Tưởng Nhớ Thiền Sư Thiều Chửu, Nhân Vesak 2008 - Có Một Vị Bồ Tát Thật Trên Đời - Nguyễn Hải Hoành

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9803)


TƯỞNG NHỚ THIỀN SƯ THIỀU CHỬU, NHÂN VESAK 2008

Có một vị Bồ Tát thật trên đời
Nguyễn Hải Hoành

Học giả Vũ Khiêu đánh giá Thiều Chửu là một con người chân chính, một nhà trí thức lớn của dân tộc. Một người sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn vì lý tưởng

Triết lý đạo Phật cho rằng bất cứ sinh vật nào biết tu tập thì cũng có thể thành Phật, tức bậc giác ngộ. Xin mở ngoặc là thiền sư Thích Nhất Hạnh không dùng từ Phật mà dùng “Bụt” – một cái tên rất Việt Nam; và ông dùng từ “đạo Bụt”. 

Dân ta quen gọi những người lành như đất mà lại hay giúp kẻ khác là Bụt; và gọi những người có lòng vị tha trời biển là Bồ Tát”. Bồ Tát là từ Hán Việt gọi tắt của từ gốc chữ Phạn Bodhisattva – ghép bởi bodhi (enlightenment: giác ngộ) và sattva (essence: bản chất; thể tồn tại trừu tượng). Theo nhà Phật học Edward Conze, Bồ Tát là vị Phật (Bụt) có ba đặc điểm: khao khát đạt được sự giác ngộ hoàn toàn; giàu lòng từ bi và trí tuệ; gần gũi những người thường và có các suy nghĩ, cảm xúc như họ.1 

Với cách hiểu như trên, có thể suy ra trên thế gian từng có và sẽ có không ít vị Bụt - Bồ Tát thực, chỉ có điều thiên hạ không nhận ra hoặc biết quá ít về họ – vì họ là Bồ Tát mà! 

Cây chổi lau” Thiều Chửu 

Và nước ta nửa đầu thế kỷ XX từng có một người hội đủ ba đặc điểm nói trên, một vị Đại Bồ Tát bằng xương bằng thịt hiện thực giữa cõi đời, như lời thiền sư Lê Mạnh Thát2. Tuy đã đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng di sản văn hóa vô giá ngót trăm tác phẩm ông để lại sẽ làm cho con người ấy sống mãi. Ông cũng hãy còn một học trò là ni sư Thích Đàm Ánh, 85 tuổi, hiện trụ trì chùa Phụng Thánh (Khâm Thiên, Hà Nội). 

Vị Bụt - Bồ Tát ấy là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), quê xóm Cam Đường, làng Trung Tự, phường Đông Tác (nay là tổ dân phố 81, phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Giới phật tử biết ông dưới bút danh Thiều Chửu – “cái chổi lau” ông nguyện dùng để quét sạch bụi bặm trong lòng mình và mọi thứ rác rưởi trên đời – một cái tên thật giàu ý nghĩa! 

Cư sĩ thuộc đời thứ XIV của dòng họ Nguyễn Đông Tác có mặt tại thành Thăng Long từ cuối thế kỷ XV. Tổ ba đời của ông là tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795-1868), nhà văn hóa nổi tiếng. Cha ông là cử nhân Nguyễn Hữu Cầu (1879-1946), đồng sáng lập viên phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, từng bị đày ra Côn Đảo nhiều năm vì tội chống Pháp, một đại sĩ phu, như cách gọi của học giả Nguyễn Văn Tố3. Anh ruột ông là nhà sư phạm mẫu mực Nguyễn Hữu Tảo (1900-1966). 

Với truyền thống gia tộc như vậy, tại sao Nguyễn Hữu Kha lại chọn con đường làm một cư sĩ Phật giáo dâng cả đời mình cho lý tưởng phụng sự đồng bào? Ta bỗng nhớ tới một câu các phật tử thường nhắc lại: Có một người sinh ra trên thế gian này là vì hạnh phúc của muôn người...4 

Hữu Kha bẩm sinh đa sầu đa cảm lại lớn lên dưới ảnh hưởng sâu sắc của bà nội giàu lòng nhân ái và người cha say sưa hoạt động yêu nước chống Pháp. Ông kể về tuổi thơ của mình: Nhà nghèo quá, chị em tôi 7-8 tuổi đã phải chăn bò cắt cỏ, gánh nước, thổi cơm nấu cám, 10 tuổi tát nước, 12 tuổi cày bừa. Năm tôi 13 tuổi, bố bị giặc Pháp bắt, được hai tháng thì mẹ sinh con thứ 8. Đẻ được 3 ngày mẹ đã phải đi làm đồng. Tôi suốt ngày đứng rình ở cổng nhà pha (tức Hỏa Lò) Hà Nội, hễ thấy bố bị giải sang tòa án thì chạy theo, bị lũ mật thám đánh rất đau. Tôi căm thù tủi nhục nhưng thân hèn biết làm gì? Đọc truyện ông Gia Phú Nhĩ (Garibaldi) thấy ông nói với bạn làm mối vợ cho mình rằng “Ý Đại Lợi là vợ, Ý Đại Lợi là con”, từ đó tôi nảy ra ý muốn học ông ở điểm đó... Sau đấy tôi không hề nghĩ tới cái đời riêng của tôi nữa. Người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, họ chưa biết nỗi uẩn khúc của tôi từ thuở còn thơ dại.4 

Lời thề cứu khổ, cứu người 

Năm sau, Hữu Kha tụng kinh siêu độ trong lễ tang bà nội, khi đọc đến câu Phật nói “Nhân dân là cha mẹ bao đời của ta, ta phải hiếu kính cúng dàng; muôn vật đều có tính Phật, cũng bình đẳng với ta; ta phải làm cho mọi người đều bình đẳng” cậu bé vô cùng xúc động, thề suốt đời theo Phật để cứu khổ cho muôn người. Quyết tâm ấy càng mạnh hơn sau khi Hữu Kha mục kích cảnh nhục nhã mẹ ông vì cần vay tiền để làm vốn cho ông đi bán hàng rong mà phải lễ lạt cho lý trưởng bảo lãnh và chầu chực như kẻ ăn mày: Tôi thề rằng đời tôi hễ ai thiếu thốn muốn nhờ tôi thì dù họ chưa hé miệng, tôi đã vâng. Tôi còn một bát gạo mà ai đói hơn tôi cũng nhường ngay, thà tôi chịu nhịn4. Hữu Kha một mình xuống Đồ Sơn bán thuốc Nam và bánh kẹo kiếm sống. Vì tin người nên mất hết vốn, ông phải làm phu kéo thuyền, đẩy xe, thậm chí đi ăn xin. Trong hai năm cực nhục ấy, ông ngày một thêm tin yêu triết lý cứu khổ, cứu người của đạo Phật. 

Cuối năm 1920, cụ Cử Cầu từ Côn Đảo về, Hữu Kha giúp cha mở hiệu thuốc Lợi Nhân Đường ở Ngã Tư Sở. Hiệu đông khách nhưng tình thương người bởi thương thân kia đã sâu lắm nên tôi chỉ giấu giếm bố giúp đỡ người nghèo, vì thế 3 năm trời hai bố con chỉ đủ ăn chẳng thừa đồng nào4. Bù lại, ông học được nghề thuốc Nam và trở thành vị lương y suốt đời chữa bệnh không công. Ông lấy hiệu Tịnh Liễu (tịnh: trong sạch, liễu: hiểu biết), bắt đầu nghiên cứu đạo Phật. 

Tịnh Liễu đi nhiều chùa tham thiền vấn đạo, gặp các vị chân tu nổi tiếng như hòa thượng Thích Thanh Hanh ở Lạng Giang, hòa thượng Thích Thanh Thuyền ở Nam Định, cư sĩ Lê Đình Thám ở Huế... Qua chuyến đi này, ông nhận ra xu hướng suy tàn của Phật giáo: Khi đi sâu vào nhà chùa, tôi thấy sự tổ chức ở chùa không đúng một chút nào với lời Phật dạy; trái lại hoàn toàn dập theo khuôn khổ phong kiến chia giai cấp rất khắc nghiệt, hưởng thụ xa xỉ, bỏ mất hẳn cái tinh thần trọng lao động, không theo quy chế “Một ngày không làm một ngày nhịn ăn” của Tổ Bách Trượng. Lại còn dùng thuật mê tín vẽ ra đàn tràng cúng bái, đục khoét nhân dân để sống một đời nhàn rỗi. Vì thế tôi nhất định không theo chế độ đó; cho tới ngày nay tôi cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi. Hơn nữa, nếu có dịp, tôi sẽ đánh đổ cái chế độ mục nát ấy. Sau đó tôi theo đuổi việc chấn hưng Phật giáo4. Chắc đây là lý do Nguyễn Hữu Kha không vào chùa làm sư, mà chỉ làm cư sĩ tu tại gia, suốt đời vừa lao động kiếm sống vừa hoằng dương Phật pháp; không vợ con, trường trai mà mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng giờ Ngọ, quanh năm mặc nâu sồng, đi guốc mộc tự đẽo lấy, đêm nằm trên tấm phản kê dưới nền nhà, không màn, mùa rét đắp chiếc chăn sợi mỏng. 

Học giả “lạc khổ” 

Năm 26 tuổi, Nguyễn Hữu Kha lấy bút danh Lạc Khổ (“Vui trong cảnh khổ”), bắt đầu dịch kinh Phật ra quốc ngữ – vì ông thấy kinh người ta tụng toàn là kinh chữ Hán nên họ chẳng hiểu gì. Dịch kinh thực sự là việc cực kỳ khó nhọc, phải giỏi cả Hán học, Phật học, nhưng ông quyết làm với suy nghĩ: Vì kém tinh thần tự lập cho nên ta cứ vùi đầu với kinh chữ Hán, ít người dám dịch kinh sang tiếng ta. Kinh chữ Phạn dịch ra chữ Hán được, thì dịch ra chữ ta cũng được chứ sao! Chữ quốc ngữ của ta rất dễ phổ biến, dịch âm lại đúng hơn chữ Hán5. Tuyển tập 16 kinh cơ bản do Thiều Chửu dịch được Nhà Xuất bản Tôn Giáo in lại năm 2002 là một ghi nhận cố gắng ấy. 

Nhờ cần cù tự học, lao động chân tay và trí óc, nên việc gì ông cũng giỏi, tháo vát, miệng nói tay làm. Năm 1932, ông tự in tác phẩm của mình là bản dịch Kinh Vô Thường; rồi dùng bút danh Thiều Chửu in Khóa Hư Kinh dịch nghĩa – bản dịch ra quốc ngữ tác phẩm Khóa Hư Lục nổi tiếng của Trần Thái Tông. Học giả Nguyễn Lang (tức Thích Nhất Hạnh) nhận xét: Thiều Chửu là một cây bút rất vững chãi và sâu sắc; căn bản Hán văn của ông rất vững; văn Khóa Hư là văn biền ngẫu rất khó dịch nhưng bản dịch của ông rất đặc sắc, đọc êm tai, nghĩa lý khá rõ ràng6. 

Thiều Chửu chưa ngày nào được đi học. Bà nội dạy ông chữ Hán và quốc ngữ; sau đó chỉ nhờ dày công tự học mà ông sớm tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh, 30 tuổi đã thạo ngoại ngữ Pháp, Anh, và đặc biệt giỏi Hán học, Phật học. Ông dùng thuốc Nam chữa khỏi bệnh cho nhiều người và viết loạt bài Bà Lang Nhà rất lý thú đăng nhiều kỳ trên báo Đuốc Tuệ. Ni sư Đàm Ánh có câu cửa miệng “Chẳng ai giỏi bằng thầy tôi” và hay kể: ông đỡ đẻ mát tay đến mức nhiều gia đình đến nhờ trước hàng tháng. Việc viết sách báo mang lại thu nhập cao nhưng ông sống rất khổ hạnh, bao nhiêu tiền kiếm được đều đem nuôi trẻ mồ côi, giúp người nghèo khổ. Thời gian tản cư kháng chiến, ông dẫn đầu phá rừng trồng khoai sắn nuôi sống cả trại Tế Sinh của mình. Có thời kỳ 40 người mỗi bữa chỉ có 4 bơ gạo nấu với lá rau khoai lang thế mà ông kiên quyết trả lại mấy lạng vàng (tiền xuất bản tác phẩm của ông) do thượng tọa Tố Liên từ Hà Nội gửi ra4. 

Chấn hưng Phật giáo 

Thiều Chửu cộng tác với các phật tử chân chính trong việc theo đuổi lý tưởng chấn hưng Phật giáo nước nhà. Năm 1933, sa môn Thích Trí Hải từ Hà Nam lên Hà Nội vận động thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã đến ngay hiệu Hòa Ký bàn việc với Nguyễn Hữu Kha. Hồi ký của hòa thượng Thích Trí Hải kể: Hai người chúng tôi vừa gặp nhau mà tưởng như đã quen nhau từ bao đời… Cuối năm 1933, hàn thử biểu ở Hà Nội xuống tới 7-8oC mà tôi và ông Kha chỉ đắp chung một cái chăn sợi Nam Định mỏng nằm trên chiếc chiếu trải trên nền nhà phố Sinh Từ. Hai ông góp công lớn trong việc sáng lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ (1934). Nhưng khi được mời vào Ban Trị sự hội thì Thiều Chửu lại do dự vì thấy ban có mấy quan lại chính quyền. Sau cùng ông nhận lời với ý nghĩ có thể lợi dụng hội này để thực hành cái chí đánh đổ chế độ thối nát của nhà chùa4. Ông kiến nghị hội lập nhà in; hội đồng ý và giao ông quản lý nhà in Đuốc Tuệ; ông đem máy in của mình vào đây làm việc. Thiều Chửu là một trong hai cây bút viết nhiều nhất trên cơ quan ngôn luận của hội là báo Đuốc Tuệ, nhằm tuyên truyền Phật giáo Nhân gian, phê phán tệ mê tín dị đoan trong hoạt động Phật sự. Biết ông liêm khiết, hội giao ông phụ trách tài chính của Ban Hưng công chùa Quán Sứ (1938-1942); qua đó ông có đóng góp lớn cho công trình này. 

Tác phẩm cuối cùng Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX xuất bản năm 1952 – cuốn sách viết bằng máu và nước mắt như lời học giả Vũ Tuấn Sán2, thể hiện quan điểm của một phật tử chân chính, tiên tiến, yêu nước, kiên quyết vạch mặt một số tăng sĩ vùng địch chiếm mưu mô thần bí hóa đạo Phật, qua đó làm nhụt tinh thần kháng chiến của dân tộc. 

Từ khi biết thuốc Nam, Thiều Chửu chưa bao giờ từ chối lời mời đi chữa bệnh cho bất kỳ ai nhờ vả. Năm 1936, ông cùng bà Cả Mọc (tức Hoàng Thị Uyển, chị ông Hoàng Đạo Thúy) đồng sáng lập Hội Tế Sinh và làm tổng thư ký của hội. Hoạt động quên mình cứu người của ông khi đi cứu giúp nạn nhân trận lụt năm Đinh Sửu, lập trại nuôi trẻ mồ côi, trại nuôi người già nghèo, nhất là hoạt động phát chẩn trong nạn đói 1945... đã mang lại cho ông uy tín rất cao trong xã hội. Chính vì chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào, cả đời không ăn ngon mặc đẹp, không ai có gia đình riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin lắm. Rất nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có. Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Ngoài việc góp sức cho cơ quan cứu tế, tôi cùng cụ Cả Mọc còn vận động đi lấy tiền lấy áo; rồi tôi cùng ông Hoàng Đạo Thúy, ông Trần Duy Hưng hằng ngày đem thuốc, tiền, quần áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến khi họ sống được. Khắp hai huyện Quế Dương, Lang Tài, không còn sót mấy nhà mà chúng tôi không tới hàng bốn năm lượt, ròng rã ba tháng như thế cho đến lúc lúa chín.4 Phải chăng vì thế mà Hồ Chủ tịch từng mời ông làm bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội trong Chính phủ Cách mạng lâm thời 1945? (nhưng ông khước từ với lý do để tiếp tục làm Phật sự)3. 

Sau ngót 30 năm cầm bút, Thiều Chửu để lại 96 tác phẩm viết và dịch đã xuất bản2; đầu tiên là Phép nuôi con (1926). Nổi tiếng nhất có Tự điển Hán Việt xuất bản năm 1942, sau đó em gái ông tái bản hai lần ở Sài Gòn năm 1952 và 1954; tới nay đã in hàng chục lần, là một trong vài sách cùng loại được hoan nghênh nhất Những người Việt học Hán văn không thể không cúi đầu tri ân công trình văn hóa bất hủ này (lời thiền sư Lê Mạnh Thát)2. Năm 2003 một nhóm Việt kiều Pháp biên soạn lại thành Tự điển Hán Việt Thiều Chửu điện tử và phổ biến trên www.viethoc.org. 

Bi kịch của một trí thức 

Học giả Vũ Khiêu đánh giá Thiều Chửu là một con người chân chính, một nhà trí thức lớn của dân tộc và tặng ông câu đối Nửa kiếp trầm luân, bác cổ thông kim, lòng bốn bể; Trăm năm phù thế, cứu dân báo quốc, phép muôn đời. Học giả Vũ Tuấn Sán nhận định ông là một hiện tượng khá đặc biệt trong giới trí thức ở thế kỷ XX, một người sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn vì lý tưởng. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tuấn (Viện Nghiên cứu Tôn giáo Việt Nam) coi Thiều Chửu là nhân vật Phật giáo xuất chúng thế kỷ XX. Đại đức Thích Đồng Bổn ca ngợi ông là bậc Nho sĩ, Đại sĩ, Chí sĩ, rạng danh Tiết sĩ. Sách “Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX” tập I viết: Thiều Chửu là một phật tử xứng đáng tiêu biểu cho hàng cư sĩ trong đạo Phật có công lớn trong lịch sử chấn hưng Phật giáo miền Bắc.2 

Tiếc thay, do sai lầm của đội cải cách ruộng đất ấp Đồng Tâm, xã Đồng Liên, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (nơi ông và đoàn Tế Sinh tạm trú), vị Bụt - Bồ Tát ấy bị quy là “địa chủ” và bị đội xỉa xói mắng nhiếc luôn ba bốn giờ, vu cho đủ các tội ác, dùng những lời nói rất khinh bỉ hà khắc, chỉ khác với đấu tố là (tôi) chưa phải quỳ thôi.4 Một tháng sau, mờ sáng ngày 15-7-1954 tức 16-6 Giáp Ngọ (một ngày sau giỗ cụ Cử Cầu và 5 ngày trước hôm ký Hiệp định Geneva), Thiều Chửu kín đáo tự giải thoát đời mình trên sông Cầu chỗ đập Thác Huống. Cái chết “Thiên cổ kỳ oan”, vì nước vì dân, chỉ có Bồ Tát mới làm được ấy (lời thiền sư Lê Mạnh Thát)2 đã gây ra nỗi chấn động và tiếc thương vô hạn trong dân chúng địa phương và giới phật tử cả nước. Ít lâu sau, đội cải cách hạ thành phần ông xuống “trung nông”; nhưng ở cái thời kỳ ngạt thở “Nhất đội nhì trời”, vụ tự vẫn kinh hoàng đó đã bị lợi dụng để phủ bóng đen lên quá khứ sáng ngời của ông. Tới đầu thế kỷ XXI vẫn có người tránh nhắc đến cái tên Thiều Chửu! 

Ni sư Đàm Ánh kể ông có dặn đừng vớt xác mình, nhưng các hậu duệ và học trò không ai nỡ làm thế. Sau hòa bình lập lại, họ rước hài cốt ông về Hà Nội, cuối cùng an táng tại nghĩa trang Thanh Tước (số mộ 170-C3). Tháng 6-2002, các hậu duệ ông cùng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và tạp chí Tia Sáng đã tổ chức “Sinh hoạt lịch sử tưởng niệm 100 năm sinh nhà văn hóa Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha” tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. 

Trước khi về với tổ tiên, Thiều Chửu thức trắng đêm viết thư tuyệt mệnh gửi Hồ Chủ tịch, thư dặn dò các học trò phấn đấu theo kháng chiến chống Pháp đến cùng và viết lời kết bản Tự Bạch (cũng gửi Hồ Chủ tịch) như sau: “Cái án “mạc tu hữu” (tức vu cáo, ông viết chữ Nho) mà ông Nhạc Phi phải chịu đời phong kiến còn có lẽ; ai ngờ đời nay chính bản thân tôi lại bị, thì tôi còn biết van vỉ làm sao được nữa”. 

Nguyễn Hải Hoành
(http://www.nld.com.vn/tintuc/chinh-tri-xa-hoi/224348.asp)

Ghi chú: Các đoạn in nghiêng đều là trích nguyên văn; tác giả gạch dưới câu cần chú ý. 

Tài liệu tham khảo: (1) Edward Conze: Lược sử Phật giáo, NXB Tổng hợp TPHCM; (2) Nguyễn Đại Đồng: Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, NXB Tôn giáo, Hà Nội 2008; (3) Chương Thâu và Hồ Anh Hải: Nguyễn Hữu Cầu, chí sĩ yêu nước Đông Kinh Nghĩa Thục, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội 2007; (4) Tự Bạch của Thiều Chửu, xem tài liệu tham khảo 1; (5) Thiều Chửu: Lời tựa bản dịch kinh A Di Đà; (6) Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1994; (7) Thiều Chửu: Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX, NXB Tôn giáo, Hà Nội 2002; (8) Thiều Chửu: Phật học vấn đáp, Nhà in Đuốc Tuệ, Hà Nội 1946; (9) Collected famous quotes from A. Einstein. http://rescomp.stanford.edu. (10) Trò chuyện với Trịnh Xuân Thuận, Tạp chí Tia Sáng và NXB Trẻ, 2001.
 
 

05-11-2008 12:23:46

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn