7. LỤC ĐỘ TẬP KINH VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

01 Tháng Giêng 201615:30(Xem: 4097)
Lê Mạnh Thát
TỔNG TẬP 
VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẬP 1 
Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2000

PHẦN II
KHƯƠNG TĂNG HỘI

7. LỤC ĐỘ TẬP KINH VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM 

Khi viết lịch sử văn học Việt Nam, có một bộ phận văn học bao gồm truyện thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ thường được xếp vào loại văn học dân gian hay truyền khẩu và được trình bày mô tả theo lối xếp loại ấy. Do thế, đã không có một nỗ lực tìm hiểu nghiêm túc thời điểm xuất hiện hay lưu hành một số các truyện hay câu của bộ phận ấy để có thể nghiên cứu một cách có căn cứ lịch sử phát triển của văn học Việt Nam. Thiếu sót này bây giờ Lục độ tập kinh có thể giúp chúng ta điều chỉnh lại một phần nào. 

Trong số 91 truyện của nó, có một truyện liên hệ với truyền thuyết trăm trứng của dân tộc ta mà chúng tôi đã cho nghiên cứu thành một chuyên luận, đó là Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên dân tộc ta[6]. Còn lại như vậy là 56 truyện, tức các truyện 25, 37, 41, 45, 49. Các truyện này thống nhất hoàn toàn hoặc một phần với một số “truyện cổ tích” do Nguyễn Đổng Chi tổng hợp lại trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam [7], đó là các truyện 9, 13, 48, 144, 162, 166. 

Truyện 25 kể một nhà giàu đi chợ, thấy bán ba ba bèn mua thả. Ba ba đền ơn, báo cho biết sắp có lụt lớn nên chuẩn bị thuyền bè. Quả có lụt, bèn lên thuyền. Gặp rắn chồn bị trôi, ông vớt lên. Sau gặp người ông cũng vớt. Chồng đem vàng trả ơn. Ông đem bố thí. Người được bố thí đến đòi chia một nửa, ông không chịu, nó đi thưa quan. Ông bị bắt. Rắn đến cứu bằng cách đi cắn thái tử và cho ông thuốc thể chữa. Ông được tha và làm tướng quốc. 

Truyện cổ tích 48 kể chuyện một anh nhà nghèo có lòng thương người, đi câu kiếm ăn, ba lần câu được một con rắn nước, muốn giết. Rắn xin tha. Rắn đền ơn báo cho anh biết sắp có lụt lớn. Quả có lụt. Anh lên bè, gặp tổ kiến, rắn lục và anh đã vớt, rồi chuột, trăn. Nhưng đến khi gặp người, rắn cản bảo đừng vớt, nhưng anh vẫn vớt và đưa về sống với anh. Xong rắn mời anh xuống thủy phủ chơi và được cho cây đàn thất huyền chống giặc. Người kia ăn cắp đàn và được phong làm đại tướng khi hắn sắp cưới công chúa thì bỗng dưng công chúa bị câm. Anh gặp nó, nó liền bắt giam. Kiến đến thăm anh, đi gọi chuột, chuột tìm trăn. Trăn cho anh viên ngọc chữa lành bệnh câm của công chúa. Anh được làm quan và lấy công chúa. 

Tuy có cải biên đôi chút với việc thêm thắt một số tình tiết và nhân vật, truyện 48 về cơ bản thống nhất với truyện 25 của Lục độ tập kinh. Thời điểm lưu hành, nếu không phải là xuất hiện của nó phải rơi vào thế kỷ thứ II sdl, chứ không thể chậm hơn. 

Truyện 37 kể có người đi buôn đến một đảo quốc, lấy vợ quỉ. Sau có người báo, bèn nhờ ngựa thần vượt về quê. Vợ quỉ đuổi theo, kiện vua. Vua thấy đẹp, lấy làm vợ. Quỉ đi ăn thịt người, sau chết, sinh làm con gái đẹp một phạm chí. Có tỳ kheo đòi lấy cô ta, đức Phật la, bảo nó từng ăn thịt dân. 

Truyện cổ tích 166 kể một phú hộ có bốn cô con gái đòi lấy hoàng tử. Họ ra đi, bị yêu tinh bắt, nhưng thoát được và đến kinh thành làm vợ hoàng tử. Yêu tinh bèn biến con gái mình thành một giai nhân tuyệt thế, Hoàng tử thấy mê bèn đuổi bốn cô kia đi. Trên đường đi về nhà, họ bị nó theo móc mắt, Bụt hiện ra cứu, sau con cô út lớn lên diệt được yêu tinh. 

Hai truyện 37 và 166, dù cơ bản không thống nhất với nhau, như truyện 25 và 48 ở trên, nhưng cốt lõi vẫn tương đồng, đó là yêu tinh vì mất mồi, đã biến thành gái đẹp mê hoặc vua hay hoàng tử. Truyện 166, do thế, hẳn là một cải biên của truyện 37. Đặc biệt, khi ta biết rằng truyện 37 này có liên hệ với truyện 9 và 39 của Lục độ tập kinh và các truyện Catudvàrajàtaka và Mittavindajàtaka của văn học bản sinh Phạn văn và Pàli là những truyện có kể tới bốn thành bạc, vàng thủy tinh, lưu ly và bốn, tám, mười sáu và ba mươi hai cô gái đẹp. Điều này giải thích tại sao truyện 166 có bốn cô gái. 

Truyện 41 của Lục độ tập kinh và truyện cổ tích 13 cũng chỉ có nét tương đồng, như hai truyện vừa bàn. Truyện 41 kể có ông vua tên A Quần ăn thịt người bị đuổi đi, bèn vào rừng ở và đi bắt người. Một hôm, vua Phổ Minh đi kinh lý bị A Quần bắt, xin trở về nghe kinh, rồi đến nộp mạng. A Quần đồng ý. Phổ Minh đến nộp mạng. Quần ngạc nhiên, hỏi bài kinh. Nghe xong, Quần giác ngộ... 

Truyện 13 “Sự tích cá he” kể một vị sư đi Tây Trúc tìm Phật. Trên đường, gặp mẹ con Ác Lai chuyên ăn thịt người, sư thuyết pháp. Ác Lai giác ngộ, móc tim mình gởi sư dâng Phật. Sư không làm tròn, nên bị đày làm cá he. 

Giống như truyện sự tích cá he với truyện 41, truyện 9 “Sự tích chim đa đa” và truyện 144 “Sự tích con dế” có dáng dấp xuất hiện từ truyện 45 của Lục độ tập kinh. Truyện 45 kể có một người nhà giàu không con để nối dõi. Đi đường nhặt được một đứa bé, đem về mấy tháng thì vợ ông có thai. Ông bèn đem bỏ ngoài đường xe đi. Người đánh xe lượm được, một bà lão xin, ông lại đến chuộc. Được mấy năm, sợ nó hơn con mình đẻ, bèn đem vào rừng để trong bụi tre. Người tiều phu mang về nuôi. Ông lại đến chuộc. Về cho ăn học, nó quá giỏi. Ông muốn giết, bèn viết một lá thư bảo người thợ rèn giết và sai nó cầm đi. Giữa đường gặp em nó, em nó tranh đi, thế là em nó chết. Ông lại nhờ một người giữ kho giết. Trên đường đi, nó ghé vào thăm nhà một người bạn cha mình. Con gái người bạn này lấy thư tráo đi, bảo người giữ kho chuẩn bị hôn lễ cưới cô gái ấy. Thế là nó được vợ trở về. Ông nhà giàu tức uất mà chết. 

Truyện 9 “Sự tích chim đa đa” cải biên tình tiết bỏ con vào trong rừng, đưa thêm nhân vật bố ghẻ. Lần thứ nhất, nhờ mấy đứa đào khoai mài, nó về nhà được. Lần sau, nó chết, biến thành chim đa đa. Còn truyện 144 “Sự tích con dế” đưa vào nhân vật dì ghẻ sai con mình giết con chồng. Em không giết anh, lại cho anh tiền và nói âm mưu của mẹ mình. Người anh đi lang thang thì mẹ anh hiện về, giúp đèn sách. Sau gặp nàng Ngọc Châu, thành vợ chồng, anh thi đổ, vinh qúi. Người dì ghẻ sợ vỡ mật chết hóa thành con dế. Truyện 144 rõ ràng tương đương với đoạn sau về việc người thợ rèn và người giữ kho giết và lấy được vợ của truyện 45. 

Truyện 49 kể một nhà tu cứu con quạ, rắn và người thợ săn rớt hang. Sau quạ đền ơn bằng ngọc minh nguyệt lấy của hoàng hậu. Nhà tu đem cho thợ săn, thợ săn đi tố, nhà tu bị bắt. Rắn đến cứu, cho nhà tu thuốc chữa, rồi đi cắn thái tử. Nhà tu cứu sống thái tử, được chia nửa nước, vẫn không nhận, trở về rừng. 

Truyện cổ tích 162 kể một anh quân tử tha tội chết cho chuột, chồn và ruồi. Sau vua kén phò mã, chồn chỉ cho anh vàng để làm lễ sánh hỏi, ruồi chỉ cho anh mâm để ngồi và chuột chỉ cho anh buồng để vào gặp công chúa. Anh lấy được công chúa và sau lên làm vua. 

Rõ ràng có cải biên, nhưng cốt lõi hai truyện 49 và 162 vẫn cơ bản thống nhất với nhau. Có thể truyện 162 có tham khảo truyện 25 của Lục độ tập kinh nên đã đưa tình tiết chồn cho vàng. Lối tham khảo nhiều truyện khác nhau, thậm chí từ nhiều nguồn khác nhau, để tạo nên những truyện mới, không phải là không xảy ra. Chẳng hạn, truyện 167 “Sự tích thần sông Kỳ cùng” hẳn đã tiếp theo truyền thuyết hai trứng nở ra con người của A tỳ đạt ma đại tỳ ba sa luận 120 ĐTK 1545 tờ 626c24-27 cùng với các truyện sự tích ấy là một thí dụ điển hình. Công tác truy tìm những dạng truyện này đòi hỏi nhiều thời gian và phương tiện, nên xin hẹn một dịp khác. 

Đến đây, qua phân tích năm truyện tương đương trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận. Thứ nhất, có những truyền thuyết ta tưởng chúng không bao giờ truy ra nguồn gốc và thời điểm xuất hiện hay lưu hành, bây giờ có thể tìm lại được, mà quan trọng nhất là truyền thuyết trăm trứng của lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, thông qua Lục độ tập kinh. Thứ hai, nền văn học dân tộc ta không phải bắt đầu với Trần Nhân Tông và Nguyễn Trãi, hay Khuông Việt và Từ Đạo Hạnh, hay ngay cả Đại Thừa Đăng, hay Lý Miễu, Đạo Cao, Pháp Minh. Nền văn học thành văn của dân tộc ta phải bắt đầu với bài Việt ca, cụm truyện thần thoại và truyện cổ tích đầu tiên hiện tìm thấy trong Lục độ tập kinh và Cựu tạp thí dụ kinh, mà năm truyện phân tích trên là những thí dụ. 

Thứ ba, cụm truyện này, có truyện có những tình tiết có nguồn gốc Việt Nam, cho dù toàn bộ truyện không xuất phát từ Việt Nam. Chẳng hạn, truyện 25, khi chồn đem vàng đến đền ơn người “hiền” cứu mạng, nó phải xác nhận vàng đó lấy từ “hang” của nó, chứ không phải từ mồ mả, không phải là của dân, không phải của ăn cướp, không phải của ăn trộm. Sau đó, người hiền bị tố là “quật mộ cướp vàng” và bị bắt. Việc chôn người chết có bỏ theo vàng ngọc là một tục lệ đặc biệt Trung Quốc, chứ không là Ấn Độ và việc quật mộ trộm vàng là một tội bị chém đem bỏ chợ. Như Sứu thần ký của Can Bảo đã ghi và Lưu Chiêu dẫn trong Hậu Hán thư 27 tờ 5b11-13, nhân vụ Thái Trọng quật mộ Lý Nga để “trộm vàng báu” vào năm 199. Tục lệ chôn cất và luật lệ bảo vệ mồ mả ấy chắc chắn cũng phổ biến ở nước ta vào thời Lục độ tập kinh ra đời, nên ta mới thấy có một xác nhận khá minh bạch về nguồn gốc số vàng trên. 

Thứ tư, thời điểm xuất hiện và lưu hành của cụm truyện ấy, nếu không sớm thì cũng không thể muộn hơn thế kỷ thứ II sdl. Từ đó, nghiên cứu chúng, chúng ta có thể biết được ít nhiều về nền văn hiến điển chương của dân tộc ta, trong đó có cả pháp luật và điển huấn, chứ không chỉ văn học và lịch sử. Cụ thể là các điều khoản của bộ Việt luật về vấn đề chôn cất mồ mả và hôn nhân. 

Thứ năm, nhờ Lục độ tập kinh, quá trình hình thành và phát triển kho tàng truyện thần thoại và cổ tích Việt Nam đang một phần nào được nghiên cứu một cách có căn cứ về mặt thời gian lịch sử cũng như về mặt cơ cấu nội dung. Nó sẽ giúp khôi phục lại diện mạo văn học dân tộc ta cách đây hai nghìn năm. Và chúng ta không còn bàn cãi một cách tùy tiện không cơ sở về một nền văn học “dân gian” chung chung phi thời gian, phi lịch sử. Những đóng góp của Lục độ tập kinh do thế, tuy ít ỏi, nhưng thật quí giá và đáng trân trọng. 

8. TỔNG KẾT 

Từ những phân tích trên, ta có thể rút ra mấy kết luận sơ bộ sau: 

1. Lục độ tập kinh hiện nay là một dịch phẩm của Khương Tăng Hội từ một nguyên bản Lục độ tập kinh tiếng Việt. Sự kiện này giải thích cho thấy tại sao có hiện tượng “văn từ điển nhã”, mà Thang Dụng Đồng đã nhận ra, và bác bỏ kết luận mà Thang Dung Đồng đã đi tới, đó là Lục độ tập kinh có thể là một tác phẩm do Khương Tăng Hội viết. 

2. Vì xuất phát từ một nguyên bản tiếng Việt, nên Lục độ tập kinh mới chứa đựng một lượng lớn những cấu trúc câu văn không theo ngữ pháp tiếng Trung Quốc, mà theo ngữ pháp tiếng Việt. Số lượng những câu văn này cung cấp cho ta một lượng lớn thông tin để phác thảo lại diện mạo tiếng Việt cách đây gần 2.000 năm mà cho đến nay, ngoài bài Việt ca, ta không có một tín hiệu nào cả. Đây phải nói là những đóng góp vô giá, mà Lục độ tập kinh mang lại cho dân tộc ta nói chung, và các ngành văn học và ngữ học nói riêng. 

3. Cũng vì xuất phát từ một nguyên bản tiếng Việt, nên Lục độ tập kinh ngày nay đã cho ta thấy những luồng tư tưởng nào đã chi phối dân tộc ta, những vấn đề gì đã làm cho họ suy tư trăn trở vào thời điểm Lục độ tập kinh ra đời. Từ đó, ta nhận ra một loạt những chủ đề, mà qua suốt lịch sử dân tộc đã trở thành cốt lõi của truyền thống văn hóa tư tưởng và chính trị Việt Nam. Về mặt này, Lục độ tập kinh có những cống hiến thật khởi sắc và đáng suy gẫm. 

4. Hệ tư tưởng Phật giáo truyền dạy thông qua Lục độ tập kinh là bao gồm những gì tinh túy nhất, cốt lõi nhất và tích cực nhất của toàn bộ hệ thống giáo lý Phật giáo nguyên thủy, nêu mẫu người lý tưởng gồm hai phẩm chất chính yếu là tình thương và trí tuệ làm điển hình cho cuộc sống nội tâm và xã hội của người Phật tử, kiến tạo một quan hệ gắn bó chặt chẽ keo sơn giữa Phật giáo và dân tộc, từ đó thiết định vai trò và nhiệm vụ của Phật giáo trong quan hệ ấy. 

5. Thêm vào đó, Lục độ tập kinh chứa đựng một lượng lớn thông tin về nhiều mặt của đời sống vật chất cũng như tinh thần của xã hội người Việt Nam vào giai đoạn nó xuất hiện. Từ những kiến thức hết sức chính xác của các khoa học thực nghiệm như khẳng định thai nhi ở trong bụng mẹ 266 ngày cho đến các phong tục tập quán kiểu liệm người chết bỏ vàng bạc ngũ cốc vào miệng hay ngứa nách, máy mắt v.v... từ việc lấy cây chuối làm hình nộm cho đến chuyện đem chuột nướng bán làm thịt, nó cung cấp cho ta nhiều dữ kiện để nghiên cứu lịch sử khoa học kỹ thuật Việt Nam cùng truyền thống văn hóa dân tộc. 

Lục độ tập kinh đã được dịch ra tiếng Nhật, tiếng Pháp từ lâu. Và những mẫu chuyện do nó cung cấp đã lưu hành rộng rãi trong sinh hoạt văn học và tôn giáo nước ta. Nhưng cho đến nay, với những đóng góp to lớn vừa nêu, Lục độ tập kinh vẫn chưa có một bản tiếng Việt hoàn chỉnh và đầy đủ. Đây là một thiếu sót lớn. Việc công bố bản dịch cùng với bản nghiên cứu trên là để điều chỉnh lại sự thiếu sót ấy. Cũng mong từ bản dịch này cùng những gợi ý của bản nghiên cứu vừa nêu sẽ xuất hiện một cao trào tìm hiểu về dân tộc và truyền thống tư tưởng văn hóa dân tộc, đặc biệt trong giai đoạn lịch sử có những cuộc đọ sức đầy cam go khốc liệt, nhưng rất hào hùng và hoành tráng, như giai đoạn mà Lục độ tập kinh ra đời. Có tìm hiểu mới thấy đất nước ta đã trãi qua những thử thách ghê gớm như thế nào, và tổ tiên ta đã vượt lên và chiến thắng những thử thách ấy với bản lĩnh và sức mạnh gì. Có thấy được những điều ấy, ta mới nhận ra trên cơ sở nào dân tộc ta đã chiến thắng, và từ bệ phóng nào dân tộc ta đã vút lên để xây dựng thành công một nước Việt Nam như ta có hôm nay. Từ đó thấy rõ hơn vị thế và trách nhiệm của bản thân mỗi chúng ta trước những thách đố hiện nay của thời đại, thời đại của cuộc cách mạng dân chủ mới, của khoa học kỹ thuật hậu công nghiệp, của sự nghiệp thực hiện thắng lợi lý tưởng “nước giàu dân mạnh” của Lục độ tập kinh. Việc tìm hiểu quá khứ thực tế và để nhận rõ khả năng nội lực của mình, nhằm lượng định tình hình khách quan hiện tại mà tiến tới, biến hoài bảo ước mơ của từng cá nhân và dân tộc thành hiện thực, thành những lực lượng vật chất cụ thể, đáp ứng yêu cầu kiến tạo một đất nước phồn vinh, một xã hội an lạc. Ước mơ và nguyện vọng của Lục độ tập kinh đến nay sao vẫn gần gũi, thân thiết với chúng ta, những người sống sau gần 2.000 năm.


[1]Muốn hiểu thêm những nghĩa khác nhau của chữ “hiếu” từ Lễ ký, Châu lễ, Luận ngữ cho đến Dĩ nhã, Hiếu kinh câu mạng quyết v.v… xem Biện chính luận 7 ĐTK 2110 tờ 542a 23-b 14.

[2]Truyện này tương đương với truyện Lạc Long Quân giết rồng trong Lĩnh Nam chích quái. Vấn đề xuất xứ truyện này chưa giải quyết được dứt khoát, nghĩa là ta hiện chưa xác định rõ truyện 70 xuất xứ từ truyện Lạc Long Quân giết rồng hay ngược lại. Trần Thế Pháp đã chép lại truyện 70 lưu hành trong dân gian với những cải biên cần thiết như việc đưa Lạc Long Quân thành nhân vật chính.

[3]Lê Mạnh Thát, Toàn Nhật Thiền sư toàn tập I, Tp. Hồ Chí Minh: Viện Phật học Vạn Hạnh, 1979.

[4]Lê Mạnh Thát, Vấn đề kế thừa văn hóa dân tộc nơi Nguyễn Trãi, trong Nguyễn Trãi, Tp. Hồ Chí Minh: Viện Khoa học xã hội tại Tp Hồ Chí Minh, 1980, tr. 249-260.

[5]Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, Huế: NXB Thuận Hóa, 1999, tr. 420.

[6]Lê Mạnh Thát, Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Sài Gòn: Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1972.

[7]Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam I-V, Hà Nội: NXB Văn Học, 1957.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn