Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán
Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản 2000
BÕ LÚC PHONG TRẦN
Đêm ngày luống những âm thầm,
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy
sông kình ngạc chật đường giáp binh.135
Chiến
tranh tràn tới. Không khí chiến tranh bao phủ cả một vùng.
Người quen thuộc kẻ chung quanh,
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
Nàng rằng: ‘Trước đã hẹn lời,
‘Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!’
Còn đang dùng dẳng ngẩn ngơ.
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la.136
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
Đồng thanh cùng gởi: ‘Nào là phu nhân?’
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu.
Cung nga thê nữ nối sau,
Rằng:
‘Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy.’
Từ
Hải đưa một đạo binh đi đón vợ. Kiều đã xuống chó,
bây giờ lên voi.
Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,137
Hoa quan giấp giới hà y rỡ ràng.138
Dựng cờ nổi trống lên đường,
Trúc
tơ139 thổi trước kiệu vàng kéo sau.
Đây
là đám cưới mà Từ Hải mong muốn. Lời hứa đã được
thực hiện. Từ Hải đã thành công và trở về đóng binh
ở gần đó.
Hỏa bài tiền lộ ruổi mau,140
Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.141
Kéo cờ lũy phát súng thành,
Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.
Lữa mình là vẻ cân đai,
Hãy
còn hàm én mày ngài như xưa.
Từ
Hải thân hành ra ngoài cửa đón. Vẫn còn dáng dấp của người
anh hùng đã gặp Kiều ngày xưa ở thanh lâu.
Cười rằng: ‘Cá nước duyên ưa!
‘Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
‘Anh hùng mới biết anh hùng,
‘Rày xem phòng đã cam lòng ấy chưa?’
Nàng rằng: ‘Chút phận ngây thơ,
‘Cũng
may dây cát được nhờ bóng cây!
- ‘Em
chẳng qua chỉ là một loại dây leo nương nhờ vào được
một cây tùng mạnh khỏe mà leo lên cao.’ Cát là dây leo,
thường gọi là cát đằng. Có một bộ lục tên là Cát Đằng
Lục do một thiền sư sáng tác. Tác phẩm Quy Sơn Đại Viên
Thiền Sư Cảnh Sách trong bộ luật Sa Di và Sa Di Ni có câu:
‘Khởi bất kiến ý tùng chi cát, thượng tủng thiên tầm,
phụ thác thắng nhân, phương năng hữu ích.’ Nghĩa là: Há
không thấy những dây leo nương vào cây tùng mà lên cao được
cả ngàn tầm; nương tựa vào những người lớn thì mới
có ích lợi trong sự tu tập.
‘Đến bây giờ mới thấy đây,
‘Mà
lòng đã chắc những ngày một hai.’
- ‘Bây
giờ thì sự vinh quang đã rõ ràng nhưng em đã thấy được
nó từ ngày mới gặp nhau!’ Chứng tỏ: ‘Em là tri kỷ duy
nhất của anh. Em có con mắt rất tinh.’ Trong lòng nói vậy
nhưng bên ngoài thì vẫn có vẻ khiêm nhường lắm: ‘Em đâu
có giá trị gì đâu!’
Cùng nhau trông mặt mà cười,
Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
Tiệc bày thưởng tướng khao binh,
Om thòm trống trận rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bỏ lúc phong trần,
Chữ
tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Đó
là những ngày Kiều có danh, có lợi, có tình, có hạnh phúc.
Nhưng than ôi, tình trạng này không được lâu dài!
ÂN
OÁN RẠCH RÒI
Trong quân có lúc vui vầy,
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:142
‘Khi Vô Tích, khi Lâm Truy,
‘Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương.
‘Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
‘Chút
còn ân oán đôi đường chưa xong.’
Kiều
muốn đền ơn và báo oán. Những hạt giống đó cũng có mặt
trong ta. Chúng ta không muốn giết hay bỏ tù người làm ta
khổ nhưng khi thấy người đó bây giờ khổ thì trong lòng
ta cũng thấy hơi đã. Đó là hạt giống của sự báo oán.
Tất cả chúng ta đều có hạt giống đó. Phải công nhận
như vậy. Học Từ Bi Hỷ Xả chúng ta có thể chuyển hóa hạt
giống đó. Tôi đã thực tập. Có những người làm khổ tôi
rất nhiều trong quá khứ. Đôi khi thấy những người đó
khổ thì ban đầu mình nói thầm thầm: ‘Cho đáng!’ Ngày
xưa thì có lúc như thế, nhưng bây giờ thì khác. Tôi đã
chuyển hóa. Tôi không muốn những người làm khổ mình ngày
xưa khổ. Nếu quý vị đọc sáu điểm tôi đề nghị cho tương
lai Phật giáo Việt Nam thì sẽ thấy một trong sáu điều là:
‘Phật giáo Việt Nam không có kẻ thù. Phật giáo Việt Nam
muốn được cộng tác với tất cả những thành phần khác
của dân tộc, dầu với những người ngày xưa đã từng đàn
áp Phật giáo và làm cho Phật giáo điêu đứng.’ Điều này
được bộc lộ rất rõ, đúng với tinh thần Đại Xả của
Tứ Vô Lưọng Tâm.
Đọc
truyện Kiều, chỗ nào chúng ta cũng thấy thương xót Kiều
nhưng tới chỗ Thúy Kiều trả thù thì ta thấy Kiều chưa
giỏi. Đã khổ nhiều như vậy mà chưa hiểu được những
người kia. Tuy ác độc, gian manh nhưng họ cũng là nạn nhân
của gia đình, xã hội và giáo dục của họ. Kiều chưa thấy
được điều đó. Cùng tu học với nhau bây giờ, chúng ta
có cơ hội làm được chuyện mà ngày xưa Thúy Kiều đã không
làm được, tức là thương xót được những người đã làm
khổ mình bởi vì họ cũng khổ. Ý định đền ơn thì tốt
nhưng ý muốn trả thù thì không xứng đáng; nhất là mình
đã từng được đi tu rồi.
Từ công nghe nói thủy chung,
Bất
bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Anh
chàng nghe nói giận lắm. Muốn trừng phạt tất cả những
người đã làm cho người yêu của mình đau khổ da diết ngày
xưa. Ăn thua là do người đàn bà cả. Người đàn bà cứ
tỉ tê nói ra nói vào một hồi là người đàn ông xiêu lòng.
Anh hùng vậy đó, nhưng nếu có một người đàn bà yếu đuối
hờn ganh bên cạnh thì có thể những hạt giống vô minh sẽ
nổi lên. Đó cũng là thương nhưng tình thương ở đây chưa
phải là tình thương của Từ Bi Hỷ Xả. Tình thương này
còn có chất liệu của vô minh, phân biệt, kỳ thị. Chưa
có chất liệu Xả.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,143
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo
ra Vô Tích đạo vào Lâm Truy.
Đi
bắt hết những người làm khổ Kiều và mời tất cả những
người ân của Kiều về. Vô Tích và Lâm Truy là hai nơi mà
Kiều đã chịu khổ rất nhiều. Lâm Truy là nơi Kiều vào
thanh lâu lần đầu. Vô Tích là chỗ Kiều bị bắt làm đầy
tớ. Các tướng cũng được lệnh bảo vệ cho gia đình họ
Thúc (Thúc ông và người nhà) không cho quân lính và dân chúng
vào phá. Như vậy là quân lính của Từ Hải có thể phạm
vào những nhà khác. Đó là cảnh chiến tranh. Thật nguy hiểm.
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
Mụ quản gia vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng
lòng cùng giận người người chấp uy.
Thệ
sư là lễ tế cáo Trời Đất và Quỷ Thần và hiểu dụ tướng
sĩ trước lúc xuất quân. Lễ này có mục đích nêu ra rằng
đây là một cuộc hành quân có chính nghĩa, không phải là
việc đi cướp bóc, tàn hại nhân dân. Đó là đạo đức
chính trị và quân sự ngày xưa. Con người làm chiến tranh
nhưng phải biết rằng ngoài con người còn có Trời, Đất,
Quỷ, Thần. Không nên nghĩ rằng ngoài con người ra không có
cái gì cả. Đó là một nét thuộc về văn minh Đông phương.
Hy vọng trong tương lai những nước Tây phương mỗi khi muốn
đem quân đi đánh ở đâu cũng sẽ làm lễ Thệ Sư nói cho
quần chúng. Quỷ Thần, Trời Đất biết rõ lý do.
Sau
khi tướng sĩ và quân lính nghe những chuyện Kiều kể thì
ai nấy đều giận. Ai cũng muốn chấp hành và thực hiện
cho được mục đích của cuộc ra quân.
Đạo trời báo phục chỉn ghê,144
Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi.
Quân trung gươm lớn giáo dài,
Vệ trong thị lập cơ ngoài song phi.145
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất tinh kỳ rợp sân,146
Trướng hùm147 mở giữa trung quân,
Từ công với phu nhân cũng ngồi.
Tiên nghiêm148 trống chửa dứt hồi,
Điểm
danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.149
Những
người có tên điểm danh được dẫn ra trước cửa quân.
Từ rằng: Ân oán hai bên,
‘Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.’
Nàng rằng: ‘Muôn cậy uy linh,
‘Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.150
‘Báo ân rồi sẽ báo thù.’
Từ rằng: ‘Việc ấy để cho mặc nàng.’
Cho gươm mời đến Thúc Lang,
Mặt
như chàm đổ mình dường giẻ run.
Mặt
tái xanh, người run rẩy. Đúng là tướng mạo, là căn cước
của anh chàng.
Nàng rằng: ‘Nghĩa trọng tình non,
‘Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?
‘Sâm Thương151 chẳng vẹn chữ tòng,
‘Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
‘Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
‘Tạ
lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Dầu
không sống với nhau suốt đời nhưng vẫn còn tình nghĩa cũ.
Kiều biết ơn Thúc Sinh đã kéo mình ra khỏi ổ nhền nhện
và cho mình gần một năm hạnh phúc. Nhưng:
‘Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
‘Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
‘Kiến bò miệng chén chưa lâu,
‘Mưu
sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!’
Đó
là một lời dọa.
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ
hôi chàng đã như mưa ướt dầm.
Sợ
quá! Xin đừng cười, bởi chàng Thúc Sinh đang có mặt trong
mỗi chúng ta.
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
Sợ
thay mà lại mừng thầm cho ai.
Sợ
là sợ cho Hoạn Thư, mừng là mừng cho Thúy Kiều. Anh chàng
được Kiều trả ơn có thể sẽ bị mất vợ.
Mụ gia sư trưởng thứ hai,
Thoát
đưa đến trước vội mời lên trên.
Mụ
già là bà quản gia ở nhà họ Hoạn, Sư Trưởng là sư chị
Giác Duyên. Hai người vừa đến thì được Kiều mời lên
trướng liền.
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
‘Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi!
‘Nhớ khi lở bước sẩy vời,
‘Non
vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Kiều
có hạt giống của sự biết ơn rất lớn. Nhớ mãi những
điều người ta giúp mình. Chúng ta nên biết bất cứ một
hạt giống tốt nào mình gieo, một cử chỉ thương yêu lân
mẫn nào mình làm đều có kết quả. Kết quả trong lòng mình
và trong lòng người khác.Thực tập ‘Sáng cho người thêm
vui. Chiều giúp người bớt khổ,’ bảo hộ sanh mạng và
thực tập Từ Bi Hỷ Xả trong đời sống hàng ngày để đầu
tư cho tương lai, làm như thế không phải chỉ cho riêng mình
mà cho tất cả mọi người.
‘Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
‘Mà
lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!’
Cúng
dường sư chị Giác Duyên và bà quản gia mỗi người một
nghìn lạng vàng. Không biết sư chị dùng vàng này để làm
gì? Nhưng bà quản gia thì chắc chắc sẽ biết cách xài. Bà
sẽ tìm cách thoát khỏi thân phận làm việc cho người và
ra sống riêng. Ngày xưa Hàn Tín bên Tàu trong thời đói khổ
gặp một bà già tên là Phiếu mẫu cho ăn cơm. Sau này làm
nên, Hàn Tín trả ơn bà một nghìn lạng vàng. Những khi người
ta khổ đau hoặc lỡ bước mà giúp người ta là rất quan
trọng. Một bát cơm thôi nhưng đáng giá ngàn vàng. Không thể
nói một bát cơm ngoài chợ chỉ bán có ba hay mười francs.
Một bát cơm có khi là ba Francs nhưng có khi là một ngàn lạng
vàng, có khi lại không có giá trị gì hết. Đưa một bát
cơm mà nói nặng nhẹ thì bát cơm đó không có một giá trị
gì. Với tấm lòng thương yêu, săn sóc, nhường cơm xẻ áo
cho người thì bát cơm đó đáng giá ngàn vàng. Có những người
Việt Nam trong những trường hợp khổ cực, cha trong trại
học tập cải tạo (Sơn La hay Ích Khiếu), mẹ bị bịnh...
bên này chúng ta nhường cơm xẻ áo gởi về giúp họ, sau
này mỗi khi nhớ tới họ rất cảm ơn mình. Nhưng có người
sau khi qua được bên này lại nói: ‘Gửi cho mấy chục đô
la, nhằm nhò gì!’ Họ không nhớ rằng trong trường hợp
khó khăn mà nhận được sự giúp đỡ là quý. Đó là họ
không biết giá trị của bát cơm Phiếu mẫu. Họ nghĩ ằng
bên này tiền do mình tự đúc ra, cứ việc bỏ vào bì thơ
để gửi về; họ không biết rằng mình cũng phải nhịn áo,
nhịn mặc, nhịn tiêu mới có thể gửi về được. Nên biết
rằng trong ta có thể có những hạt giống như vậy. Chúng
ta có thể có những hạt giống của Hàn Tín, Thúy Kiều và
cũng có thể có hạt giống của những người không phải
là Hàn Tín, Thúy Kiều.
Hai người trông mặt tần ngần,
Nửa
phần khiếp sợ nửa phần mừng vui.
Ghê
quá! Mình là thầy tu, mình là mụ quản gia mà bây giờ phải
lên tới chỗ này, toàn là quân lính và giáo dựng gươm trần.
Bà này làm lớn quá! Họ không biết nói gì cả.
Nàng rằng: ‘Xin hãy rốn ngồi,
‘Xem
cho rõ mặt biết tôi báo thù!’
Chắc
chắn là sư chị không muốn ngồi nhưng sư chị đã bắt buộc
phải ngồi vì hơi ngại. Sư chị đâu muốn nhìn thấy những
chuyện bạo động, trả thù. Chỗ này chúng ta cần quán chiếu
cho kỹ. Chúng ta đọc tiếp để xem Thúy Kiều báo thù Hoạn
Thư như thế nào:
Kíp truyền chư tướng hiến phù,152
Lại đem các tích phạm tù hậu tra.153
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư,
Thoát trông nàng đã chào thưa:
‘Tiểu
thư cũng có bây giờ ở đây!
- ‘Tiểu
thư mà cũng tới đây nữa hả?’ Đó là lời nói mỉa mai.
Hạt giống này cũng có trong ta. Thỉnh thoảng chúng ta cũng
biết nói lời mỉa mai.
‘Đàn bà dễ có mấy tay,
‘Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
‘Dễ dàng là thói hồng nhan,
‘Càng
cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!’
- ‘Từ
xưa đến giờ tìm ra được một người như tiểu thư là
hiếm lắm. Càng cay nghiệt lắm thì càng gặp nhiều oan trái.’
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng dở điều kêu ca,
‘Rằng: ‘Tôi chút phận đàn bà,
‘Ghen
tuông thì cũng người ta thường tình.
- ‘Đàn
bà ai lại không ghen tương phu nhân!’ Điều này có thật.
Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông không ghen. Đàn ông
cũng ghen. Nhưng đây là nói chuyện đàn bà với nhau. ‘Ghen
tuông thì cũng người ta thường tình.’ Nói ra một sự thật.
Bà này khôn lắm. ‘Tôi là đàn bà. Mà hễ là đàn bà thì
ai là không ghen.’
‘Nghĩ cho khi các viết kinh,
‘Với
khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Nhắc
lại những công đức của mình. Rất khéo! Bà này mà đi học
trường luật thì chắc cũng sẽ tốt nghiệp hạng cao. Không
nói ‘đi trốn’ mà chỉ nói ‘khỏi cửa’ thôi - Người
ta làm phu nhân, người ta đâu có ‘đi trốn’.
‘Lòng riêng riêng những kính yêu,
‘Chồng
chung chưa dễ ai chiều cho ai!
Khi
chồng mình bị một người đàn bà khác tới chiếm thì tâm
niệm muốn giật chồng lại là một tâm niệm phổ biến.
Đó là tính người. Tự mình làm luật sư bào chữa. Rất
hay. Nhưng cái hay này một phần lớn là của thi sĩ.
‘Trót lòng gây việc chông gai,
‘Còn
nhờ lượng bể thương bài nào chăng!’
- ‘Lượng
phu nhân lớn như biển. Bây giờ phu nhân thương được chút
nào thì con nhờ chút đó.’ (Thương ít ít cũng được, miễn
có thương là quý rồi.) Rất khéo.
Rằng: ‘Tôi chút phận đàn bà,
‘Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
‘Nghĩ cho khi các viết kinh,
‘Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
‘Lòng riêng riêng những kính yêu,
‘Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!
‘Trót lòng gây việc chông gai,
‘Còn
nhờ lượng bể thương bài nào chăng!’
Rất
gọn mà đủ. Ghen thì ghen ghê gớm mà nói thì cũng rất khéo.
Và quý hơn hết là vẫn có vài hạt giống của lòng từ bi
trong tâm.
Kiều
đáp lại:
Khen cho: ‘Thật đã nên rằng,
‘Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.
‘Tha ra thì cũng may đời,
‘Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
‘Đã lòng tri quá154 thì nên,
‘Truyền
quân lệnh xuống trướng liền tha ngay.’
Kiều
tha bổng cho một người đã từng làm cho mình đau khổ cùng
cực. Đêm Hoạn Thư tổ chức tiệc rượu tẩy trần đón
Thúc Sinh trở về bắt Kiều hầu rượu là đêm đau khổ nhất
của Kiều. Thúc Sinh và thúy Kiều càng đau khổ bao nhiêu thì
Hoạn Thư càng ‘đã’ bấy nhiêu. Nhưng bây giờ chính Kiều
ra lệnh tha cho Hoạn Thư. Chuyện này sở dĩ xảy ra một phần
là nhờ Hoạn Thư khôn khéo và một phần khác cũng nhờ trong
tâm bà ta có hạt giống từ bi. Ngày xưa bà đã làm được
hai việc quan trọng. Một là cho Kiều đi tu để thoát khỏi
thân phận đầy tớ. Hai là để Kiều trốn mà không tầm
nã. Nếu không có hai điều đó thì bây giờ chắc chết. Trong
nguyên lục Hoạn Thư bị đánh một trăm roi trước khi tha
bổng. Cụ Nguyễn Du của chúng ta không cho đánh Hoạn Thư.
Nàng Kiều của cụ Nguyễn Du có lòng từ bi hơn nàng Kiều
trong nguyên lục.
Tạ lòng lạy trước sân mây,
Cửa
viên lại dắt một dây dẫn vào.
Những
người còn lại đều bị phạt nặng.
Nàng rằng: ‘Lồng lộng trời cao!
‘Hại
nhân nhân hại sự nào tại ta!
Thiên
võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu: lưới trời lồng lộng, thưa
mà khó lọt. Làm ác thì bị quả báo ác. ‘Hại nhân nhân
hại’ là luật quả báo. ‘Sự nào tại ta’: vì các người
ác nên bị quả báo chứ không phải tại tôi ác. Nói như
vậy, đứng về phương diện pháp lý thì rất đúng nhưng
đứng về phương diện đạo lý thì không đúng. Có hai phương
pháp xử trị: đức trị và pháp trị. Pháp trị là lấy luật
mà đối xử. Phạm lỗi đó thì bị trừng phạt, như vậy
là pháp trị. Câu nói của Kiều là câu nói về pháp trị..Nhưng
là người tu thì mình không được nói như Kiều. Mình không
phải là pháp gia , mình là đạo gia. Mình phải nói: ‘Anh
đã gây tội lỗi, đáng lý hôm nay anh bị quả báo. Nhưng
tại tôi là người tu thành ra may cho anh.’ Đó là đức trị.
Trị bằng đức, bằng tình thương. Thúy Kiều đã được
đi tu, học đạo giải thoát mà vẫn dùng ngôn ngữ của pháp
trị, đó là không giỏi. Là người tu mình không nói bằng
ngôn ngữ của pháp trị; mình phải nói bằng ngôn ngữ của
đức trị. Mình đừng nói: ‘Ráng chịu!’ không phải là
ngôn ngữ của người tu. Đây là một trong những lỗi lớn
của Thúy Kiều. Chúng ta hãy tưởng tượng trong khi Kiều đang
nói bằng cái giọng sắt đá và máy móc như vậy thì sư chị
Giác Duyên cũng đang ngồi phía sau lưng. Sư chị nghĩ gì?
‘Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
‘Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh,
‘Tú Bà với Mã Giám Sinh,
‘Các tên tội ấy đáng tình còn sao?’
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề
sao thì lại cứ sao gia hình.
Những
người ngày xưa thề như thế nào thì bây giờ chịu quả
như thế đó. Ví dụ thề: ‘Nếu mà tôi có phản bội thì
tôi chết liền tức khắc!’ hay ‘Nếu tôi lừa gạt em thì
cho người ta băm nát thân tôi thành từng miếng đem làm thực
phẩm cho lợn ăn!’ thì Kiều bây giờ cũng cho làm y như vậy.
Như vậy thời gian Kiều ở chùa Chiêu Ẩn không ích lợi gì.
Có chép Kinh, tụng Kinh, thỉnh chuông, làm đủ thứ... được
ở với sư chị nhưng những hạt giống của từ bi, tha thứ
không được tưới tẩm nhiều. Kiều có tha cho Hoạn Thư vì
thấy được hoàn cảnh và lòng tốt của Hoạn Thư. Trong Kiều
cũng có cái thấy, cái hiểu và cái thương. Nhưng với những
người này, Kiều hoàn toàn không thấy được rằng sở dĩ
họ ác như vậy là vì họ được nuôi dưỡng và sống trong
những môi trường mà ai ở trong đó cũng có thể trở thành
như vậy. Vì không thấy điều đó nên Thúy Kiều đành lòng
để họ bị trừng phạt. Sư chị ngồi phía sau chắc cũng
đau xót vô cùng nhưng không làm gì được. Không thể ngăn
cản được nữa vì đây không phải thiền môn. Đây là quân
trường,
đây là tòa án, đây không còn là sư em của mình nữa mà
là một vị chỉ huy trưởng quân đội toàn quyền sinh sát
(Từ rằng: ‘Việc ấy để cho mặc nàng.’) Hai người ơn
của Kiều, bà quản gia và sư Giác Duyên ngồi phía sau mà
khiếp đảm, thấy trái tim Kiều là sắt đá. Chắc sư chị
đau khổ vô cùng. Lỗi một phần là của sư chị. Trong thời
gian em nó ở với mình, mình đã không dạy. Sư chị có thể
là người tốt nhưng sư chị không thực tập dạy em. Vì vậy
tuy thương em nhưng sư chị không làm tròn bổn phận của một
người chị. Tất cả những sư chị tương lai phải học những
bài học này. Em mình không thể nói: ‘Hại nhân nhân hại.
Ai bảo! Ráng chịu!’ Nếu sư em mình làm và nói như vậy
là mình chịu trách nhiệm hoàn toàn. ‘Tôi đã nói mà nó
không chịu nghe!’ Nhưng tôi đã nói làm sao để nó không
chịu nghe? Hay là vì tôi nói giọng chị Hai thành ra sư em tôi
không thèm nghe? Tôi phải nói bằng thứ ngôn ngữ rất ngọt
ngào và thương yêu thì em tôi mới dễ dàng tiếp nhận. Còn
nếu tôi nói theo kiểu mẹ chồng hay chị Hai thì em tôi sẽ
ghét tôi, không chịu nghe, không chịu học với tôi. Dầu có
nói đúng cách mấy đi nữa mà nói cái giọng sẵng đó thì
ta sẽ không thành công và không làm được trách vụ sư chị?
Các sư chị phải ăn nói như thế nào để các em thương và
nghe lời mình. Sau này các em không thể nói rằng: ngày xưa
sư chị chưa dạy! Sư chị có dạy và dạy bằng ngôn ngữ
từ ái, không trách móc, không lý luận, không đổ lỗi. Sư
chị chỉ nhẹ nhàng khuyên nhủ em thôi. Nếu sau này em không
học được thì không phải là lỗi của chị nữa mà là lỗi
của chính em. Tưởng tượng sư chị ngồi phía sau với tư
cách thượng khách của sư em mà không làm được gì để
ngăn cản sư em hết! Trễ quá rồi! Làm gì được nữa! Sư
chị phải thấy trách nhiệm của mình ngày xưa đã không giúp
em.
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai
ai trông thấy hồn kinh phách rời.
Hồn
và phách là hai khía cạnh tâm lý. Người Việt phải biết
chuyện này. Hồn (spiritual soul) nhẹ hơn phách (vegetative soul.)
Phách cũng là hồn nhưng có dính với phần sắc thân nhiều
hơn. Đối với tín ngưỡng bình dân của người Việt thì
đàn ông có ba bồn bảy phách (vía), đàn bà có ba hồn chín
phách (vía nhẹ thì tốt.) Hỏi tại sao thì có thể giải thích
bằng nhiều cách. Chín vía có thể nặng hơn bảy vía nhưng
nhờ chín vía nên mới có thể thấy, cảm được những điều
mà người đàn ông không cảm được. Đứng về phương diện
chi tiết, người đàn bà tiếp xúc được nhiều hơn người
đàn ông. Ví dụ như gửi quà về nhà, đàn ông thường làm
đại khái, còn đàn bà nghĩ tới từng chi tiết một: nghĩ
tới từng đứa cháu, từng đứa chắt. Có những người đi
máy bay, xe lửa không muốn đem theo nhiều món đến khi thiếu
thì than. Hành lý của người đàn bà tuy nhiều một chút nhưng
rất cần thiết, đủ từng chi tiết. Đến khi cần cái gì
họ nói: ‘Có đem theo đây!’; người đàn ông rất hoan hỷ.
Đứng về phương diện cơ thể học, con người có hai hệ
thần kinh. Hệ gần với thân thể gọi là système nerveux végétatif.
Phách gần với thân thể. Theo tín ngưỡng bình dân Việt Nam,
khi thân thể đã chết phách vẫn còn và từ từ tan biến.
Câu 115, khi thăm mộ Đạm Tiên, Kiều nói: ‘Thác là thể
phách còn là tinh anh.’ Tinh anh thuộc về hồn. ‘Hồn kinh
phách rời’ là khi sợ quá, phách lìa khỏi thân thể.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ
người chẳng bõ khi người phụ ta!
Hai
câu này cần phải xét lại. Đây là lời luân lý để cảnh
cáo người ta. Trời ở đây không phải là một đấng tạo
hóa mà là luật của thiên nhiên. Muôn sự tại trời nghĩa
là mọi việc đều xoay quanh luật thiên nhiên; trong đó có
luật nhân quả. Trồng bắp thì được ăn bắp, trồng đậu
thì được ăn đậu, gieo gió thì gặt bão. Khi mình dễ thương
với một người nào đó thì mình được người đó đối
xử dễ thương lại. Khi mình phản bội độc ác với một
người nào đó thì mình sẽ bị đáp lại bằng sự độc
ác và phản bội của chính người đó hoặc của một người
nào khác. ‘Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta’: Khi
mình phụ người ta thì mình thấy không sao hết nhưng đến
khi người ta phụ mình một cái thì mình mới thấy được
tất cả đau khổ của một người bị tình phụ. Thấy một
người mới tươi mát, tốt lành, dễ chịu nên mình đi theo,
bỏ người cũ. Người cũ đau xót cách mấy mình cũng không
biết. Nhưng khi cái người mình gọi là tươi mát đó đá
mình một cái và bỏ đi, mình mới có cơ hội biết được
người bị mình phụ đã đau khổ như thế nào. ‘Phụ người
chẳng bõ khi người phụ ta’ là luật thiên nhiên, nêu ra
để dạy người, nhưng trước hết là để chứng minh rằng
chuyện mình trả thù cũng là chuyện tự nhiên thôi. Thái độ
này không tốt. Nó chỉ tốt với những nhà pháp trị nhưng
không tốt với những nhà đức trị như chúng ta.
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình
làm mình chịu kêu mà ai thương.
Có
chứ! Những người đứng trên phương diện đức trị nghe
tiếng kêu thương vẫn có thể thương được. Ví dụ như
sư chị Giác Duyên. Sư chị ngồi ở trên cảm thấy rất đau
xót nhưng bất lực, biết rằng mình đã không dạy em. Tác
giả nói như vậy là đứng về phía Kiều mà nói nhưng không
đứng về phía sư chị mà nói. ‘Mình làm mình chịu kêu
mà ai thương’ có nghĩa là ‘Đáng đời!” Kỳ thực cụ
Nguyễn Du tuy nói vậy nhưng trong lòng cụ, cụ cũng cảm thấy
đau. Nói là nói ngoài mặt vậy thôi. Ai thấy trường hợp
những người kia bị băm, bị chém mà không thương! Câu này
như để răn dạy. Có người chủ trương phải có sự trừng
phạt như vậy thì người ta mới ngán không làm ác. Một phần
nào đó họ cũng có lý. Ví dụ khi qua một cái đèo rất hiểm
trở trên con đường Sài Gòn - Đà Lạt, từ trên xe đò nhìn
xuống người ta thấy một cái miếu thờ những người từ
nạn từ xe hơi rớt xuống đèo. Những người có chánh niệm
đã lái xe cẩn thận, nhìn xuống thấy cái miếu lại càng
cẩn thận hơn nữa. Những tay anh chị đánh người không nương
tay (anh chị Cầu Muối), chửi thề, không kính trọng bất
cứ ai, không tin ở đức trị, đi ngang qua miếu đó cũng phát
ngán, sợ các linh hồn kia kéo mình xuống vực. Thành ra đe
dọa cũng có ích lợi. Ở chùa có tượng đức Quán Thế Âm
Bồ Tát hiền lành, mát mẻ như một đóa hoa nhưng cũng có
ông Diện Nhiên Đại Sĩ thở ra toàn khói và lửa, cầm thanh
gươm đứng để đóng vai trò Ông Ác cho người ta ngán. Anh
làm cái đó sẽ bị cái này. Đó là pháp trị; pháp trị cũng
đóng được vai trò của nó. Cái hay trong đạo Bụt là vị
Diện Nhiên Đại Sĩ thở ra và nói toàn là khói và lửa không
ai khác hơn là đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Bồ Tát cười
nhẹ nhàng như cơn gió thoảng nhưng cũng phải hiện ra dữ
dằn như vậy để cho người ta sợ mà xa lánh điều ác. Đó
là một hình thái của tình thương. Đưa cao đánh khẽ. Nhưng
Thúy Kiều có đánh khẽ không? Không. Đây không phải là đức
trị mặc áo pháp trị. Có tình thương thật thì có thể sử
dụng phương pháp pháp trị, nhưng đi sâu vào thì thấy toàn
là đức trị. Ở các chùa có những hình vẽ cảnh địa ngục:
vạc dầu, cột đồng... cũng là đọa. Nhưng đó không thật
sự là ác. Đó là phương tiện để giúp những người không
thể giúp được bằng những phương pháp nhẹ nhàng. Vấn
đề là cứu độ chứng không phải là trừng trị.
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình
làm mình chịu kêu mà ai thương.
Bạc
tức là (đức) mỏng. Người có nhiều đức độ, tình thương
trong lòng, biết nghĩ tới tương lai gọi là người có hậu
hay đức dày. Không ăn xổi ở thì, không phải chỉ biết
ngày hôm nay không lo gì đến tương lai. Như cưa củi mà chỉ
cưa một chút xíu để xài ngày hôm nay thôi, ngày mai mặc
kệ thì gọi là mỏng; cưa nhiều để dành cho ngày mai gọi
là dày. Đó là đứng về phương diện vật chất. Phương
diện tinh thần cũng vậy. Thương người, giúp người, chất
chứa công đức và tình thương nhiều gọi là hậu (dày).
Ngược lại với mỏng, không lo cho hạnh phúc của mình và
người trong tương lai. Bạc cũng có nghĩa là phụ bạc, phản
bội. Đoạn này chúng ta thấy cụ Ngụyễn Du cũng có đức
dày. Cụ nói như vậy cốt để dọa. Nếu đứng ra xét xử
chắc hẳn cụ sẽ dùng đức trị, dơ cao đánh khẽ, để
cảm hóa họ: ‘Bữa nay ta tha đó nghe. May mà gặp tui chứ
gặp người khác là chết rồi!’
Ba quân đông mặt pháp trường,155
Thanh
thiên bạch nhật156 rõ ràng cho coi.
Trời
trong, giữa ban ngày, không ai không thấy được luật nhân
quả rõ ràng.
Kiều
đã
tha cho Hoạn Thư là một việc đáng mừng, nhưng Kiều đã
trừng phạt những người còn lại đó là một việc không
hay. Nếu Kiều biết tu tập thì đã có thể hướng dẫn cho
họ thở, nhìn kỹ, nhìn sâu để thấy rõ những đau khổ
của hai bên và tìm cách giáo dục cho họ, cho họ những cơ
hội và điều kiện để làm lại cuộc đời.
TRỜI
PHƯƠNG NGOẠI
Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác
Duyên vội đã gởi lời từ quy.
Sư
chị ngán quá! Muốn về liền lập tức, không muốn ở thêm
một giờ nào nữa trong chốn quân sự hãi hùng này. Chúng
ta phải đi vào trong da thịt của sư chị để thấy. Sư chị
bây giờ e ngại lắm, tuy rất thương sư em; không biết sư
em sẽ đi về đâu nếu sư chị cứ tiếp tục như vậy. Nó
đã rất đau khổ trong quá khứ, bây giờ báo thù được thì
nó thấy nhẹ trong lòng. Đó là cái thấy của người đời.
Nhưng người tu thì phải khác. Bây giờ sư chị đi, phải
khiêng theo một ngàn lạng vàng và tất cả những tâm tư nặng
nề tạo ra vì khung cảnh vừa rồi. Sư chị là người tu,
dùng vàng để làm gì? Tu chỉnh Chiêu Ẩn Am? Một ngàn lạng
vàng nặng lắm! Rồi thì ăn cướp, ăn trộm, làm sao? Khiêng
một ngàn lạng vàng đi cũng khổ lắm! Không biết mình sẽ
làm chuyện gì với số vàng này, và sư chị cảm thấy mất
hết tất cả những an ninh của mình. Và nhất là lại mang
theo niềm hoảng sợ và xót thương cho đứa em đồng đạo
ngày xưa. Hãy dể cho trí tưởng tượng của chúng ta đi theo
để thấy sư chị rời khỏi trung tâm quân sự đó với tâm
trạng nào.
Nàng rằng: ‘Thiên tải nhất thì,157
‘Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.158
“Rồi đây bèo hợp mây tan,
‘Biết
đâu hạc nội mây ngàn là đâu!
Đây
là những câu thơ rất hay. Bèo hợp mây tan là lý vô thường.
Ngày hôm nay mình sống chung với nhạu là ‘bèo hợp’, biết
đâu mai này mỗi người đi một ngã là ‘mây tan’. Vì vậy
phải biết trân trọng những giờ phút của ngày hôm nay, phải
có hạnh phúc trong giờ phút này. Hai chị em gặp được nhau
là điều hiếm có, xa nhau rồi thì không biết bao giờ mới
được gặp lại, ngồi chung, uống trà đàm đạo với nhau.
‘Thúy Kiều thấy được điều đó.
Sư rằng: ‘Cũng chẳng mấy lâu,
‘Trong
năm năm lại gặp nhau đó mà.
- ‘Không
lâu đâu! Trong năm năm nữa chị em mình sẽ được gặp nhau
lại.’ Giống như là sư chị đã biết trước. Biết trước,
không phải là do sư chị có tài bấm quẻ mà vì sư chị có
quen với một đạo cô tu theo đạo Lão tiên đoán sự hội
ngộ của hai chị em trong năm nay và trong năm năm nữa. Và
vì đã gặp Thúy Kiều lần này đúng theo tiên đoán của đạo
cô Tam Hợp nên sư chị tin rằng tiên đoán về lần hội ngộ
thứ hai cũng sẽ đúng.
‘Nhớ ngày hành cước phương xa,
‘Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
‘Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
‘Năm nay là một nữa thì năm năm.
‘Mới hay tiền định chẳng lầm.
‘Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
‘Còn nhìều ân ái với nhau,
‘Cơ
duyên nào đã hết đâu vội gì?’
‘Hành
cước’ (đi bộ) là sự thực tập của nhà tu. Nếu cái học
của mình chưa tới, thì mình phải tìm thầy học đạo. Hành
cước có khi gọi là đi vân thủy. Vân là mây, thủy là nước.
Mây, nước luôn luôn đi. Người tu hành nếu chưa tìm được
thầy, được pháp môn thì phải làm phận sự của mây và
nước. Phải đi và đi bằng hai chân (hành cước) của mình
chứ không đi ngựa, đi xe.
Những
câu thơ này chứng tỏ sư chị Giác Duyên thương sư em Trạc
Tuyền rất sâu sắc. Không biết có hiểu nhiều không nhưng
có thương và muốn thương. Tình thương cao nhất là tình thương
làm bằng cái hiểu. Biết sư em cần gì thì dạy sư em cái
đó. Sư chị không biết sư em cần học kinh An Ban Thủ Ý,
ru và chuyển hóa nội kết, nên đã không dạy. Sư chị chưa
hiểu sư em bao nhiêu.
Nàng rằng: ‘Tiền định tiên tri,
‘Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
‘Họa bao giờ có gặp người,
‘Vì
tôi cậy hỏi một lời chung thân.’
- ‘Nếu
sư chị có gặp lại đạo cô thì xin hỏi dùm về tương lai
của em. Em không biết mình sẽ đi về đâu.’ Tiền lộ mang
mang bất tri hà vãng là một câu trong Cảnh Sách. Bốn cuốn
Luật Tiểu (luật nhỏ) của người tập sự đi tu gồm có:
Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, Mười Giới Sa Di và Sa Di Ni,
Uy Nghi và Cảnh Sách. Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu là năm
sáu chục bài thi kệ thực tập chánh niệm trong mọi động
tác hàng ngày. Bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, rửa tay, đi
cầu, giặt áo... làm gì cũng có một bài kệ để thực tập
thở ra, thở vào trong khi làm việc đó. Tỳ Ni Nhật Dụng
thiết Yếu bản in mới có tên là Từng Bước Nở Hoa Sen.
Mười Giới của Sa Di và Sa Di Ni bắt đầu bằng giới không
sát sanh. Uy Nghi là phong thái của một nhà tu trong khi đi, đứng,
nằm, ngồi, hành xử. Ví dụ sử dụng phòng tắm, lên chánh
điện, vào nhà bếp, đến nhà cư sĩ... phải làm như thế
nào cho đúng phong thái một nàh tu. Sách xưa có 24 thiên uy
nghi. Sách mới (Bước Tới Thảnh Thơi) có tới 39 chương,
vì điều kiện sống và tiếp xúc có khác (ví dụ nghe điện
thoại, vào siêu thị...) Cảnh Sách là những lời nhắc nhở
của thiền sư Quy Sơn. Bài văn rat hay. Tất cả các sư cô,
sư chú ngày xưa đều học thuộc lòng bằng chữ Nho. Tiền
lộ mang mang bất tri hà vãng là một câu trong Cảnh Sách, có
nghĩa là: đường trước mờ mờ, không biết sẽ đi về đâu.
Thúy Kiều cảm biết rằng cuộc đời mình còn nhiều sóng
gió lắm, sau này không biết sẽ đi về đâu, vì vậy muốn
nhờ sư chị Giác Duyên hỏi đạo cô Tam Hợp giúp mình. Muốn
có một cái nhìn tổng quát về tương lai. Đó là nhu yếu
của Thúy Kiều và cũng là nhu yếu của tất cả chúng ta.
Ai cũng muốn biết tương lai cả cho nên mấy ông thầy chấm
số tử vi túi mới có tiền. Nhưng mấy ông liệu có giỏi
bằng đạo cô Tam Hợp không? Hay là tiền mất mà mình vẫn
không có được cái nhìn rõ ràng nào về tương lai! Trong đạo
Bụt, có những điều mình biết nhờ tu học có chánh niệm.
Nếu nắm được thân tâm mình thì đi về đâu mình cũng làm
chủ được thân tâm, không đánh mất mình và mình không cần
đến đạo cô Tam Hợp hay mấy ông thầy chấm số tử vi nữa.
Vừa đỡ tốn tiền, vừa khỏi bị mang tiếng mê tín. Chỉ
những ngươờ yếu bóng vía mới cần tới đạo cô và mấy
ông thầy tướng số mà thôi.
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ
từ thoát đã dời chân cõi ngoài.
Sư
chị Giác Duyên nhận lời Kiều và đi. Càng đi càng mau ra
khỏi cõi này càng tốt. Cõi ngoài không phải cõi này. Có
lẽ cụ Nguyễn Du đã dịch từ chữ phương ngoại: một không
gian ở ngoài. Đọc thơ Nguyễn Du mà không biết về Phật
học thì đôi khi cũng thiếu. Phương ngoại phương (space outside
of space), trời phương ngoại. Đó là không gian nhưng cũng là
loại không gian nằm ngoài không gian, vượt ra khỏi không gian
thường của người đời. Chúng ta tìm tới cái không gian
nằm ngoài không gian, thực tập tiếp xúc được với Tích
Môn (historical dimension.) Người tu phải tiếp xúc với Bản
Môn (utimate dimension.) ‘Cõi ngoài’ ở đây có nghĩa là phương
ngoại phương, một phương trời không có những chuyện lên-xuống,
ra-vào, ân-oán, tử-sinh, trong-ngoài, nhiều-một,... Sư chị
biết chỉ ở trong cái khung trời phương ngoại đó, sư chị
mới thật sự thoải mái mà thôi.
‘Chống
gậy rong chơi chừ phương ngoại phương’ là một câu thơ
của Tuệ Trung Thượng Sĩ; có nghĩa là: ta chống gậy đi chơi
ở trong khung trời phương ngoại chứ không đi chơi trong khung
trời của thế gian. Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh ruột của đại
tướng Trần Hưng Đạo, là một thiền sư rất nổi tiếng
của đời Trần. Trong khi Trần Hưng Đạo thành công về quân
sự thì Tuệ Trung Thượng Sĩ thành công về thiền tập. Ngài
có một thiền phong rất hùng vĩ. Khí văn, khí thơ và đạo
lực của Tuệ Trung tương đương với thiền sư Lâm Tế bên
Tàu. ‘Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.’ Khung
trời phương ngoại là cái chúng ta có thể bước vào bất
cứ lúc nào chúng ta muốn. Đó là khung trời thỏai mái của
giải thoát, của niết bàn. Phải đi trong không gian của phương
ngoại thì mới thật sự có hạnh phúc. Còn nếu tu mà vẫn
đi ở phương nội thì chưa có hạnh phúc.
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ
từ thoát đã dời chân cõi ngoài.
Rất
hay! Mà đâu có cần chữ nghĩa nhiều! ‘Tạ từ thót đã
dời chân cõi ngoài.’ Chỉ cần đưa tay nói ‘goodbye’ một
cái là tự nhiên từ cõi của sầu đau và tranh chấp ta đi
ngay được vào cõi của thênh thang, nhẹ nhàng, giải thoát.
Câu này là một câu chúng ta có thể viết treo ở thiền viện.
Tạ từ: thôi, không ăn thua nữa trong cuộc đời! Thoát đã
dời chân cõi ngoài: giải thoát có thể thực hiện được
trong một cái búng tay. Giã biệt tất cả những phiền não,
tranh chấp trong cuộc đời để được có tự do. Và chỉ
khi nào mình giải thoát tự do mình mới giúp được người
mà thôi.
Tháng
1974, trong khi làm việc cho hòa bình và gây quỹ giúp các cô
nhi ở Việt Nam, tôi có bài thơ Trời Phương Ngoại:
Người đi trên đất mắt nhìn trời
Chim liệng từng không mây trắng bay
Một bàn tay đưa cho nắng ngọt
Một bàn tay giữ con đường mây
Lá xanh tháng tư mặt trời lọc
Đi qua rừng cây mà không hay
Búp tay hoa sen vừa hé mở
Vũ trụ sáng nay đã ngất ngây
Trà khuya bay khói thơ không chữ
Thơ chở trà lên tận đỉnh mây
Núi cao mưa lạnh vùng biên ải
Vi vút sau đèo gió gọi cây
Đỉnh tuyết trời quang bừng cảnh mộng
Giác ngộ tung về đóa mãn khai,
Đất xa mầu nhiệm thơm tình mẹ
Hoa nở tràn gian ước kịp ngày.
Thương bé bơ vơ mùa loạn lạc
Sen vàng bướm gửi khắp trời Tây
Tờ hoa nhạc hội bừng chiêng trống
Xóm dưới thôn trên dán chặt đầy
Mắc nối đưòng dây trăm xứ lạ
Ân nghĩa bên trời mãi dựng xây
Ngục thất ba trăm còn tuyệt thực
Mòn chân du thuyết hết đêm ngày.159
Tháng Tư đồng nội trăm hoa nở
Mong ước ôm đầy hai cánh tay
Sắc xuân rực rỡ trời phương ngoại
Thơ hát yêu thương rộng tháng ngày
Gối mộng mây xa về lối cũ
Ngược
dòng sông lạ đến tìm ai
TẨY
OAN VÀ GIẢI THOÁT
Nàng từ ân oán rạch ròi,
Bể
oan dường đã vơi vơi cánh lòng.
Không
những đã không xót mà còn thấy khỏe trong người vì đã
trả thù được! ‘Ân oán rạch ròi’ là phải phân biệt
ai là bạn, ai là thù. Đó là đường lối chánh trị. Người
có tinh thần phe đảng nói: Ta phải phân biệt; người nào
nói và làm có lợi cho đường lối và chủ nghĩa ta thì ta
nhận làm bạn; những người mà tư tưởng, hành động hoặc
văn chương khộng có lợi cho chủ nghĩa ta, dù họ không nói
động tới ta, ta cũng liệt họ vào hàng kẻ thù. Nghĩa là
phải rõ ràng, rạch ròi ai là bạn, ai là thù. Trong khi đó
nhận thức của người tu học đạo Bụt là không có kẻ
thù. Tất cả đều là những người mà mình phải thương,
phải chuyển hóa, giúp đỡ. Thái độ đó, người có phe đảng
không chấp nhận được. Họ nói những ai không phân biệt
bạn-thù, không có lập trường, là họ không bao giờ chơi
với được. Lập trường của chúng ta là không có thù. Chỉ
có bạn thôi, bạn thân hoặc bạn chưa thân, và phải làm
cho tất cả mọi người đều thành bạn cả. Đó cũng là
một thứ lập trường, không thể nói là không phải lập
trường. Kẻ thù chúng ta không phải là con người; kẻ thù
chúng ta là tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Mà tham, sân, si,
mạn, nghi, kiến cũng không phải là kẻ thù ta, bởi đó là
rác mà chúng ta cần để chuyển thành hoa. Cái nhìn của đạo
Bụt là như vậy. Những người theo một chủ thuyết, một
ý thức hệ không thể đồng ý với chúng ta. Họ nói ân oán
phải rạch ròi, thù bạn phải phân minh. Thúy Kiều, cựu ni
cô Trạc Tuyền, cũng đang suy nghĩ theo kiểu đó. ‘Nàng từ
ân oán rạch ròi, Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.’
Những oan ức dường như đã nhẹ đi sau khi trả thù được.
Mà chưa chắc đã nhẹ; bởi vì Kiều vừa giết hoạc hành
hạ một số người. Giai đoạn này là một vết đen trong
đời Kiều. Kiều đã không có đợc con mắt của người tu
(chúng ta gọi là mắt thương, từ nhãn.) Không có con mắt
đó nên Kiều không thương được người đã làm mình đau
khổ. Kiều vẫn áp dụng đường lối pháp trị. Trước khi
từ biệt, sư chị đã không nói với em điều đó. Sư chị
muốn thoát ra khỏi một cách mau chóng, nói bye-bye càng sớm
càng tốt. Đó là một cái lỗi của sư chị. Đáng lý, sư
chị phải ngồi lại và nói: ‘Em đã giải quyết xong việc
ân oán rồi; bây giờ em không còn là em trong giới xuất gia
của chị nữa, nhưng chị có thể nói cho em như thế này...’
Sư chị đã không làm điều đó. Chúng ta phải học được
bài học này. Đừng hấp tấp như sư chị Giác Duyên. Muốn
cho khỏe, muốn thoát ra cho mau mà không làm tròn bổn phận
của một người thương. Sư chị nói: ‘Còn nhiều ân ái
với nhau.’ Nhưng ân ái đó là nghĩ tới chuyện tương lai
thôi. Còn nếu thực tập ân ái (thương) thì phải ngồi lại,
dạy cho em nói: cái điều mà em vừa làm, chị thấy không
xứng đáng với người đã học đạo từ bi. Đây có thể
là lần đầu tiên trong hai trăm mấy chục năm lịch sử truyện
Kiều chúng ta mổ xẻ chuyện này. Thương Kiều vì Kiều khổ,
nhưng chúng ta phải nhìn rõ để thấy những gốc rễ khổ
đau của Kiều. Không phải chỉ thương, chỉ tội nghiệp thôi
là đủ. Phải thấy được những lầm lỗi của Kiều để
chúng ta và các sư em của chúng ta đừng tiếp tục làm thêm
những lầm lỗi đó.
Nàng từ ân oán rạch ròi,
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng,
Tạ ân lạy trước Từ công:
‘Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,’
‘Tất riêng như cất gánh đầy đổ đi!
‘Chạm xương chép dạ xiết chi,
‘Dễ
đem gan óc đền nghì trời mây!’
Kiều
cảm ơn Từ Hải đã giúp mình làm được việc trả thù.
Không trả thù mà hay hơn. Chắc chắn là như vậy. Như có
cơ hội, bắt những người gây chuyện ác tới, nói cho họ
biết rằng họ ác độc và họ cần phải thay đổi. Bắt
học phải phục vụ cho những người đau khổ dưới quyền
kiểm soát của mình cũng có thể là một hình thái học hỏi
để giúp họ sáng mắt ra. Lấy công chuộc tội là việc các
nhà chính trị xưa đã làm. Thay vì giết, phạt, bỏ tù những
người có tội thì yêu cầu họ lo cho những cô nhi viện,
đắp cầu, làm đường và làm một số việc cụ thể để
chuộc lại lỗi lầm. Ngày xưa ở Việt Nam chuyện này đã
được thực hiện tương đối phổ biến. Các thầy có liên
hệ tốt với triều đình thường xin lãnh các tù phạm ra
để làm việc cho chùa, bảo đảm trong thời gian phục vụ
tại chùa họ sẽ không ăn trộm, giết người.. Trong vòng
mười, mười hai năm nếu họ chứng tỏ đã hoàn lương thì
nhà chùa xin cho họ được trở về đời sống bình thường,
cho họ ruộng, giúp họ làm nhà và cưới vợ. Ngày xưa các
chùa Việt Nam đã làm như vậy. Rất hay! Nàng Kiều, cựu sư
cô Trach Tuyền, đã không học được điều đó và đã trả
thù. Những oan ức ngày xưa như một gánh nặng đè lên làm
mình đau khổ, bây giờ trả thù được thì nhẹ đi. Đó là
suy nghĩ của người đời, không phải của người tu. Người
tu không làm nhẹ bằng cách đó. Làm cách đó không nhẹ được.
Những gánh nặng trong tâm mình (nội kết) phải được chuyển
hóa thì tâm mình mới thật sự nhẹ nhàng.
Từ rằng: ‘Quốc sĩ160 xưa nay,
‘Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
‘Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
‘Giữa đường dẫu thấy đất bằng mà tha!
‘Huống chi việc cũng việc nhà,
‘Lọ
là thâm tạ mới là tri ân.
Sau
khi được cảm ơn, Từ Hải nói ra những lời rất có tình
có nghĩa, rất hay. Từ còn nói thêm rất dễ thương:
‘Xót nàng còn chút song thân,
‘Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.161
‘Sao cho muôn dặm một nhà,
‘Cho
người thấy mặt là ta cam lòng.
‘Anh
còn muốn làm sao để em có thể đoàn tụ được với gia
đình nữa thì anh mới thỏa mãn.’ Điều này chứng tỏ Từ
Hải là người có khả năng hiểu. Vì vậy Từ có thể thương
Kiều được một cách sâu sắc. Từ biết Kiều muốn trả
ơn những người ơn của mình và có nhu yếu gặp lại cha
mẹ và các em. Ngày trước khi Kiều yêu cầu, Từ Hải đã
nói rõ: ‘Anh biết em muốn như vậy. Chừng nào anh chưa làm
được chuyện này thì chừng đó anh chưa thỏa mãn.’ Nói
như vậy làm cho người thương của mình được an ủi rất
nhiều. Thương là phải hiểu nhu yếu của người mình thương.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn
binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Tiệc
tẩy oan có mục đích gột rửa tất cả những niềm oan ức,
được bày ra trong quân ngũ. Ai cũng tham dự vào việc ăn mừng
đó. Đây là một chiến dịch tâm lý chiến rất hay. Nhân
cơ hội, tổ chức ăn tiệc phủ phê, gọi là ăn mừng việc
mình đã có thể thiết lập công bình xã hội va giải quyết
những oan ức trong đời mình; khiến mọi người đều thấy
rằng mình cũng đang được tẩy oan chứ không chỉ có riêng
Kiều. Một chiến dịch tâm lý trong khung cảnh quân sự. Anh
chàng này giỏi lắm!
Trong
đạo Bụt, chúng ta không dùng chữ ‘tẩy oan’ mà dùng chữ
‘giải oan’. Ngoài đời người ta tẩy oan bằng rượu. Trong
chùa, chúng ta biết rượu đã không những tẩy oan không được
mà còn gây thêm những oan ức khác. Uống rượu rất nguy hại.
Rượu gây oan ức cho lá gan của mình rất nhiều. Hơn nữa,
muốn làm một lít rượu thì phải có cả một thùng lúa nếp;
lấy một thùng lúa nếp để làm một chai rượu thì tội
nghiệp cho những người đói lắm! Người ta đói không có
gạo ăn mà mìn lại lấy gạo làm rượu! Tẩy oan như vậy
thì lại càng gây oan thêm. Phương pháp của người tu là giải
oan chứ không phải là tẩy oan. Giải là mở ra, không buộc
lại. Tẩy oan theo kiểu người đời thì lại cột thêm. Ví
dụ: giết những người đã làm cho mình khổ là tạo ra oan
hồn trong giới con cháu những người đó; họ sẽ tìm cách
trả thù. Không giải được oan mà lại kết oán. Sau này Từ
Hải và Thúy Kiều sẽ chết vì cái đó! Phương pháp là giải
(mở) chứ không phải là kết (buộc vào.)
Nhân
cơ hội binh sĩ đang nức lòng như vậy, Từ Hải tổ chức
những cuộc hành quân lớn. Đánh đâu thắng đó và thiết
lập một triều đình độc lập ở phương Nam:
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Đòi cơn gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam.
Phơng trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm sá gì!162
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Kém gì cô quả kém gì bá vương!163
Trước cờ ai dám tranh cường,
Năm
trăm hùng cứ một phương hải tần.
Đoạn
văn rất mạnh! Tuy là thơ lục bát nhưng hơi văn đi như gió
nói lên được khí thế của quân lực Từ Hải. Liên tiếp
thắng hết trận này đến khác như ‘trúc chẻ ngói tan.’
Quý vị đã từng chẻ tre chưa? Khi chẻ tre người ta đặt
cây tre nằm thế ngang, để mũi rựa giữa thân tre và dùng
dùi cui đánh vào cán rựa. Rựa đi vào thân tre làm thành những
đường nứt rất tự nhiên, ‘dễ như chẻ tre.’ ‘Ngói
tan’ cũng vậy; khi những viên gạch ở lớp dưới của mái
nói rớt ra, rơi xuống thì những lớp ngói phía trên tiếp
tục rơi, rơi cho đến hết mái ngói thì thôi. Chiến thắng
này dễ dẫn đến những chiến thắng khác. Thua một trận
rồi thì có thể thua những trận kế tiếp rất mau.
Trong
mấy ngày thôi quân binh của Từ Hải đã chiếm được năm
quận huyện thuộc vùng biển (hải tần) của nước Minh. Cố
nhiên vùng này có rất nhiều dân đánh cá. Nghe nói Từ Hải
cũng xuất thân từ giới anh chị của làng đánh cá. Từ thiết
lập một quốc gia độc lập trong suốt năm năm, quan quân
nhà Minh không làm gì nổi. Thúy Kiều, như vậy, được Từ
Hải che chở, sống với chức vị hoàng hậu trong năm năm.
Khổ thì khổ nhưng cũng có những giai đoạn được che chở
và có quyền hành. Tuy vậy, Từ Hải không gọi Kiều là hoàng
hậu mà luôn gọi là phu nhân; Kiều thì gọi Từ Hải là Đại
Vương. Họ không hành quân thêm, chỉ giữ vững vùng đất
này trong suốt năm năm. Trong năm năm đó cô nàng có hạnh
phúc hay không? Ta có thể tự trả lời được. Chúng ta không
nghe nói hai vợ chồng có giận nhau, có cãi nhau, có hóa giải
nội kết không, nhưng chắc chắc đó là năm năm tương đối
yên ổn của Thúy Kiều. Có những chi tiết cho ta biết Từ
Hải rất kính Thúy Kiều, biết nghe những lời khuyên nhủ
của Kiều và coi Kiều là một trong những cố vấn chính trị
quan trọng nhất của ông. Trong những cuộc luận đàm về
phương diện quân sự và chính trị với các tướng, dù là
đàn bà Kiều vẫn được tham dự. Tiếng nói của Kiều luôn
luôn là một tiếng nói rất quan trọng.
HẠNH
PHÚC LÀ TỰ DO
Trong
một quốc gia mà lại có một quốc gia tự trị, đó là một
cái gai lớn cho triều đình. Bao phen triều đình nhà Minh đã
đi tìm những phương pháp để dẹp đi sự nổi loạn đó
nhưng không thành công. Chính trị gia Hồ Tôn Hiến xuất hiện.
Vị tổng đốc có địa vị quan trọng trong triều đình này
được vua nhà Minh giao phó trách nhiệm dẹp trừ cái quốc
gia nhỏ bé này. Chấm dứt giai đoạn năm năm yên ổn của
Thúy Kiều. Đây là tai nạn lớn nhất, đưa Thúy Kiều đến
chỗ tận cùng đến chỗ tận cùng của đau khổ trong đời
cô và dẫn cô đến chổ phải tự tử. Chỉ khi nào chết
rồi mới có thể tái sanh được. Cố nhiên Thúy Kiều tự
tử không chết, cô sẽ được cứu. Nhưng trong kiếp người
thế nào chúng ta cũng phải chết một lần, và phải chết
thật thì chúng ta mới có thể sinh ra lại được với sự
an lạc. Cái đau khổ cùng cực mới đem lại sự tái sinh của
chúng ta. Mới đau khổ sơ sơ thì chưa nhằm nhò gì! Phải
đau khổ cho cùng cực. Và khi đụng tới cái đáy của khổ
đau, chết đi, sống lại thì mới thấy được niềm an lạc
chân thật nảy sinh ra. Ngôn ngữ này rất quen thuộc trong nhà
thiền. Nếu không chết, chỉ mới ngất ngư thôi, thì không
thể nào tái sinh được Phải chết trong tâm hồn, trong đau
khổ của mình. Luân hồi có chết thì giải thoát mới sinh
ra được.
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân164 gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,165
Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung.166
Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết
nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Thám
tử triều đinh làm việc rất giỏi. Họ biết Từ Hải không
phải là một tay anh chị Cầu Muối tầm thường. Từ là một
người có nhân cách, chí khí, có tư cách anh hùng. Không thể
dùng phương pháp dọa nạt và bạo lực mà có thể thành công.
Họ cũng biết Thúy Kiều được tham dự vào những buổi bàn
luận bí mật về quân sự và chính trị. Rất khó giải quyết
vấn đề nếu ta không biết rõ tình trạng và tâm lý những
người trong cuộc.
Hồ
Tôn Hiến lập ra chước chiêu an, gửi sứ giả sang kêu gọi
Từ Hải ra hàng và hứa sẽ phong cho chức tước lớn. Một
mặt khác họ chuẩn bị quà cáp riêng cho Kiều:
Đóng quân làm chước chiêu an167
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
Hai
tên thế nữ ngọc vàng nghìn cân.
Theo
nguyên lục, ban đầu Hồ Tôn Hiến gửi một viên quan nhỏ
tên là Hoa Nhâm tới để dò hỏi. Từ Hải giận nói: ‘Ta
đang có thanh thế. Tuy không có mở mang bờ cõi dựng nước,
nhưng ai có thể cấm ta xưng Vương, xưng Đế, xưng Cô, xưng
Quả? Ngươi muốn ta về hàng để làm con chó, con trâu của
người khác sao?’ và tính đem Hoa Nhâm ra chém. Kiều can; Từ
nghe lời tha cho Hoa Nhâm. Tiếp đó, Hồ Tôn Hiến sai một viên
quan lớn hơn, tên La Trung Quân, đem lễ vật rất hậu tới.
Trong đó, có một trăm ngàn lạng bạc, ba ngàn lạng vàng,
gấm vóc, đan ngọc và hai người thế nữ gốc gác từ Kinh
đô (những cô thế nữ vùng ven biển không thể so sánh với
những phụ nữ từ Kinh đô) làm quà riêng cho phu nhân Vương
Thị (Vương Thúy Kiều.) Khi tiếp đón La Trung Quân, Từ Hải
không muốn nhận lễ, trái lại muốn đuổi về vì trong lòng
ông đã có niềm nghi:
Tin vào gởi trước trung quân
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ168
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!169
Bỏ thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy.
Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời quấy nước mặc dầu,
Dọc
ngang nào biết trên đầu có ai?
Nguyên
lục nói: Một người đã tự do quen rồi mà bị đưa về
câu thúc một chỗ thì rất khó chịu; không những lúng túng
khó chịu mà chức phận cũng không ra gì (nhiều lắm là chức
Tổng Binh). Mất hết cả tự do, nhân cách. Là quan võ thì
thế nào cũng bị các quan văn lấn ép, đàn hạch (chỉ trích,
kết tội). Sống như vậy khổ lắm nên Từ Hải nhất định
không hàng. Từ Hải rất tự tin vào khả năng của mình và
rất trân quý cái tự do của một chàng hiệp sĩ.
Vua
Minh Mạng rất mê truyện Kiều. Một hôm, trong khi tiếp các
quan, vua gọi thi sĩ Nguyễn Du (hồi đó đang làm quan dưới
triều Nguyễn) nói: ‘Khanh viết như vậy là không được!
‘Chọc trời quấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên
đầu có ai!’ viết như vậy là không có lễ phép gì với
trẫm cả! Trên đầu phải có vua chứ! Vì vậy ta phạt khanh.’
Vua bảo quân hầu mang rượu ra và phạt thi sĩ uống ba chén.
Ngày xưa người ta phạt nhau bằng rượu. Nhiều người ưa
‘được’ phạt lắm! Sau này khi thi sĩ uống ba chén rượu
rồi, vua lại bảo: ‘Nhưng mà hay! Phạt thì phạt nhưng thơ
rất hay! Vì vậy trẫm thưởng cho khanh.’ Và vua truyền quân
hầu mang ba tấm lụa tặng thi sĩ về may áo mặc cho ấm. Giai
thoại này được truyền tụng đến ngày nay. Vua Minh Mạng
cũng chịu chơi lắm!
Điều
chúng ta muốn nhắc ở đây là Từ Hải biết hạnh phúc của
mình nằm ở chỗ tự do nhưng vì lời nói của Kiều rất
‘mặn mà’ cho nên Từ không thấy được điều đó nữa
và chuyển sang một quan niệm khác về hạnh phúc; cái hạnh
phúc không tự do! Là những người tu hành, chúng ta nên suy
ngẫm. Chúng ta đi xuất gia để có tự do, Hạnh phúc của
chúng ta là có tự do. Tự do với độc lập đi chung. Có độc
lập, có tự do thì mới có hạnh phúc. Ta đừng nên quên điều
đó. Cạo đầu, mặc áo thầy tu, đi xuất gia là cũng như
Từ Hải, biết rằng hạnh phúc của mình hoàn toàn được
căn cứ trên sự tự do của mình. Đôi khi có những tiếng
mời gọi, những điều hấp dẫn, đôi khi thấy tự do lớn
quá, ta không sử dụng nổi tự do của ta, ta nói: ‘Thôi,
tự do mệt quá! Bây giờ tôi chỉ muốn làm nô lệ!’ Làm
nô lệ cho một người, làm nô lệ cho một gia đình… Điều
này có thật. Hạt giống của sự nô lệ có mặt trong tất
cả mọi người. Trên phương diện trí tuệ, chúng ta biết
tự do thênh thang là nền tảng của hạnh phúc. Nhưng đôi
khi, thấy tự do thênh thang, ta mệt quá, ta muốn làm nô lệ,
muốn chui vào hoàn cảnh nô lệ. Trong mỗi chúng ta đều có
anh chàng Từ Hải và cô nàng Thúy Kiều. Chúng ta phải cẩn
thận. Có bao nhiêu thầy và sư cô trẻ đang có tự do thênh
thang của người xuất gia: ‘Nhất bát thiên gia phạn, Cô
thân vạn lý du’ vậy mà tự nhiên đầu hàng, chui vào chỗ
mất tự do. Sau một vài năm thì mới thấy rõ mình đã đi
lún quá sâu trong con đường mất tự do. Lúc đó đã quá trễ
rồi! Một đã luân hồi thành bốn, thành năm, thành sáu rồi!
Làm sao có tự do được nữa! Trong khi đang còn là người
xuất gia, đang có sự tự do mà có người không thấy được
sự quý báu của tự do, không thấy được hạnh phúc của
chính mình! Ta nghĩ: ‘Ôi, hạnh phúc thay nếu ta được làm
nô lệ!’ Nô lệ cho một người, cho một nhóm người. Đó
không phải là chuyện của một ngày. Hạt giống nô lệ có
sẵn trong lòng mọi người. Có sẵn trong Từ Hải, có sẵn
trong Thúy Kiều. Vì vậy chúng ta phải lòng tự xét lòng: ta
phải biết. Chúng ta thường đứng núi này trông núi nọ mà
không thấy được những hạnh phúc và những mầu nhiệm của
giờ phút hiện tại.Ta cứ nghĩ đứng núi bên kia chắc sướng
hơn đứng núi bên này. Có một sư cô ra đời, cùng với người
kia sản xuất ra bốn trự. Một mà luân hồi thành sáu! Lúc
ấy mới thấy cuộc đời trầm luân, nặng nề quá cỡ! Đến
khi vượt biên họ viết thư cho tôi nói: ‘Thầy ơi! Chúng
con bây giờ là sáu đứa lận. Làm sao khi chúng con qua bên
đó Thầy cho chúng con đi xuất gia lại hết thảy sáu người!’
Sức mấy! Một người mà còn chưa nắm vững vận mệnh được,
bây giờ sáu người… rất khó! Đọc bài Phóng Cuồng Ca của
Tuệ Trung Thượng Sĩ chúng ta mối thấy tự do là cái quý
nhất trên đời. Tự do đó đưa chúng ta tới hạnh phúc chân
thật. Và khi chúng ta có hạnh phúc, chúng ta mới có thể ban
phát hạnh phúc cho những người khác. Còn nếu chúng ta không
có tự do, không có hạnh phúc thì chúng ta không làm hạnh
phúc được cho bất cứ một ai. Chúng ta chết chìm và kéo
những người khác chết chìm theo chúng ta.
LÝ
LUẬN CỦA TRÁI TIM
Và
bây giờ là suy nghĩ của Kiều:
Nàng thì thật dạ tin người,
Lễ
nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
Đây
là tâm lý của người đàn bà. Trong nguyên lục có những
chi tiết có thể làm sáng thêm hai câu thơ này: Hai cô thế
nữ rất khôn khéo, được huấn luyện rất kỹ để đóng
vai trò dẫn dụ. Về phương diện hình thức thì là hai cô
tỳ nữ với tất cả tài năng để phụng sự một vị đại
phu nhân; về nội dung họ là hai tay gián điệp của triều
đình. Ban đầu Từ Hải muốn trả về tất cả lễ vật rồi
đuổi sứ về. Thúy Kiều nói: ‘Người ta có lễ độ, có
lòng tốt, đem tới những tặng vật như vậy thì tại sao
mình lại từ chối?’ Từ nghe lời, nhận lễ. Chính sự chấp
nhận lễ vật đó mà phòng tuyến bị vỡ. Hai cô gián điệp
lọt được vào tư thất của Kiều, đem tất cả sự khôn
ngoan, miệng lưỡi của những người gián điệp để thuyết
phục Kiều: ‘Phu nhân là một người con có hiếu. Ai cũng
biết thành tích hiếu thảo của phu nhân, bán mình để chuộc
cha. Một người có hiếu lại có Trung là một người hoàn
hảo. Trung là trung thành với đất nước, triều đình. Các
vị thánh đế đã khai sáng đất nước này. Đất nước đang
hòa bình, lương dân đang sinh sống an ổn; vậy mà bây giờ
vì chiến tranh loạn lạc, đất nước phải chia hai, người
dân chết trong năm năm qua đã nhiều. Nếu phu nhân chấp nhận
khuyên Đại Vương ra hàng là Trung với đất nước, là giải
phóng cho lương dân khỏi nạn đao binh. Đại Vương sẽ được
phong quan tước, còn phu nhân thì sẽ có cơ hội về đoàn
tụ gia đình.’ Đoàn tụ với cha mẹ và hai em là một ao
ước thâm sâu của Thúy Kiều. Mười lăm năm lưu lạc mà
bây giờ lại có một cơ hội đoàn tụ gia đình. Bỏ qua thì
uổng! Hai cô gián điệp đã động tới được ước muốn
sâu sắc nhất trong lòng Kiều. Hai cô còn nói: ‘Khi công việc
thành rồi thì quan Tổng Đốc sẽ dâng biểu xin vua ban hiệu
Trung Hiếu Khả Phong cho phu nhân vì phu nhân đã cứu cho bao
nhiêu sinh linh khỏi chết. Nếu phu nhân về thăm gia đình với
danh hiệu đó thì chắc chắn gia đình sẽ hạnh phúc lắm!’
Hai cô nói rất khéo! Khiến cho Kiều hoàn toàn chấp nhận.
Ta
nên biết rằng ta vốn có trí tuệ và khả năng xét đoán.
Nhưng một khi ta đã để cho cái ước muốn trong lòng ta thắng
rồi thì ta sẽ dùng mọi cách để lý luận theo ước muốn
đó. Đôi khi lý luận rất hay, nghe xuôi tai hợp lý giống
như ta đã tìm ra con đường của trí tuệ rồi nhưng kỳ thực,
tất cả những lý luận đó đều vâng theo một ước muốn
sâu sắc ở trong lòng. Khi ta đã ước muốn cái đó, nghĩ
rằng ta chỉ có thể sung sướng thật sự khi đi theo con đường
đó thì tất cả những lý luận của chúng ta sẽ được dùng
để phục vụ cho ước muốn đó. Có vẻ như ta vừa có tình,
vừa có trí nhưng kỳ thực chính là cái tình, cái ước muốn
ở trong ta đóng vai trò chủ động. Lý luận của chúng ta
đang làm vai trò biện hộ mà thôi. Chúng ta lý luận ngàn cách
để chứng tỏ rằng lý luận của chúng ta là đúng. Lý luận
đó không còn khách quan nữa. Đây là điều mà hầu hết chúng
ta đều mắc phải. Khi tâm ta đã hướng về một hướng nào
đó rồi ta quên hết mọi chuyện ở hướng đối diện. Đã
muốn rồi thì lý luận đủ cách. Nghĩ rằng mình đã có trí
tuệ, kỳ thật mình mất trí tuệ. Mầm mống của sự thất
bại không phát sinh từ Từ Hải mà phát sinh từ Thúy Kiều.
Thúy Kiều rất quan trọng với Từ Hải, hai người là một,
cho nên một khi mầm mống ấy đã chiếm cứ được Thúy Kiều
rồi thì nó lang sang Từ Hải rất dễ dàng. Cụ Nguyễn Du
nói rằng Kiều ‘thật dạ, tin người’, bị lễ vật làm
tối mắt và những lời nói ngon ngọt chinh phục. Nhưng cụ
chưa thấy rằng ước muốn rất chính đáng của Thúy Kiều
là được đoàn tụ với gia đình chính là động cơ thúc
đẩy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Trong chúng ta cso biết bao
nhiêu người xa quê, lưu đày. Chúng ta có hạt giống mong ước
trở về quê hương, đoàn tụ với cha mẹ, con cái, thấy được
mồ mả của tổ tiên… Ai cũng có hạt giống đó. Thúy Kiều
ngày xưa cũng vậy. Chúng ta hãy cẩn thận. Trong Từ Hải có
trí tuệ nhưng cũng có tình cảm. phần tình cảm đã bị trấn
ngự bởi Thúy Kiều. Ta nên biết phần tình cảm nhiều khi
mạnh hơn phần trí tuệ rất nhiều. Những suy nghĩ, phản
ứng của Từ Hải ban đầu rất rõ ràng, minh bạch nhưng vì
ảnh hưởng của Thúy Kiều mà những đám mây đen bắt đầu
giăng phủ. Từ Hải bắt đầu không thấy được sự thật
một cách rõ ràng và khách quan nữa.
Kiều
tự dùng những lý luận của trí tuệ để che lấp cái ước
muốn sâu sắc của mình: ‘Bây giờ ta phải đi con đường
của chánh đạo. Ta đã là con gái Hiếu. Bây giờ ta cũng muốn
trung nữa (vì theo đạo lý Khổng Mạnh phải vừa Hiếu vừa
là Trung thì mới là một con người toàn vẹn.) Hơn nữa, đây
là con đường bất bạo động. Tôn trọng sự sống của sinh
dân. Chấm dứt chiến tranh. Đi theo con đường này thì không
những ta hạnh phúc mà bao nhiêu dân chúng trong nước cũng
được hạnh phúc. Không còn cảnh nhà tan, cửa nát.’ Lý
luận rất đúng, rất hoàn hảo. Nhưng dầu sao đó cũng là
lý luận phát sinh từ ước muốn của cô là được đoàn
tụ gia đình. Đó không phải là một ước muốn bậy. Chúng
ta không lên án ước muốn đó. Chúng ta chỉ nhìn kỹ để
thấy rằng tất cả những lý luận coi như tuyệt hảo đó
phát xuất từ một ước muốn mà thôi. Ta chỉ cần thấy
điều đó. Và ta cũng sẽ thấy được những tai họa và hiểm
nguy đang chờ ta. Có những trường hợp ước muốn thúc đẩy
không được chính đáng. Nếu là người khôn khéo, chúng ta
tìm những lý luận tuyệt vời, đến các luật sư cũng đều
phải bó tay, chấp nhận lý luận của chúng ta; vì đó là
lý luận của trái tim: ‘Le coeur a ses raisons que le raison ignore!’
Nàng thì thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè
sóng vỗ hãi hùng nước sa.
Đó
là giấc mơ mà Kiều muốn thực hiện. Bây giờ Kiều đem
lý luận ra để chinh phục Từ Hải:
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa
cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Kiều
hỏi: ‘Đại Vương nghĩ sao? ‘Từ Hải nói: ‘Không hàng
thì có ba điều lợi. Một là muốn hành quân, đánh phá đâu
cũng được, không có ai ngăn cản mình. Hai là muốn có thêm
ngân quỹ, vàng bạc, lụa là gì cũng được dễ dàng. Ba là
nếu thắng trận thì mình có khả năng tiến tới, không tiến
được thì đóng binh rút về căn cứ, mình ở trong tư thế
chủ động. Đó là ba điều thuận lợi của lập trường
không hàng. Nếu hàng thì có năm điều hại. Thứ nhất là
nhận sắc phong của vua, nếu quan hơi có lỗi lầm một chút
thì bị vua trừng phạt. Thứ hai là sẽ bị các quan, nhất
là phía quan văn, sai khiến, đàn hạch. Thứ ba là mình có
thể sẽ bị dời đi nơi khác, bị cô lập hóa; khi đó thế
mạnh nằm trong tay triều đình, mình có thể bị bắt giết
bất cứ lúc nào. Thứ tư là một khi mình không nắm quyền
bính trong tay thì chỉ cần được một vị quan văn sai khiến,
bất cứ một tên lực sĩ nào cũng có thể nữa đêm tới
gõ cửa nhà là bắt mình được mình. Thứ năm là dân chúng
trong vùng biển này thế nào thế nào cũng có người khổ
vì chiến tranh do mình gây ra, thừa lúc mình không có thế
lực và binh quyền sẽ tìm cách trả thù báo oán. Đó là năm
điều hại.’ Từ Hải lý luận khá rõ ràng. Nhưng Kiều đã
bị ước muốn kia trấn ngự nên lý luận rất hay (theo nguyên
lục); ‘Nếu mình nhận sắc phong của vua mà không tiếp
nhận một chức quan thì làm sao có thể phạm lỗi được?
Thứ hai là nếu nhận chức quan có tính cách chức vị (nominal),
ngồi chơi xơi nước thôi, không chịu sự sai khiến thì làm
sao đàn hạch, hỏi tội được? Thứ ba là nếu hàng nhưng
ra điều kiện là vẫn được ở chỗ hiểm yếu của mình,
không bị dời căn cứ, không phải đi vào chầu trong triều
thì làm sao lính vua có thể bắt được mình? Thứ tư mình
có thể chấp nhận không gây chiến tranh, quy thuận triều
đình, theo lệnh của vua nhưng vẫn giữ quyền bính của mình.
Mình án binh bất động nhưng thế mạnh vẫn thuộc về mình.
Thứ năm là mình vẫn có quyền bính, không chống triều đình,
những kẻ sĩ dân trong vùng có trả thù muốn báo cũng không
làm gì được. Hàng không những không có năm điều hại mà
có năm điều lợi.’ Rất có biện tài. – Và hơn nữa là
vợ của Từ, (điều này cô ta không nói), sẽ có thể được
về thăm gia đình với bảng hiệu ‘Trung Hiếu Khả Phong’,
cờ lọng đầy đủ! Đó là giấc mơ của Thúy Kiều. - Từ
Hải nghe lọt tai.
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: ‘Ơn thánh đế dồi dào,
‘Tưới ra đã khắp thắm vào đã sâu.
‘Bình thành170 công đức bấy lâu,
‘Ai
ai cũng đội trên đầu xiết bao.
Ca
ngợi công đức lập quốc của nhà Minh.
Ngẫm từ dấy việc binh đao,
‘Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.117
‘Làm chi để tiếng về sau,
‘Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
‘Sao bằng lộc trọng quyền cao,
‘Công
danh ai dứt lối nào cho qua?’
- ‘Chúng
ta đã giết hại sinh linh nhiều rồi! Và trên nguyên tắc:
‘Được làm vua, thua làm giặc’, nếu Đại Vương chiếm
hết được cả nước thì Đại Vương mới làm vua, còn chiếm
một phần của nước thì đến khi chết người ta vẫn gọi
mình là giặc, như Hoàng Sào. Chi bằng ta tiếp nhận chức
tước của triều đình. Công danh của chúng ta mấy ai có thể
qua mặt được?’ - Đứng về phương diện Nhân, Nghĩa, Hạnh
Phúc, tất cả lý luận của Thúy Kiều đều tuyệt hảo cả.
Chỉ có một điều ta cần nhớ là tất cả những lý luận
đó đều đến từ ước muốn của cô nàng chứ không phải
từ nhận thức khách quan.
Từ
Hải đã biết rõ hạnh phúc của mình nằm ở chỗ tự do,
rằng: ‘Bỏ thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo
phận mình ra đâu! Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra
cúi công hầu mà chi!’ Vậy mà:
Nghe lời nàng nói mặn mà,
Thế
công Từ mơi trở ra thế hàng.172
Nghe
lời Kiều thì quên hết!
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn
kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.173
Trong
nguyên lục không nói chuyện giải binh mà nói hàng với điều
kiện không giải binh. Khi Hồ Tôn Hiến gửi một vị phụ
tá có tài ngoại giao lớn tên là Lợi Triện sang thương thuyết
nữa, Từ Hải nói: ‘Nếu tôi hàng thì quý vị cho tôi chức
Tổng Binh là cùng chức gì! Chức tước trong triều nhiều
lắm là lên tới nhị phẩm. Các quan văn trong triều sẽ coi
tôi ra gì đâu! Tôi là dân nhà binh, tự do quen rồi, làm sao
nép phục dưới mấy ông đó!’ Lợi Triện đáp: ‘Một khi
Đại Vương quy thuận triều đình thì sẽ được phong tước
Hầu. Hai là được trấn tại đây, không bị đổi đi nơi
khác. Ba là không giải binh, không buông quyền bính, được
dùng quân trong vùng này.’ Lợi Triện hứa: ‘Ba điều kiện
đó chắc chắn được chấp nhận!’ và về báo cáo lại
với Hồ Tôn Hiến. Hồ Tôn Hiến nói: ‘Như vậy thì nên
tổ chức uống máu ăn thề với Từ Hải rồi quyết định
ngày giờ thực hiện việc quay về với triều đình ngay tại
đại bản doanh của Từ Hải (không bắt Từ Hải ra khỏi
vùng của mình.)’ Người thân tín của Hồ Tôn Hiến là quan
Lợi Triện cùng Từ Hải lập bàn thờ uống máu ăn thề,
hứa sẽ thi hành hiệp ước đó, làm không đúng lời sẽ
bị trời tru đất diệt. (Ngày xưa chuyện thề thốt quan trọng
lắm!)
BẤT
Ý THƯA CƠ
Tin lời thành hạ yêu minh,174
Ngọn
cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng
Sau
khi Lợi Triện và Từ Hải đã uống máu ăn thề, định ngày
chính thức ra hàng rồi, Từ Hải thấy viễn tượng tương
lai của mình là được phong tước Hầu, nắm giữ binh quyền
và được triều đình chấp nhận. Tất cả những chàng lính
trong quân đội Từ Hải đều thấy viễn tượng được về
thăm gia đình. Ý chí chiến đấu không còn. Tác giả dùng
tám chữ: ‘Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.’ Rất
hay! Chỉ cần tám chữ là thấy được tình trạng bê hối
của quân ngũ Từ Hải. Và cố nhiên, điều này không lọt
qua mắt của thám báo triều đình:
Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư175 dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ công quyết thế thừa cơ,
Lễ
tiên binh hậu khắc cờ lập công.
Đây
là câu lục bát toàn chữ Hán, không có chữ Nôm.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
Lễ
nghi phục trước bác đồng phục sau.
Theo
nguyên lục, Hồ Tôn Hiến mặc áo mão triều đinh, đi dưới
những cây lọng, phía trên có một lá cờ lớn thêu bốn chữ
‘Đại thiên chiêu phủ’. Hồ dẫn theo ba đạo binh đi phía
Bắc, phía Nam và tập hậu. Đoàn quân phía trước hoàn toàn
không có khí giới, chỉ có nghi lễ và âm nhạc.
Từ công hờ hững biết đâu,
Đại
quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Từ
Hải mặc lễ phục của đại quan đi bộ ra đầu hàng, trong
tay hoàn toàn không có một tấc sắt.
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
Đang khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn,
Từ sinh liều giữa trận tiền,
Dạn
dày cho biết gan liền tướng quân.
Khi
nghe tiếng pháo lệnh và thấy địch quân reo hò ập lại từ
ba phía, Từ Hải biết mình đã trúng kế. Không có ngựa để
chạy trốn. Từ quay lui, cướp giáo của một địch quân,
tả xung hữu đột, giết hàng chục quân sĩ và một viên tùy
tướng của triều đình. Thấy Từ ghê gớm quá, phía triều
đình nới vây, không dám đánh trực tiếp với Từ nữa mà
dùng cung tên. Từ Hải bị tên nhắm bắn từ bốn phía, toàn
thân bị tên cắm đầy như một trái chôm chôm.
Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.
Trơ như đá vững như đồng,
Ai
lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
Nỗi
oan ức của Từ Hải lớn quá. Thác rồi mà khí uất vẫn
còn khiến thân Từ đứng sững như một pho tượng đồng,
không chịu ngã ra. Trước khi chết Từ Hải la lên: ‘Phu nhân
làm ta lầm!’
Quan quân truy sát đuổi dài,
Hằm
hằm sát khí ngất trời ai đang.
Quân
triều đình thừa thế đuổi theo, chém giết, tiêu diệt những
đạo quân còn lại của Từ Hải. Rất tội nghiệp! Người
ta đã chịu hàng rồi mà lại giết người ta và giết tất
cả quân lính của người ta. Nói cái giọng: ‘để tránh
chuyện binh đao, tôn trọng sự sống của dân chúng’ chẳng
qua chỉ là nói dối mà thôi. Người ta đã hàng rồi mà không
cho người ta cơ hội để hàng.
Trong ngoài hào lũy tan hoang,
Loạn
quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
Một
số binh sĩ dắt Kiều tới chỗ Từ Hải vừa chết.
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ tro.
Khóc rằng: ‘Trí dũng có thừa,
‘Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
‘Mặt nào trông thấy nhau đây?
‘Thà liều sống chết một ngày với nhau!’
Dòng thu như xối cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng
vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
Tương
triền là quấn quít lấy nhau. Trong Từ Hải có oan khí, trong
nàng Kiều cũng có oan khí đó. Và vì vậy, Từ Hải ngã xuống
như một người chết bình thường khi Kiều tới gieo đầu
xuống chân Từ Hải tự tử.
Quan quân kẻ lại người qua,
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
Đem vào đến trước trung quân,
Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
Rằng: ‘Nàng chút phận hồng nhan,
‘Gặp cơn binh cách nhiều nàn176 cũng thương!
‘Đã hay thành toán miếu đường,
‘Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
‘Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
‘Mặc
lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?’
Hồ
Tôn Hiến nói: ‘Đã đành sự thành công này là do kế hoạch
của triều đình, nhưng nói về công trạng thì không có nàng
việc lớn không thành. Nàng có công, vậy nàng muốn được
thưởng như thế nào?’
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gởi thấp cao sự lòng.
Rằng: ‘Từ là đấng anh hùng,
‘Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.
‘Tin tôi nên quá nghe lời,
‘Đem thân bách chiến177 làm tôi triều đình.
‘Ngỡ là phu quý phụ vinh,178
‘Ai ngờ một chút tan tành thịt xương.
‘Năm năm trời bể ngang tàng,
‘Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không.
‘Khéo khuyên kể lấy làm công,
‘Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
‘Xét mình công ít tội nhiều,
‘Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi.
‘Xin cho thiên thổ một đôi,179
‘Gọi
là đắp điếm cho người tử sinh.’
Kiều
xin được mai táng cho Từ Hải tử tế.
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền
cho kiểu táng di hình bên sông.
‘Kiểu
táng’ (hay cáo táng) là bọc cỏ mà chôn, nghĩa là chôn một
cách sơ sài, dối trá.
HẾT
KIẾP ĐOẠN TRÀNG
Trong quân mở tiệc hạ công,180
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yết dưới màn,
Dở
say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Bị
bắt chơi đàn góp vui cho quân thắng trận, đây cũng là một
trong những giờ phút đau khổ nhất của đời Kiều.
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn
giây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Cứ
lâu lâu, thi sĩ lại cho ra một câu thần sầu quỷ khốc! Tất
cả những đau khổ cùng cực của Thúy Kiều biểu lộ hết
trong bản đàn.
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt
tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Đang
say, đang vui mà nghe khúc dạo nhạc đó Hồ Tôn Hiến cũng
phải khóc!
Hỏi rằng: ‘Này khúc ở đâu?
‘Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!’
Thưa rằng: ‘Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
‘Cung cầm lựa những ngày xưa,
‘Mà
gương bạc mệnh bây giờ là đây!’
Ngày
xưa Kiều sáng tác khúc Bạc Mệnh. Cái bạc mệnh ấy trong
giờ phút này được phát hiện quá rõ ràng!
Nhìn
vào người đàn bà đang đau khổ cùng cực ấy Hồ Tôn Hiến
vẫn thấy nàng rất đẹp. Đẹp một cách não nùng! Bị nhan
sắc của Kiều chinh phục, Hồ Tôn Hiến nói: ‘Thôi đừng
khóc nữa! Tôi sẽ cưới cô làm vợ lẽ.’ Ông quan lớn này
đã say lắm rồi! Say vì rượu, say vì sắc đẹp não nùng
của Kiều. Quan lớn là người chiến thắng nhưng trong tiệc
rượu này ông lại thua trận rát thảm hại. Giữa mặt quan
quân đông đảo hàng ngàn người, Hồ Tôn Hiến đã khoác
vai Thúy Kiều múa, trong tay cầm một ly rượu. Đó là những
chi tiết đọc thấy trong nguyên lục mà truyện Kiều của
cụ Nguyễn Du không có.
Nghe càng đắm ngắm càng say,
Lạ
cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Đó
là hai câu lên án quan lớn đại diện cho triều đình. Đã
chiến thắng nhưng nhân cách lại không ra gì.
Dạy rằng: ‘Hương hỏa ba sinh,
‘Dây loan xin nối cầm lành cho ai.’
Thưa rằng: ‘Chút phận lạc loài,
‘Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
‘Còn chi nữa cánh hoa tàn,
‘Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lân181
‘Rộng thương còn mảnh hồng quần,182
‘Hơi
tàn được thấy gốc phần183 là may!’
Kiều
từ chối, bày tỏ sự đau khổ của mình và chỉ có một
thỉnh nguyện duy nhất là được về đoàn tụ với gia đình.
Nhưng quan lớn đâu có nghe được điều đó. Quan lớn đâu
có để ý tới khía cạnh nhân đạo nữa. Quan đã say lắm
rồi! Say rượu và say sắc dục. Quan lớn đâu có thể nghe
được tiếng kêu cứu của Thúy Kiều và ước vọng duy nhất
còn lại của Kiều là được trở về với cha mẹ.
Hạ công chén đã quá say,
Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
Nghĩ mình phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự
này mình biết thế nào được đây?
Sáng
tỉnh dậy, nhớ lại những chuyện xảy ra tối hôm trước,
Những chuyện mà nhìn vào người ta có thể đánh giá mình
rất thấp. Hồ Tôn Hiến biết mình đã đi quá mức của một
vị quan lớn đại diện cho triều đình. Sợ bị khiển trách
và chê cười, Hồ đi tới một giải pháp rất mãnh liệt
và chớp nhoáng:
Công nha vừa buổi rạng ngày,
Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài.
Lệnh quan ai dám cãi lời,
Ép
tình mới gán cho người thổ quan.
Ép
gả Thúy Kiều cho một viên quan địa phương (từ thổ quan
dùng để chỉ cho các quan người địa phương, cai trị những
vùng dân tộc ít người.)
Ông tơ cực nhé đa đoan!
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
Nàng càng ủ liễu phai đào,
Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
Đành thân cát dập sóng vùi,
Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh.
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm
xương biết gởi tử sinh chốn nào?
Thấy
con đường trước mặt của mình mờ ảo và hứa hẹn nhiều
khổ đau, Kiều thấy mình hoàn toàn lạc hướng, không biết
sẽ di về đâu. Không còn có một năng lượng, một trí tuệ
nào để dẫn mình đi trên con đường đời nữa hết!
Duyên đâu ai dứt tơ đào,
Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay?
Thân sao thân đến thế này?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi
thì nát ngọc tan vàng thì thôi.
Đây
là tâm trạng của những người sắp tự tử. Kiều thấy
đời sống không còn có ý nghĩa nào nữa cả, sống không
có niềm vui, chết là khỏe hơn. Trong tuyện Ngu Sơ Tân Chí,
bức thư của nàng Tiểu Thanh có câu: ‘Vị tri sanh lạc, yên
tri tử bi.’ (Nếu ta không thấy niềm vui trong khi sống thì
làm sao ta có thể biết rằng chết là đau khổ?) Đối với
những người dã thấy được niềm vui trong sự sống thì
họ có thể nghĩ rằng cái chết là khổ đau; nhưng đối với
những người mà trong cuộc sống không bao giờ thấy niềm
vui cả thì cái chết đôi khi lại là một con đường giải
thoát. Đó là tâm trạng người sắp tự tử. Khi nào chúng
ta lâm vào sự suy nghĩ như vậy thì chúng ta biết ý định
tự tử đã được nhen nhúm trong con người mình.
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một
mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Trăng
đã sắp lặn rồi mà chuyện ‘chết hay không chết’ (to
die or not to die) vẫn còn lẩn quẩn trong Kiều. Đi, dứng, nằm,
ngồi. Kiều đều bị tư tưởng đó khuấy động.
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
Hỏi
ra mới biết là sông Tiền Đường.
Nghe
hai chữ ‘Tiền Đường’ Thúy Kiều nghĩ ngay tới Đạm Tiên.
Mười lăm năm trước, trong một lần tự tử không chết,
Kiều nằm mơ thấy Đạm Tiên và được Đạm Tiên hẹn sẽ
gặp lại ở sông Tiền Đường. Kiều không còn suy nghĩ gì
nữa, nghĩ rằng đây là lúc mình phải chết. Trước đó:
Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng
ngồi không yên’ là chưa giải quyết được vấn đề “chết
hay không chết?’ Nhưng khi nghe tiếng sóng và biết đây là
sông Tiền Đường rồi thì không còn vấn đề suy nghĩ nữa.
Chắc chắn là chết vì đây là một điều tiền định!
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây.
‘Đạm Tiên nàng nhé có hay!
‘Hẹn
ta thì đợi dưới này rước ta.’
Ở
đây chúng ta nên nhớ rằng: đứng về phương diện tâm lý,
khi con người sa vào thế giới của bi quan và đen tối rồi
thì họ quên tất cả những điều ngược lại. Cách đó năm
năm, Kiều gặp sư chị Giác Duyên cho biết Tam Hợp đọa cô
tiên đoán trong năm năm tới hai chị em sẽ được gặp lại.
Kiều tin chắc điều này sẽ xảy ra; ‘Đã tin điều trước
ắt nhằm việc sau.’, ‘Lời sư đã dạy ắt là chẳng sai.’
Nhưng trong giờ phút này Kiều chỉ nghĩ đến chuyện gặp
Đạm Tiên (nghĩa là chuyện chết) thôi, còn chuyện sẽ được
gặp Giác Duyên thì cô quên hẳn. Trong những lúc lâm vào tình
trạng đen tối, ta chỉ tiếp xúc được với những hạt giống
và chất liệu đen tối bên trong và xung quanh ta thôi. Còn tất
cả những hạt giống đẹp đẽ, tươi mát, tích cực ở trong
và xung quanh thì ta không thấy. Cái hoa tươi đẹp vậy mà
mình không thấy. Màu trời xanh mầu nhiệm như vậy mà mình
không thấy. Đối với mình cái gì cũng đen tối hết. Đen
từ bên trong đen ra. Lâm vào tình trạng đen tối của tâm
hồn ta thấy người nào cũng xấu, cũng dễ ghét. Trời đất
cũng dễ ghét luôn! Không có gì tích cực, không có gì tươi
mát, không có gì đáng sống hết! Chỉ có cái đen trong mình
là có thật thôi! Đây là điều đang xảy ra cho Thúy Kiều.
Là người tu, khi lâm vào tình trạng đen tối, ta phải tự
nhắc mình rằng đây chỉ là tình trạng chốc lát, nhất thời.
Trong bản thân ta và xung quanh ta vẫn có những cái rất mầu
nhiệm mà ta không tiếp xúc được trong giây phút này. Ta phải
nhờ những người anh, người chị, người em kéo ta ra khỏi
tâm trạng đen tối đó. Vì vậy tu là phải tu với tăng thân.
Bất cứ người nào trong chúng ta cũng thỉnh thoảng rơi vào
tình trạng đen tối. Nếu ta không có một sư anh, sư chị,
sư em giúp ta vượt thì ta có thể lún rất sâu vào tâm trạng
này. ‘Con về nương tựa Tăng’ là chỗ đó. Tu mà không
có tăng thân thì không thể thành công được. Và ngược lại,
khi thấy một người sư anh, sư chị, sư em mình đang ở trong
tình trạng đen tối, ta phải tìm cách kéo người ấy ra khỏi.
Đó là bổn phận của chúng ta, một phần từ trong tăng thân.
Đừng để người kia lún sâu vào tình trạng đen tối. Người
đó có thể đang bệnh, thể xác yếu đuối. Thể xác yếu
đuối đưa tới những tư tưởng đen tối. Ta phải làm thế
nào để gần gũi, ưu ái, giúp người ấy thoát ra khỏi tình
trạng ốm yếu của thể xác và tinh thần. ‘Con về nương
tựa Tăng’ rất quan trọng. Ta phải tu với tăng thân, có
anh, có chị, có em để nương tựa.
Đạm Tiên nàng nhé có hay!
‘Hẹn
ta thì đợi dưới này rước ta.’
Đáng
lý lúc đó Kiều phải nghĩ tới Giác Duyên, và phải nói:
‘Sư chị ơi! Sư chị hẹn gặp lại em mà bây giờ sư chị
ở đâu? Sư chị Giác Duyên là người Kiều rất thương và
tin cậy. Sự thật, lúc đó Giác Duyên đang đi tìm Thúy Kiều.
Nhưng Thúy Kiều đâu đi tìm Giác Duyên! Thúy Kiều chỉ muốn
đi kiếm một con ma thôi! (ma Đạm Tiên.) Trong Kinh Lăng Nghiêm
Bụt dạy: ‘Thập phương Như lai lân niệm chúng sanh như mẫu
ức tử. Nhược thử đào thệ tuy ức hà vi? Tử nhược ức
mẫu như mẫu ức thời, tử mẫu lịch sanh bất tương vi viễn.
Nhược chúng sanh tâm ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương
lai tất định kiến Phật, khứ Phật bất viễn.’ Nghĩa là:
Các đức Như Lai mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ
nhớ con. Nếu con bỏ mẹ chạy trốn thì mẹ có nhớ cũng
không đi đến đâu. Trong khi đó, nếu con cũng nhớ mẹ như
mẹ nhớ con thì thế nào mẹ con cũng được gặp nhau. Nếu
tâm chúng sanh nhớ Bụt, niệm Bụt, hướng về Bụt thì bây
giờ và trong tương lai chắc chắc chúng sanh và Bụt sẽ được
đoàn tụ. Ở đây, trong tâm trạng đen tối, Kiều chỉ nhớ
tới ma Đạm Tiên và sự chết mà thôi. Không nhớ tới sư
chị Giác Duyên và tất cả sự nhẹ nhàng, an tịnh, giải
thoát mà sư chị biểu lộ. Chỉ ‘ tìm những chốn đoạn
tràng mà đi’, không tìm những chỗ thanh thản. Đó là trường
hợp của nhiều người.
Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
Một
thiên tứ tuyệt gọi là để sau.
Trước
khi tự tử Kiều vẫn có thói quen của thi sĩ, muốn làm một
bài thơ để lại. Cụ Nguyễn Du không viết bài thơ ấy, nhưng
trong nguyên lục đó là một bài thơ sáu câu sáu chữ:
Thập ngũ niên tiền hữu ước
Kim triêu thỉ đáo Tiền Đường
Bách thế quang âm hỏa thước
Nhất sinh thân sự hoàng lương.
Triều tín thôi nhân khứ giả
Đẳng
nhàn khước liễu đoạn trường.
Nghĩa là:
Mưòi lăm năm trước đã có ước hẹn
Sáng hôm nay mới tới được sông Tiền Đường.
Thời gian một trăm năm đi mau như lửa tàn
Một đời người thân thế như giấc kê vàng
Nước triều lên như thông điệp giục giã mình ra đi
Để
chấm dứt kiếp đoạn trường này.
Tôi tạm dịch:
Mười mấy năm xưa có hẹn
Sáng nay mới tới Tiền Đường.
Một kiếp thời gian thấm thoát
Trăm năm chỉ giấc kê vàng.
Tiếng sóng ngoài kia giục giã
Từ
đây hết kiếp đoạn trường.
Viết
xong bài thơ tuyệt mệnh Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường:
Cửa bồng vội mở rèm châu,184
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Rằng: “Từ công hậu đãi ta,
‘Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
‘Giết chồng mà lại lấy chồng.
‘Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
‘Thôi thì một thác cho rồi,
‘Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.’
Trông vời con nước mênh mông,
Đem mình gieo xuống giữa giòng trường giang.
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thì đà đắm ngọc chìm hương cho rồi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Hại
thay mang lấy sắc tài làm chi!
Những
người có sắc có tài là những người dễ bị đau khổ nhiều
nhất! Đây là những giọt nước mắt của cụ Nguyễn Du nhỏ
xuống để khóc cho Thúy Kiều mà cũng để khóc cho bản thân
tác giả. Cụ Nguyễn Du là người có tài. Cụ đã từng thờ
nhà Lê, sau này bắt buộc lại phải làm quan cho nhà Nguyễn.
Cảm tưởng mình đã phụ bạc nhà Lê là một niềm đau trong
lòng thi sĩ.
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi.
Đời người đến thử thế thôi,
Trong cơ âm cực dương hồi185 khôn hay,
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời
làm chi đến lâu ngày càng thương!
Thúy
Kiều đã chết. ‘Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay’ tức
là khi cái âm (yin) đến chỗ sâu nhất thì cái dương (yang)
bắt đầu sinh ra. Cái lạnh lẽo của mùa Đông từ từ hết
thì cái ấm áp của mùa xuân từ từ sinh ra. sẽ có sự thay
đổi!
- Quá
trình tu học của chúng ta là quá trình chết đi để sống
lại. Những đau khổ của kiếp người rất quan trọng. Đi
tu không phải là để trốn tánh đau khổ. Đi tu có nghĩa là
sử dụng tất cả những đau khổ của mình để chuyển rác
thành hoa. Sự sống chân thật được làm bằng chất liệu
của sự chết. Hạnh phúc chân thật được làm bằng chất
liệu khổ đau. Những người nào trong chúng ta đã từng đau
khổ thì đừng vì vậy mà buồn phiền. những đau khổ đó
chính là chất liệu cần thiết để chúng ta có thể tạo
dựng ra hạnh phúc và giải thoát, như những người làm vườn
biết sử dụng rác để làm phân, biến rác thành hoa. Những
người chưa đau khổ thì khó thành công hơn những người
dã từng đau khổ. Nhưng khổ đau nhiều, tiếp tục chất chứa
phiền não mà không biết phương pháp biến rác thành hoa thì
mình có thể chết chìm trong đau khổ. Nếu thông minh, có thầy,
có bạn thì với số lượng đau khổ mình có, mình có thể
chuyển rác thành hoa dễ dàng. Và mình có thể thành công mau
hơn những người chưa từng đau khổ hoặc chỉ mới đau khổ
sơ sơ. Sự thực tập của chúng ta là mỗi ngày phải tập
chết. Chết đi những vô minh, tham đắm, khổ đau để an lạc
và giải thoát được bùng nổ. Đức thế tôn cũng đã trải
qua chuyện chết đi sống lại này bao nhiêu lần trước khi
thành đạo. Là học trò của Ngài, chúng ta cũng phải học
chết. Mỗi khi ngồi thiền, chúng ta phải chết. Hãy để cho
chúng ta chết để chúng ta có thể sống dậy được.
Thúy
Kiều đã chết. Đây là một tin mừng của Thúy Kiều. vì
nếu không chết như vậy thì không sống trở lại được.
Trong Thánh Kinh của Cơ Đốc Giáo cũng có tư tưởng này: ‘…
si le grain de blé qui est tombé en terre ne meurt, il reste seul; mais
s’il meurt, ol porte beaucoup de fruit.’ Hạt cây mà không chết
thì cái cây không thể sanh ra được. Khi một hạt lúa được
gieo xuống đất, hạt phải chết, nứt ra, tàn hoại thì mộng
cây mới có thể trở thành cây con được. Tu hành ta đừng
nên sợ chết. Trái lại, ta phải học chết mỗi ngày để
cho sinh mệnh của giải thoát có thể thoát thai ra từ những
đau khổ của chúng ta.
Ở
CHO YÊN NGỒI CHO VỮNG
Bây
giờ chúng ta hãy theo sư chị Giác Duyên:
Giác Duyên từ tiết giã nàng,
Đeo
bầu quảy níp rộng đường vân du.
Bầu
là bầu cam lộ; níp là cái túi để đựng Kinh Kim Cương.
Hành lý của người tu chỉ có một cái bình đựng cam lộ
và một túi đựng Kinh Kim Cương thôi. Vân du là vân thủy.
Người tu là phải có tự do. Tìm về chỗ có mây nước, giải
thoát và an lạc mà tới. Không chui đầu vào làm nô lệ. Hồi
còn bé, tôi có được nghe giai thoại của một anh học trò
nghèo và một vị xuất gia gặp nhau trên một chuyến đò.
Ông thầy hình như vừa mới đi cúng về. Trong túi ông không
biết có trăng gió hay không nhưng chắc chắn là có chuối
có xôi (có oản) Ạnh học trò nghèo kiết xác mồng tơi than
đói. Ông thầy lấy xôi, chuối mời. Anh ta rất mừng. Ăn
xong, ông thầy hỏi: ‘Anh là học trò thiệt không mà ăn xôi,
ăn chuối của tôi?’ –‘Dạ con là học trò thiệt mà, thưa
thầy!’ – ‘Vậy anh làm cho tôi một bài thơ đi!’ Đây
là bài thơ của anh học trò:
Một hòm kinh sử, níp Kim Cương186
Thầy tớ cùng nhau một chuyến dương
Đám hội đàn chay thầy đủng đỉnh
Ngồi cao chức trọng tớ nghênh ngang
Sao người chẳng nhớ lời Hàn Dũ
Đầy tớ còn căm chuyện Thủy Hoàng187
Phút chốc lên bờ rồi tiễn biệt.
Người
thì nên Bụt tớ nên sang.
Tôi
còn nhớ bài thơ này chỉ vì trong bài thơ có chữ ‘níp Kim
Cương.’
Giác duyên từ tiết giã nàng
Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp đạo cô
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
‘Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
‘Kiếp
sao gặp những đoạn trường thế thôi?’
Đạo
cô Tam Hợp là người theo Lão giáo, có thể biết chuyện quá
khứ và tương lai. Sư chị nói chuyện về Trạc Tuyền và
hỏi về vận mệnh của cô. Chứng tỏ sư chị rất còn thương
sư em.
Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời,
‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
‘Có trời mà cũng tại ta,
‘Tu
là cỗi phúc188 tình là dây oan.
‘Cỗi
nguồn cũng ở lòng người mà ra’ là tư tưởng của Kinh
Hoa Nghiêm: ‘Nhất thiết duy tâm tạo.’ Trời là cộng nghiệp;
ta là biệt nghiệp. Chúng ta bị ảnh hưởng của cộng nghiệp
nhưng chúng ta cũng chịu trách nhiệm với tư cách cá nhân.
nếu biết tu tập thì ta tọa ra phước đức; còn bị ràng
buộc vào trong tình cảm thì ta tạo ra những oan nghiệp cho
mình và cho người khác. Đó là lời thốt ra từ miệng một
đạo cô.
Và
bây giờ nhà đạo học đưa ra một sự phân tích về bản
án của cuộc đời Thúy Kiều:
‘Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
‘Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
‘Lại mang lấy một chữ tình,
‘Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
‘Vậy nên những chốn thong dong,
‘Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
‘Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
‘Lại
tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Thúy
Kiều có sắc đẹp và thông minh nhưng lại thiếu những nhân
tốt của cuộc đời. Vô duyên là không có duyên may mắn,
trong quá khứ đã không gieo trồng những hạt giống tốt.
Người ta thành công được không phải do tài năng của mình
mà do sự may mắn. Sự may mắn không phải ngẫu nhiên mà đến.
May mắn có nghĩa là những nhân duyên do mình hoặc cha mẹ
ông bà mình đã gieo trồng trong quá khứ. Nếu chúng ta đã
có duyên lành rồi tức là chúng ta may mắn hơn Thúy Kiều.
Nếu
chỉ vô duyên thôi thì không đến nỗi gì. Thúy Kiều đã
vô duyên mà lại còn thêm tội đa tình nữa! ‘Lại mang lấy
mọt chữ tình. Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong.’
Mình tự buộc chứ có ai buộc mình đâu! ‘Xin cho tôi làm
nô lệ! Tôi phát nguyện được làm nô lệ cho người suốt
đời, đời này sang đời khác!’ Tự do không muốn, chỉ
muốn làm nô lệ! Không ai buộc được mình hết, chỉ có
một người có thể buộc được mình thôi: chính mình!
Hai
nguyên do tọa nên bi kịch của Thúy Kiều: Thứ nhát, không
có những hạt giống phước đức của kiếp trước. Thứ
hai, mình tự cột mình vào trong vòng tình ái. Hai cái đó sẽ
đưa Kiều tới đâu?
Vậy nên ở chốn thong dong,
Ở
không yên ổn ngồi không vững vàng.
Dầu
có được cơ hội đi vào những chốn tự do và thong dong thì
Kiều cũng ở không yên ngồi không vững. ‘Vậy nên những
chốn thong dong’ có nghĩa là Kiều đã có cơ hội đi vào
những chốn thong dong. Chốn thong dong là chốn nào? Chốn thong
dong là chốn có những người có thể bước những bước
chân thảnh thơi, ngồi uống trà, ăn cơm có hạnh phúc, có
thể ngồi yên từ giờ này sang giờ khác mà không cần phải
bôn ba chạy đi đâu hết. Đã có duyên đi tới những chốn
thong dong đó nhưng vẫn không thong dong được. Vẫn đi thì
như ‘chó đạp phải lửa’189, vẫn ngồi như ngồi trên
than hồng. Không tiếp xúc được với sự thong dong ở trong
lòng mình và xung quanh mình. Cứ nhìn Làng Mai là chúng ta biết.
Ở Làng Mai có những người an trú được. Họ ngồi yên được,
uống trà được, nhìn mây, nhìn trời được. Họ nhận đó
là quê hương của họ. Mỗi giờ phút họ có htể an an lạc
và hạnh phúc. Nhưng có những người khác không làm như vậy.
Không có khả năng ngồi, không có khả năng đi. Thấy chỗ
này chưa phải là chỗ của mình. Chỗ của mình là chỗ khác,
chỗ nào? Chỗ đoạn trường. Những lời của đạo cô Tam
Hợp hay lắm!
Ở
tức là trú (dwelling.) Ở không yên ổn’ tức là không an
trú. Ngồi trên xe lửa mà không yên, ngồi trong thiền đường
cũng không yên, ngồi trên bãi cỏ cũng không yên, ngồi ở
cốc Ngồi Yên cũng không yên. Không có chỗ nào mà ngồi yên
được. Ngồi trên than hồng thì làm sao vững vàng được!
Chúng ta học: ‘Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề, Vững thân
chánh niệm không hề lãng xao.’ Sự thực tập của chúng
ta là ở cho yên và ngồi cho yên. Chỉ có chừng đó thôi.
Chúng ta học Kinh Hoa Nghiêm, giới luật, thở, thiền hành…
là cốt để đi tới một cái đó: ngồi cho yên, ở cho yên
và có hạnh phúc. Vì bất an nên chúng ta rong ruổi. Rong ruổi
về quá khứ, rong ruổi về tương lai. Điều này không cần
phải ai nói, chúng ta chỉ cần nhìn lại tâm chúng ta để
thấy. Chúng ta có ngồi yên không? Chúng ta có khả năng uống
trà, ăn cơm, nắm tay một người bạn, nhìn trời xanh, mây
trắng, bước những bước chân thảnh thơi trên con đường
thiền hành hay không? Chúng ta có chất liệu bất an của Thúy
Kiều không? Nhiều hay ít, chúng ta đều có chất liệu ấy
của Thúy Kiều. Tu tức là chuyển hóa chất liệu để có
thể ở cho an ổn, ngồi cho vững vàng.
‘Vậy
nên những chốn thong dong. Ở không an ổn ngồi không vững
vàng’ là câu thơ tả được tâm trạng của nhiều người.
Không có hạnh phúc vì không an trú được trong giây phút hiện
tại: bây giờ và ở đây. Đi đâu cũng bất an: về Việt
Nam cũng bất an, qua Mỹ cũng bất an, về Làng Mai cũng bất
an… Nếu tâm ta an thì chỗ nào cũng là chỗ thong dong, chỗ
nào cũng là tịnh độ, chỗ nào cũng là an lạc cả.
Tâm
không an trú, không có khả năng ngồi ở Thiền Đường hay
Tịnh độ thì phải đứng dậy để đi. Đi đâu? Đi vào những
thế giới của đoạn tràng. Đoạn tràng là đứt ruột, đau
khổ, ngũ thú, lục đạo. Ai dắt chúng ta vào những con đường
u mê, những chốn đoạn tràng đó? ‘Ma đưa lối quỷ dẫn
đàng.’ Ma quỷ này là những tâm hành tham, sân, si, mạn,
nghi, tà kiến. La Hán có nghĩa là người phá ma. Ma ở đâu?
Ở trong tâm chúng ta. Chính vì chúng ta không thể an trú được
nên những con ma trong tâm xuất hiện, xui bảo chúng ta: ‘Mình
ở chỗ này không được, phải đi tìm hoàn cảnh khác.’
Càng suy nghĩ càng bấn loạn trong tâm và tâm hành bất an xui
hai chân ta phải chạy. Đó là những con ma đưa chúng ta vào
những hoàn cảnh đen tối, đoạn tràng. Ta hãy đọc lại những
câu này và phản chiếu lại nội tâm mình:
‘Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
‘Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
‘Lại mang lấy một chữ tình,
‘Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
‘Vậy nên những chốn thong dong,
‘Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
‘Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
‘Lại
tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Dễ
sợ! Những câu thơ như lột hết tâm can mình ra, chỉ cho mình
thấy bản chất luân hồi, khổ đau và địa ngục nằm ngay
trong chính con người mình.
‘Hết nạn ấy đến nạn kia,
‘Thanh lâu hai đợt thanh y hai lần.
‘Trong vòng giáo đựng gươm trần,
‘Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi.
‘Giữa dòng nước dẫy sóng dồi
‘Trước
hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.190
Cố
nhiên không có khả năng an trú được trong những chốn thong
dong thì thế nào mình cũng gặp tai nạn. Tai nạn xảy ra ngay
ở chỗ mà mọi người đang sống thong dong. Trong chỗ thong
dong đó, người khác sống thong dong nhưng mình đâu có thong
dong! Đạo cô tóm tắt cuộc đời đau khổ của Kiều, chung
cục phải tự tử dưới sông trong cô đơn, im lặng (vắng
tanh). Những đau khổ của mình, mình không thể nói cho ai nghe
được.
‘Oan kia theo mãi với tình –
(Còn tình tức là còn oan.)
‘Một
mình mình biết một mình mình hay.
Có
tám chữ mà hay đến nước như vậy! Tất cả những khổ
đau của mình không ai có thể hiểu được, chỉ có mình mới
thấm thía được mà thôi; vì người khác không ở trong da
thịt mình thì làm sao hiểu được!
‘Làm cho sống đọa thác dày,
‘Đoạn
trường cho hết kiếp này mới thôi.’
Sống
thì rơi xuống (đọa), chết cũng là bị đày. ‘Làm cho sống
đọa thác đây’ là vì hai điều đã nói: vô duyên với Phật
pháp, với sự an lạc và lại tự mình buộc lấy mình trong
con đường của tình ái.
THẢ
MỘT BÈ LAU
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
‘Một
đời nàng nhé thương ôi còn gì!’
Nhưng
đạo cô không nói một đời. Chỉ nói kiếp sống từ khi
Thúy Kiều sinh ra cho đến khi Kiều chạm vào đáy đau khổ
(hitting the bottom) phải tự tử ở sống Tiền Đường thôi.
Sư rằng: ‘Song chẳng hề chi,
‘Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
‘Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
‘Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm.
‘Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán
mình đã động hiếu tâm đến trời.
Tuy
bị ràng buộc trong vòng tình ái nhưng Kiều không phạm lỗi
tà dâm. Đây là nói tới đêm đầu tiên Thúy Kiều được
gần Kim Trọng. Hai người rất mê nhau nhưng Thúy Kiều nhất
định không phạm giới thứ ba. Chính nhờ Thúy Kiều mà Kim
Trọng không bị phạm giới tà dâm. ‘Giữ gìn cho tôi và
giữ gìn cho anh. Để cho ngày hôm nay còn tươi sáng và để
ngày mai chúng ta vẫn sẽ còn có nhau.’ Đó là một câu trong
bài hát Hộ Trì Sáu Căn. Trong suốt mười năm lưu lạc, Thúy
Kiều nhớ mãi hình ảnh đêm đó. Đó là một sự nâng đỡ
rất lớn cho Thúy Kiều trong những lúc đau khổ. Nếu hai người
phạm giới thứ ba trong đêm hôm đó thì Thúy Kiều đã mất
một hình ảnh rất đẹp, không thể đem theo trong suốt mười
lăm năm để chống đỡ với những đau khổ. Hành động bán
mình chuộc cha của Kiều cũng là một hành động chuyển nghiệp
rất tốt.
‘Hại một người cứu muôn người
‘Biết
đường khinh trọng biết lời phải chăng.
Hai
câu này nói đến chuyện Từ Hải chết và cứu được muôn
dân khỏi nạn đao binh. Chỗ này gượng ép vì Kiều đâu có
muốn hại Từ Hải!
‘Thửa công đức ấy ai bằng?
‘Túc khiên191 đã rửa lâng lâng sạch rồi.
‘Khi nên trời cũng chiều người,
‘Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
‘Giác Duyên nhớ đến nghĩa nhau,
‘Tiền Đường thả một bè lau rước người.
‘Trước sau cho vẹn một lời,
‘Duyên
ta mà cũng phúc trời chi không!’
Đạo
cô khuyên ni sư Giác Duyên làm một chiếc bè lau để đợi
vớt Kiều ở sông Tiền Đường. Trong thời gian 1965-1966, đất
nước Việt Nam đau khổ cùng cực vì chiến tranh. Tôi có cho
đăng một đoạn Kiều này trong tờ báo Giữ Thơm Quê Mẹ
mà tôi đang chủ trương lúc đó, lấy tên là Thả Một Bè
Lau. Thân phận Việt Nam chua xót, đau khổ giống hệt thân
phận Thúy Kiều. Khi thì phải đi với Pháp, khi thì đi với
Nhật, với Mỹ… như một cô gái giang hồ. Đau khổ cùng
cực! Từ tấm thân làm nô lệ đến tấm thân đi vào chiến
tranh, không có gì khác nàng Kiều hết. ‘Thanh lâu hai lượt
thanh y hai lần.’ Thanh y là bị làm đầy tớ, nô lệ cho nước
ngoài. Thanh lâu là làm gái giang hồ. Mối tình với những
chủ thuyết Đại Đông Á, Mác-Xít, Tư Bản… là mình buộc
lấy mình. Tự nhiên, khi không mà tự buộc mình trong những
chủ thuyết như vậy để khổ. Vương vấn vào những mối
tình như vậy thì chỉ làm lớn thêm khổ nhau. Chiến tranh
là do đâu? Do chỗ mình quấn mình vào những hoàn cảnh đó,
đi đôi với những thế lực ngoại quốc đó. Mời quý vị
đọc lại mà xem:
‘Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
‘Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
‘Lại mang lấy một chữ tình,
‘Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
‘Vậy nên những chốn thong dong,
‘Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
‘Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
‘Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
‘Hết nạn ấy đến nạn kia,
‘Thanh lâu một lượt thanh y hai lần,
‘Trong vòng lễ giáo dựng gươm trần,
‘Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi.
‘Giữa dòng nước đẩy sóng dồi,
‘Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.
‘Oan kia theo mãi với tình,
‘Một mình mình biết một mình mình hay.
‘Làm cho sống đọa thác đày,
‘Đoạn
trường cho hết kiếp này mới thôi!’
Đó
không phải là số phận của riêng nàng Kiều. Đó là số
phận của nước Việt Nam! Con đường thoát là con đường
nào? Là phải tu. Không tu thì không thoát ra được. Phải nghe
lời Tam Hợp đạo cô thả một bè lau. Cái bè lau cứu được
số mạng nước Việt Nam là sự tu học. Nếu không tu thì
không thể đưa đất nước ra khỏi tình trạng của Thúy Kiều.
Hồi đó tôi đã thấy được rất rõ rằng chỉ có sự tu
học theo con đường của chánh pháp mới có thể cứu được
đất nước ra khỏi con đường khổ đau. Và tôi đã đăng
đoạn thơ này lên báo Giữ Thơm Quê Mẹ với tên là Thả
Một Bè Lau. Tất cả công việc chúng tôi làm trong thời gian
đó là kêu gọi mọi người thương nhau, chấp nhận lẫn nhau,
đi theo con đường của từ bi, xóa bỏ hận thù. Nhưng tiếng
súng đã át tiếng thuyết pháp. Biết bao nhiêu người đi trên
con đường của từ bi xóa bỏ hận thù đã bị giam cầm,
tra tấn và áp bức.
Nếu
quý vị thấy được tình trạng của đất nước và dân tộc
và thấy được rằng chỉ có con đường tu học, từ bi hóa
giải hận thù mới đưa đất nước ra khỏi giai đoạn đau
khổ hiện tại thì quý vị biết mình phải làm gì và không
nên làm gì. Công việc của chúng ta là thả một bè lau, đưa
thuyền Từ của đạo Bụt ra để tế độ đất nước. Phải
tu mới được. Không có con đường nào khác. Tu với bản
thân mình, thành lập tăng thân. Đem đọa lý Từ Bi như một
chiếc bè để cứu Việt Nam ra khỏi giai đoạn đen tối mấy
chục năm. Đó là con đường thoát. Con đường thoát đó đã
được chỉ rõ trong lời phán quyết của đạo cô Tam Hợp.
Không cần tìm đâu xa, ngay trong truyện Kiều ta đã có thể
thấy được con đường giải t hoát của đất nước.
GIÓ
TRĂNG MẮT MẶT MUỐI DƯA CHAY LÒNG
Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú192 bên sông Tiền Đường.
Đánh tranh chụm nóc thảo đường,
Một
gian nước biết mây vàng chia đôi.
Sư
chị thương sư em lắm cho nên đã tìm tới bên sông Tiền
Đường lợp một am tranh và ở lại đó để chờ Thúy Kiều.
Có ai thương sư em bằng sư chị đâu! Chỗ sư chị ở, tuy
nhỏ nhưng rất đẹp: Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư phủ hai người,
Đóng
thuyền chực bến kết chài giăng sông.
Biết
Thúy Kiều sẽ tự tử ở đây nên sư chị thuê hai người
ngư dân giăng lưới chực sẵn. Tiền đâu mà thuê? Có lẽ
vàng ngày xưa Thúy Kiều đã cho sư chị. Hai người ngư dân
trọn năm không đánh cá nữa, chỉ ‘đánh người’ thôi.
Thấy cá thì phải theo lời sư chị bỏ ra ngoài.
Một lòng chẳng quản mấy công,
Khéo
thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
Chuyện
gặp lại sư em giống như có sự chuyển vận luân hồi, đã
định trước.
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
Ngư ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa.
Trên mui lớt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhìn thật mặt nàng,
Nàng
còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Chưa
chết hẳn, chỉ mới uống nước hơi nhiều thôi.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoát đã thấy người ngày xưa.
Rằng: ‘Tôi đã có lòng chờ,
‘Mất
công mười mấy năm thừa ở đây.
Cô
này kể công quá! Đã nói mười lăm năm sau mới gặp mà tại
sao phải chờ tới mười lăm năm ở đây? Đi chơi trong thời
gian ấy phải hay hơn không! Cái cô Đạm Tiên này cũng không
có tự do và thảnh thơi gì hết!
‘Chị sao phận mỏng phúc dày,
‘Kiếp xưa đã vận lòng này dễ ai!
‘Tâm thành đã thấu đến trời,
‘Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
‘Một niềm vì nước vì dân,
‘Âm
công cất một đồng cân đã già.
Cán
cân đã già về phía hạnh phúc, non về phía đau khổ. Lấy
bớt bên phía khổ đau thì phía hạnh phúc chĩu xuống.
‘Đoạn trường số rút tên ra,
‘Đoạn
trường thơ phải đưa mà trả nhau.
- ‘Tên
chị đã được rút ra khỏi sổ đoạn trường, vì đức chị
đã nhiều, nợ đã trả hết. Mười bài thơ ngày xưa chị
đóng góp vào tập thơ của hội Đoạn Trường em trả lại
cho chị vì chị không còn là một hội viên của Hội nữa.’
Hai câu thơ này vẫn còn vướng văn phạm Trung Hoa: Đoạn trường
thơ. Phải nói là Sổ Đoạn trường và Thơ Đoạn trường
thì mới là đúng với văn phạm Việt. tuy nhiên nếu ta đọc
hai câu thơ này theo kiểu đọc hai câu ‘gió cây trút lá trăng
ngàn ngậm sương’ thì cũng thấy hay.
‘Còn nhiều hưởng thụ về sau,
‘Duyên
xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!’
- ‘Từ
đây về sau duyên phước của chị sẽ đầy đủ.’
Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,
Trạc
Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giác
Duyên gọi: ‘Trạc Tuyền! Trạc Tuyền!’ Sư chị nhất định
kêu nó bằng ‘em’, quyết bắt nó về tu trở lại, không
cho đi hoang nữa cho nên quyết gọi nó là ‘Trạc Tuyền’
chứ không xưng là ‘phu nhân’ nữa.
Giật mình thoát tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
Bên
mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
Sướng
quá! Chết mà không chết. Thức dậy thì thấy có sự chị
ngồi một bên. Đây là giây phút hạnh phúc nhất của Thúy
Kiều. Có ai đang ngồi trong thất niệm mà tự nhiên nắm lấy
hơi thở: ‘thở vào - tỉnh lặng’, thở ra - mỉm cười’,
rồi nhìn lại thấy sư chị mình đang ngồi một cách thân
ái bên mình không? Ngưòi đó là người có hạnh phúc. Phép
lạ này các sư cô và sư chú có thể thực hiện được bất
cứ giờ phút nào. Đừng sống với một con ma, hãy trở về
với hơi thở mầu nhiệm. Hãy tỉnh dậy để thấy rằng bên
mình đang có một sư chị rất ngọt ngào và vẫn thương mình
sâu sắc như ngày nào. Vì lâu nay mình đang chạy theo một
con ma nên không biết rằng sư chị luôn luôn có mặt đó.
Sư chị là ai? Đó là câu hỏi. Đừng nói sư chị không có
mặt đó; nói như vậy là oan lắm! Sư chị Giác Duyên luôn
luôn có mặt. ‘Thập phương Như Lai lân niệm chúng sanh như
mẫu ức tử.’ Sư chị luôn nghĩ đến mình nhưng mình lại
đi trốn sư chị, không tìm về với sư chị đó thôi. Hàng
ngày sống với một con ma, thì sư chị có cũng như không.
Phải tỉnh dậy mới gặp sư chị được! ‘Giật mình thoát
tỉnh giấc mai’ Luôn luôn hạnh phúc bắt đầu từ chỗ tỉnh
thức.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió
trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
Rất
hay! Hai chị em được đoàn tụ. ‘Một nhà chung chạ sớm
trưa.’ Buổi sớm có nhau, buổi trưa có nhau. Ở chung một
nhà, thấy được sự quý giá của nhau chứ không phải đi
ra đi vô gặp không nhìn, mà lại nhìn đi chỗ khác. ‘Một
nhà chung chạ sớm trưa’ là hạnh phúc lắm. Mình sống với
các sư chị và các sư anh của mình và có đủ hạnh phúc
để cho nhau. Mình đâu có cần nhiều điều kiện vật chất
để có hạnh phúc đâu! ‘Gió trăng mát mặt muối dưa chay
lòng.’ Đủ những thức ăn cho thân thể và tinh thần. Gió
trăng mát mặt là hạnh phúc khi mình được tiếp xúc với
những mầu nhiệm của thiên nhiên. Khi bị giam hãm trong khổ
đau thì gió có mát mình cũng không thấy mát, trăng có trong
mình cũng không thấy trong. Khi được thảnh thơi rồi thì
mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống
xung quanh và trong bản thân mình. Muối dưa chay lòng là chấp
nhận nếp sống đơn giản của nhà chùa. Chay lòng nghĩa là
lòng không còn nhuộm những màu sắc ngoài đời nữa. Không
đi kiếm những cái mà ngoài đời người ta cho là thiết yếu
cho hạnh phúc. Mình đã biết giá trị của những cái đó
quá rồi! Mình không đi tìm những chỗ ăn ngon, mặc đẹp,
vinh hoa phú quý, bằng cấp này, địa vị kia nữa. Từ bỏ
được rồi mình mới có thể sống một đời sống thanh bạch.
Muối dưa, nhưng rất hạnh phúc. Một bài thơ tôi làm tại
Phương Vân Am có câu: ‘Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng
vui.’ Có thanh tịnh, có an lạc thì mình mới thấy những
mầu nhiệm xung quanh mình:
Trăng sao vẫn đẹp đêm rằm
Bãi dương vẫn mướt sóng tùng vẫn xao
Lòng quê lòng vẫn khát khao
Hoa mai cứ nở đồi cao gọi mời
Tháng tư lá lục hoa cười
Cho trăng thêm tuổi, cho đồi thêm xuân
Vườn xanh cây mướp trổ bông
Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào
Chợ văn bán sách lầu cao
Muối
dưa đắp đổi hôm nào cũng vui.
Hồi
đó thầy trò bán sách (theo đường dây thép) để có tiền
mua muối mua dưa: ‘Chợ văn bán sách lầu cao, Muối dưa đắp
đổi hôm nào cũng vui.’ Cái vui của người xuất gia khác
với cái vui ở ngoài thế tục.
Hạnh
phúc luôn luôn đơn giản. Hạnh phúc không bao giờ quá rắc
rối. Ta có hạnh phúc không? Sư em, sư chị có hạnh phúc không?
Đó là câu hỏi: Những điều kiện của hạnh phúc đã có
đủ; chỉ có vấn đề là ta có khả năng sử dụng những
điều kiện hạnh phúc đó để sống hạnh phúc ngay trong giây
phút hiện tại hay không mà thôi. Ví dụ; gió trăng mát mặt.
Hồi hôm trăng đẹp lắm, không biết quý vị có thấy không?
Trăng đẹp, nhưng nếu tâm ta vẫn còn đi với một con ma thì
trăng có đó cũng như không. Gió mát, nhưng tâm ta không ở
đó t hì gió có coi như là không có. Muối dưa đáng lý làm
cho tâm hồn chúng ta ngày càng an tịnh thì chúng ta có thể
nói: ‘Tại sao sống cực khổ như vậy? Tại sao mà đọa
đày tấm thân ở cái chốn khỉ ho cò gáy này?’ Tất cả
đều do tâm mà ra hết. ‘Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời,
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.’ Đọc truyện Kiều,
chúng ta có thể không đọc như một tiểu thuyết mà đọc
như đọc Kinh. Chất liệu của tuệ giác được chứa đựng
trong này rất nhiều, được biểu hiện bằng những hình ảnh
thi ca rất đẹp.
Trong
truyền thống đạo Bụt, muốn có hạnh phúc thì phải sống
đơn giản. Thế giới hôm nay lâm vào tình trạng khổ đau
và bế tắc là vì người ta không thấy được hạnh phúc
trong nếp sống đơn giản. Nhiều bậc giác ngộ nói rằng
nẻo thoát cho thế giới ngày hôm nay là một nếp sống đơn
giản (a simple life style.) Nền văn minh hiện đại của chúng
ta đã đi vào ngõ bí. Nếu chúng ta cứ tiếp tục đi theo hướng
này thì chúng ta sẽ chết, nền văn minh này sẽ bị tiêu diệt.
Chỉ có một nẻo thoát thôi, là tìm về một nếp sống đơn
giản mà hạnh phúc. Bây giờ ai cũng nghĩ rằng phải có xe
hơi, tủ lạnh, trương mục, một số lương tối thiểu nào
đó, một bằng cấp và phải được công nhận thì mới có
hạnh phúc. Nếu chưa có những điều kiện đó thì mình vẫn
có cảm tưởng như mình bất lực, không phải là con người.
Vì vậy ai nấy đều đưa đầu vào guồng máy. Chỉ những
người rất khương kiện mới nói rằng hạnh phúc của tôi
không phải là đi về hướng đó, hạnh phúc của tôi là đi
về hướng khác. Chúng ta tìm về một nếp sống đơn giản,
có tự do và hạnh phúc. Muối dưa chay lòng có nghĩa là đã
buông bỏ những đua chen trong cuộc đời, chấp nhận rằng
chỉ có nếp sống đơn giản mới đem lại hạnh phúc thật
sự mà thôi. Những người ở thành phố phải trả thuế rất
nặng về nhà cửa và chức nghiệp (nhất là giới bác sĩ,
kỹ sư, thương gia.) Nhiều người tự tử vì thuế. Thuế
nặng quá, người ta phải chạy, không có thì giờ để thở,
để tiếp xúc với ánh trăng, với cơn gió thoảng. Muối dưa
chay lòng là một điều kiện quan trọng để ta có được
cái hạnh phúc của gió trăng mát mặt. Tám chữ này có thể
là nẻo thoát cho nền văn minh hiện đại. Ta có thể viết
tám chữ này treo trong thiền đường. Gió trăng mát mặt muối
dưa chay lòng. Thật đơn giản, giải pháp của đạo Bụt đối
với nền văn minh mới!
Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều
dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Đây
là tả cảnh chỗ hai sư cô ở nhưng cũng đồng thời nói
được tâm trạng thư thái, tự do của hai chị em. ‘Bốn
bề bát ngát mênh mông’ nghĩa là họ có tự do. Chúng ta nhớ
bài thiền tập:
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không
gian thênh thang.
Khi
sống có tự do và buông thả thì tự nhiên ta có ‘không gian
thênh thang.’ Quan trọng nhất là khi có ‘triều dâng hôm
sớm’ mà nghe được tiếng triều dâng. Mây lồng trước
sau: cảnh là một cái khung, mây được lồng vào cảnh đó.
Mây mong manh, đủ màu, đủ hình thái, rất đẹp. Tôi còn
nhớ một lần ở Ba Lan, trước khi đi giảng tôi có tới thăm
một họa sĩ. Họa sĩ không vẽ gì hết, chỉ vẽ mây thôi.
Hỏi tại sao, ông nói: ‘Thưa Thầy, tại vì chỉ có mây là
đáng vẽ thôi!’ Nếu ông vẽ mây mà có chánh niệm thì nhìn
vào mây ông có thể thấy tất cả mọi cái khác đều có
trong mây. Lúc đó ông sẽ không còn kỳ thị giữa mây và
không mây nữa. ‘Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau’
cũng là những mầu nhiệm của vũ trụ, nếu không thanh thản
thì ta cũng không tiếp xúc được. Trong đời sống ‘một
nhà chung chạ sớm trưa’ ta phải giúp nhau để cho những
người kia (sư chị, sư anh hay sư em của mình) tiếp xúc được
với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt hôm nay.
Mùa xuân, cây cối xanh tươi. Cứ mỗi vài ngày lại có một
loại hoa mới xuất hiện. Có những đám mây rất đẹp, những
cơn gió rất mát. Những cái đó ta làm sao tiếp xúc được
khi ta bị giam giữ trong sự tiếc thương quá khứ, lo lắng
bất định trong tương lai, khi ta quên đi giờ phút hiện tại.
Là những người thương nhau, ta phải giúp nhau ra khỏi tâm
trạng lo lắng, tiếc nuối, buồn phiền để có thể tiếp
xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giờ
phút hiện tại. Sự thực tập của chúng ta là sự thực tập
tiếp xúc. Nếu không tiếp xúc được với những mầu nhiệm
của hiện tại thì ta thực tập không được thành công. Thực
tập tiếp xúc được với những mầu nhiệm trong hiện tại
thì thời gian chúng ta ở lại đây là thời gian hạnh phúc
nhất trong đời và sau đó ta có thể tiếp tục sống hạnh
phúc ở bất cứ nơi nào.
Đọc
đoạn này, chúng ta thấy sư chị rất dễ thương và rất
thương sư em. Có thể sư chị có nhiều nhiệm vụ ở những
nơi khác nhưng cứu được sư em rồi thì hai chị em ở lại
đó. Chúng ta hãy nhìn lại xem thử chúng ta đã được như
Thúy Kiều và Giác Duyên lúc này hay chưa. Ta có thấy rằng
được sống với sư chị, sư em mình trong khung cảnh có trăng,
có gió, có mây, có trời là hạnh phúc hay không?
Trong
bản in của cụ Trần Trọng Kim thì đến đây thơ được
chấm câu và ngắt sang đoạn khác nhưng tôi thấy không nên,
phải đọc tiếp:
Nạn xưa trút sạch làu làu,
Duyên
xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Tất
cả những tai nạn vướng vào thân phận Thúy Kiều, làm cho
Thúy Kiều ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, đều được trút
sạch hoàn toàn. ‘Nạn xưa trút sạch làu làu.’ Sáu chữ
này nói về sự chuyển hóa hoàn toàn của Thúy Kiều. Từ
khi Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường, cái nghiệp quá
khứ của Kiều đã chấm dứt. Mỗi người chúng ta đều cso
sông Tiền Đường, chúng ta sẽ chấm dứt được tất cả
những khổ đau và tai nạn của mình. Chúng ta được sinh ra
lại trong một đời sống mới. Sông Tiền Đường đó có
thể là Xóm Thượng hay Xóm Hạ, New York City, Amsterdam hay Mineaplis…,
bất cứ ở đâu mà ta thấy rằng ta có thể chết được
trong đời sống khổ đau vương vấn và tái sinh lại trong
đời sống thanh thản, nhẹ nhàng. Mỗi người trong chúng ta
đều có một sông Tiền Đường. Vấn đề là chúng ta đã
tới được sông Tiền Đường đó hay chưa. ‘Nạn xưa trút
sạch làu làu.’ Không có câu thơ nào đẹp bằng! Đó là
sự giải thoát hoàn toàn. Đó là sự buông bỏ tất cả những
tai nạn, nghiệp chướng; nhờ mình chết được. Trong Thiền
chúng ta có danh từ ‘chết đi sống lại’ (tuyệt hậu tái
tô.) Nếu không chết đi sống lại thì chúng ta không sinh ra
được trong cõi Tịnh Độ; Tịnh Độ ngay trong giờ phút này.
Cô
nàng đã được giải thoát. Còn anh chàng thì sao? Đó là điều
chúng ta sẽ xét lại trong đoạn sắp tới. Bây giờ chúng
ta hãy đọc chung lại đoạn này:
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch làu làu,
Duyên
xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Thời
gian này (không biết rõ là được bao nhiêu tháng) là thời
gian rất hạnh phúc của hai chị em. Cả chị và em đều lớn
lên một cách rất mau. Tuy hai người rất thương yêu nhau,
lưu luyến nhau nhưng chị bây giờ đã biết dạy cho em và
em đang quyết tâm thực tập đàng hoàng theo chị. Thúy Kiều
sau đó chứng tỏ đã lớn lên vững mạnh và chuyển hóa lớn
lao. Điều đó không được nói tới trong sáu câu thơ này.
Nếu viết lại truyện Kiều thì chỗ này chúng ta phải viết
về chuyện thực tập của hai bên. Ngày xưa khi ở Am Chiêu
Ẩn sư chị không dạy cho sư em đàng hoàng. Khi lâm vào tình
trạng bối rối khổ đau thì sư em không biết cách giữ thân,
giữ tâm. Kỳ này thì khác. Đứng về phương diện tu tập
và kinh nghiệm thì Thúy Kiều, tức ni cô Trạc Tuyền, bây
giờ đã bước những bước rất dài. Kinh nghiệm khổ đau
rất nhiều và kinh nghiệm tu tập trong giờ phút chót đã có
đầy đủ. So với người con trai thì Thúy Kiều đã bước
những bước của người khổng lồ. Kim Trọng vẫn còn lẽo
đẽo đi trên con đường lận đận. Trên đường tâm linh,
Kim Trọng còn đi lọt phía sau một quãng khá dài. Điều này
chúng ta thấy rất rõ mỗi khi ở Làng Mai một, hai, ba năm
về gặp lại những người bạn cũ. Những người ngày xưa
cùng đi một đường với ta tại sao bây giờ vẫn chưa gỡ
được những sợi dây mà mình thấy rất dễ gỡ! Đây là
tâm trạng Thúy Kiều trong những câu thơ sau. Thúy Kiều đã
làm rất hay và làm một cách rất nhẹ nhàng, vô tướng để
giúp người con trai mình ngày xưa (người cũ, cố nhân.) Những
người mình đã có cảm tình ngày xưa, mình có bổn phận
phải độ họ thôi, mình phải độ cả những người khác.
Nhưng họ là những người năằ trong diện ưu tiên. Giống
như năm người bạn tu của Tất Đạt Đa. Cùng tu chung với
nhau, say này thấy Tất Đạt Đa uống sữa, ăn cháo, ăn yoyurt…
họ nghĩ ông này tụ hành không ra gì hết và bỏ đi. Nhưng
tình đồng đạo còn đó nên khi thành đạo rồi Bụt nghĩ
đến năm người và tìm tới vườn Nai độ họ. Chúng ta cũng
vậy. Đạt tới sự nhẹ nhàng rồi chúng ta phải đi tìm cha,
tìm mẹ, tìm anh chị em, tìm người cũ của mình để giúp
họ. Đó là chuyện rất thông thường. Rồi quý vị sẽ thấy
điều này là một điều rất dĩ nhiên.
--------------------------------------------------------------------------------
135 Kình ngạc: hai giống cá to dữ, chỉ quân lính hùng mạnh. Giáp binh: áo giáp và khí giới.
136 Tiếng la: tiếng thanh la, nhạc khí bằng đồng dùng để đánh.
137 Phượng liễn loan nghi: kiệu và các đồ nghi trượng có chạm, thêu hình chim loan, chim phượng.
138 Hoa quan: mũ có đính vàng ngọc, kim cương đẹp đẽ. Chấp chới: sáng lóng lánh. Hà y: áo đỏ tía như sắc ráng trời.
139 Trúc tơ: sáo và đàn, âm nhạc.
140 Bài: miếng gỗ vuông để viết chữ; hỏa: ý việc khẩn cấp, nóng như lửa. Hỏa bài tiền lộ: thẻ bài hỏa tốc cầm đi trước để báo tin cho nhân dân biết mà lo việc phục dịch hay dẹp đường cho quan quân đi.
141 Nam đình: triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra. Đại doanh: doanh trại lớn, chỗ đóng quân của Từ Hải.
142 Hàn vi: đói lạnh, chỉ lúc nghèo hèn, không có thế lực, khổ đau.
143 Nghiêm quân: chỉnh đốn hàng ngũ quân lính. Tuyển tướng: lựa chọn, sắp đặt các tướng.
144 Báo phục: báo trả lại; ân thì báo ân, oán thì báo oán. Chỉn ghê: rất đáng sợ.
145 Vệ cơ: các đơn vị quân đội ngày xưa. Thị lập: đứng hầu. Song phi: dàn ra làm hai hàng.
146 Bác đồng: mác và giáo. Tinh kỳ: cờ tinh, một loại cờ hiệu dùng trong quân ngày xưa.
147 Trướng hùm: do chữ hổ trướng: nơi làm việc của các tướng soái.
148 Tiên nghiêm: hồi trống đánh mở đầu để làm tăng vẻ trang nghiêm.
149 Cửa viên: do chữ viên môn: cửa dựng bằng càng xe. Thời xưa, vua đi tuần thú, săn bắn ở ngoài dựng ở đâu quây các cổ xe làm giậu, dừng càng xe làm cửa gọi là viên môn (viên: càng xe.)
150 Cho phu: cho bõ, cho đáng.
151 Sâm Thương: chỉ sự cách biệt, không được gặp nhau như sao Sâm và sao Thương. Theo Từ điển truyện Kiều của Trần Trọng Kim: ‘Sâm là sao Cày, mấy sao ở giữa chòm Orion, Thương là mấy sao sắc đỏ ở đuôi chòm sao Scopion mà ta gọi là sao Thần Nông. Trong vòm trời, hai vị sao ấy cách nhau gần 1800 cho nên hễ thấy được sao này mọc thì sao kia lặn, không thể nào cùng thấy trong một bầu trời (người ta vẫn hiểu lầm là sao Hôm và sao Mai) cho nên dùng để tỉ dụ sự cách biệt không gặp nhau được. Theo chú giải Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang: ‘Sao Sâm là chòm sao gồm bảy ngôi ở phía Tây, một trong nhị thập bát tú, màu đỏ da cam; sao Thương tức là chòm sao Tâm, gồm ba ngôi ở phía Đông, nằm trong nhị thập bát tú, màu đỏ lửa.
152 Hiến phù: dâng nộp những người tù binh bắt được, đây ý nói giải những người có tội tới.
153 Các tích: án tích kể những tội lỗi của người tù phạm. Phạm tù: người bị bắt làm tù vì phạm tội. Hậu tra: đợi để tra hỏi.
154 Tri quá: biết lỗi.
155 Ba quân: Tiền quân, trung quân và hậu quân; ý nói tất cả quân lính. Pháp trường: chỗ hành hình người có tội.
156 Thanh thiên bạch nhật: giữa trời xanh đang lúc ban ngày, ý nói rõ ràng, không giấu diếm ai.
157 Thiên tải nhất thì: nghìn năm mới có một lần, dịp hiếm có.
158 Bàn hoàn: quanh quẩn, quấn quít, vui vẻ với nhau.
159 Theo ghi chép của sư cô Chân Khong trong quyển Thử Tìm Dấu Chân Trên Cát: ‘Hồi đó chúng tôi thường tổ chức các đại nhạc hội để giúp các em cô nhi ở Việt Nam... Chúng tôi cũng cho ra tờ Le Lotus đặc biệt in trên giấy vàng để kêu gọi ngưòi đỡ đầu cho cô nhi chiến nạn... Hồi ấy tại khám Chí Hòa có ba trăm tăng sĩ tuyệt thực để gây áp lực trên Hòa Hội Paris; chúng tôi cũng được thầy phái đi các nước Hoa Kỳ, Đan Mạch, Ý Đại Lợi, Anh Cát Lợi, v.v... để vận động yểm trợ cho cuộc tuyệt thực này. Tôi còn nhớ tại Rome có ba trăm linh mục đi diễn hành, mỗi vị đeo trên ngực bảng tên của một tăng sĩ Việt Nam tại khám Chí Hòa. Tinh thần liên đới quả thật đẹp. Hedi Vaccara và mấy người bạn Ý của phái đoàn đã rất vất vả trong lần tổ chức cuộc diễn hành này.’
160 Quốc sĩ: người tài của đất nước
161 Kẻ Việt người Tần: kẻ ở nước Việt (phía Đông Nam), người ở nước Tần (phía Tây Bắc); ý nói mỗi người một nơi, cách biệt xa xôi.
162 Giá áo túi cơm: do chữ y giá phạn nang: cái giá mắc áo, cái túi đựng cơm, chỉ người vô dụng, không có chí hướng. Ý cả hai câu: gặp buổi loạn lạc thì mài gươm mà kiến tạo sự nghiệp, còn những hạng người tầm thường chỉ biết có ăn có mặt thì kể làm gì.
163 Cô quả: tiếng khiêm cung của các vua chúa nước nhỏ thời xưa (như người tu xưng là bần đạo: tôi tu đạo còn nghèo lắm.) Cô: như con mồ côi, không ai dạy bảo, giúp sức cho. Quả: tức là quả nhân, ý nói khiêm là người ít đức, nhờ quần thần giúp đỡ. Bá Vương chỉ chung cho cái thế lực hùng mạnh của người đứng đầu các nước chư hầu.
164 Kinh luân: lấy từng mối tơ mà gỡ ra gọi là kinh, so từng sợi tơ cùng một loại mà kết thành con gọi là luân; sửa sang sắp đặt việc chính trị gọi là kinh luân.
165 Đẩy xe: chữ Hán là thôi cốc. Theo Hán Thư, ngày xưa khi một viên tướng vâng chỉ vua đi đánh giặc, vua tiễn ra cửa thành và lấy tay đẩy xe của viên tướng, tỏ ý vua ủy thác công việc quan trọng. Vâng chỉ: vâng theo chiếu chỉ của vua. Đặc sai: phái đi làm nhiệm vụ dặc biệt.
166 Tiện nghi: có quyền quyết định tại chỗ, tùy theo sự nghi mà làm, không cần phải hỏi ý kiến vua. Sách Quả Sự Loại kể chuyện đời Tống có một viên tri phủ xứ Hà Bắc tên là Vân Ngạn Bát xin với vua cho ông ta có thể tùy tiện giải quyết việc cấp tốc tại chỗ các vấn đề quân sự, khỏi phải bất cứ việc gì cũng gửi sứ về hỏi ý kiến vua; vua chấp nhận. Bát tiễu: dẹp giặc, đánh giặc – có bản ghi là phủ tiễu: dẫn dụ cho bên kia quy hàng rồi phong chức (phủ), nếu họ không nghe thì mới đánh (tiểu). Đổng nhung: trông coi, đốc suất việc quân.
167 Chiêu an: kêu gọi, chiêu dụ hàng giặc để đặt lại an ninh.
168 Hồ đồ: Không rõ ràng trong đầu. Từ Hải còn nghi ngờ lắm.
169 Bể Sở sông Ngô: Sở, Ngô là tên hai nước thời Xuân Thu, nay thuộc miền đông nam Trung Quốc, là địa bàn hoạt động của Từ Hải
170 Bình thành: địa bình thiên thành là chữ sách Kinh thư: Làm cho thủy thổ được điều hòa gọi là địa bình; khiến cho ngũ hành (thủy, hỏa, kim, mộc, thổ) theo thứ tự mà ổn định gọi là thiên thành. Đó là lời nói công đức trị nước lụt của vua Vũ. Đây ý nói công đức to lớn của vua lo sửa sang việc nước, ra ơn cho dân.
117 Vô Định là tên một con sông ở Thiểm Tây. Thơ của Trần Đào đời Đường có câu: ‘Khả lân Vô Định hà biên cốt’ = khá thương thay cho đống xương ở bến sông Vô Định (xương của người chết vì chiến tranh.)
172 Thế công: thế mạnh chủ động tiến đánh. Thế hàng: thế yếu phải đầu hàng.
173 Thúc giáp: bỏ áo giáp lại, tức là bỏ các đồ binh khí. Giải binh: giải tán quân đội
174 Thành hạ yêu minh: hai bên đến dưới thành (thành hạ) để giao ước hòa với nhau.
175 Vương sư: quân của nhà vua.
176 Nàn: tai nạn.
177 Bách chiến: trăm trận đánh, ý nói dạn dày chốn trận mạc.
178 Phu quý phụ vinh: chồng làm nên quan sang, vợ cũng được vinh hiển.
179 Thiên thổ: chỗ đất hèn hạ, chỗ đất xấu. Một đôi (cũng đọc là một doi): một dải đất nhỏ ở rìa cửa sông hoặc dọc sông.
180 Hạ công: mừng công thắng trận.
181 Tiểu Lân: họ Phùng, hiệu Tục Mệnh, vợ vua nước Tề. Sau khi nước Tề thua nước Chu, Tiểu Lân bị bắt về Chu. Chu Vũ Đế gả nàng cho người khác. Nhân lúc ngồi đàn, dây đàn đứt, nàng xúc cảm làm thơ, có câu: ‘Dục tri tâm đoạn tuyệt, Ưng khán tất thượng huyền’ = Muốn biết lòng tôi dứt nát như thế nào thì nhìn dây đàn trên đầu gối này.
182 Hồng quần: người đàn bà (ngày xưa mặc quần đỏ.)
183 Gốc phần: chỉ quê nhà.
184 Cửa bồng: cửa thuyền (bồng: thuyền nan to.)
185 Âm cực dưong hồi: khí âm đã cùng cực thì khí dương lại về, đó là đạo tuần hoàn; ở đây dùng với ý gợi cho biết vận bĩ của Kiều đến đây là cùng cực và vận thái sắp đến.
186 Học trò thì có Tứ Thư, Ngũ Kinh; thầy tu thì có níp đựng Kinh Kim Cương.
187 Hàn Dũ là một ông quan, tâu lên vua để vua bạc đãi tăng đồ; Tần Thủy Hoàng nghe lời các quan đốt hết Tứ Thư, Ngũ Kinh và giết các nhà Nho. Nhà sư và nhà Nho luôn nhớ đến Pháp nạn và Giáo nạn của họ.
188 Cỗi phúc: gốc của phúc đức.
189 Thành ngữ Việt Nam.
190 Câu này lấy ý thơ Đỗ Phủ: Ngư long tịch mịch thụ giang lãnh vắng tanh thị: Rồng cá lặng lẽ sông thu lạnh. Cho nên vắng tanh là đúng.
191 Túc khiên: nợ nần trong quá khứ.
192 Thú; chỗ ở, nơi tới.