách chơi xuân. Những ngày đầu, khách chọn câu thơ nào sẽ được vị trụ trì mời uống trà và “đoán thơ”. Về sau, khách vãn cảnh chùa ngày một đông, sư tiếp không xuể nên mục “đoán thơ” chỉ dành cho những người đặc biệt, còn lại hoặc giao các đệ tử giải thích thêm hoặc… khách tự hiểu lấy.

Nghề chơi cũng lắm công phu. Mỗi “thiệp” thơ chỉ 2 câu, in trang trọng trên khung giấy kích cỡ chỉ bằng một tấm danh thiếp, do chính vị trụ trì viết với thảo bút đẹp. Thượng tọa Giới Đức không chỉ giỏi thơ văn mà còn am tường hội họa và trang trí mỹ thuật, nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp tại Việt Nam. Cứ thủng thẳng, mỗi ngày thơ bất giác “hiện” ra thì sư chép lấy, để dành. Thoạt tiên chỉ có chừng 200 câu được trữ sẵn, sau thấy “nhu cầu bói thơ” của khách vãn cảnh chùa tăng dần nên sư trụ trì phải bổ túc mỗi năm vài trăm câu. Giờ thì gia tài thơ bói xuân của Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã ngót 10.000 câu, nhưng thượng tọa khiêm tốn: “Cứ 9 câu hay, cũng sẽ có 1 câu dở. Mà thơ dành để bói xuân đẹp quá cũng… không tốt. Tôi phần lớn làm ra những câu chúc về những đức hay ở đời”.

tet chu 4
Thủ bút của thượng tọa Giới Đức
thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh.

Địa chỉ nổi tiếng như Huyền Không sơn thượng luôn hút khách là chuyện không lạ, nhất là dịp đầu  xuân. Nhưng “kết hợp” chơi xuân - thú bói thơ - tâm cúng dường là cách nghĩ mới, mà nói như vị trụ trì là “cần có đầu óc tư duy chút, sáng tạo chút, làm được những cái người ta chưa làm”. Để thỏa mãn cả nhu cầu thăm thú lẫn tâm linh, thượng tọa tiết lộ với chúng tôi về kế hoạch tách khu lưu niệm (cho khách vãn cảnh) riêng rẽ với khu tâm linh (Phật tử đến chiêm bái), nhưng mọi chuyện hãy còn tùy duyên. Vậy là công cuộc trồng cây gây rừng, lập trang trại, thiết kế nội thất ngoại viện tại núi Triều Sơn Phương vẫn tiếp tục…

Ngồi trước am Mây Tía, đón từ tay thượng tọa - thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh chén trà sen hồ Tây chính hiệu được gửi từ Hà Nội vào, nhìn đôi câu đối “Bút vẫy rừng không, mây gió bâng khuâng, trăng sáng chữ/ Thơ chơi lũng vắng, khói sương lãng đãng, đá ngời văn”, khung cảnh ngập ý thơ gợi nhắc về những thú tao nhã xưa mà nhà văn Nguyễn Tuân từng viết. Chợt nhớ đến mẩu chuyện đón tết mà ông chép trong cuốn "Chuyện cửa thiền". Chiều ba mươi, các đệ tử Bất Đạt, Bất Ác, Liễu Minh còn đang loay hoay không biết đống củi khô đào trên núi khuân về liệu có bán được để kiếm tiền lo tết, thì cả ba được sư phụ động viên nên cao hứng… làm câu đối mang đến nhờ thầy nhuận sắc. Chuyện viết từ năm 1977, ở Hải Vân - Lăng Cô, tình cảnh thật khác xa bây giờ nhưng ý thơ xuân vẫn chưa hề vơi bớt.

Xuân năm nay, lần thứ 4 Huyền Không sơn thượng lại có thú bói thơ…

HỨa Xuân Huỳnh
(Quảng Nam)

CHÚ THÍCH CỦA BAN BIÊN TẬP:
Ban biên tập có nhận được email của Thầy Giới Đức Minh Đức Triều Tâm Ảnh với nội dung như sau:

Kính cư sĩ Tâm Diệu cùng BBT/TVHS,

Bài “Tết chữ” tác giả viết rất hay, nhưng có 4 thông tin trong đó không được chính xác. Xin đính chính:

1- Câu: Chùa in thiếp thơ, khách có nhu cầu bói thơ xuân thì chọn lấy, được nghe giải nghĩa và phát tâm cúng dường!”

Xin thưa, mỗi ngày hằng ngàn người bốc, chẳng có ai ở chánh điện để giải nghĩa cho người ta phát tâm cúng dường cả! Tại hộp bói thơ có ghi: Tâm thành tất ứng. Tự suy, tự gẫm, tự giải”. Và nhà chùa không có ai đứng đó để nhận tiền cả.

2- Câu: Vị trụ trì mời trà và đoán thơ”. Hằng năm, tôi nhập thất từ 21 tháng chạp đến 20 tháng giêng – thì lấy đâu chuyện tiếp khách, mời trà và đoán thơ?

3- Các sư tôi cũng không cho đoán, sợ đoán không trúng với ý thơ, đôi khi ảnh hưởng tâm lý không tốt đến khách. Gia dĩ có chuyện các sư giải nghĩa là do người ta năn nỉ quá, chẳng đặng đừng mà thôi. Và tôi cũng không cho phép các sư nhận tiền. Khi có ai đưa tiền, hãy chỉ họ lên thùng phước sương.

4- Mấy năm nay tôi không làm thêm nên chỉ có chừng hơn 1000 câu thơ lục bát, không phải là 10.000.

MĐTTA



MỤC LỤC TUYỂN TẬP HƯƠNG PHÁP MÙA XUÂN

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 5965)
Một vị Hòa thượng đã nói đùa: “Chùa thờ linh lúc nào cũng đông đúc Phật tử đến sinh hoạt, việc điều hành chùa tuy bận rộn nhưng dễ dàng vì có phương tiện cúng dường của Phật tử. Trái lại, những ngôi chùa chỉ đào tạo Tăng Ni có trình độ giáo lý cao như cử nhân, tiến sĩ thì phần lớn không có chúng, không có Phật tử”, và vị này đã kết luận: “tiến linh có phần ‘hơn’ tiến sĩ!!!”.
16 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 19345)
Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5260)
Vị trí địa lí và các sinh hoạt văn hóa kinh tế giữa Trung Quốc (TQ) và Việt Nam (VN) đã để lại nhiều dấu ấn trong ngôn ngữ theo dòng thời gian, nhất là khi Phật giáo (PG) du nhập vào Đông Nam Á và TQ. Phần này chú trọng vào các cách đọc (âm Hán Việt) của chữ 梵 phạn hay phạm trong các tài liệu cổ TQ và các dữ kiện tương ứng trong tiếng Việt.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6022)
Tôi không có ý định nói tiếp ý của câu ca dao thứ hai “ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta” vì mình chưa đủ trải nghiệm và hiểu biết để đoan chắc rằng “lắm kẻ” đó có “giòn” hơn hay không “giòn” hơn ta. Tôi chỉ xin nói về một vài trải nghiệm nho nhỏ khi “ra đường” để có dịp nhìn lại mình khi “ở nhà” với những mối quan hệ “mẹ con” thân thuộc.
03 Tháng Mười Một 2014(Xem: 4636)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà. Mặc dù Đức Phật đã mở một lối đi riêng mang tính tiên phong về phương diện tư tưởng nói chung và lãnh vực nghệ thuật nói riêng; tuy vậy, vẫn có những giao thoa nhất định trong hành hoạt đời thường, vì cùng sinh hoạt và tồn tại trong một không gian văn hóa.
29 Tháng Mười 2014(Xem: 5322)
Theo các nguồn sử liệu đáng tin cậy, đạo Phật truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch, cho đến Khương Tăng Hội là vị tăng sĩ có sử tích đầu tiên trong lịch sử (sanh khoảng năm 190 - mất năm 280 sau tây lịch) và để lại nhiều tài liệu viết dịch;[1]từ ấy đến nay đã gần hai ngàn năm.
14 Tháng Mười 2014(Xem: 5774)
Hằng năm, sau ba tháng an cư, nhập hạ trước, từ ngày 16/6 đến 16/9, suốt một tháng, tức là từ ngày 16/9 đến ngày 16/10 ÂL. trùng với ba tháng mùa mưa ở Ấn Độ, chư tăng được phép thọ nhận y Kaṭhina do thí chủ cúng dường. Truyền thống này có sự tích và nhân duyên từ thời đức Phật:
27 Tháng Chín 2014(Xem: 7122)
Như thường lệ, đúng vào ngày Chủ nhật hàng tuần, chư tôn đức Phật giáo Nam Tông tỉnh Thừa Thiên Huế đều có pháp khất thực trên những con đường êm ả của xứ Huế thơ mộng. Những bước chân nhẹ nhàng, thong thả với chánh niệm, pháp khất thực đã thể hiện nét đẹp văn hóa của Phật giáo xứ Huế và dần trở thành thân thuộc với người dân.
01 Tháng Chín 2014(Xem: 10564)
Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả.