Phần 2 - Lịch Sử Truyền Thừa

15 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12914)


HỘI THẢO KHOA HOC

300 NĂM PHẬT GIÁO
GIA ĐỊNH - SÀI GÒN - TP HỒ CHÍ MINH
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2002

Phần 2 - Lịch sử truyền thừa

Điểm lại một số nét về sắc thái 

Phật giáo Nam Bộ nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh
Hòa thượng Thích Hiển Pháp 

Nhìn một cách tổng thể, xuyên suốt 200 năm lưu truyền, có thể nói, giai đoạn thế kỷ XVII là giai đoạn mà con thuyền Phật giáo (PG) Việt Nam bị bấp bênh, tròng trành trên dòng trôi lịch sử. Nếu thu hẹp ở Nam Bộ hay nhỏ hơn là Gia Định-Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh, thì PG đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển, tạo nên một sắc thái đặc thù trong tổng thể văn hóa nước nhà. Tiến trình phát triển này được khơi nguồn từ thuở mảnh đất hiếu sinh hiếu hòa, vốn là Vương quốc cổ Phù Nam (VăhNăh) từ thế kỷ thứ VI về trước, chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Ấn Độ, kết hợp với nền văn hóa bản địa tạo thành văn hóa Khơme - Ấn. Cho đến khi văn minh nhân loại phát triển, trái đất như thu hẹp lại thì nơi đây là điểm hẹn của các luồng tư tưởng kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo trên thế giới. Chính sự dung hóa này mà PG cũng đã phát sinh nhiều phong thái đặc thù, đa dạng trong suốt tiến trình hội nhập và phát triển. 

Trong lĩnh vực tôn giáo nói chung, hơn nơi nào hết, Nam Bộ là nơi hội tụ nhiều tôn giáo, giáo phái nhất: PG, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tứ ân hiếu nghĩa, Bửu sơn kỳ hương, đạo dừa, đạo nằm... 

Đối với PG nói riêng, cũng không có nơi nào có nhiều tông phái, hệ phái như nơi này: PG Bắc tông, Nam tông người Khơme, Nam tông người Việt, Khất sĩ, Hoa tông... Sau đây, ta thử tìm hiểu khái lược tiến trình du nhập và hội nhập của các tông phái này qua những thăng trầm lịch sử tại đất Nam bộ. 

I. PHẬT GIÁO BẮC TÔNG 

PG Bắc tông hay PG Đại thừa (Mahayana) là tông phái chủ đạo của PG Việt Nam, chiếm khoảng 80% trong cả nước. 

Có người cho rằng, PG Đại thừa đã truyền vào Nam Bộ khoảng thế kỷ thứ IX và rất thịnh hành trong những năm từ 1181 đến 1218 (1), nhưng đó là những sự kiện của một tiến trình đứt gãy mà ngày nay chưa có đủ cứ liệu để xem xét tường tận. Trong thực tế lịch sử, PG Đại thừa truyền vào Nam bộ có thể bằng hai con đường đáng tin cậy sau đây: 

1. Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) đã gả Công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Cheichetta II. Từ đây sự bang giao giữa hai quốc gia Việt - Miên được thiết lập. Dân chúng hai bên cũng dễ dàng qua lại. Năm 1625, triều đình Angkor chính thức nhận 40 ngàn hộ dân của nước Việt sang sinh sống. Các Tăng sĩ PG ắt hẳn cũng có mặt trong làn sóng di dân này để truyền giáo nơi vùng đất mới. 

2. Năm 1679, khi nhà Thanh khuynh loát nhà Minh ở Trung Hoa, hai tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài) đã cùng ba ngàn người vượt biên trên 50 chiến thuyền xuôi Nam tỵ nạn, được chúa Nguyễn chấp thuận và lập tức lệnh cho vào định cư sinh sống ở Nông Nại (Đồng Nai), Gia Định-Sài Gòn, Vũng Cù (Định Tường - Mỹ Tho) v.v.. và dĩ nhiên các Thiền sư cũng đã có mặt trong các đoàn này để gieo mầm giác ngộ. 

Cho dù PG truyền vào Nam Bộ bằng hai con đường trên, hay bằng con đường nào khác, thì sự thật vẫn là, hình bóng vị Tăng sĩ có mặt rất sớm ở đất Nam Bộ, sớm hơn cả cuộc kinh lược của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào mùa xuân năm 1698. 

Vị thiền sư được sách sử công nhận Sơ tổ của đất Nam bộ là Thiền sư Bổn Kiểu (Bổn Khao?) khai sơn chùa Long Thiền (nay tọa lạc tại số K2/3B ấp Tân Bình, phường Bửu Hòa, TP. Biên Hòa-Đồng Nai) vào năm 1664. Rồi từ đó những ngôi chùa liên tiếp được mọc lên như: chùa Đại Giác (ấp Nhị Hòa, xã Hòa Hiệp, tỉnh Đồng Nai), chùa Bửu Phong (ấp Bửu Long, xã Tân Bửu, tỉnh Đồng Nai). Từ đây PG lan tỏa xuống các vùng lân cận như Sông Bé với chùa Hội Khánh (1741), Long Hưng (cuối thế kỷ XVIII). Gia Định với chùa Phước Tường (1741), Hội Sơn (...), Giác Lâm (1744), Từ Ân (1752), Khải Tường, Kim Chương... Hầu hết các chùa đều do các Thiền sư dòng Lâm Tế khai sơn. 

Trong buổi đầu hội nhập, PG Đại thừa sinh hoạt chưa có hệ thống tổ chức rõ rệt. Các sinh hoạt Phật sự chủ yếu mang tính “nội tự”. Những Phật sự lớn hơn thì “sơn môn” đứng ra tổ chức như giỗ tổ, dạy nghi lễ, dạy kinh-luật-luận bằng chữ Nho (chữ quốc ngữ lúc này chưa được phổ cập). 

Vào khoảng thập niên 1850, khi những làn thuốc súng của thực dân phương Tây ngạt tỏa trên nền trời Việt Nam, tình hình xã hội trở nên rối ren, con đường phát triển của PG cũng u ám. 

Đến đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phong trào chấn hưng PG ở Á châu, nhất là PG Trung Hoa, được Đại sư Thái Hư chủ xướng, PG Việt Nam cũng nhờ đây mà được khởi sắc chấn hưng. Đứng đầu phong trào này là Hòa thượng (HT) Khánh Hòa. Trợ lý cho HT có sư Thiện Chiếu. Chính sư Thiện Chiếu đã ra Hà Nội vào năm 1927 mang chương trình chấn hưng PG Trung Hoa vào Nam Việt áp dụng. HT Khánh Hòa bằng chương trình này, đã đi vận động hầu hết các chùa ở Nam bộ gấp rút mở trường Phật học đào tạo Tăng tài. Thế là lớp Phật học ngắn hạn được ra đời mang tên “Phật học Liên xã” được tổ chức lưu động ở các chùa: Long Phước (Trà Ôn), LongPhước (Trà Vinh), Viên Giác (Bến Tre)... Số lượng tăng sinh theo học lên đến cả trăm vị. 

II. PHẬT GIÁO NAM TÔNG 

Nói đến PG Nam tông, chúng ta cần phân biệt rõ hai hệ phái khác nhau là hệ phái Nam tông người Khmer và hệ phái Nam tông người Việt. 

1. Hệ phái Nam tông người Khơme 

Cho đến nay, các nhà dân tộc học và nhân chủng học, qua nghiên cứu đã xác định: tộc người Khơme có nguồn gốc từ người Phù Nam (Văh năh) từ thế kỷ VI trở về trước. Từ thế kỷ VII trở đi, sắc tộc này đã bị người Chen La (Chân Lạp hay Campuchia) thôn tính và đồng hóa suốt hơn 10 thế kỷ. Đến thế kỷ XVII thì khu vực này thuộc về lãnh địa Việt Nam và đương nhiên tộc người này cũng đứng trong cộng đồng Việt tộc. 

Người dân tộc Văh Năh chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, kinh tế, chính trị, đặc biệt là tôn giáo của Ấn Độ, từ những thế kỷ trước hoặc đầu công nguyên do các đoàn thương buôn sang làm ăn. Họ thường mời các tăng sĩ Ấn Độ cùng theo để cầu nguyện cho việc làm ăn, hoặc tổ chức các lễ cầu an. Các tăng sĩ đã mang theo kinh sách, chữ nghĩa và các văn hóa phẩm đến đây cùng với các đoàn thương buôn, được dân bản xứ đón nhận nồng nhiệt và tôn làm thầy. Thế là bóng dáng của giáo sĩ Bà La Môn cũng như các thiền sư PG bắt đầu thấp thoáng trên mảnh đất miền Nam lịch sử này, đặc biệt tập trung tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. 

Ở buổi đầu, Bà La Môn giáo là tôn giáo chủ đạo. Tuy nhiên trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ Bà La Môn chỉ gần gũi nơi chốn triều đình, vua chúa, quí tộc... nên mất dần ảnh hưởng ở quần chúng. Trong khi đó, đạo Phật thì luôn gắn chặt với nhân dân, nên ngày càng phát triển cả chiều sâu và chiều rộng. Đến thế kỷ XIII thì Bà La Môn giáo hầu như triệt diệt. PG trở thành tôn giáo độc tôn trong lòng người Khơme. Từ đây, vị sư trở thành nhân vật quan trọng trong nhiều mặt, ngôi chùa cũng hiển nhiên là trung tâm văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, thậm chí là nơi chu toàn cho cả sự sống lẫn sự chết của dân bản làng, phum/sóc. 

HT Thích Dương Nhơn, đại diện cho PG Nam tông Khơme dự Đại hội đại biểu Thống nhất PG Việt Nam (1-7/11/1981) tại thủ đô Hà Nội, đã phát biểu: “PG Nam tông chiếm độc tôn trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa trong dân tộc Khơme trải qua nhiều thế kỷ. Đặc điểm của dân tộc Khơme là gắn liền với PG không tách ra được, vì các vị sư đến chùa tu đều là con em của đồng bào dân tộc. Chùa Phật là nơi tu hành của các vị sư sãi, là nơi làm lễ của đồng bào, là nơi giáo dục, đào tạo con em của đồng bào dân tộc, là trung tâm văn hóa, đồng thời cũng là nơi thờ phượng những người thân của đồng bào dân tộc khi an nghỉ cuối cùng” (2). 

Về tổ chức, mỗi tỉnh đều có hội đồng kỷ luật sư sãi (Sa La Kôn). Hội đồng này được điều hành bởi vị sãi cả gọi là Mê Kôn. Đứng đầu các huyện có Anu Kôn. Ở khu vực gồm nhiều xã có Vpacchea. Ở chùa có vị trụ trì trông coi, hướng dẫn dạy dỗ tín đồ Phật tử. Hiện nay Tăng sĩ Nam tông có hơn 10.000 vị, đặc biệt không có nữ tu. Các sư Nam tông không ăn chay, sống hạnh khất thực theo pháp “Tam tịnh nhục”. Đường hướng giáo dục của PG Nam tông Khơme hiện nay có chiều hướng phát triển rõ rệt, các lớp Phật học Pàli các cấp được mọc lên như: cao cấp Phật học Pàli ở Sóc Trăng, trung cấp ở Trà Vinh, sơ cấp ở Kiên Giang. Số tăng sinh theo học ba lớp này hiện có trên 3.000 vị. 

2. Phật giáo Nam tông người Việt 

Hệ phái PG Nam tông người Việt xuất hiện tương đối muộn màng so với dòng lịch sử PG 2000 năm. Có điều thú vị đáng nói là PG Nam tông có mặt ở Nam bộ từ trước hoặc đầu Tây lịch, khi nơi đây còn là nước Phù Nam, điều đó cũng có nghĩa là PG Nam tông có cùng thời hoặc sớm hơn PG Bắc tông có mặt ở Giao Châu (Việt Nam). Nhưng người Việt được giác ngộ tư tưởng PG Nam tông không phải từ miền Tây Nam bộ mà là một lân bang - Campuchia. Nói khác hơn, người Phật tử Việt Nam sang Campuchia học đạo ; sau đó hồi hương, xuất gia và truyền đạo. Thủy tổ của PG Nam tông người Việt là bác sĩ Lê Văn Giảng, sau này xuất gia mang đạo hiệu Hộ Tông. “1935 có một người bạn của ông Hiểu làm bác sĩ thú y từ Campuchia về dưỡng bệnh tại nhà ông Hiểu là ông Lê Văn Giảng, ông Hiểu đã mang sách Phật bằng tiếng Pháp cho (ông Lê Văn Giảng) xem và khuyên nên về Campuchia tìm thầy học đạo. Sau ba năm nghiên cứu Phật pháp, ông Lê Văn Giảng quyết định xuất gia làm Tỳ kheo có pháp danh là Hộ Tông. Cả hai cùng cam kết là một người làm cư sĩ (ông Hiểu) lo phần cất chùa, hộ tăng, còn Tỳ kheo Hộ Tông lo việc khai Phật Pháp” (3). 

Năm 1938 - năm Tỳ kheo Hộ Tông xuất gia - cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu cùng với hai cư sĩ là ông Văn Công Hương và Nguyễn Văn Quyến tìm đất xây chùa cho Tỳ kheo Hộ Tông tu hành. Thấy vậy, gia đình ông Bùi Ngươn Hứa phát tâm cúng một lô đất tại Gò Dưa - Thủ Đức. Thế là một ngôi chùa Nam tông được mọc lên trên vùng đất này. Năm sau - năm 1939, đức vua Sãi Chuon Nath cùng phái đoàn 30 vị Tỳ kheo từ Campuchia sang làm lễ kiết giới Sìma và đặt tên chùa là Ratanaramyarama (Bửu Quang tự). Đây là ngôi chùa đầu tiên và Tỳ kheo Hộ tông là tăng sĩ đầu tiên của PG Nam tông người Việt. 

Năm 1957, chính quyền Sài Gòn chấp thuận cho PG Nam tông người Việt thành lập một Giáo hội mang tên Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. HT Bửu Chơn được suy tôn lên ngôi Tăng thống. Trụ sở Trung ương đặt tại chùa Kỳ Viên (610 Nguyễn Đình Chiểu, Q.3 ngày nay). 

III. HỆ PHÁI KHẤT SĨ 

PG Nam tông người Việt xuất hiện được một thời gian thì hệ phái khất sĩ ra đời. Người sáng lập là sư trưởng Minh Đăng Quang. 

Sư trưởng Minh Đăng Quang, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh ngày 26-9 Quý Hợi (1923) tại Vĩnh Long. Sau 4 năm học đạo ở Campuchia, năm 21 tuổi (1944), sư xuất gia và hành đạo tại quê hương, sau đó qua Thất Sơn và Hà Tiên truyền giáo. Ngài tu hạnh “Khất sĩ”, sống đời du tăng. Bằng sự thâu hóa và sáng tạo, Ngài đã dung hợp hai hệ tư tưởng PG Nam tông và Bắc tông để gọi là tông phái thuần Việt như chúng ta đã biết : đạo Phật Khất sĩ Việt Nam. Trong phương thức truyền giáo, kinh điển của hệ phái được cô đọng trong bộ Chơn lý ; ngoài ra còn có một vài tác phẩm biên soạn bằng Việt ngữ, đặc biệt sáng tác văn thơ, phương thức này tương đối mới lạ, dễ hấp dẫn chúng dân Nam Bộ. 

Về tổ chức, tăng sĩ hệ phái được tu học dưới sự hướng dẫn của sư trưởng Minh Đăng Quang. Đến ngày 1 tháng 2 Giáp Ngọ (1954), Sư trưởng bị ngoại đạo bắt đi và vắng bóng (đến ngày nay). Từ đó hàng hậu duệ mới tiến đến việc thành lập các giáo đoàn. Đến đầu thập niên 1960 thì hệ phái hình thành được 5 giáo đoàn trên hai miền Trung và Nam của đất nước. 

Ngày 22 tháng 4 năm 1966, hệ phái Khất sĩ đã mở một hội nghị để thành lập một tổ chức bề thế hơn có tên Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam. Bản điều lệ được hình thành gồm 32 điều. HT Thích Giác Nhiên được suy cử lên ngôi Tổng Trị sự trưởng. Năm 1973 vào ngày 4 tháng 9, giáo phái tiến hành đại hội tại tịnh xá Trung Tâm, hệ thống tổ chức được phân làm hai viện: Viện Chỉ đạo và Viện Hành đạo. Bản điều lệ được chỉnh lý thành 26 điều. Đại hội ngày 17 tháng 6 năm 1975, bản điều lệ được tu chỉnh thành 6 chương 27 điều. Đây cũng là đại hội cuối cùng của Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, trước khi gia nhập vào Giáo hội đương đại. 

Hiện nay, hệ phái Khất sĩ có khoảng 2.000 Tăng, Ni và hơn 500 ngôi tịnh xá. 

IV. PHẬT GIÁO HOA TÔNG

Hiện nay, người Hoa có khoảng gần 1 triệu dân trên cả nước, TP. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 50%, tập trung chủ yếu ở các quận 5, 6, 11 và rải rác ở một số quận, huyện. Người Hoa tại Việt Nam chiếm khoảng 80% là tín đồ đạo Phật. PG Hoa tông, do đó cũng được xem là một hệ phái có vị trí quan trọng trong cộng đồng Giáo hội PG Việt Nam. 

Như chúng ta đã biết, vào cuối thế kỷ XVII, nhà nước Trung Hoa có sự đảo chánh, một số tướng lãnh và dân chúng nhà Minh không thần phục nhà Thanh nên bỏ nước ra đi. Họ trôi giạt xuống Nam Việt Nam, được chúa Nguyễn cho định cư. Họ ổn định cuộc sống ở đây và xem như đây là quê hương thứ hai của họ. Số người Hoa tập trung rải rác khắp nơi, nhưng nhiều nhất là khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn, Đồng Nai, Mỹ Tho, Hà Tiên... Riêng khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn (Q.5), số Hoa kiều có đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo tương đối rõ nét. Khu vực quận 5 cũng được xem là trung tâm trên mọi lĩnh vực của Hoa kiều tại thành phố, kể cả vấn đề tôn giáo. 

Những ngôi tự viện ban đầu là do hội Ngũ bang (5 nhóm người: Triều Châu, Quảng Đông, Phước Kiến, Hải Nam, Hẹ) đứng ra xây cất như chùa Ông Nghĩa An, chùa Bà Tuệ Thành, chùa Ông Bổn, Quan Âm miếu v.v.. thực tế khi mới thành lập, những cơ sở này được gọi là hội quán, dùng vào việc hội họp, đình đám, bàn việc làm ăn v.v.. Vấn đề sinh hoạt tín ngưỡng chỉ là một phần thôi. Về sau các Tăng sĩ từ Trung Hoa sang, chưa có tự viện nên tạm dừng chân tại các hội quán này. Qua thời gian, chúng biến thành chùa, từ đó trở thành nơi tín ngưỡng thuần túy, làm tiền đề cho việc phát triển PG Hoa tông sau này. Khi các hội quán được cải thành chùa thì xu hướng phát triển PG bắt đầu manh nha, tăng sĩ Hoa tông số lượng cũng tăng lên.

Từ đó, các bậc tôn túc người Hoa mới tính đến việc thành lập các ngôi tự viện để mở mang PG. Chùa Nam Phổ Đà, đường Hùng Vương, quận 6, được hai HT Thống Lương và Thanh Thuyền xây dựng vào năm 1945, được xem là ngôi chùa đầu tiên do các Tăng sĩ Hoa kiều tạo dựng. Rồi những năm tiếp theo, các ngôi chùa Hoa lần lượt mọc lên như chùa Quan Âm Trụ Trúc Lâm (Q.11) do HT Lương Giác xây năm 1951, chùa Hoa Nghiêm (Q.Bình Thạnh) do HT Thọ Dã xây năm 1952, Từ Ân thiền tự (Q.11) do HT Hoằng Tu xây năm 1955, chùa Vạn Phật (Văn phòng Ban Đại diện PG quận 5 hiện nay) do HT Diệu Hoa và HT Đức Bổn xây năm 1959, chùa Thảo Đường (Q.6) do HT Diệu Nguyên xây năm 1960... 

Năm 1968, HT Siêu Trần từ Đài Loan sang, nhận thấy tiềm năng phát triển của PG Hoa tông tại Việt Nam, Ngài đã cùng HT Thanh Thuyền đi vận động để thành lập Giáo hội. Đến năm 1973, tại Đại hội ngày 20 tháng 5, hệ phái thống nhất lấy tên Giáo hội PG Hoa tông Việt Nam, trụ sở đặt tại số 195, lầu 4, đường Nguyễn Tri Phương - quận 5. Thành phần Ban Chấp hành Trung ương được suy cử gồm: Cố vấn Ban chấp hành: HT Hoằng Tu; Chủ tịch: Pháp sư Siêu Trần; Phó chủ tịch: Pháp sư Thanh Thuyền; Tổng thư ký: Thượng tọa Duy Nhật và một số vị trong Ban Thường trực gồm 10 người. 

Ngày 21-8-1975, Đại hội Giáo hội PG Hoa tông Việt Nam được tổ chức, bầu ra Ban chấp hành mới gồm: Chủ tịch: HT Thích Phước Quang; Phó Chủ tịch: HT Tăng Đức Bổn; Thư ký: cư sĩ Vương Viên Lương và một số ủy viên. Năm 1976, HT Thích Phước Quang được mời làm Ủy viên đoàn Chủ tịch Ban Liên lạc PG Yêu nước TP. Hồ Chí Minh - một tổ chức tiền đề cho việc thống nhất PG đi đến việc thành lập Giáo hội PG Việt Nam trong thời đại mới. 

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, PG Việt Nam có khuynh hướng quy về một mối. Ngày 07-8-1975, Ban Liên lạc PG Yêu nước Tp. Hồ Chí Minh ra đời, HT Thích Minh Nguyệt với cương vị Chủ tịch, đã đứng ra kêu gọi thống nhất PG. Bên cạnh đó có HT Thích Trí Thủ - Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội PG Việt Nam Thống nhất và HT Thích Thế Long - Hội trưởng Hội PG Thống nhất Việt Nam; cả ba vị trưởng lão này cùng đứng lên kêu gọi Tăng, Ni, Phật tử trong cả nước tham dự ý tưởng thống nhất này. Ngày 12-02-1980, Ban Vận động Thống nhất PG Việt Nam được thành lập, HT Thích Trí Thủ được đề cử làm Trưởng ban. Sau hơn một năm tích cực vận động, ngày 04/11/1981, Đại hội đại biểu Thống nhất PG Việt Nam được khai mạc tại thủ đô Hà Nội có 165 đại biểu của 9 Giáo hội, hệ phái tham dự, đến ngày 7 thì bế mạc, khai sinh Giáo hội PG Việt Nam. 

Tóm lại, trong suốt tiến trình “300 năm Gia Định-Sài Gòn-TP.Hồ Chí Minh”, PG đã trở thành một thực thể văn hóa, tôn giáo hiện hữu sinh động giữa “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, tạo nên một dáng vẻ vừa uy nghiêm của một tín ngưỡng lâu đời, vừa linh hoạt trong phong thái của nền văn hóa phồn thực tại đất Nam bộ này. Nhìn từ thực tế có thể nói rằng, chưa có một quốc gia nào, PG mang sắc thái phong phú, đa dạng như PG Nam bộ Việt Nam. Có những quốc gia thuần túy Bắc tông như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên...; những quốc gia thuần túy Nam tông như Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka, Lào, Campuchia... ; ở đây, PG Nam bộ Việt Nam là nơi tích tụ hai hệ tư tưởng PG này: Nam tông, Bắc tông, đặc biệt có thêm một vài hệ phái khác nhau. Tuy nhiên, kể từ sau Đại hội thống nhất PG Việt nam năm 1981, tất cả các hệ phái đều sinh hoạt hài hòa, nhất quán từ ý chí đến hành động, từ lãnh đạo đến tổ chức trong việc hoằng dương PG, lợi đạo ích đời, lấy phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” làm cương lĩnh hoạt động. 

Ngày nay, điểm lại giai đoạn lịch sử PG 300 năm, có thể nói Nam bộ là mảnh đất phát sinh nhiều hệ phái PG, nhưng Nam bộ cũng chính là chiếc nôi phát triển mạnh nhất PG Việt Nam.«

Chùa Hưng Phước, mùa Phật Đản PL. 2542
 
 

(1) Thạch Voi - Hoàng Túc. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khơme Nam bộ, NXB Tổng hợp Hậu Giang 1988, tr 86. 

(2) Kỷ yếu Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ấn hành 1986, trang 35. 

(3) Bửu chánh, một vài nét về Phật giáo Nam tông Việt Nam. Tập văn số 21, Ban văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 1991, tr 82. 
 
 

Tổ đình Huê Nghiêm 
(Thủ Đức - TP Hồ Chí Minh) 
và Tổ sư Tế Giác-Quảng Châu
Hòa thượng Thích Trí Quảng 

Tổ đình Huê Nghiêm là ngôi chùa cổ có nhiều bậc danh tăng xuất thân từ đây. Không biết rõ chùa được xây dựng từ năm nào, nhưng theo lịch sử truyền thừa các vị Tổ sư của chùa, thì ngài Thiệt Thụy-Tánh Tường là Tổ khai sơn. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được chùa Huê Nghiêm cũng đã có khoảng 300 năm.Tổ khai sơn nổi tiếng là một vị chân tu đức hạnh, cảm hóa được nhiều đệ tử, trong đó nổi bật nhất có ngài Tế Giác-Quảng Châu được coi như là vị Tổ quan trọng nhất ở miền Nam vào thế kỷ XIX. 

Ngài Tế Giác cảm đức của Tổ Thiệt Thụy-Tánh Tường nên xuất gia với Tổ, học được nhiều đức tánh quý báu với bậc thầy đắc đạo. Tuy nhiên, muốn tiến tu, phát huy trí tuệ, ngoài phần sở đắc nội chứng cần thiết phải có, còn phải kết hợp thêm phần sở học. Vì vậy, ngài Tế Giác đã đến tham vấn học đạo với Tổ Phật Ý-Linh Nhạc. 

Sau khi dạy ngài Tế Giác, Tổ Phật Ý-Linh Nhạc quán thấy ngài có nhân duyên với Tổ Tông-Viên Quang nên đã bảo ngài đến cầu học với vị này. Trên bước đường hành đạo, nhân duyên rất quan trọng, vì có duyên thì nương theo thầy mới phát triển được. Mặc dù Tổ Tông-Viên Quang là đệ tử của Tổ Phật Ý, tức đồng huynh đệ với ngài Tế Giác, nhưng vì vâng lời dạy bảo của Tổ, cũng như không tự ái, chấp ngã, chỉ quyết tâm học đạo nên ngài Tế Giác đã hết lòng cầu pháp với Tổ Tông-Viên Quang, nhận vị này làm thầy. Vì vậy, ngài Tế Giác còn có tên là Tiên Giác-Hải Tịnh, theo dòng truyền thừa của hệ Lâm Tế gia phổ (Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên. Minh như hồng nhật lệ trung thiên). 

Trong thời gian học đạo với Tổ Tông-Viên Quang, ngài Tiên Giác-Hải Tịnh - tức Tế Giác-Quảng Châu, có cơ hội tiếp xúc với quan Tổng trấn Gia Định thành là Trịnh Hoài Đức. Cảm mến tài đức của ngài Tế Giác vượt trội hơn người, có thể Trịnh Hoài Đức đã giới thiệu Ngài với triều đình Huế. Năm 1825, vua Minh Mạng sắc phong chức Tăng cang cho ngài Tế Giác và bổ nhiệm trụ trì chùa Thiên Mụ ở Huế. Việc Ngài được cử làm đại diện chư Tăng miền Nam ra đất thần kinh làm thầy là điều rất hiếm, vì lúc ấy Huế là kinh đô, có nhiều nhân tài thường vô miền Nam truyền đạo. 

Năm 1833, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm thành Phiên An (Saigon), chống lại triều đình Huế. Ngài Tăng cang Tế Giác là người ở Gia Định nên bị nghi ngờ có liên hệ với loạn quân; vì vậy, triều đình đã cách chức ngài. Nhưng đứng trước sự đổi thay vinh nhục của trần thế, tâm hồn ngài vẫn thanh thản, chẳng cần minh oan, vẫn giữ một lòng lo cho đạo pháp. Tâm hồn trong sáng của Tổ Tế Giác đã làm Tăng chúng cảm kích và khiến triều đình phải suy nghĩ, điều tra lại. Sau cùng, vua Thiệu Trị đã phục hồi chức Tăng cang cho ngài và cử làm trụ trì chùa Giác Hoàng. 

Trải qua thời gian hành đạo nơi cố đô, Tổ Tế Giác đã độ được một số cao tăng nổi tiếng. Tiêu biểu như Hòa thượng khai sơn chùa Tường Vân cảm mến đức hạnh của Tổ, nên đã xin cầu pháp và được Tổ cho pháp hiệu là Liễu Tánh-Huệ Cảnh (thuộc đời thứ 37, tính theo dòng pháp của Lâm Tế chánh tông: Tổ đạo giới định tông. Phương quảng chánh viên thông. Hành siêu minh thiệt tế. Liễu đạt ngộ chơn không). Vị này còn có tên là Tánh Khoát-Đức Giác (thuộc đời thứ 39 của tông Tế thượng Thiệt Diệu Liễu Quán: Thiệt tế đại đạo. Tánh hải thanh trừng. Tâm nguyên quảng nhuận. Đức bổn từ phong). Với trí tuệ của bậc ngộ đạo, đến đâu, làm việc gì đều có mục tiêu, nên khi hoàn thành xong những việc đáng làm, Tổ Tế Giác đã xin từ chức Tăng cang, trở về miền Nam hành đạo. 

Điều này cho thấy nơi ngài tỏa sáng nét đẹp giải thoát của vị chân tu, không màng phú quý lợi danh. Người tầm thường khi được địa vị như vậy thì họ cố bám giữ để tận hưởng, không thể dễ dàng từ bỏ, hoặc khi thấy chỗ cực khổ thì liền tìm cách lẩn tránh. 
Tổ Tế Giác-Quảng Châu, một bậc long tượng trong đạo pháp, tất nhiên có tư cách phi phàm, bỏ chốn kinh kỳ, về vùng đất còn hoang vu để giáo hóa độ sanh, thành tựu những việc lợi ích cho đời, rạng danh cho đạo. 

Thật vậy, bằng tầm nhìn xa thấy rộng, ngài quán thấy nên trở lại miền Nam truyền giáo, phát triển đạo pháp lợi lạc hơn, vì nơi đó hội đủ duyên lành; nói cách khác, miền Nam hiện hữu những mầm non có căn lành đang cần ngài giáo dưỡng. 
Về miền Nam, ngài cố tìm những người có căn tánh sáng suốt để khai ngộ. Trên bước đường giáo hóa, Tổ Tế Giác gặp một thanh niên bẩm chất thông minh, căn tánh hiền lành, phát tâm xin xuất gia. Độ được đệ tử có căn lành như vậy, nên Ngài đặt pháp hiệu cho vị này là Đại Cơ-Đức Huân (thuộc Lâm Tế dòng Thiệt Diệu Liễu Quán đời thứ 37). 

Sau đó, trong hàng pháp tôn của Tổ Tế Giác có ngài Đạo Trung-Thiện Hiếu, thường nổi danh là Tổ Đỉa. Vị này truyền bá Phật pháp cả vùng Biên Hòa, Sông Bé, Tây Ninh, khai sơn nhiều chùa như Linh Sơn ở núi Bà Đen, Long Hưng hay thường gọi là chùa Tổ ở Bưng Đỉa (Sông Bé), chùa Hội Lâm (xã An Nhơn Tây, Củ Chi)...Và các chùa nổi tiếng ở miền Nam bắt đầu bằng chữ Hội như: Hội Khánh, Hội Sơn, Hội Lâm, v.v... hay chùa Linh Sơn, đều là căn cứ của Thiên địa hội hoạt động cách mạng cứu nước. Những ngôi chùa này cũng do các pháp tử, pháp tôn của Tổ Tế Giác khai sơn là ngài Đại Ngạn -Từ Tấn (chùa Hội Khánh), ngài Đạo Trung-Thiện Hiếu (chùa Hội Lâm, Linh Sơn), ngài Đạo Thành-Khánh Long (chùa Hội Sơn). 

Tìm người để tiếp độ theo tầm nhìn sáng suốt như thế, Tổ Tế Giác- Quảng Châu đã đào tạo cho đạo pháp biết bao nhân tài. Ngoài ra, khi hành đạo ở vùng Gia Định, Tổ Tế Giác-Quảng Châu hay Tiên Giác-Hải Tịnh đã độ được rất nhiều đệ tử, phát triển mạnh dòng Lâm Tế Gia Phổ. Trong đó, nổi bật nhất là ngài Minh Khiêm-Hoằng Ân trụ trì tổ đình Giác Viên (nếu tính theo dòng truyền pháp của Lâm Tế Gia Phổ), hay Ngài còn có tên là Liễu Khiêm-Chí Thành (nếu tính theo truyền pháp của Lâm Tế chánh tông). 

Tổ Tế Giác đã cùng đệ tử Minh Khiêm-Hoằng Ân xuống vùng Châu Đốc hành đạo vì nhận thấy vùng này có nhiều người nhiệt tâm tu hành, nhưng không hiểu biết giáo lý đạo Phật. Họ chỉ chuyên luyện bùa phép, tu các pháp thuật của ngoại đạo. Ngài quán thấy nhân duyên Phật giáo (PG) có thể phát triển ở đây, nếu được hướng dẫn đúng chánh pháp. 

Quả thật, trí tuệ và đức độ của Tổ Tế Giác đã cảm hóa được nhiều người ở vùng này, đặc biệt có Phật Thầy Tây An quy y với Tổ, được pháp hiệu là Minh Huyên. Đó là người khai sáng ra phái Bửu sơn kỳ hương, một phái tu chuyên chữa bệnh bằng nước lạnh hoặc phù chú. Từ đó, rất nhiều ông đạo của phái này cũng theo chân Phật Thầy Tây An, quy y Tam bảo, trở thành đệ tử của Tổ và đóng góp được nhiều công sức, tiền của cho việc phát triển đạo pháp ở vùng này. Ngài Minh Khiêm-Hoằng Ân là bậc long tượng, đã phát huy được sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của Tổ Tiên Giác-Hải Tịnh. Thật vậy, ngài Minh Khiêm một mình, một y, một bát vân du hành đạo khắp miền Tây Nam bộ. Ngài cũng hoằng hóa một thời gian rất lâu ở núi Sam, nên thường được gọi là Tổ núi Sam. Có thể nói PG miền Tây phát triển được là nhờ công lao rất lớn của ngài Minh Khiêm. 

Trong hàng hậu học nối tiếp dòng Lâm Tế chánh tông của Tổ Tế Giác, còn có một vị danh tăng của miền Nam, đó là Tổ Đạt Lý-Huệ Lưu, cũng xuất thân tu học từ Tổ đình Huê Nghiêm. Ngài còn nổi tiếng là ông vãi bán khoai. Trên bước đường hành đạo, Tổ Huệ Lưu đã góp phần giáo hóa dân chúng miền Tây bằng lối thơ mộc mạc. Bộ Trường hàng luật ra đời cũng do công đức của Tổ Huệ Lưu sao chép. Trong thời cận đại, hàng pháp tôn của Tổ Tiên Giác-Hải Tịnh thuộc dòng Lâm Tế gia phổ đã tiếp nối được sự nghiệp hoằng pháp độ sanh. Nổi tiếng có Hòa thượng (HT) Như Hiền-Chí Thiền hay Tổ Phi Lai; HT Như Nhãn-Từ Phong, Hội trưởng Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học; HT Như Trí-Khánh Hòa, sáng lập Lưỡng Xuyên Phật học. 

Tóm lại, với căn lành sâu dày trong Phật pháp và được gặp vị thầy đắc đạo khai ngộ, Tổ Tế Giác-Quảng Châu đã phát huy trí tuệ, đạo đức và dùng phước trí ấy làm hành trang đi hoằng hóa khắp mọi nơi. Từ đó, nơi nào có duyên, ngài đến hóa độ; mãn duyên, ngài nhẹ nhàng rời gót, chẳng màng phú quý, chẳng bận lợi danh. Hành đạo trên chơn tánh, nên không có gì làm vướng bận bước chân du hóa của Tổ. Thật vậy, với trí tuệ trong sáng và đức hạnh vô ngã vị tha của một bậc chân tu đắc đạo, Tổ Tế Giác thong dong tự tại trên đường truyền pháp. Từ Gia Định ngược dòng ra Huế hoằng hóa, từ Huế lặn lội về vùng hoang vu sơn dã của các tỉnh miền Tây Nam bộ để độ sanh, đồng thời chấn chỉnh việc tu học, mở các trường hương, tổ chức các lớp nội điển cho chư Tăng tại Tổ đình Giác Lâm, Giác Viên, tu bổ, xây dựng chùa chiền ở Gia Định và các tỉnh miền Nam, v.v... 

Tổ Tế Giác đã giáo dưỡng, un đúc biết bao vị danh tăng làm nên đạo cả, giữ gìn mạng mạch Phật pháp trường tồn. Ngài gánh vác công việc hoằng dương đạo pháp chẳng ngại gian lao, chẳng biết mỏi mệt, được Tăng chúng, tín đồ hết lòng kính ngưỡng. 
Với công đức ấy, ngài Tế Giác-Quảng Châu hay Tiên Giác-Hải Tịnh đã trở thành Tổ sư của cả 3 tông: Lâm Tế chánh tông, Lâm Tế gia phổ và Tế Thượng chánh tông. Phải nói đó là một điều hiếm có trong PG vậy. 
Và vị đệ tử nổi bật nhất của ngài Tế Giác là danh tăng Minh Khiêm-Hoằng Ân cũng nối chí ngài, trở thành Tổ sư kế thừa được hai dòng Thiền: Lâm Tế chánh tông và Lâm Tế gia phổ. 

Có thể khẳng định Tổ Tế Giác-Quảng Châu hay Tiên Giác-Hải Tịnh đã đóng vai trò rất quan trọng đối với PG miền Nam vào thế kỷ XIX. Ngài đã đưa PG miền Nam vào tổ chức hệ thống chặt chẽ, đào tạo rất nhiều nhân tài cho đạo pháp, chấn chỉnh lại khoa ứng phú theo đúng hướng Phật dạy. Riêng bản thân tôi, cũng may mắn được xuất thân tu học từ Tổ đình Huê Nghiêm, một Tổ đình tiêu biểu sản sanh ra nhiều vị danh tăng thạc đức đã thể hiện tinh ba của đạo Phật, làm lợi ích cho đời, rạng danh cho đạo, mà ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến Tổ sư Tế Giác-Quảng Châu hay Tiên Giác-Hải Tịnh với vài nét sơ lược. 

Thừa kế được công đức của chư vị Tổ sư tiền bối thuộc dòng Lâm Tế chánh tông, Lâm Tế gia phổ và Tế thượng chánh tông, thừa kế chân tinh thần vô ngã vị tha của các Ngài, tôi cũng vững bước tiến trên đường phát huy sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, nỗ lực thắp sáng ngọn đèn từ bi, trí tuệ của đức Từ tôn, làm lợi lạc chúng hữu tình. Xin cám ơn quý liệt vị đã lắng nghe, và cầu nguyện tất cả được an vui trong hào quang của chư Phật.
 
 

Một vài nét xưa và nay của Phật giáo 
Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh
SƠN NAM

Trước Nguyễn Hữu Cảnh, nghĩa là hơn 300 năm về trước, ở Sài Gòn và phía đồng bằng, dân số khoảng 4 vạn hộ, đã có chợ Cù lao Phố ở Biên Hòa và chợ Mỹ Tho, ở Huế ngân nga tiếng chuông chùa Thiên Mụ, ở Hội An hải cảng đã mở ra, đón nhận tàu nước ngoài đến mua bán. Nhưng nói chung, dân số còn ít, dân nghèo từ miền Trung kéo vào tự lực phá rừng, làm ruộng, chống thú dữ. Đại Nam nhất thống chí ghi chép về tỉnh Gia Định đã nhắc đến ngày Tết năm Canh Dần (1770), ở chợ Tân Kiểng (ngay bên đường Trần Hưng Đạo, quận 5), cọp dữ đến khuấy rối, quân đội ở gần không can thiệp được, may thay có ông Tăng Ân đi ngang qua, ra sức dùng côn đánh cọp, cọp chui vào bụi tre. Ông bị thương, đồ đệ là Trí Năng giết được cọp, ông Tăng Ân bị tử thương, bấy giờ đã xây ngôi tháp lưu niệm.

Lại chép truyện ông Viên Ngộ ở Cần Giuộc, đầu năm Gia Long đã quy y. Với quyết tâm lớn, ông tích cực khẩn hoang tại vùng Thanh Ba (quê vợ ông Đồ Chiểu), cọp chặn đường, nhưng ông và dân trong xóm vẫn bình tĩnh mở được hai con lộ giúp dân tới lui buôn bán. Ông lập chùa Tôn Thạnh, đúc tượng Địa Tạng cầm kinh mật niệm giúp đồng bào thoát cơn bệnh dịch, rồi ông nguyện suốt đời tịch cốc. Pháp đến, nghĩa quân Cần Giuộc dấy lên, đánh đồn Tây. Giặc trả thù, ông Đồ Chiểu làm văn tế: “Ôi thôi, chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấc lòng son gửi lại với trăng rằm. Đồn Tây dương một phút đặng rửa hờn, chút phận bạc trôi theo dòng nước đổ?”. Theo cái nhìn của Đồ Chiểu, chùa Tôn Thạnh đối chọi với đồn Tây dương. Chùa Tôn Thạnh là biểu tượng của Tổ quốc, với sự công bình, lòng nhân ái và chính nghĩa.

Trong buổi đầu mở nước, người lưu dân vào Nam mang theo mấy chữ “từ bi bác ái”, “trọng nghĩa khinh tài”, “phổ độ chúng sanh”, “thiên đường địa ngục” và những Tăng sĩ rành kinh kệ ở tận Huế, Quảng Nam, Phú Yên, Bình Định. Đại Nam nhất thống chí dùng chữ: “Nhà sư Trí Năng đi vân du” và đến như ngôi chùa nổi danh Sài Gòn là Kim Chương, còn gọi chùa Thiên Trường (ở vùng cao, đường Nguyễn Trãi ngày nay, khuôn viên Bộ Nội vụ) do Đạt Bản Hòa thượng từ Qui Nhơn đến lập, sử gọi ông là nhà sư “du phương”. Tôi hiểu “vân du”, “du phương” là nhập vào cuộc đời, theo trào lưu vào Nam để trực tiếp giúp đồng bào đang bỏ quê quán đi làm ăn nơi xa, phá rừng, sống chung với thú dữ và lũ lụt, với nắng lửa mưa dầu. Chết giữa rừng hoang thì vui vẻ chấp nhận nhưng với điều kiện là có nhà sư tụng kinh cầu siêu. Tìm đâu ra nhà sư đúng nghĩa? Tôi hình dung thuở ấy phần lớn là dạng mà nay ta gọi bôi bác là “thầy cúng”.

Miễn là khi động quan, khi hạ huyệt, có tiếng chuông, tiếng mõ thì được “Tây phương tiếp dẫn” với tiếng Nam mô A Di Đà Phật mà ý nghĩa chẳng ai hiểu rõ. Chết mà được Phật chiếu cố đã là mãn nguyện đối với thân nhân. Thiếu nghi thức ấy là vô phước, trở thành cô hồn, “thập loại chúng sanh” mà thi hào Nguyễn Du đã nhắc nhở, nhờ đức Phật cứu rỗi. Ngày lễ Vu Lan, đối với dân khẩn hoang dường như nhẹ về phần “báo hiếu” mà nặng về phần “cúng cô hồn”. Chùa nào cũng có bàn thờ nhỏ thờ “cô hồn”. Người xưa tin vào đạo Phật nhưng vẫn “sát sinh”. Cọp và sấu, rắn độc - giống mà nếu ta không giết nó thì nó giết ta. Ta giết ở mức độ cần thiết. Giết một con sấu để cảnh cáo, nhưng tha cho mấy con còn lại để nó “đi tu”, sau đó cất miễu thờ cái đầu sấu... Thiếu khí giới, thiếu can đảm thì rình những hang ổ, lén bắt mấy con cọp con cho giống cọp lần hồi tuyệt chủng.

Một chi tiết đáng lưu ý đối với người nghiên cứu sử học, Nguyễn Ánh là người mưu trí về chính trị, đã biết bám vào các chùa Phật mà ẩn thân. Về sau này, vua nhà Nguyễn ban cho chùa xưa ở Nam Bộ hai chữ “Sắc tứ” mà người địa phương lấy làm hãnh diện.

Sài Gòn là hải cảng lớn ở Đông Nam Á với kinh tế thị trường. Chùa Giác Lâm, như sử đã ghi, do người Minh Hương là Lý Thụy Long đứng ra đỡ đầu, sáng lập. Người Hoa khá giả ở Chợ Lớn, nhất là người Hoa có vợ Việt thường ủng hộ xây dựng một số chùa chiền. Với kinh tế thị trường, tuy chạy theo đồng tiền lợi nhuận, nhưng con người rất cần có sự thư giãn. Chùa Giác Lâm là nơi thư giãn của người Sài Gòn xưa, cũng như chùa Cây Mai với ao sen, với đồng lúa, là nơi giới bình dân và kẻ sĩ đến tìm môi trường sống hồn nhiên, vì thời xưa không có công viên.

Thời Pháp cai trị và khống chế, đạo Phật vẫn phát triển và tồn tại, chú trọng việc đổi mới, “tùy duyên bất biến”. Lưỡng Xuyên Phật học thành hình ở đồng bằng sông Cửu Long. Sư Thiện Chiếu ở Sài Gòn, Hòa thượng Nguyễn Văn Đồng ở Rạch Giá tích cực ủng hộ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 40, hy sinh ở Côn Đảo. Báo chí chuyên về đạo Phật đã góp phần bảo vệ văn hóa dân tộc. Thời kháng Pháp rồi chống Mỹ, vai trò của Phật giáo (PG) rất lớn, tôi không có thẩm quyền bàn bạc đến. Xin nhắc lại vài sự kiện lớn, mà người bàng quan phải nhìn nhận. Nhiều chùa bị lục soát, nhiều nhà sư, Phật tử bị bắt bớ, tù đày. Trong mặt trận liên hiệp quốc dân luôn có mặt các nhà sư. Lắm khi chùa là nơi chứa chấp cán bộ, tư liệu, thậm chí là võ khí. Việc ấy được đồng bào xem như là công tác chính đáng, không trái với đạo pháp và dân tộc. Thời chống Mỹ, lý thuyết PG dường như phức tạp hơn, nhưng nổi bật nhất vẫn là vai trò của sinh viên Đại học Vạn Hạnh, thêm sự in ấn phổ biến nhiều kinh sách để độc giả tự do chọn lựa. Thích Quảng Đức tự thiêu, ai không xúc động? Ni sư Huỳnh Liên tích cực tranh đấu công khai, xuống đường, giới trí thức và phụ nữ ủng hộ công khai, bất chấp sự đàn áp...

Với độc lập, thống nhất đất nước, ta nghĩ đến văn hóa dân tộc, một vấn đề trừu tượng nhưng phải thể hiện ra cụ thể.

Theo tôi, nói đến văn hóa thì nên lấy 3 tiêu chuẩn:

1- Văn hóa phải sống động. Quả là đạo Phật còn sống động, với chùa chiền, sách báo, lễ hội.

2- Văn hóa phải là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

3- Văn hóa phải đem lại sự lạc quan, yêu đời.

Hiện tượng mà ai cũng thấy: bạn hàng chợ, giới tiểu tư sản ngày càng ủng hộ PG. Ngày Rằm tháng Giêng, ngày Phật Đản mỗi năm thêm tấp nập, đa dạng, tùy địa phương. Thêm những dịp hành hương.

Ngày mùng Một, ngày Rằm, bông tươi bán đầy chợ, nhiều nhất là bông vạn thọ, hợp với túi tiền của giới bình dân.

Tiệm cơm chay mở ra khá nhiều, ở nhiều phường dường như không tiệm nào phá sản.

Người lớn tuổi, không còn hoạt động, ưa nghiên cứu đạo Phật là chuyện tốt, “có còn hơn không”, để thư giãn, để sám hối âm thầm, tìm lại tâm linh.

Giới bạn hàng chợ, từng ngày từng tháng, chịu ảnh hưởng trực tiếp của kinh tế thị trường, theo ý tôi, là tầng lớp đáng lưu tâm. Lời hay lỗ, mặt hàng lên hoặc xuống giá bất thường, lề đường có khi giải tỏa, vật giá leo thang, thuế chợ làm sao giảm được. Máy vi tính, thị trường chứng khoán, dự báo... vẫn không cứu vãn vài “con rồng” ở Đông Nam Á đang suy sụp, chưa nói đến thiên tai hạn hán, thời tiết thay đổi bất thường... đều là những việc xảy ra ngoài tầm tay của nhiều giới. Bởi vậy, dựa vào Trời Phật để giữ vững niềm tin, nhưng lắm khi sự cầu nguyện lại là tham lam, ích kỷ. Nhưng “có còn hơn không”, ít ra trong giây phút ấy, con người trở lại khiêm tốn, hiểu mình chỉ là một chúng sanh nhỏ bé, nên giữ lòng bác ái.

Ai cũng có lúc thịnh, lúc suy ; khi cần lạc quyên ủng hộ gia đình neo đơn, hỏa hoạn, lũ lụt thì sẵn sàng chẳng cần biết rõ nơi xảy ra thiên tai là hướng nào. Người làm phước là người có cái tâm. Cái tâm tức là lòng vị tha. Hành hương, cùng đi với bạn bè là dịp thư giãn. Ta chợt hiểu rằng ở thời đại có phòng gắn máy lạnh, đi máy bay, chạy xe gắn máy nhưng con người cần đi bộ, cần ngắm nhìn con trâu, đồng lúa, dòng sông đầy phù sa hơn bao giờ hết. Và khi quá tham lam thì lúc chết chưa ắt mang theo được món gì để lo hối lộ với quỷ sứ ở âm phủ, nếu chốn âm phủ là có thật.

Còn nhiều việc cần làm, trước tiền đồ đang rạng rỡ. Theo tôi, chùa chiền phải giữ sạch sẽ về hình thức, để bảo đảm nội dung. Tăng Ni một khi mặc màu áo của Phật thì nên giữ gìn lời nói, cử chỉ. Lứa tuổi Tăng Ni trẻ không nên thối chí, thắc mắc trước lời khen chê. Đạo Phật phải có hạ tầng cơ sở tốt mới hoạt động được. Tư liệu in ấn đẹp hơn. Chùa nên có điện thoại, thậm chí nếu hoàn cảnh cho phép nên có điện thoại cầm tay, có ô-tô. Học thêm chữ Hán, chữ Việt, chữ Anh. Khiêm tốn, nhưng có cái bản lĩnh của người tu hành. Ai khen thì mừng. Ai chê thì không giận. Tiếp cận với cuộc sống. Ngày nay, ta gặp rất nhiều Ni cô trẻ âm thầm dạy dỗ trẻ em bụi đời, trẻ em khuyết tật để chống nạn mù chữ. Đạo Phật là đạo của sự khiêm tốn. Người Phật tử luôn nhẫn nhịn để cầu mong cho Tổ quốc yên vui, thế giới hòa bình, giữa con người không còn phân cách, bất công.«
 
 

Sơ lược vài nét đặc trưng của Phật giáo Nam Bộ
Hà Xuân Liêm (Huế)

Để kỷ niệm 300 năm ngày thành lập Gia Định-Sài Gòn, tức là thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chúng tôi xin được góp một ý kiến nhỏ: “Sơ lược vài nét đặc trưng của Phật giáo (PG) Nam bộ” nói chung. Nói đến PG, người ta thường lưu ý đến cái “tùy duyên bất biến” của nó, bởi vì đây chính là bản năng sinh tồn của đạo Phật qua tràng kỳ lịch sử nhân loại, trong đó có Việt nam ta. Do cái lý tùy duyên bất biến mà đạo Phật với con người Việt Nam gần như gắn bó đến độ bất khả phân. Bởi vì tự bản chất thì “tùy duyên bất biến” lại bao hàm tính nhân văn rộng lớn; lấy con người làm gốc để phát triển cái đẹp tự nhiên vốn có nơi đó lên, mà đạo Phật lại không làm mất bản sắc của mình. 

Chúng tôi sẽ nói đến sự thành lập đất Nam bộ và PG đã phát triển như thế nào khi dân Nam bộ phát triển. Nhưng sự phát triển dân số bắt buộc người Việt Nam phải dần dà làm cuộc Nam tiến. Bước đầu tiên, người dân cực khổ vì nạn chiến tranh Trịnh-Nguyễn, nên phải tự động bỏ xứ ra đi, vào làm ăn sinh sống ở xứ lạ đầy rừng thiêng nước độc, ngôn ngữ bất đồng. Những miền đất Mô Xoài và Đồng Nai là nơi tiếp nhận người Việt đầu tiên. Vào năm 1658, chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đã can thiệp vào nội tình nước Chân Lạp, bắt được vua xứ ấy là Nặc Ông Chân, khiến phải triều cống và buộc phải nhường đất Mô Xoài, Đồng Nai; 1679 lại có tướng Dương Ngạn Địch và trần Thượng Xuyên (Trần thắng Tài) với 3.000 quân sĩ nhà Minh sang đầu hàng, chúa cho vào khai phá đất Đông phố ở miền đông Nam bộ và Mỹ Tho. 

Năm 1698 là mốc khởi đầu cho kỷ niệm 300 năm đất Nam bộ mà chúng ta hiện nói đây. Năm ấy, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Đông phố ra làm hai dinh là Trấn Biên dinh và Phiên Trấn dinh thuộc phủ Gia Định, rồi chiêu mộ dân từ Hoành Sơn, Thuận-Quảng trở vào đến làm ăn lập thêm thôn xã, khai khẩn ruộng đất. Ở Trấn Biên dinh lại có Thanh Hà xã. Ở Phiên Trấn dinh có Minh Hương xã là hai vùng kiều cư người Hoa. Về sau có Mạc Cửu đến khai khẩn đất hoang, có bộ chúng đi theo lập thành Hà Tiên; rồi đến năm 1708, Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn và đem đất Hà Tiên sáp nhập vào đất của chúa Nguyễn. Đến năm 1765 thì toàn địa phận Nam bộ hiện nay đều được khai phá, thiết lập bộ máy hành chánh-cai trị. 

Từ buổi hừng đông này, ta thấy đã có sự giao lưu giữa nhiều giống cư dân trên phần đất này: Việt, Hoa, Khơme. Mỗi giống cư dân đều mang nền văn minh, văn hóa, tôn giáo của mình đến nơi đất mới này. Nói riêng về PG thì các giống cư dân trên đây đều có tín ngưỡng PG riêng của họ, PG Đại Việt, PG Trung Hoa, PG Khơme, nói rộng ra là cả PG Mahayana từ phương bắc xuống và PG Hinayana từ Ấn Độ qua, đều đồng quy tại phần đất Nam Bộ này. Ngoài các tín ngưỡng PG đặc thù của từng nhóm dân mang đến hòa hợp chung sống với nhau ở đây, ta còn phải tính đến các tín ngưỡng bản địa bắt nguồn từ tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng linh hồn thuyết theo phiếm thần luận như thờ cây, thờ đá, thờ ông hổ, thờ cá ông voi, thờ rắn v.v.. tín ngưỡng thờ các nữ thần mà miền Trung, Bắc gọi là thờ Mẫu, cũng có mặt tại đây ngay từ buổi đầu.

Trong bối cảnh giao lưu như thế, thì PG Thuận-Quảng theo người dân của chúa Nguyễn vào đây cũng chưa có ảnh hưởng gì mạnh lắm. Cho nên, buổi hồng hoang của Nam bộ, Phật giáo ở đây cũng chỉ là PG bình dân, chưa có gì rõ ràng nếu kể về tông phái và giáo lý. Các Sư Tăng từ miền Thuận-Quảng vào theo các đoàn di dân khai hoang lập ấp thì cũng chỉ đơn lẻ ẩn tu, lập am ở các hang núi, ít truyền bá giáo lý. Trong bộ Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, đều có nói đến cách lập chùa và cách ẩn tu của các nhà sư vào buổi xa xưa ấy. Nhưng càng về sau, chùa chiền càng nhiều tín đồ càng đông. Các chùa khác với ngoài Bắc và ở Huế, Nam bộ phần nhiều không do người xuất gia lập nên, rồi sau được các chúa Nguyễn “sắc tứ” tức là công nhận chùa ấy là chùa chính thức.

Sớm nhất có lẽ là chùa Vạn An, vào năm Vĩnh Thịnh lục niên 1710 đã được chúa Nguyễn Phúc Chu tức Minh Vương (1691-1725) sắc tứ, sau đó đến chùa Hộ Quốc, do Chính suất thống Nguyễn Cửu Vân, người làng Vân Dương, tỉnh Thừa Thiên, vào kinh lược, dựng chùa từ trước. Đến năm 1734 được chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Trú (1725-1738) sắc tứ. Một số chùa khác thì do người Trung Hoa lập nên như chùa Tam Bảo do Mạc Cửu dựng ở Hà Tiên, chùa Giác Lâm do người Minh Hương Lý Thụy Long dựng năm 1774 tại Gia Định. Ít thấy sách vở nói đến chùa cũ của PG Khơme để lại. 

Sau đó một thời gian, các vị Tổ trong hai dòng Nguyên Thiều và Liễu Quán đến lập chùa hoằng hóa PG Đại Việt rộng rãi ở Nam bộ; nhất là dòng Thiền Nguyên Thiều với bài kệ: “Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên...” được truyền thừa rất rộng ở Gia Định-Biên Hòa khoảng hạ bán thế kỷ thứ XVIII. PG Gia Định-Sài Gòn có duyên để giao lưu với PG Huế (Thuận Hóa ?) là khoảng đầu triều Nguyễn về sau. Do một duyên cớ lịch sử là lúc bị Tây Sơn truy kích, Nguyễn Ánh bôn đào về Nam, chạy trốn vào nhiều chùa PG ở Gia Định-Sài Gòn - Đồng Nai-Biên Hòa như các chùa Đại Giác, Từ Ân v.v.. 

Lúc này PG Gia Định-Sài Gòn đã có cơ sở vững chắc, chùa chiền nhiều, trong sơn môn đã có chư Tổ danh tiếng như Minh Vật-Nhất Tri (?-1786), Phật Ý-Linh Nhạc (1725-1821), Tổ Ấn-Mật Hoàng (1735-1835), Tổ Tông-Viên Quang (?-1827), Thiệt Thoại-Tánh Tường (1741-1847), Thiệt Thành-Liễu Đạt (?-1823), và các đệ tủ nổi danh của ngài như Tế Chánh-Bổn Giác, Tế Bổn-Viên Thường... 

Khi vua Gia Long lên ngôi (1802-1819) qua các triều Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), thì sự phục hưng chùa chiền ở Sài Gòn-Gia Định được các vua này ngoại hộ rất mạnh. Ngoài ra, các vua này cũng đã triệu vời các vị cao tăng ở Nam bộ về kinh đô Huế để phong làm Tăng cang, trú trì các chùa quan, nhất là chùa Thiên Mụ, làm cho PG Nam - Trung phát huy rực rỡ, có nhiều sắc thái mới. Năm Gia Long thứ 13 (1814), vua ra lệnh cho các quan trấn thành Gia Định trùng tu chùa Đại Giác ở Biên Hòa, cho voi đến dẫm nền, nên dân chúng gọi chùa này là chùa Tượng, vua đã chú tạo ngôi tượng Phật A Di Đà cao đến 2,25m để thờ trong chùa. Đồng thời vua Gia Long cho triệu Tổ Ấn Mật Hoằng, người Phù Cát, Bình Định đang trú trì ở Đại Giác tự cho về Kinh, phong làm Tăng cang chùa Thiên Mụ; đệ tam công chúa, con gái vua Gia Long đã cúng biển hoành ba chữ “Đại Giác tự” sơn son thếp vàng vào năm Minh Mạng nguyên niên để kỷ niệm. Chùa Từ Ân ở thôn Bình Dương, Hòa Hưng, được Hiếu Khương Hoàng hậu sắc cho làm chùa công. Năm Minh Mạng thứ 20 (1821) vua cho đổi tên “Sắc tứ Từ Ân tự”. Đặc biệt là chùa Khải Tường, năm Minh Mạng nguyên niên có chỉ dụ nói “năm Tân Hợi (1791) vua sinh ở đấy, vậy là đất lành, nên lập chùa để ghi nhớ”. Chùa ở thôn Hoạt Lộc, huyện Bình Dương. Ngoài ra còn nhiều chùa do các du tăng trốn loạn Tây Sơn, bỏ Thuận Hóa vào nam để ẩn tu sau đó lập chùa hoằng đạo theo dòng kệ Liễu Quán. 

Các ngài Liễu Đạt-Thiệt Thành, Tế Bổn-Viên Thường, Tế Chánh-Bổn Giác đều được các vua Gia Long, Minh Mạng triệu về kinh, phong làm tăng cang hoặc trú trì chùa Thiên Mụ. Các ngài đều có truyền cho đệ tử theo pháp phái để truyền thừa, hoằng giáo ở Huế: như ngài Liễu Tánh Huệ Cảnh, sơ tổ chùa Tường Vân ở Huế, đã được ngài Tế Chánh-Bổn Giác trao kệ và phú pháp chẳng hạn. Chùa Quốc Ân là nơi để lại dấu ấn mạnh nhất của PG Nam bộ thuộc dòng Nguyên Thiều trở lại Huế để hoằng giáo. Trong cuốn “Lịch sử PG Thuận Hóa - Thừa Thiên-Huế” sắp xuất bản, chúng tôi nói rất rõ về điểm này. Ở đây chỉ nói từ thế kỷ thứ XIX trở về sau, giữa PG Gia Định-Sài Gòn và PG Huế có nhiều liên lạc mật thiết, mặc dầu về phương diện hành trì thì Huế thiên về thiền tịnh tu chứng, ở Gia Định-Sài Gòn, nói chung là Nam bộ, thiên về khoa “ứng phú” hơn. 

Một giai đoạn mất nước về tay thực dân Pháp làm cho PG Việt Nam nói chung, PG Nam bộ nói riêng đi lần vào sự đồi phế; nhất là Nam bộ thời đó lại thuộc địa Pháp, sống trong sự lệ thuộc chính trị văn hóa Pháp. Nhưng PG là một tôn giáo thuộc lý tính mang bản chất độc lập, tự do, nên đã khế hợp với tinh thần dân tộc, yêu nước của dân Nam bộ theo lý “tùy duyên bất biến” đã làm nảy sinh nhiều nét đặc trưng mà ở Trung - Bắc không có. Từ sau đệ nhất thế chiến, PG Nam bộ đã cựa mình thức tỉnh. Năm 1932 đã có nhiều thiền sư cho dịch kinh sách từ chữ Hán ra quốc ngữ và in ấn, phổ biến, có nhiều đạo tràng được thành lập. Chúng tôi không nói nhiều về giai đoạn này, vì Giáo sư Nguyễn Lang trong Việt Nam PG sử luận, quyển 3, đã nói nhiều.

Chúng tôi chỉ muốn nói đến một điểm mà chúng tôi cho là đặc trưng của PG Nam Bộå, đó là tổng hợp các luồng tư tưởng vốn có do sự giao lưu của các nền văn hóa lớn trên dải đất Đông Dương, lấy tư tưởng PG làm căn bản, để khai sinh nhiều tông phái như Bửu sơn Kỳ Hương, PG Hòa Hảo, PG Cao Đài và vô số những môn phái nhỏ hơn, không nổi tiếng lắm. Ít nhiều, các tông phái này đều có - không kể có kẻ lợi dụng - nói đến tinh thần yêu nước, yêu dân. Cũng có thể nói đây là ảnh hưởng PG tác hành lên tín ngưỡng và tư duy của người dân Nam bộ. 

Trong cuộc vận động chấn hưng PG thì Tịnh Độ tông nổi bật lên. Tông này dạy người ta niệm danh hiệu A Di Đà để lúc mạng lâm chung thời được “vãng sanh cực lạc quốc độ”. Giai đoạn đầu, Tịnh Độ tông ở Nam bộ lấy “khoa ứng phú” do Tăng già đảm trách; đến khoảng năm 1932 trở lui xuất hiện hai cư sĩ: ông Đoàn Trung Còn lập Phật học tùng thư phổ biến sách PG bằng sách chữ quốc ngữ; và sau này là ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Sách của Phật học tùng thư của ông Đoàn Trung Còn chủ trương truyền bá ra cả hai miền Trung - Bắc Kỳ thời đó. Đúng là một cách hoằng giáo “đưa đạo phục vụ đời”, mặc dầu Tịnh Độ tông không có người đi giảng pháp ở Trung - Bắc. Đặc biệt là Nam bộ đã có hai tông phái PG có tín đồ đông đảo, truyền khắp Gia Định-Sài Gòn và đã ra đến Huế. Kể từ Huế vào, ở khắp các tỉnh, lên tận vùng cao nguyên miền Trung, đó là phái du tăng khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang ở làng Phú Hậu, quận Tân Bình, tỉnh Vĩnh Long, khai phái. Phái này đã có Ni bộ từ đầu do cố Ni trưởng Huỳnh Liên làm thủ chúng.

Tông phái PG Khất sĩ Nam bộ có hai điểm đặc biệt : tất cả các tịnh xá đều lấy chữ “Ngọc” làm đầu. Ở Huế đã có tịnh xá Ngọc Kinh cho Ni bộ và tịnh xá Ngọc Hương cho Tăng sĩ. Tất cả chư ni đều lấy chữ “LIÊN” đặt sau đạo hiệu như Huỳnh Liên, Thanh Liên, Bạch Liên v.v.. Thứ hai là tông phái PG nguyên thủy tức Theravada do Hòa thượng (HT) Hộ tông khai phái. Ngài là người làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài đã đậu bằng bác sĩ thú y ở Hà Nội, qua làm việc tại Campuchia; năm 34 tuổi, Ngài phát tâm bỏ thế tục xuất gia tại chùa Unalom ở Campuchia với Vua Sãi tại chùa này. Đắc pháp Nam tông, ngài trở về nước lập Tổ đình Bửu Quang ở Gò Dưa, huyện Thủ Đức, vào năm 1940. Năm 1950, giáo phái Theravada truyền đến Chợ Lớn; 1953 truyền tới Đà Nẵng và 1959 ra tới Huế. Chùa Tăng Quang là Tổ đình phái Theravada ở Huế. Chùa Thiền Lâm Theravada có kiến trúc như kiểu chùa Thái Lan - dân Huế gọi là chùa Phật đứng Phật nằm, vì hai pho tượng vĩ đại của phái này xây trên núi đó - do HT Hộ Nhẫn trú trì cũng là chùa thuộc phái Theravada của ngài Viên Minh trong Nam truyền ra. Phái này còn có chùa Huyền Không rất nổi tiếng về cây cảnh và trồng bonsai. 

Tại Nam bộ hiện nay, PG cũng đã phát triển long thịnh, PG Khơmer Nam bộ đến nay cũng có trú xứ của mình ở thành phố Hồ Chí Minh và đã có chỗ đứng hòa nhập vào cộng đồng Phật tử ở đây. Ngoài ra, Gia Định-Sài Gòn lại còn có nhiều chùa của người Việt gốc Hoa lập nên mang màu sắc kiến trúc và thờ tự Trung Quốc, thật là thời nở rộ của các nền văn hóa giao lưu tại đây với đặc trưng Việt Nam rất rõ. 

Suốt 300 năm thành lập Nam bộ, có dân Đại Việt vào làm ăn là đã có PG Nam bộ xuất hiện. Tuy nhiên suốt tràng kỳ ba thế kỷ đó, PG Gia Định-Sài Gòn có liên hệ mật thiết với Thuận Hóa rất chặt chẽ. Từ thời hừng đông mà chúng tôi đã nói ở trên; rồi trong cuộc chấn hưng PG thì đã có các vị cao tăng như HT Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa từ Nam ra Huế học các trường Phật học ở đây, khi trở về Gia Định-Sài Gòn, các ngài là ngọn pháp đăng chói lọi cho PG Gia Định-Sài Gòn. Cho đến cuộc vận động đòi tự do tín ngưỡng vào năm 1963 dưới thời Ngô Đình Diệm cũng vậy, nguồn phát sinh là chùa Từ Đàm (Huế), nhưng thực hiện và thành công lại ở chùa Ấn Quang và chùa Xá Lợi (Sài Gòn). 

Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, người Phật tử Nam bộ đã có những cống hiến lớn lao chưa từng thấy: cả ở mặt trận đánh giặc lẫn ở hậu phương, đấu tranh bằng chính trị ngay trong lòng địch. Rồi bao nhiêu thiên tai bão lụt, người Phật tử đem đạo cứu đời bằng nhiều phương tiện, để thực hiện câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách” không riêng cho Nam bộ mà bất cứ tỉnh nào trong nước Việt Nam. Hôm nay, dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội, PG Gia Định-Sài Gòn-TP.Hồ Chí Minh đang phát triển một sự tổng hợp viên dung các nguồn tư tưởng PG Bắc truyền, Nam truyền, PG Việt Nam, PG Khơme để phát huy ánh sáng phương đông chói lọi cho thế kỷ thứ XXI sắp tới vậy.«
 
 

Ảnh hưởng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với Phật giáo Đồng Nai-Gia Định
NGUYỄN HIỀN ĐỨC (*)

Theo các sách Lịch sử Phật giáo (PG) Việt Nam và các tài liệu cũ, hành trạng của Tổ sư Nguyên Thiều chưa được đầy đủ và chưa chính xác lắm. Trước đây, chúng ta chỉ biết Tổ sư Nguyên Thiều hoằng hóa ở Qui Nhơn và Thuận Hóa; nhưng sau khi phát hiện bảo tháp của Tổ sư Nguyên Thiều và tháp Phổ Đồng ở chùa Kim Cang (Đồng Nai) vào cuối năm 1988; đồng thời nghiên cứu thêm các tư liệu cổ ở chùa Đại Giác, Long Thiền (tỉnh Đồng Nai), chùa Giác Lâm, Từ Ân, Khải Tường, Huê Nghiêm, Phước Tường (TP Hồ Chí Minh), chùa Linh Thứu, Bửu Long, Đức Lâm (tỉnh Tiền Giang)..., chúng ta được biết thêm là Tổ sư Nguyên Thiều đã từng vào Đồng Nai khai sơn chùa Kim Cang ở ấp Bình Thảo (xã Tân Bình, huyện Vĩnh An, tỉnh Đồng Nai) và hoằng dương chánh pháp, ảnh hưởng sâu rộng đối với PG Đồng Nai-Gia Định nói riêng và Đàng Trong nói chung. Tổ có nhiều đệ tử và pháp tôn kế truyền, đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển PG Việt Nam, nhất là PG Đồng Nai-Gia Định.

I.- SƠ LƯỢC HÀNH TRẠNG CỦA TỔ SƯ NGUYÊN THIỀU

Tổ sư Nguyên Thiều, húy Siêu Bạch, hiệu Hoán Bích hay Thọ Tông, họ Tạ, quê ở huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), sinh vào ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (1648), thuộc phái thiền Lâm Tế, thế hệ 33.

Năm 1666, xuất gia thọ giới với Hòa thượng Bổn Quả-Khoáng Viên ở chùa Báo Tư (Trung Quốc). Năm Đinh Tỵ (1677), Tổ sư Nguyên Thiều rời Trung Quốc đi theo thuyền buôn sang Qui Nhơn (tỉnh Bình Định), lập chùa Thập Tháp Di Đà. Năm 1682, Thiền sư Hương Hải dẫn theo năm chục đệ tử của phái thiền Trúc Lâm bỏ Đàng Trong ra Đàng Ngoài. Ở Thuận Hóa thiếu Tăng sĩ, nên chúa Nguyễn Phước Tần phải mời Tổ sư Nguyên Thiều từ Qui Nhơn ra Thuận Hóa hoằng truyền Phật pháp, Tổ lập chùa Hà Trung ở gần cửa biển Tư Dung và chùa Quốc Ân ở Phú Xuân (Huế). Đến khoảng năm 1687-1690, chúa Nguyễn Phước Trăn nhờ Tổ sư Nguyên Thiều trở về Trung Quốc thỉnh thêm Tăng sĩ, kinh sách PG, Phật tượng, pháp khí sang Đàng Trong. Tổ hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp. Chúa hỗ trợ cho Tổ khai Đại giới đàn ở chùa Thiên Mụ. Các Thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm, một số Thiền sư từ Trung Quốc sang, các Tăng sĩ trẻ ở Đàng Trong tham dự đông đủ. Vì lý do trên, và từ sau Đại giới đàn đó ở chùa Thiên Mụ, các Thiền sư hoằng hóa ở Đàng Trong thời đó, hầu hết đều thuộc truyền thừa của Tổ sư Nguyên Thiều, hoặc thuộc phái thiền Lâm Tế và còn tiếp tục truyền thừa cho tới thời hiện đại.

Đầu năm 1691, chúa Nguyễn Phước Trăn mất, con là Nguyễn Phước Châu lên thay.

Năm 1692-1694, một người Hoa tên A Ban, sau đổi tên là Ngô Lãng, cùng với một số tướng sĩ Chiêm Thành nổi lên chống chúa Nguyễn Phước Châu ở trấn Thuận Thành, chúa phải sai Cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh đánh dẹp. Cũng trong năm 1694, Chưởng cơ Nguyễn Phước Thông và Nguyễn Phước Huệ âm mưu lật đổ chúa Nguyễn Phước Châu nhưng thất bại và bị bắt giết. Đồng thời, một người Hoa ở Qui Nhơn tên là Quảng Phú kết hợp với một người Việt ở Quảng Ngãi tên Linh, tự xưng Linh Vương nổi loạn, đúc binh khí, đóng chiến thuyền chống chúa Nguyễn. Mãi đến năm 1695, triều đình mới đánh dẹp được.

Tổ sư Nguyên Thiều cùng các đệ tử hoằng hóa ở các chùa Kim Cang, Đại Giác, Long Thiền (Đồng Nai), chùa núi Châu Thới (Bình Dương)... hoàn thành tốt đẹp các Phật sự trên, nên tín đồ càng đông, PG phát triển rộng xuống đến Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh).

Ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728), Tổ sư Nguyên Thiều se mình, cho triệu tập môn đồ tứ chúng, giảng dạy huyền cơ, di chúc mật ngữ. Tổ sư bảo lấy bút viết bài kệ :

Tịch tịch cảnh vô ảnh

Minh minh châu bất dung

Đường đường vật phi vật

Liêu liêu không vật không.

Tạm dịch :

Lẳng lặng gương không ảnh

Sáng sáng ngọc không hình

Rõ ràng vật không vật

Vắng lặng không chẳng không.

Viết xong, Tổ sư ngồi thiền định mà viên tịch, thọ 81 tuổi. Đồ chúng lập tháp thờ ở sân trước, phía trái chùa Kim Cang ở Đồng Nai.

Nhân lễ Phật Đản năm 1729, đệ tử của Tổ sư Nguyên Thiều ở Phú Xuân xin với chúa Nguyễn Phước Trú, chúa ban cho bài ký minh: “Sắc tứ Hà Trung tự, Hoán Bích Thiền sư tháp ký minh” (1), khắc trên bia trước tháp vọng của Tổ ở Phú Xuân (tháp ở gần chùa Trúc Lâm, thành phố Huế).

II.- ẢNH HƯỞNG CỦA TỔ SƯ NGUYÊN THIỀU ĐỐI VỚI PG ĐỒNG NAI-GIA ĐỊNH

Qua phần hành trạng trên, chúng ta thấy rằng: Tổ sư Nguyên Thiều là người Trung Hoa, nhưng suốt cuộc đời hoằng truyền chánh pháp đều hoạt động ở lãnh thổ Đàng Trong của nước Đại Việt. Tổ tạo được nhiều công đức và ảnh hưởng sâu rộng đối với PG Đàng Trong. Tổ phát huy tông phong của phái thiền Lâm Tế của Trung Quốc, đồng thời cũng tiếp thu tinh hoa của phái thiền Trúc Lâm, đặc trưng của Thiền tông Việt Nam. Vì vậy, phái thiền Lâm tế được Tổ sư Nguyên Thiều và pháp tử xiển dương ở Việt Nam, không còn thuần túy của tông phong phái thiền Lâm Tế của Trung Quốc, mà mang nặng ảnh hưởng của phái thiền Trúc Lâm của Việt Nam. Phái thiền Lâm Tế ở Việt Nam, không còn thuần túy “tham công án”, “hét”, “bổng” (đánh) ; mà là sự pha trộn nhuần nhuyễn giữa Thiền tông - Mật tông và Tịnh độ. Do đó, nhiều Thiền sư ở Việt Nam thường sớm có thần thông, thường dùng nước lạnh hoặc phù chú để trị bệnh giúp bá tánh. Đa số Thiền sư Việt Nam không chuyên tu trong các thiền viện như quan niệm “xuất thế” của Thiền tông Trung Quốc, mà sống trong xã hội, vừa tu học vừa hành đạo theo quan niệm “nhập thế” của Thiền tông Việt Nam.

Hầu hết các Thiền sư ở Việt Nam đều mang danh “Lâm Tế chánh tông” chỉ vì các biến cố chính trị; thực ra, các Thiền sư Việt Nam trước đây (trước thời Pháp thuộc) đều tu hành theo tông phong của phái thiền Trúc Lâm của Việt Nam.

Các đệ tử và pháp tôn của Tổ sư Nguyên Thiều hoằng truyền Phật pháp theo pháp môn tu hành của phái thiền Trúc Lâm, giúp cho PG Đàng Trong phát triển mạnh và còn ảnh hưởng sâu rộng cho đến thời hiện đại. Sau thời gian tu học, các đệ tử và pháp tôn của Tổ sư Nguyên Thiều vân du hoằng hóa, mở rộng ảnh hưởng khắp Đàng Trong, riêng ở vùng Đồng Nai-Gia Định có những Thiền sư nổi danh và còn truyền thừa cho đến hiện nay như sau :

1- Thiền sư Thành Đẳng-Nguyệt Ân và pháp tử

Thiền sư Thành Đẳng-Nguyệt Ân hay Minh Lượng (1686-1769) theo học với Tổ sư Nguyên Thiều ở chùa Kim Cang, sau đó đến trụ trì chùa Đại Giác ở cù lao Phố (Biên Hòa). Sư cũng vân du hoằng hóa, khai sơn các chùa Vạn Đức (ở tỉnh Quảng Nam), chùa Bảo Phong (tỉnh Khánh Hòa).

Thiền sư Thành Đẳng có nhiều đệ tử, nhưng quan trọng và nổi danh nhứt là Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc.

* Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc (1725-1821) thọ giáo với Hòa thượng Thành Đẳng ở chùa Đại Giác. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát phát động mạnh phong trào di dân ở phủ Gia Định, Thiền sư Phật Ý theo lớp di dân đó đến huyện Tân Bình, lập chùa Từ Ân và sau kiêm quản luôn chùa Khải Tường (quận 3, TP Hồ Chí Minh). Trong thời chúa Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn, chúa đã phải tạm ngụ ở chùa Từ Ân và Khải Tường một thời gian, Hoàng tử Nguyễn Phước Đảm (sau là vua Minh Mạng) được sanh tại chùa Khải Tường. Vì vậy, vua đã sắc tứ cho hai chùa này thành: chùa Sắc tứ Từ Ân và chùa Quốc ân Khải Tường.

Thiền sư Phật Ý có các đệ tử hoằng hóa nổi tiếng ở Đồng Nai-Gia Định như sau:

- Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (?-1828) được thỉnh vào trụ trì chùa Giác Lâm vào năm 1772. Chùa Giác Lâm được thành lập vào năm 1744 và là một trong những chùa cổ nổi tiếng nhất ở Nam Bộ. Thiền sư Viên Quang góp nhiều công đức trong việc phát triển PG Nam Bộ. Sư cũng đã khai sơn chùa Giác Viên, hiện cũng là một chùa cổ có nhiều cổ vật nhất ở TP Hồ Chí Minh.

Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang có các đệ tử nổi tiếng ở Gia Định:

* Tiên Giác-Hải Tịnh (1788-1875) hay Tế Giác-Quảng Châu kế thế trụ trì chùa Giác Lâm và Giác Viên. Sau đó, Thiền sư Tiên Giác được vua mời làm Tăng cang chùa Thiên Mụ và chùa Giác Hoàng ở kinh đô Huế. Thiền sư Tiên Giác được Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương mời về trụ trì chùa Tây An ở núi Sam (Châu Đốc - tỉnh An Giang) và giúp phát triển PG ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

* Tiên Huệ-Tịnh Nhãn (?-1843), trụ trì chùa Thiên Mụ (Huế), sau đó về hoằng hóa ở chùa Thiên Phước và chùa Đức Lâm ở Thủ Đức. Sư còn có các đệ tử hoằng hóa ở chùa Hưng Long, Phước Lâm ở Bình Dương.

* Thiền sư Tổ Đạt-Trí Tâm khai sơn chùa Long Thạnh (Bà Hom - TP Hồ Chí Minh) còn truyền thừa cho đến hiện nay. Cố Hòa thượng Bửu Ý là pháp tử của tổ đình này.

* Thiền sư Tổ Ấn-Mật Hoằng trụ trì chùa Đại Giác, được vua Gia Long cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế, sau về trụ trì và viên tịch tại chùa Quốc Ân.

2- Thiền sư Minh Vật-Nhứt Tri (?-1786) và truyền thừa

Thiền sư Minh Vật-Nhứt Tri kế thế Tổ sư Nguyên Thiều hoằng hóa ở chùa Kim Cang (Đồng Nai), có các đệ tử hoằng hóa nổi danh ở Đồng Nai-Gia Định:

* Thiền sư Thiệt Thoại-Tánh Tường (1741-1817), khai sơn chùa Huê Nghiêm ở Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh).

* Thiền sư Phật Chí-Đức Hạnh khai sơn chùa Long Nhiễu ở Thủ Đức.

* Thiền sư Thiệp Thành-Liễu Đạt hay Hòa thượng Liên Hoa (1759-1823) hoằng hóa ở chùa Sắc tứ Từ Ân và chùa Quốc ân Khải Tường, sau được vua Gia Long cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế.

Hòa thượng Liên Hoa có các đệ tử nổi danh :

- Thiền sư Tế Tín-Chánh Trực hoằng hóa ở chùa Sắc tứ Từ Ân.

- Thiền sư Tế Chánh-Bổn Giác (1771-1851) hoằng hóa ở chùa Sắc tứ Từ Ân, sau được vua cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ và chùa Giác Hoàng, trụ trì chùa Quốc Ân ở kinh đô Huế.

- Thiền sư Tế Bổn-Viên Thường (1769-1848), trụ trì chùa Long Quang, chùa Pháp Vân và Tăng cang chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế.

- Thiền sư Tế Triệt-Giác Nguyên khai sơn chùa Tân Long ở Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp), hoằng hóa nổi tiếng ở miền Tây Nam Bộ.

3- Thiền sư Thành Nhạc-Ẩn Sơn

Thiền sư Thành Nhạc-Ẩn Sơn hoằng hóa ở chùa núi Châu Thới (Bình Dương) và chùa Long Thiền (Biên Hòa). Thiền sư Thành Nhạc có đệ tử là Thiền sư Phật Chiếu-Linh Quang. Sư Phật Chiếu khai sơn chùa Phước Tường ở Thủ Đức.

4- Thiền sư Thành Chí-Pháp Thông

Thiền sư Thành Chí-Pháp Thông hoằng hóa ở chùa Hưng Long, chùa Hoàng Long và chùa Bửu Phong trên núi Bửu Long (Biên Hòa).

Trên đây chỉ là các đệ tử và pháp tử của Tổ sư Nguyên Thiều hoằng hóa nổi danh ở vùng Đồng Nai-Gia Định; Tổ còn nhiều đệ tử và pháp tôn khác hoằng hóa khắp lãnh thổ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn:

- Thiền sư Minh Giác-Kỳ Phương (1682-1744) với các đệ tử là Thiệt Kiến-Liễu Triệt (chùa Thập Tháp ở Bình Định) và Phật Tĩnh-Từ Nghiêm (chùa Hưng Long) có các đệ tử hoằng hóa ở miền Tây Nam Bộ.

- Thiền sư Minh Hằng-Định Nhiên, Thiệt Tánh-Trí Hải hoằng hóa ở chùa Quốc Ân (Huế).

- Thiền sư Minh Hải-Pháp Bảo tự Đắc Trí hay Pháp Hóa (1670-1754), khai sơn chùa Chúc Thánh ở Hội An (Quảng Nam) và chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi), có một hệ thống truyền thừa rộng khắp từ Trung Bộ vào đến Nam Bộ từ đó cho đến nay.

- Hòa thượng Hoàng Long hoằng hóa ở Hà Tiên.

Tổ sư Nguyên Thiều đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển PG ở Đồng Nai-Gia Định nói riêng, và PG Đàng Trong thời các chúa Nguyễn (từ sông Gianh vào đến Hà Tiên). Giáo hội PG Việt Nam nên có những công trình nghiên cứu hoàn hảo hơn mới thấy hết vai trò quan trọng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với PG Việt Nam, và có như vậy mới phát hiện thêm nhiều Thiền sư tài đức khác của PG Việt Nam (2).« 

(1) Tài liệu cũ cho rằng bài ký minh này là của chúa Nguyễn Phước Châu là không đúng. Bài này được ban vào năm Bảo Thái thứ 10, tức năm 1729, là của chúa Nguyễn Phước Trú.

(2) Xem thêm sách “Lịch sử PG Đàng Trong” của Nguyễn Hiền Đức - Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995.
 
 

Tổ sư Minh Đăng Quang với chí nguyện 
Nối truyền Thích Ca chánh pháp
Thượng tọa THÍCH GIÁC TOÀN


I. VÀI NÉT VỀ TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG
Tổ sư Minh Đăng Quang, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Huờn, sinh năm 1923, tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Năm 15 tuổi, Ngài xin phép thân phụ qua xứ Chùa Tháp Nam Vang để tầm sư học đạo. Cuối năm 1941, Ngài về lại Sài Gòn, sau đó vâng lời thân phụ lập gia đình năm 1942. Một năm sau, người bạn đời và đứa con thơ đều thọ bệnh rồi lần lượt qua đời. Vào năm 1943, một lần nữa Ngài xin phép thân phụ lên vùng núi Thất Sơn, ẩn tu tròn một năm. Trong năm 1944, Ngài đến đầu gành Mũi Nai, Hà Tiên an trú thiền định 7 ngày đêm và chính nơi đây Ngài ngộ được ý pháp "Thuyền Bát Nhã ngược dòng đời cứu độ chúng sinh". Từ đó Ngài lên đường hành cước giáo hóa theo hạnh "Một bát cơm ngàn nhà...". Một hôm, trên đường vân du hóa đạoa có một thiện nam cảm phục đạo phong cao khiết và cốt cách đoan nghiêm nên thỉnh Ngài về giáo hóa ở Linh Bửu tự, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.

Nơi đây suốt 3 năm (1944-1947), buổi sáng Ngài đi khất thực, đến trưa Ngài thọ trai, buổi chiều Ngài giáo hóa, buổi tối Ngài tham thiền nhập định, nêu một tấm gương sáng về đời sống phạm hạnh thanh tịnh, y theo truyền thống của Phật Tăng thời Chánh pháp. Đầu năm 1947, Ngài rời Linh Bửu tự, quyết tâm thực hiện tâm nguyện "Nối truyền Thích Ca chánh pháp - Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam". Từ Phú Mỹ, Ngài đi khắp nơi để giáo hóa như Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Thủ Thừa, Phú Lâm, Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa, Vũng Tàu... sau đó là khắp các tỉnh miền Tây, đồng bằng Nam Bộ.

Sau tám năm tiếp Tăng độ chúng, khuyên tu khuyến thiện, giáo hóa bá tánh cư gia không một ngày dừng nghỉ, vào ngày mùng 1 tháng 2 năm Giáp Ngọ (1954), trên đường hành đạo từ Sa Đéc xuống Cần Thơ, khi đi ngang qua thị trấn Cái Vồn (nay là huyện Bình Minh) thì Ngài đã hoan hỷ đi vào "lửa nạn", vui trả nghiệp quả trong nhiều đời kiếp luân hồi. Thế rồi Ngài vắng bóng, biền biệt cho đến ngày nay đã 44 năm rồi (1954-1998), Trong thời gian giáo hóa, Ngài có soạn ra bộ Chơn lý gồm 69 quyển và tập Bồ tát giáo. Hai tác phẩm Pháp bảo cao quý còn lại này chứa đựng những tư tưởng đặc thù phát xuất từ suối nguồn tự chứng tự ngộ của bản thân, dựa trên nền tảng là pháp môn Giới - Định - Tuệ truyền thống của đạo Phật.

II. NGUỒN CỘI TÂM LINH VÀ BIỂU TƯỢNG HOA SEN VỚI ĐÈN CHƠN LÝ

1. Nguồn cội tâm linh:

Tổ sư Minh Đăng Quang có một nhơn duyên thù thắng đối với giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Tổ sư sinh ra đời cách Đức Phật Tổ trên 2500 năm, vậy mà khi bừng ngộ ra ánh sáng Chánh pháp của Đức Phật, của giáo pháp thì tức khắc tâm linh phấn chấn, Tổ sư đã tuyên bố và khẳng định con đường hành đạo phải là "Nối truyền Thích Ca chánh pháp". Từ suối nguồn tâm linh vi diệu này, Tổ sư tiếp tục khơi thông nguồn mạch, thuận duyên hành đạo trong cộng đồng dân tộc, khai sơn "Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam", một sắc thái Phật giáo đặc thù, biệt truyền tại miền Nam Việt Nam.

Với phương châm "Nối truyền Thích Ca chánh pháp", chúng ta thấy Tổ sư Minh Đăng Quang quyết chí đi theo con đường truyền thống mà Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni đã vạch ra. Tổ sư đã thực hiện thành tựu và lưu truyền cho hậu thế hữu duyên một dòng truyền thừa Chánh pháp với ba pháp yếu quan trọng sau đây:

a) Tinh thần viễn ly trong hạnh xuất gia: Các nay hơn 25 thế kỷ, trên trái đất này, xuất hiện một Thái tử Tất Đạt Đa có chí nguyện vĩ đại: giải quyết tận căn để những nỗi đau của thân phận con người. Ngài đã tự thân thể nghiệm và khai phá một con đường tâm linh đưa chúng sinh vượt thoát được khỏi sự chi phối của vô minh, của luân hồi sinh tử, của sinh, già, bệnh, chết. Vì vậy mà yếu chỉ đầu tiên là tư tưởng viễn ly trong hạnh xuất gia.

b) Tinh thần tinh tấn trong tu tập: Suốt 5 năm tìm đạo, 6 năm khổ hạnh, Thái tử không bao giờ giải đãi hay biểu lộ sự giải đãi, buông trôi. Từ khi rời hoàng cung, dấn thân trong núi rừng, nắng mưa, sương gió..., Ngài chỉ một lòng tìm đạo, học đạo, t hiền quán, thân chứng và an trú trong đạo quả, hoằng pháp độ sinh đến khi nhập Niết bàn, Ngài nêu lên m ột tấm gương sáng về tinh tấn ba la mật.

c) Tinh thần giải thoát trong hoằng hóa độ sinh: Người tu xuất gia khi chứng đạt đạo quả rồi thì bước kế tiếp là thể hiện đức hạnh giải thoát trên đường hoằng hóa độ sinh. Tự mình đặt công hạnh độ sinh như là một bổn phận, một sứ mạng thiêng liêng, không ngại gian lao, không từ khó nhọc. Người làm đạo phải có đủ nhẫn lực và tư duy lực, đồng thời xem sự kham nhẫn như là niềm vui giải thoát trên đường tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự.

Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương quay về với cội nguồn tâm linh, quyết tâm thực hiện truyền thống Giới - Định - Tuệ, phát huy tinh thần viễn ly trong hạnh xuất gia, tinh tấn trong tu tập và chu toàn đức giải thoát trên đường hoằng hóa độ sinh. Đối với đời sống cộng đồng, cọng trú tu học trong những ngôi già lam tịnh xá, Tổ sư nêu lên phương châm:
Nên tập sống chung tu học:
Cái SỐNG là phải sống chung,
Cái BIẾT là phải học chung,
Cái LINH là phải tu chung.
Sống chung tu học để nung đúc, rèn luyện, tăng trưởng cái sống, cái b iết, cái linh chính là cụ thể hóa tinh thần Tam tụ Lục hòa mà chư Phật đã giáo huấn tự ngàn xưa.

2. Biểu tượng hoa sen với đèn chơn lý:

Tổ sư Minh Đăng Quang chọn hoa sen và ngọn đèn chơn lý làm biểu tượng cho dòng pháp "Nối truyền Thích Ca chánh pháp - Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam", hiện nay là hệ phái Khất sĩ. Tổ sư đã bày tỏ ý hướng đem Chánh pháp thanh tịnh của chư Phật (hoa sen), soi đường dẫn lối cho người hữu duyên (ngọn đèn chơn lý). Đó là pháp phụng thờ Chánh pháp một cách tốt đẹp nhất.
T
rong quyển Chơn lý "Trên mặt nước" (số 19), Đức Tổ sư có nói rằng sen có phẩm chất là ở trong bùn nước mà vượt khỏi bùn nước. Hạt bùn, hạt đất tượng trưng cho một người hay một gia đình ở dưới thấp, ác quấy tội lỗi; ích kỷ, rời rã từng hột, từng đơn vị. Hạng này bị đời sa thải giẫm đạp. Nước là xã hội thánh thiện theo duyên trôi chảy. Sen là bậc giải thoát Khất sĩ chư Tăng Sư: lời nói như hoa, việc làm như lá, ý niệm như gương; tất cả đều cao vượt lên không gian chứ không thấp kém như ở trong n ước bùn thế sự. Gốc sen là chỉ cho người tu còn phải nương trần thế về vật chất, còn đi đứng trong xã hội; nhưng tâm trí thì đã cao xa khác hẳn.

Sen khác đất nước là có sự sống, có linh hồn do đất nước; cũng như nhờ các việc thiện ác trong xã hội mà nuôi trí tạo tâm. Sen có giác ngộ, có nghĩa sống hơn thiên hạ. Sen đền ơn cho đất nước là thay cho đất nước chịu nắng mưa sương gió ben trên, chịu sự tai nạn động chạm từ bên ngoài; lá, hoa, quả sen che chở giữ gìn cho nước được yên lặng sạch trong bằng phẳng sáng rỡ; cọng sen cản không cho nước xoáy lộn làm cho nước đứng ngừng lóng bùn xuống đáy. Cũng vậy, người xuất gia đền trả cho đời bằng gương nết hạnh hiền lương: lời nói (hoa), việc làm (lá), ý niệm (quả) giúp cho xã hội, gia đình, cá nhân được bình yên trong sạch, sáng láng, đứng vững, không rối loạn.

Cũng trong quyển Chơn lý này, Tổ sư nói tiếp rằng nhìn thoáng lại quá trình tiến hóa của địa cầu và nhơn loại từ thuở ban sơ ít người nên hồn nhiên, đến khi đông vầy thì phân ranh chủng tộc lấn cướp giành nhau mà sinh ra sự ích kỷ riêng tư giả dối, đốc xúi rủ ren, mạnh hiếp yếu, đông hiếp ít. Cho nên trần thế trở thành si mê dơ bẩn, tham lam sân hận, một bãi đất bùn, một nghĩa địa, phân bùn của hồ sen. Nhưng nhờ đó mànuôi sinh được hạt giống giác ngộ là sen. Cũng như trang hiền sĩ chiêm nghiệm sự ác quấy giữa chốn chợ đời mà tìm pháp vượt lên. Cũng nhờ sự quấy phá của học trò lớp dưới nên mới có lớp cao trên, cũng nhờ có khổ sở tội lỗi ở đời nên có kẻ đạo đức không muốn trở lại đời vì đã ghê sợ chán chê. Như vậy đời hại người tức là đời xúi người làm Trời Phật; rồi Trời Phật trở lại thương xót che chở cho đời. Hiểu được ý nghĩa đó mà Trời Phật không thối chí ngã lòng mà gắng công tiến lên thành trời Phật thương xót cho đời đặng chỗ hơn người đáng tôn kính là vậy. Ai cũng nên tìm đường giải thoát làm Phật, vượt khỏi thiện ác nước bùn... như lá hoa trái sen vượt lên không gian. "Đời là cái hồ nước để trồng sen. Ai ai rồi cũng là sen hết".

Như vậy, biểu tượng Hoa sen và Ngọn đèn chơn lý chính là lý tưởng, chính là hoài bão của Tổ sư về một quốc độ, một cuộc sống an vui, thuần thiện của tất cả mọi người. Trong đó người tu phải thể hiện một đời sống tu tập trong sáng, thanh thoát, thắp lên ngọn đèn chơn lý phụng hiến cho đời.

III. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA HỆ PHÁI SAU 50 NĂM HÀNH ĐẠO

Tổ sư Minh Đăng Quang khai mở giáo pháp từ năm 1994 nhưng đến năm 1948 thì những bước chân hoằng hóa của Tổ sư và đoàn du tăng mới xuất hiện ở vùng Chợ Lớn - Sài Gòn - Gia Định. Ngay từ buổi đầu, những nhà sư đầu trần chân đất, từng bước hóa duyên; thanh bần đơn giản đã gây ngạc nhiên cho người dân thành thị vốn quen với sặc sỡ phồn hoa, ồn ào náo nhiệt. Điều này đã được một thi sĩ Phật tử cảm nhận rồi ghi lại:
Sài Gòn hoa lệ từ xưa,
Trăng phơi cánh mộng, gió đưa điệu đàn.
Một ngày kia, dưới nắng vàng,
Bỗng trang nghiêm hiện: một đoàn du tăng.
Dân thành thị những băn khoăn,
Họ là ai? - Xin thưa rằng họ đây.
Là môn đệ của Đức Thầy,
Minh Đăng Quang chiếu tự rày mười phương.
(Ánh Minh Quang - tiểu sử thi hóa)

Từ năm 1946 đến năm 1954, đoàn du tăng Khất sĩ đầu tiên do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập thâu nhận hàng trăm Tăng Ni xuất gia nhập đạo. Những vị đệ tử đầu tiên này được Tổ sư trực tiếp giáo dưỡng, hầu hết là những vị có nhiều thiện duyên nên chẳng bao lâu đã trở nên những vị giới hạnh tinh nghiêm, đạo phong mẫu mực trong tu tập và hành đạo.

Mỗi đoàn du tăng hoặc ni được thành lập với túc số từ 20 vị trở lên. Theo sự điều động của Tổ sư, các đoàn chia nhau đi hành đạo khắp các vùng Phú Lâm, Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Định và các tỉnh khu vực miền Đông và Tây Nam Bộ. Dù ở nơi nào, mỗi sáng các nhà sư trong chiếc y vàng, mỗi sáng trình tự hóa duyên, trưa giờ ngọ tìm nơi tàng cây bóng mát hay miếu cổ vắng vẻ thọ thực đạm bạc thanh bần tùy theo số phẩm thực đã được hóa duyên. Chiều tối các nhà sư lại thuyết kinh giảng đạo tại các khu đông dân cư, nhà lồng chợ, sân trường học... để khuyên tu khuyến thiện cho bá tánh cư gia. Cứ như vậy, theo thời gian hình ảnh những nhà sư rày đây mai đó, vân du hóa đạo, không chấp giữ tiền bạc, của cải bổn đạo riêng tư, đã tạo dấu ấn thân thương trong tâm thức của hàng nam nữ Phật tử khắp nơi. Rồi lần lượt các nhà hảo tâm phát tâm cúng dường cơ sở đất đai, bá tánh chung lòng xây dựng những ngôi tịnh xá đạo tràng để chư Tăng có nơi tạm trú tu học và cư gia có nơi quy ngưỡng, thọ học đạo lành.

Tròn 50 năm qua (1948-1998), tại TP Hồ Chí Minh có khoảng 50 ngôi tịnh xá được thành lập như 50 đóa sen để làm nơi tu học và cho bá tánh có nơi nương tựa tinh thần. Sau đây là một số đạo tràng tiêu biểu: Tổ đình Pháp viện Minh Đăng Quang, phường An Phú, quận 2, xây dựng năm 1968, là Tổ đình của hệ phái (và Giáo đoàn IV); tịnh xá Trung Tâm, phường 13, quận 6, xây dựng năm 1966, di tích của cố Trưởng lão Thích Giác Lý, vị Trưởng đoàn khai sáng Giáo đoàn V; tịnh xá Ngọc Chánh, phường 24, quận Bình Thạnh, xây dựng năm 1953, trung tu năm 1988, di tích của Tổ sư Minh Đăng Quang tại Gia Định; tịnh xá Trung Tâm, phường 5, quận Bình Thạnh, xây dựng năm 1965, nguyên là văn phòng của hệ phái; tịnh xá Ngọc Đăng, phường 12, quận Bình Thạnh, xây dựng năm 1965, di tích của Trưởng lão Thích Giác Tánh, vị Trưởng đoàn khai sáng Giáo đoàn II; tịnh xá Ngọc Phương, phường 1, quận Gò Vấp, xây dựng năm 1957, nguyên là văn phòng của Ni giới hệ phái, di tích của Ni trưởng Thích nữ Huỳnh Liên; tịnh xá Ngọc Phú, phường 10, quận Tân Bình, xây dựng năm 1969, di tích của Sư bà Thích nữ Trí Liên tại Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.

IV. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TINH THẦN HỘI NHẬP CỦA HỆ PHÁI TRONG CỘNG ĐỒNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Đầu năm 1980, Phật giáo Việt Nam đã thành lập Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam, hệ phái Khất sĩ là một trong 9 tổ chức thành viên có 2 đại biểu tham gia Ban Vận động: Thượng tọa Thích Giác Toàn đại diện cho Tăng già Khất sĩ và Ni sư Thích nữ Huỳnh Liên đại diện cho Ni giới Khất sĩ.

Đến tháng 11 năm 1981, Hội nghị Đại biểu thống nhất Phật giáo thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại chùa Quán Sứ, thủ đô Hà Nội, thành công và hệ phái Khất sĩ, một tổ chức Phật giáo biệt truyền tại miền Nam là một trong 9 tổ chức đứng ra thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thời đại đất nước hòa bình, độc lập và thống nhất. Chư tôn đức Tăng Ni tiêu biểu của hệ phái hài hòa tham gia vào Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự, và các ban ngành Trung ương Giáo hội. Đến khi Ban Trị sự các tỉnh, thành được thành lập thì hầu hết chư Tăng Ni Khất sĩ ở các tỉnh, thành cũng tùy theo trường hợp cụ thể đã tham gia và được cơ cấu vào các ban ngành Phật giáo ở địa phương.

Ngay từ thời kỳ đầu khai sơn hệ phái, Tổ sư Minh Đăng Quang đã nêu cao tinh thần thống nhất và hội nhập trong cộng đồng Phật giáo. Đối với tập thể Tăng già, Ngài chủ trương người tu xuất gia: "Nên tập sống chung tu học: - Cái sống là phải sống chung, cái biết là phải học chung, cái linh là phải tu chung". Đối với cư sĩ tại gia, Ngài cũng chủ trương rất tích cực và gắn bó trong cuộc sống: "Mỗi người phải biết học chữ, mỗi người phải biết giữ giới, mỗi người phải biết tránh ác, mỗi người phải biết (học đạo) làm thiện". Vì vậy mà hệ phái Khất sĩ đã hòa nhập nhuần nhuyễn vào quá trình thành lập và những hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hệ phái Khất sĩ hiểu rõ nguyên tắc" thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức"; đồng thời cũng có ý thức tự biết giữ gìn những truyền thống tốt đẹp và đặc thù của hệ phái biệt truyền mà Tổ sư Minh Đăng Quang đã dày công tạo dựng và các bậc tôn túc trưởng thượng đã kế thừa, phát huy cho đến ngày nay.

Ngày nay, cùng với nhân dân cả nước và nhân dân thành phố, chúng ta ôn lại dấu tích lịch sử 300 năm trên vùng đất quê hương thân yêu "Gia Định - Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh"; cũng chính là khắc họa lại những nét đẹp mà chư vị Tổ sư tiền hiền đã đóng góp cho "Đạo pháp và Dân tộc" bằng cả tấm lòng thủy chung chan hòa hạnh phúc thiêng liêng.
TP. HCM, kỷ niệm Gia Định-Sài Gòn-TP.Hồ Chí Minh 300 năm
 
 

Một số nét đặc thù của Phật giáo Nam Bộ
THÍCH TÂM THIỆN 

Như chúng ta đã biết, lấy mốc thời gian từ mùa Xuân năm Mậu Dần 1698, khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thừa lệnh chúa Nguyễn mở cuộc Nam tiến để mở rộng đất đai, đồng thời thiết lập một nền hành chính mới trên vùng đất phía Nam, đặc biệt tại Gia Định-Sài Gòn; và tính cho đến nay, cũng mùa Xuân Mậu Dần 1998, là vừa tròn 300 năm. Tuy nhiên, nếu nói rộng ra cho toàn vùng Nam Bộ, thì phải kể đến sự phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài trong cuộc “Trịnh-Nguyễn phân tranh” lấy sông Gianh làm ranh giới, vào thế kỷ thứ XIII. Đây là cột mốc quan trọng ảnh hưởng đến tính chất lịch sử của Phật giáo (PG) Đàng Trong nói chung và Nam Bộ nói riêng. Và cũng từ đó, có thể tìm lại những nét đặc thù của PG Nam Bộ trên phạm vi rộng và PG Gia Định-Sài Gòn trên phạm vi hẹp. Vì thế ở đây, chúng tôi xin trình bày sự phát triển của PG Nam Bộ qua một số nét cơ bản như sau: 

1. Địa lý 

Về mặt địa lý, Nam Bộ là một vùng đất lớn, bao gồm các vùng: Đông Nam Bộ, Gia Định-Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh) và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đây là vùng đất vừa hoang vu, nhiều thú dữ, nhiều thiên tai, nhiều kênh rạch, vùng nhiệt đới gió mùa nhưng lại vừa là vùng đất có những cánh đồng bát ngát, màu mỡ, phì nhiêu, sông nước bao la, cảnh vật hữu tình, thơ mộng. Vì lẽ đó, trong gần bốn thế kỷ: XVII, XVIII, XIX và XX, Nam Bộ - một vùng đất đầy hứa hẹn, đã đón tiếp nhiều thành phần dân cư khác nhau, từ nhiều hướng khác nhau và thời gian khác nhau. Như một sự tất yếu, khi con người đi đến đâu, cố nhiên họ cũng mang theo những tập quán, phong tục, tín ngưỡng và tôn giáo của mình đi đến đó. Đây là một trong những điểm chung nhất về sự du nhập và tiếp biến văn hóa và tôn giáo của toàn thể nhân loại. Từ chi tiết này, cho thấy rằng yếu tố văn hóa tôn giáo của vùng đất Nam Bộ luôn luôn mang tính cách tổng hợp và dung hòa. Điều này là một điểm nổi bật trong suốt quá trình du nhập và phát triển của PG đối với tất cả các nước khác trên thế giới; nó mang tính cách “y tha khởi” ở mọi lúc, mọi nơi mà phần sau chúng ta sẽ bàn đến. 

2. Sự du nhập của Phật giáo 

Vốn là một nguồn văn hóa vừa vật thể và vừa phi vật thể, PG đã lặng lẽ cùng với niềm tôn kính của con người, đi vào vùng đất mới - Nam Bộ. Ở đây, có thể khái quát hóa một số hướng du nhập của PG như sau:

Trước hết phải đề cập đến hướng du nhập từ Thuận-Quảng, từ khoảng thế kỷ thứ XVII về sau, PG đã được các nhà sư người Việt và người Hoa cùng với những đoàn di dân khai phá vùng đất mới truyền vào phía Nam. Một số các ngôi chùa được sử liệu ghi lại, hoặc trên văn bản hoặc bằng di tích, như các chùa Đại Giác, Long Thiền (Đồng Nai), Kim Chương, Từ Ân, Khải Tường (Gia Định). Các ngôi chùa này đều do các Thiền sư từ miền Trung vào khai sơn, dựng lập. Kế đó, là một số các Thiền sư và tướng lĩnh (như Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch...) người Trung Hoa, theo đường thủy trực tiếp truyền bá PG vào các vùng phía Nam như Gia Định, Đồng Nai và Tây Nam Bộ như Mỹ Tho, Cai Lậy, Hà Tiên... (1), và sau cùng là hướng du nhập từ Campuchia - tức PG Nam truyền, do ngài Hộ Tông (2) truyền vào. 

Từ những hướng dẫn trên, có thể nói rằng PG Nam Bộ ngay từ buổi đầu đã mang nhiều màu sắc và hình ảnh phong phú, đa dạng trong cùng một chủ thể mang tên là PG. Đây là điểm vừa tương đồng nếu so sánh với quá trình du nhập của PG vào Việt Nam, và vừa dị biệt nếu so với quá trình du nhập PG vào các miền của đất nước như miền Bắc và miền Trung. Tất nhiên, bên cạnh đó, có những điểm đặc thù cá biệt về sự phát triển của Phật giáo Nam Bộ mà PG miền Bắc và miền Trung không hề có. Điều này sẽ được bàn đến ở phần kế tiếp. 

3. Phật giáo Nam Bộ - một tổng thể thống nhất và đa thù 

Như đã đề cập ngay từ đầu, PG Nam Bộ vốn mang trong nó một sự dung hòa và tiếp biến lẫn nhau từ những “thực thể văn hóa” khác biệt do các nhóm dân cư khác biệt ngay từ khi du nhập vào buổi đầu. Vì lẽ đó, nói đến PG Nam Bộ là nói đến một tổng thể thống nhất và đa thù. Thống nhất là sự chung cùng một tín ngưỡng, cùng một niềm tin tôn thờ Phật pháp. Đa thù là sự biểu hiện khác nhau về hình thức trên các lĩnh vực phong tục, tập quán và văn hóa cộng đồng. Nói một cách cụ thể, vùng đất Nam Bộ có nhiều dân tộc cư trú, trong đó nổi bật nhất là người Việt, người Hoa, người Khơmer, người Chăm v.v.. Từ đó, mỗi dân tộc đều tôn thờ Phật pháp theo truyền thống của họ. Chẳng hạn, người Hoa, người Việt và Chăm thì ảnh hưởng sâu đậm PG Đại thừa; trái lại, người Khmer thì ảnh hưởng thuần túy PG Nam truyền. Điều này không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà nó còn liên hệ chặt chẽ đến cấu trúc địa lý và ngôn ngữ của mỗi dân tộc.

Do đó, từ thế kỷ XVII đến XIX, PG Nam Bộ đã hình thành nên một ngôi nhà PG với đầy đủ cả hai hệ thống Nam truyền và Bắc truyền. Đến những thập niên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, một số hệ phái PG mới được ra đời như hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng năm 1943 tại Vĩnh Long, và giáo phái PG Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939 tại làng Hòa Hỏa (Châu Đốc)... Tuy nhiên, trên thực tế, PG Hòa Hảo mang nhiều màu sắc “tín ngưỡng dân gian” hoặc là “phong trào tín ngưỡng” hơn là một tôn giáo chính thống, mặc dù cũng thực hành các hình thức tín ngưỡng tương tự như một bộ phận tín đồ PG. Trong hai hệ phái và giáo phái mới này, như chúng ta biết, cho đến ngày nay chỉ có hệ phái Khất sĩ là phát triển hơn hết, đồng thời cũng là một bộ phận của Giáo hội PG Việt Nam hiện nay. Vì thế, ngày nay PG Nam Bộ là một tổng thể bao gồm 3 thành phần chính là PG Nam truyền (Nam tông), PG Bắc truyền (Bắc tông) và hệ phái Khất sĩ. Đây là điểm đặc thù trong quá trình hình thành của PG Nam Bộ. 

4. Các dòng thiền du nhập và lưu hành trên đất Nam Bộ 

Nói đến các dòng thiền là nói đến sự truyền bá chánh pháp theo một thứ bậc tôn tin trật tự: thầy truyền pháp cho đệ tử, rồi đệ tử lại tiếp tục truyền lại cho đệ tử nữa v.v.. Cứ như thế, chánh pháp được truyền thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà điểm khởi đầu là đức Phật phú pháp cho vị Tổ thứ nhất - Ma Ha Ca Diếp. Từ đó, trải qua 28 vị Tổ người Ấn Độ cho đến 6 vị Tổ người Trung Hoa, vị Tổ cuối cùng là ngài Huệ Năng. Từ đời của Tổ Huệ Năng, do chấm dứt sự “truyền thừa tâm ấn” nên đã phát sinh thành 5 tông phái gọi là “Nhất chi khai ngũ diệp” (một cành sinh năm lá) bao gồm 5 tông là Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn và Qui Ngưỡng.

Do đó, nếu xét về sự du nhập các dòng thiền Trung Hoa vào Việt Nam (xin nhắc lại là sự du nhập các dòng thiền, chứ không phải là sự du nhập PG nói chung) thì chỉ có hai dòng thiền Trung Hoa được truyền bá sâu rộng tại Việt Nam, đó là dòng Lâm Tế và dòng Tào Động. Cũng tương tự như thế, đối với PG Đàng Trong nói chung và Nam Bộ nói riêng, dòng Lâm Tế và dòng Tào Động được truyền bá sâu rộng. Nhất là dòng Lâm Tế đã có sự phát triển mạnh, có thể nói là một lần nữa “nhất chi khai ngũ diệp” ở Đàng Trong. Vì từ dòng Lâm Tế Trung Hoa, sau khi truyền vào Việt Nam và về sau lại phát sinh thành 5 chi phái. 

* Thứ nhất: Dòng LÂM TẾ TỔ ĐẠO 

Kệ truyền thừa là: 

Tổ Đạo giới định tông 

Phương quảng chứáng viên thông 

Hành siêu minh thiệt tế 

Liễu đạt ngộ chân không 

Đây là dòng thiền kệ chính được truyền vào Nam Bộ, do ngài Tổ Định, hiệu Phổ Trì, dòng Lâm Tế thứ 2, ở tại Phước Kiến, núi Tuyết Phong, truyền thừa. 

* Thứ hai: Dòng ĐẠO BỔN NGUYÊN 

Kệ truyền thừa là: 

Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên 

Minh ư cảo (hồng) nhật lệ trung thiên 

Linh nguỵên quảng nhuận từ phong phổ 

Chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền. 

Dòng kệ này do ngài Đạo Mẫn-Mộc Trần (pháp danh Thông Thiên-Hoằng Giác), chi phái Lâm Tế đời thứ 31, truyền thừa. 

* Thứ ba: Dòng LIỄU QUÁN 

Kệ truyền thừa là: 

“Thiệt tế đại đạo, tánh hải thanh trừng 

Tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phong 

Giới định phước huệ, thể dụng viên thông 

Vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công 

Truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tông 

Hạnh giải tương ưng, đạt ngộ chơn không” 

Đây là dòng thiền kệ chính truyền ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, do Tổ Liễu Quán (1670-1742), người Phú Yên, truyền thừa. 

* Thứ tư: Dòng CHÚC THÁNH 

Kệ truyền thừa là: 

“Minh thiệt pháp toàn chương 

Ấn chơn như thị đồng 

Chúc thánh thọ thiên cửu 

Kỳ quốc tự địa trường 

Đắc chánh luật vi tiên 

Tổ đạo hạnh giải thông 

Giác hoa bồ đề thọ 

Sung mãn nhơn thiên trung” 

Dòng kệ này được lưu xuất từ chùa Chúc Thánh (Quảng Nam-Đà Nẵng) do Thiền sư Minh Hải-Pháp Bảo, người Phúc Kiến, qua Việt Nam hành và truyền đạo. 

* Thứ năm: Đối với cộng đồng Tăng sĩ người Hoa, đa số cũng thuộc dòng Lâm Tế, nhưng theo thiền kệ của ngài Trí Thắng-Bích Dung: 

Kệ truyền thừa là: 

“Trí huệ thanh tịnh, đạo đức viên minh 

Chơn như tánh hải, tịch chiếu phổ thông 

Tâm nguyên quảng lục, bổn giác xương long 

Năng nhơn thánh quả, thường diễn khoan hoằng 

Duy truyền pháp âën, chánh ngộ hội dung 

Kiên trì giới hạnh, vĩnh kế tổ tông” 

Trên đây là năm dòng thiền kệ chính của tông Lâm Tế được truyền thừa tại các tỉnh miền Trung, miền Nam và Tây Nam Bộ. Ba dòng thiền kệ đầu là do các Thiền sư Trung Hoa truyền thừa; riêng dòng kệ Thiệt Diệu Liễu Quán là do Thiền sư Việt Nam truyền thừa. 

Riêng về tông Tào Động, chỉ thấy lưu bố một bài thiền kệ của ngài Thiền sư Tuệ Kinh, đời thứ 31, ở huyện Thọ Xương, tỉnh Giang Tây (Trung Hoa), còn gọi là “Thọ Xương pháp phái”: 

“Tuệ nguyên đạo đại hưng, Pháp giới nhất đĩnh tân 

Thông thiên kiêm triệt địa, Diệu cổ phục đằng kim 

Kim nhật thiền tông chấn, Hoằng khai động thượng truyền 

Chánh trung diệu hiệp chỉ, Hư dung độc chiếu viên” 

Dòng thiền kệ này được phổ biến trong hàng Tăng sĩ và chùa chiền của người Hoa. Tuy nhiên, nó cũng là một trong những dòng thiền kệ chính được truyền thừa ở Nam Bộ. Ngày nay, các chùa Phụng Sơn (quận 11), Thảo Đường (quận 6)... và một số các chùa người Hoa đều thuộc dòng thiền phái này. 

5. Một số các Thiền sư đầu tiên ở Đàng Trong và Nam Bộ 

Theo các nguồn sử liệu, chúng ta có thể biết một số vị Thiền sư đầu tiên truyền bá Phật pháp vào các tỉnh Đàng Trong và Nam Bộ, đại khái như sau: 

* Thiền sư NGUYÊN THIỀU, ngài họ Tạ, pháp tự Hoán Bích, người huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, đồ đệ của HT Khoáng Viên, chùa Báo Tư. Ngài sang Đại Việt vào 1665, đời chúa Nguyễn Phúc Tần. Ngài là người lập chùa Thập Tháp Di Đà (Bình Định), Hà Trung (Thuận Hóa), Quốc Ân (Huế) và tháp Phổ Đồng (Huế). Các Hòa thượng (HT) đệ tử của Ngài là Thành Đẳng, Thành Nhạc; và đệ tử của Thành Đẳng là Phật Ý, người từ Biên Hòa vào Gia Định để truyền đạo. 

* Quốc sư HƯNG LIÊN, thời chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691), người xây dựng chùa Tam Thai (Quảng Nam). Chùa bị hủy diệt bởi chiến tranh vào thế kỷ thứ XVIII, và được trùng tu vào năm 1825, đời vua Minh Mạng. 

* Thiền sư THẠCH LIÊM (tông Tào Động), là một trong những người đầu tiên truyền đạo ở Đàng Trong (Thuận Hóa) theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu (1725-1738). Ngài đã tổ chức Đại giới đàn Thiền Lâm từ mùng 1 đến 12 tháng 4 năm Ất Hợi 1695. Thiền sư Liễu Quán từ Phú Yên ra thọ Sa di tại giới đàn này. Chúa Nguyễn Phúc Chu, pháp danh Hưng Long, nối dòng Tào Động đời thứ 30, đã hết lòng hộ trì chánh pháp và Thiền sư Thạch Liêm. 

* Thiền sư LIỄU THÔNG, pháp danh Chân Giác, thế danh Huỳnh Đậu, sinh năm 1753 tại Thanh Hóa, đã vào Gia Định, vùng đất Cây Mai, lập Phụng Sơn am (nay là chùa Phụng Sơn) để hành đạo. 

* Thiền sư VIÊN QUANG, đệ tử của Tổ Linh Nhạc (Bình Định), pháp danh Nguyên Thiều, trụ trì chùa Tập Phước được xây dựng vào thế kỷ thứ XVIII, đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông là bạn thân và hướng đạo sư của Tổng trấn Gia Định Trịnh Hoài Đức. 

* Thiền sư ĐẠO THÔNG, pháp danh Nguyên Quán, sinh ở Long Thành, Gò Công, đệ tử của Thiền sư Vô Tri. Ông là người trùng tu chùa Long Hoa, được sắc tứ dưới thời vua Gia Long. 

Các Thiền sư nổi tiếng người Trung Hoa sang truyền đạo ở Đàng Trong thường được nhắc đến là ngài Bổn Kiểu và Nguyên Thiều (dòng Lâm Tế), và các Thiền sư người Việt như: Thành Đẳng, Thành Chí, Thành Nhạc, Phật Ý, Tổ Tông-Viên Quang... đây là các Thiền sư đầu tiên truyền giáo ở Đàng Trong và Nam Bộ. 

6. Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh, một trung tâm phát triển của các phong trào chấn hưng PG và là một trung tâm văn hóa PG thịnh hành nhất của cả nước ở thế kỷ XX 

Như chúng ta đã biết, từ nửa sau thế kỷ thứ XVII về sau, sau khi Gia Định được thành lập, một số các chùa đã được xây dựng với kiến trúc hoàn chỉnh như: chùa Kim Chương (1755), chùa Giác Lâm (1746), và tiếp theo sau, dưới các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, các chùa được xây dựng và được sắc tứ như Long Huê, Tập Phước, Từ Ân, Khải Tường, Pháp Vũ, Huệ Lâm (triều Khải Định) v.v.. Điều đó cho thấy rằng PG đang trên đà phát triển mạnh dưới sự hoằng truyền của các vị Tổ như: Phật Ý, Phật Chiếu, Viên Quang, Trí Tâm, Hải Tịnh, Mnh Khiêm, Đạt Bổn v.v... Rồi đến những năm Pháp xâm lược Nam Kỳ, thì cũng chính tại đây - tức Gia Định-Sài Gòn - lại là trung tâm phát triển các phong trào kháng chiến. Lúc bấy giờ, một số các ngôi già lam cổ tự là căn cứ hoạt động cách mạng và cũng là nơi bắt nguồn quan hệ của các phong trào cách mạng với các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng là lý do tại sao một số các chùa cổ bị Pháp hủy diệt. 

Tiếp đến những năm đầu thế kỷ XX, cũng tại Gia Định là trung tâm dấy lên các phong trào chấn hưng PG theo xu thế mới của các nước Phật giáo láng giềng, mà những vị danh tăng thời đó là các HT như Khánh Hòa, Thiện Chiếu, Khánh Anh, Huệ Quang... là những vị tiên phong trong việc chấn hưng PG Việt Nam. Đến năm 1931, lần đầu tiên trong cả nước, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học đã ra đời như một chất xúc tác cực mạnh để từ đó nở rộ các hội đoàn Phật học tại các tỉnh miền Trung, miền Tây và miền Bắc. Cũng trong phong trào này, các tờ báo PG tại Gia Định đua nhau ra đời, như tờ Phật Hóa Tân Thanh Niên, Pháp Âm, Từ Bi Âm, Từ Quang Phật học, Tự Giác... rồi sau đó là các tạp chí như Tịnh Độ, Phật giáo Việt Nam, Hải Triều Âm, Thiện Mỹ, Vạn Hạnh... (và cho đến ngày nay có các tờ Giác Ngộ, nguyệt san Giác Ngộ, Tập văn của Ban Văn hóa Trung ương). 

Đến năm 1963, Sài Gòn còn là trung tâm của các phong trào chống chế độ Ngô Đình Diệm độc tài, đàn áp Phật giáo, và đỉnh cao của nó là ngọn lửa “vị pháp thiêu thân” của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã bừng cháy giữa lòng thành phố. Mãi cho đến năm 1975, Ban Liên lạc PG Yêu nước ra đời, và sau đó là Ban Vận động Thống nhất PG Việt Nam được thành lập năm 1980. Cho đến ngày 4 - 7-11-1981, tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), Hội nghị đại biểu Thống nhất PG Việt Nam ra đời và đã khai sinh Giáo hội PG Việt Nam bao gồm 9 hội đoàn PG. 

Từ những trưng dẫn trên cho thấy rằng, Gia Định-Sài Gòn quả là một chấm son sáng chói trên bản đồ Việt Nam và là một trang sử hào hùng của PG Việt Nam gắn liền với lịch sử quê hương, đất nước và dân tộc Việt Nam. 

7. Kết luận và kiến nghị 

Qua một số nét đặc thù như vừa đề cập ở trên, chúng ta thấy rằng PG tại Nam Bộ nói chung và Gia Định-Sài Gòn nói riêng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc truyền bá chánh pháp của đức Như Lai. Đặc biệt là trong các phong trào như: chấn hưng PG ở những thập niên 30, phong trào đấu tranh chống chế độ Diệm độc tài, đàn áp PG ở những năm của thập niên 60, và các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ dai dẳng, PG Nam Bộ đã tích cực tham gia cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, mưu cầu độc lập, tự do, thanh bình, hạnh phúc cho đất nước và dân tộc. 

Bên cạnh đó, phải nói đến PG Nam Bộ ở những năm cuối cùng của thế kỷ XX, nhất là PG TP Hồ Chí Minh, đây là một trung tâm văn hóa lớn của cả nước, chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến tận các vùng miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Kể từ khi Giáo hội PG Việt Nam ra đời (1981), trải qua hơn 3 nhiệm kỳ, cùng với tình hình phát triển chung của đất nước, PG đã phát triển lên đến đỉnh cao qua các mặt giáo dục, hoằng pháp, đào tạo Tăng Ni, văn hóa, tu sửa và xây dựng các tự viện, đặc biệt là Đại tạng kinh Việt Nam đã từng bước xuất hiện. Tất cả những hoạt động Phật sự trên, có thể nói TP Hồ Chí Minh là trung tâm phát triển nhất trong cả nước. Điều đó khẳng định một niềm tự hào cho chúng ta, mà trước đây gần 300 năm, các vị Tổ sư đầu tiên truyền bá PG vào Nam Bộ đã “trạch đắc long xà địa khả cư”. 

Với một vài nét đặc thù của PG Nam Bộ nói chung và Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh nói riêng, để từ đó chúng ta ôn lại các giá trị truyền thống và giá trị lịch sử mà nó luôn luôn gắn liền với đạo pháp, quê hương và dân tộc, đó là giá trị của lịch sử-văn hóa và văn minh tôn giáo, những giá trị mang tính cách bất biến và vĩnh hằng. Tuy nhiên, trước tình hình thực tế, một số danh lam cổ tự đang bị xuống cấp, một số di vật lịch sử như tượng hình chư Phật, Bồ Tát, La Hán... đang bị biến thái bởi sự bảo quản “một cách dân gian quá đáng”, hoặc bị mất mát... và một số vấn đề tiêu cực khác nữa v.v.. Từ đó, chúng tôi xin kiến nghị lên Ban Trị sự Thành hội PG TP Hồ Chí Minh nên sớm có kế hoạch xây dựng một “viện bảo tàng văn hóa PG Gia Định-Sài Gòn” với một tầm vóc quy mô, hiện đại. Điều đó, một mặt vừa bảo tồn các di vật khảo cổ, các hiện vật lịch sử của PG, lại vừa là trung tâm văn hóa PG của thành phố, để đưa vào tổ chức các hoạt động thuần túy văn hóa của PG. 

300 năm quả là một thời gian ngắn ngủi nếu so vớái chiều dài lịch sử của dân tộc, nhưng 300 năm lịch sử của một vùng đất, của một thành phố đã đem lại cho bao thế hệ những giá trị tinh thần, những giá trị văn hóa, và nhất là những giá trị của tinh thần PG đã góp phần đem lại cho con người một đời sống an lạc, hạnh phúc thực thụ.«

Sách tham khảo: 

1. Trần Văn Giàu (chủ biên), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, nxb TP Hồ Chí Minh, 1987 (tập 1). 

2. Nguyễn Lang, Việt Nam PG sử luận, nxb Văn học, Hà Nội, 1984 (tập II và III). 

3. Huỳnh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường, Sài Gòn-Gia Định xưa, nxb TP. Hồ Chí Minh, 1997. 

4. Trần Hồng Liên, Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ - Việt nam (từ thế kỷ XVII đến 1975), nxb Khoa học Xã hội, TP HCM, 1995. 

(1) Như chùa Tam Bảo (Hà Tiên) và một số các chùa cổ ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Đồng Nai... đều do các vị sư Trung Hoa xây dựng. 

(2) Ngài Hộ Tông, thế danh Lê Văn Giảng, người trực tiếp đưa PG Nam tông từ Campuchia vào Nam Bộ và xây dựng chùa Bửu Quang tại Gò Dưa (Thủ Đức) năm 1939. Đây là ngôi chùa Nam tông Việt Nam đầu tiên ở Nam Bộ. 
 
 

Buổi đầu của Phật giáo Gia Định - Sài Gòn
Thiền Hòa tử huệ chí
I. Thời kỳ khai hoang - truyền đạo 

Đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1744), Tổ Phật Ý vâng lời bổn sư tháp tùng một số di dân, đi từ miền Trung vào Nam truyền bá đạo Phật. Tổ cùng đi với một nhà sư trang lứa, tình cờ gặp dọc đường. Khi vào Gia Định, thuộc huyện Tân Bình, Tổ trụ lại tại làng Tân Lộc. 
Hoàn cảnh sinh hoạt của di dân được chúa Nguyễn chiêu mộ lúc bấy giờ là phá rừng, cất nhà, gom người lập ấp, lập làng trồng trọt để làm ăn, sinh sống. Tổ Phật Ý cùng sư huynh bạn đạo, cũng theo dân vào rừng đốn cây, chặt lá, bện tranh đem về dựng lên được một ngôi nhà khá khang trang. Ngôi nhà này được hai huynh đệ trang trí thành một cái am, nhờ có chuông mõ, kinh sám của hai huynh đệ mang theo. 

Khi có được ngôi am thờ Phật, Tổ Phật Ý phân công mỗi người nửa tháng theo dân vào rừng đốn củi, hái rau trái về ăn, còn người ở nhà sửa cấp nền am cho cao ráo, sạch sẽ và vẽ tượng Phật để thờ, nhất là phải đóng bàn ghế, dầu thô sơ, nhưng có để thờ. Theo tâm trạng của lưu dân, lúc xa quê cách tổ, được những ngày tạm rảnh rang nằm nghỉ, ai ai cũng hồi tưởng đến quê hương, nhớ mồ mả ông cha, bè bạn, xóm làng. Vì vậy, trong khi được biết có hai ông sư cất am thờ Phật thì họ rủ nhau đến giúp; họ cho là ở đây có Phật, thì cũng như thấy mặt tổ tiên. 

Lần lượt mọåi người đến quy y với Tổ Phật Ý, và những ngày sóc, vọng thường đến nghe Tổ giảng kinh, nói pháp. Bấy giờ, người bạn đạo lại tách rời ra lập riêng một cái am, cách am cũ vài mươi thước, để việc tu hành được yên tĩnh. Đến năm Nhâm Thân (1752), tổ Phật Ý tu bổ ngôi am và cất thêm được một ngôi nhà sau, từ đó Ngài đổi am thành chùa, chia ra làm chánh điện, hậu Tổ. Đặc biệt là Từ Ân tự, Tổ ngụ ý nhờ ân huệ của đức Từ Bi, dựng được cơ sở truyền bá đạo cả. Ngôi am kế bên cũng đổi thành chùa và lấy tên Khải Tường tự, ngụ ý là mở rộng phước lành cho bá tánh. Chùa Từ Ân và Khải Tường cách nhau bởi một con đường, thời Pháp thuộc tên là đường Testard, nay là đường Võ Văn Tần; chùa Khải Tường nằm ở khu Chợ Đũi, còn chùa Từ Ân nằm phía bên kia đường. 

* * * 

Khai sơn chùa Từ Ân được 49 năm, lúc bấy giờ Tổ Phật Ý đã già, Thầy trụ trì chùa Khải Tường đã tịch, mọi việc trong hai chùa đều do Tổ quản lý. Tổ giao cho người đệ tử lớn là ngài Tổ Đạt trụ trì chùa Khải Tường, nhưng sinh hoạt hai chùa đều sắp xếp như nhau. Bấy giờ, hai chùa này đã thành hai ngôi già lam lớn nhất ở vùng Gia Định. Năm Tân Hợi (1791), Nguyễn Ánh tránh Tây Sơn, chạy vào đồn trú ở Gia Định. Khi đến Gia Định, vua chọn hai chùa dùng làm nơi ký túc cho hoàng gia. Vua thì ở bên chùa Từ Ân, còn hậu phi cung nữ ở bên chùa Khải Tường. 

Tháng Tư năm Tân Hợi, bà thứ phi hạ sanh Hoàng tử Đởm (tức Minh Mạng) tại hậu liêu chùa Khải Tường. Duyên do ấy nên sau khi lên ngôi vua, Gia Long liền sắc phong chùa Từ Ân là “Sắc tứ Từ Ân tự” và chùa Khải Tường là “Quốc ân Khải Tường”, hàng năm đều chu cấp lương tiền và phu dịch lo việc lao dịch cho hai chùa. Chuyện trên là việc sau; việc trước là trong đời chúa Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền) ý muốn khai khẩn đất hoang, nên nhân có đám quan quân bất phục nhà Thanh bên Tàu, đem thuyền bè lính tráng sang làm dân An Nam, chúa bèn cho vào ở đất Đông Phố (Đồng Nai) và ở đất Mỹ Tho (Định Tường). Chúa giúp họ cất nhà, làm ruộng, lập ra phường phố buôn bán. 

Chùa Từ Ân ở làng Tân Lộc, tuy trong thời gian khai sơn thì công di dân đóng góp xây dựng, nhưng về sau thì người Minh Hương tới lui lễ bái, quy y, nghe giảng ngày càng đông hơn người bản xứ. Năm Nhâm Thìn (1744), ở làng Phú Thọ có ông cư sĩ người Minh Hương tên là Lý Thoại Long đến chùa Từ Ân xin Tổ Phật Ý bổ xứ cho một đệ tử có đức hạnh về trụ trì chùa Sơn Can ở làng Phú Thọ Hòa (Sơn Can là tên của chùa Giác Lâm - Sơn là núi, Can là gò nổng; vì chùa được cất trên gò đất cao như núi). 

Tổ Phật Ý có năm đệ tử lớn có đức hạnh cao là: 
1. Ngài Tổ Đức hiệu Mật Hoằng, đã trụ trì chùa Đại Giác. 
2. Ngài Tổ Tông hiệu Viên Quang, chức Diễn tạo, thay Tổ giảng dạy kinh điển tại chùa. 
3. Ngài Tổ Thành hiệu Liễu Đạt, chức Thủ tọa, thay Tổ điều khiển chúng Tăng trong chùa. 
4. Ngài Tổ Đạt hiệu Trí Tâm, chức Tri khách, thay Tổ ngoại giao mọi việc và tiếp khách. 
5. Ngài Tổ Chánh hiệu Bổn Giác, chức Tri sự, thay Tổ quản lý sự ăn uống, thiếu đủ trong chùa. 

Bổn nguyện Tổ Phật Ý bao giờ cũng mong Phật pháp được mở rộng, nên đã chấp nhận lời thỉnh cầu của cư sĩ Lý Thoại Long, bổ xứ ngài Viên Quang đến trụ trì chùa Sơn Can và Tổ đề nghị với cư sĩ Lý Thoại Long họp bổn đạo lại, để đổi hiệu Sơn Can ra Giác Lâm tự, rồi sẽ làm nhập tự cho ngài Viên Quang. Tổ Viên Quang về trụ trì chùa Giác Lâm được 30 năm, thì tại chùa Từ Ân có ông Nguyễn Hầu Cẩm đem con trai là Nguyễn Tâm Đoan vào lạy Tổ xin cho xuất gia. Tổ Phật Ý không nhận làm đệ tử mà giao cho Tổ Viên Quang nhận Tâm Đoan làm đệ tử, vì vậy Tổ Viên Quang theo chữ pháp danh của mình mà cho pháp danh của Tâm Đoan là Tiên Giác, pháp hiệu Hải Tịnh. Tổ Hải Tịnh đầu sư tại chùa Từ Ân, rồi về học đạo tại chùa Giác Lâm, nhằm năm Nhâm Tuất (1802), năm ấy Ngài được 15 tuổi. 

II. Con đường và phương tiện hoằng hóa đạo Phật tại miền Nam
Ngài Tổ Tông hiệu Viên Quang trụ trì chùa Giác Lâm được 55 năm thì thị tịch; Ngài tịch mùng 3 tháng Chạp năm Đinh Hợi, trừ 25 tuổi khi chưa xuất gia, thì 55 hành đạo của Tổ tức là 55 tuổi đạo vậy. Năm Tổ Viên Quang tịch, thì ngài Hải Tịnh được 40 tuổi. Trong 25 năm theo thầy học đạo, hành đạo, ngài dốc hết tâm tư vào việc đạo, nghiên tầm chân lý, tham cứu Tam tạng giáo điển. Nhờ thế, nên khi kế thừa Tổ Viên Quang để trụ trì chùa Giác Lâm thì ngài đã nghiêm nhiên là một vị cao tăng uyên bác, chẳng những về Phật điển, mà về sách vở địa lý, ngài cũng được lão thông. 

Tổ dùng chùa Giác Lâm làm học xá, bố cáo các chư sơn lục tỉnh, ai muốn học kinh thì đến chùa Giác Lâm mà học, chùa bao cả ăn ở và kinh học. Chư sơn các nơi đến học, Tổ đứng ra giảng dạy cả mấy năm, mà Tổ vẫn khang kiện và chi phí trong chùa vẫn đầy đủ. 
Mãi đến năm 1798, ngài Hải Tịnh phải cho học tăng tạm thời nghỉ học để trùng tu lại chánh điện Giác Lâm; ai muốn về chùa thăm thầy thì về, ai muốn ở lại làm công quả thì ở lại phụ giúp với Tổ, vì ngôi chánh điện xây dựng ngoài 50 năm, mà cây gỗ lúc ban sơ thiếu hụt, nên nhiều cột kèo dùng bằng gỗ tạp, cho nên hiện thời đã sụp đổ nhiều nơi. Đồng thời, Tổ cũng cho bổn đạo vùng Chợ Lớn - Phú Lâm hay, để cùng phụ trợ với Tổ. Thuở ấy, đường giao thông chưa mở rộng, chỉ ở đường thủy, thường chuyển cây bằng kết bè, vì vậy muốn đổ cây nhiều thì phải chuyển vận theo đường thủy. 

Từ chùa Giác Lâm đi sang Chợ Gạo (chợ Phú Lâm) chỉ có một con đường mòn đi xuyên trong đất giồng; cạnh Chợ Gạo có một con rạch gọi là rạch Ông Buông, nó chạy lên đồng ruộng, bằng con rạch Hồ Đất nhỏ hơn. Cây để trùng tu chùa Giác Lâm mua về phải đổ lên bến Hố Đất cách chùa độ 2km. Gỗ súc to đến 20 người khiêng không nổi, thành ra chuyển gỗ về phải chuyển bằng xe trâu. Mỗi chuyến xe có súc to, cả hai con trâu kéo không muốn nổi. Chuyển hết gỗ phải lâu ngày, mà gỗ gần bến sợ kẻ trộm ban đêm xeo gỗ xuống rạch, rồi lôi đi xa giấu mất. Tổ Hải Tịnh bèn chọn ông hương đăng già xuống bến, đốn cây nhỏ xung quanh, cất lên một cái nhà nhỏ rất vén khéo. Cất xong, ông về thỉnh Phật Quan Âm, kinh tụng, chuông mõ, bàn ghế. Ông trang trí cái nhà thành cái am nhỏ rất đẹp. Sáng chiều ông Đăng già cũng công phu, tối lại cũng trì kinh Tịnh Độ y như ở trên chùa. 

Bổn đạo bá tánh mỗi khi đi chùa Giác Lâm, thường ghé am gởi xuồng cho ông, khi về lấy xuồng, rồi vào xá Phật, có khi để cúng 5 xu hoặc một cắc. Ông đăng già ở giữ cây gần hai năm; khi chuyển hết cây, ông sắp dỡ chòi về Giác Lâm. Ông kiểm số tiền mà bá tánh ghé am cúng nhang khói thì được hơn 80 đồng. Ông liền nảy ra ý kiến muốn tạo nơi đây một cảnh chùa, nên về lạy Tổ Hải Tịnh, xin Tổ mướn cho miếng đất ở bến Hố Đất cho ông ở nơi đó mà tu. 

Tổ Hải Tịnh nghe ông hương đăng già xin, ngài liền xuống bến gỗ; Ngài quan sát thấy cuộc đất tốt, phía Đông có con đường qua lại, phía Tây có con rạch nước lưu chuyển quanh năm, phía Nam có cây cối rừng chồi u tịch, phía Bắc gò nổng nối liền. Tổ nghĩ: “Đây là cuộc đất sanh vượng, tiền châu tước hậu huyền võ. Nếu dựng đượåc ngôi chùa tại đây, có thể ngày sau chùa này sẽ có huê lợi thừa nuôi sống luôn Tăng chúng chùa Giác Lâm”. Vì vậy, Tổ đồng ý với ông hương đăng già, đến nhà chủ đất hỏi mướn. Chủ đất thấy miếng đất ấy bấy lâu bỏ hoang và từ lâu không ai mướn khai thác, nên hoan hỷ cúng cho Tổ Hải Tịnh cất chùa.

Tổ bèn huy động Tăng chúng chùa Giác Lâm mua cây, mua lá kéo về bến gỗ, đắp nền lớn ở trước am của ông hương đăng già, lấy am làm nhà hậu, dựng lên một ngôi chánh điện thờ độc một vị Quan Thế Âm Bồ Tát, lấy hiệu là Quan Âm viện. Ông hương đăng già bèn trao hết số tiền mà tín đồ cúng am bấy lâu cho ngài Hải Tịnh để làm lễ lạc thành. Tổ Hải Tịnh bèn cho vài ông đạo nhỏ xuống ở với ông hương đăng già cho có bầu bạn, và hàng ngày cho người xuống đốn cây, làm cỏ dọn đất quanh am, trồng rau cải, đào mương lên liếp, đặt dừa, dự trù hậu bị kinh tế cho hai chùa. 

* * * 

Trùng tu chùa Giác Lâm ngót 5 năm mới hoàn thành. Trong ngày lễ lạc thành chùa Giác Lâm, có những đôi liễn đối bằng ván thao lao của đệ tử chùa đi chúc mừng, đến nay vẫn còn treo cột chánh điện. 
Đôi liễn: 
1. Vạn pháp tài trung tuyên Tứ đế, báo Phật Tổ hồng ân kỳ phong điều vũ thuận. 
2. Đại hùng điện diễn Tam thừa, chúc Hoàng vương thánh thọ, nguyện quốc thới dân an. 
Tạm dịch: 
[1. Truyền tứ đế trên đài vạn pháp, đáp hồng ân Phật Tổ, cầu mưa thuận gió hòa]. 
[2. Diễn tam thừa trên điện Đại hùng, chúc thánh thọ Hoàng vương, nguyện nước thạnh dân an]. 
Dọc theo bìa chiếc liễn bên mặt có hàng chữ nhỏ: [“Gia Long tam niên Giáp Tý thái tuế, trọng Đông kiết đán”.] 
Dọc theo bìa chiếc liễn bên trái có hàng chữ nhỏ: “[Lộc ân đệ tứ, thiện tín chúng đẳng khấn bái phụng cúng]”. 

Như vậy là lễ lạc thành Giác Lâm kỳ trùng tu, nhằm giữa mùa Đông năm Giáp Tý (1804). Xét lại khi ngày khai sơn chùa Giác Viên không rõ năm nào, nhưng nay căn cứ lễ lạc thành trên thì khoảng độ trên dưới năm 1802, tức là đến nay (1983), chùa Giác Viên có được 182 năm. Ngày lạc thành cuộc trùng tu chùa Giác Lâm qua, Tổ Hải Tịnh lại khai giảng kinh luận trở lại. Chư sơn lục tỉnh lần lượt đến học khá đông. Tổ rất mừng, vì học đạo mà chỉ thuộc nguyên âm hai thời kinh công phu sáng chiều mà không hiểu nghĩa lý kinh, thì dẫu học kinh rộn rã, mãn đời rồi u tối hoàn u tối. 

* * * 

Đến năm Giáp Thìn (1844), nhằm năm Thiệu Trị thứ 4, Tổ Hải Tịnh thảo ra chương trình nhóm họp chư Tăng tu học ba tháng mùa Hạ, gọi là mùa “kiết hạ an cư”, tục gọi là trường hương. Tổ thỉnh Hòa thượng Phổ Nguyệt ở chùa Huê Lâm làm Pháp sư kiêm Thiền chủ, Thầy Yết ma Từ Tạng ở chùa Trúc Lâm làm Thượng tọa (tức Duy na). Lịch sử khai trường hương do Tổ Hải Tịnh khai thi. Đến năm Kỷ Dậu (1849), nhằm năm Tự Đức thứ 3, chư Tăng ở vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định đồng tâm thiết lập giớái đàn (đàn truyền giới luật cho đệ tử, tín đồ) tại chùa Giác Lâm, suy tôn Tổ Hải Tịnh làm Đường đầu truyền giới Hòa thượng, năm này Tổ 62 tuổi. 

* * * 

Kinh qua hai lược tập họp chư Tăng tu học và tuần khai kỳ truyền giới, Tổ Hải Tịnh nhận chân được tâm lý chư Tăng và tín đồ hiện tại là ưa ứng phú hơn đến pháp hội nghe kinh. Ứng phú là một môn hành sự trong nhà chùa, tức là một môn âm nhạc riêng trong đạo, hiện tại đem dùng vào các lễ cúng trong chùa và nơi có đám tang, đám làm tuần thất ở nhà tín đồ mời các sư đến hành lễ (ứng là chỉ lời mời, phú là đi đến, sau này lại có từ là đi đám). 

Tổ nhận xét: mời chư Tăng đến tại nhà để kỳ nguyện rất tiện lợi cho những tín đồ trong nhà ít người. Thứ hai là chỉ độc một ông Tăng tụng kinh, tiếng kinh nghe khan khan, nghĩa kinh không hiểu biết, thì dễ làm cho tín đồ nghiêng về khoa ứng phú, vì ứng phú là khi hành lễ tuy cũng tụng kinh, nhưng tiếng kinh lại có trầm, có bổng, có tiếng đẩu tang nhịp nhàng, nghe thâm u trầm lắng, gợi nhớ, gợi thương, như thiết tha cầu nguyện. Ông sư nào sáng chế ra môn này, thật rất thâm hiểu tâm lý của con người! Nếu khéo sắp xếp lòng đạo đức từ bi vào đạo tràng ứng phú, nhân đó truyền bá đạo lý vị tha thì công đức rất có ích cho đạo, cho đời, không trường lớp nào hơn được. Nhưng cũng có thể nhà sư thường đến nhà thế gian, lần lần lê la giao thiệp rồi tiêm nhiễm tục đời, làm mất phẩm cách của nhà tu giải thoát. 

Vì nhận thấy có hai đường lợi hại, nhất là hại về giới hạnh của nhà tu, nên Tổ muốn nhúng tay sắp xếp khoa ứng phú mà chần chờ mãi mấy năm chưa quyết định. Sau, Tổ thấy phong thái ứng phú càng lan tràn không thể chặn được, thì mới lèo lái phong trào đi vào đúng hướng. Đã có ý định, Tổ liền triệu tập cuộc họp gồm các thầy ứng phú lại; Tổ bày tỏ ý kiến muốn đề cao ứng phú, gây uy tín cho khoa ứng phú, đưa khoa ứng phú vào môn âm nhạc của đạo Phật v.v.. Các thầy ứng phú và chư Tăng tham dự cuộc họp đều tán đồng ý kiến của Tổ cho mượn Quan Âm viện làm cơ sở học tập khoa ứng phú. 

Năm Canh Tuất (1850) nhằm năm Tự Đức thứ tư, Tổ Hải Tịnh đổi hiệu Quan Âm viện là Giác Viên tự; và đặt cơ sở chánh học tập khoa ứng phú vùng Chợ Lớn tại đó, còn chùa Giác Lâm là cơ sở học tập và nghiên cứu tam tạng giáo điển. Việc khoa ứng phú được cải tiến và mở rộng xuất phát từ chùa Giác Viên, tiếng đồn lần lần đưa đến lục tỉnh, các ứng phú lục tỉnh thường lai vãng nghiên cứu để biết thêm nhiều. Hơn nữa, chùa Giác Viên lại nằm trong châu thành Chợ Lớn, kế cận với đường phố Sài Gòn là thành phố đông dân cư nhất ở miền Nam. Vì vậy, bổn đạo, tín đồ nghe nói Giác Viên là nơi quy tụ thầy ứng phú giỏi, nên mỗi khi trong gia đình muốn thiết một cuộc lễ gì về đạo như cầu an, cầu siêu, trai tăng, bố thí v.v.. thường đều đem đến chùa Giác Viên cầu làm lễ “đại nạp”. Họ cho rằng chỉ có làm lễ ở chùa Giác Viên, họ mới cảm thấy mùi đạo thấm thía, trâm trầm, siêu thoát! Do đó mà chùa Giác Viên lúc này, ngày nào cũng có người “đại nạp” các sư chuyên khoa ứng phú đến làm đám tại chùa, mỗi ngày có khi đến 5 hay 7 thầy. 

Một điều thiếu sót đáng tiếc của chùa Giác Viên là tháng ông hương đăng qui tịch, không còn một dấu tích nào để biết! Nghe nói là ngày “thầy” chết, thầy rất tỉnh táo. Thầy hương đăng tịch, Tổ Hải Tịnh cho người đệ tử lớn là Minh Vi, hiệu Mật Hạnh, xuống trụ trì chùa Giác Viên, Thầy Minh Vi năm này được 23 tuổi. Chùa Giác Viên càng ngày càng sung túc, đông đảo bổn đạo, bá tánh tới lui lễ bái, cúng kiến rất thường. Những người tha thiết mộ đạo, hoặc cho con vào chùa quy y, cạo đầu ở chùa hoặc tự mình cầu nguyện bình nguyện, cạo đầu vào chùa công quả. Sự sinh hoạt về Phật đạo ở chùa Giác Viên về khoa ứng phú phát triển mạnh, về kinh điển thi yếu, nhưng phần kinh tế thì lấn hơn chùa Giác Lâm. Tổ Hải Tịnh cảm thấy “thế đạo nhơn tâm” bây giờ ưa chuộng sắc thinh hình thức bên ngoài hơn tinh thần đạo lý bên trong. Bất giác Tổ trầm tư, ngậm ngùi một lúc... nhưng Tổ lại liên hệ riêng giữa Giác Viên và Giác Lâm.

Nếu tiền của Giác Viên dư giả, mà Giác Lâm thiếu hụt thì Giác Viên bù giúp, cũng như Giác Lâm đào tạo được tăng đức bổ sung cho Giác Viên. Tuy biết vậy là hành đạo trong phạm vi nhỏ hẹp, nhưng trong thế đạo nhơn tâm đã thế, thì người bổn đạo phải uyển chuyển tùy mình. Nghĩ như thế, Tổ mỉm cười, rồi năm tháng vẫn ung dung hành đạo. Sau đó Tổ lại nghĩ đến sự bảo vệ đạo hạnh của hai chùa cho được lâu dài và kết chặt tình hệ của hai chùa thành một, Tổ bèn đặt cách là người có sư bá hay sư huynh bất luận là của chùa nào, đều có đặc quyền quản lý đạo hạnh của hai chùa. Nhưng nếu chùa trên hoặc chùa dưới, chỉ còn sư thúc tuổi lớn, thì sư thúc ấy có đặc quyền quản lý đạo hạnh của hai chùa. Làm như vậy, Tổ muốn thực hành thuyết “Lục hòa” trong phạm vi nhỏ cho hai chùa. 

* * *

Đến năm Kỷ Mùi (1859) nhằm năm thứ 12 đời vua Tự Đức, năm này Tổ Hải Tịnh đã 72 tuổi, Pháp đánh thành Gia Định, san bằng tất cả dinh lũy của Nam triều. Chùa Sắc tứ Từ Ân và chùa Quốc ân Khải Tường đều chịu chung số phận binh đao trong thuở ấy. Lúc này, trụ trì chùa Từ Ân là thầy Tiên Tính, hiệu Chánh Trực, trong lúc vội vàng chạy giặc, thầy chỉ dời giấu một vài món đồ nhẹ, để có thể lúc yên giặc trở về đem lên làm vật kỷ niệm xa xôi của chùa. Nhờ thế mà hiện nay, chùa Từ Ân gần Chợ Gạo (Phú Lâm) còn được mấy món đồ kỷ niệm lúc sơ khai chùa Từ Ân. 

Chùa Giác Lâm và Giác Viên tuy ở tuy ở xa làn tên mũi đạn, nhưng với ảnh hưởng chiến tranh tàn khốc, chết chóc mọi nơi, nhất là trong năm Canh Thân (1860), Nam triều sai ông Nguyễn Tri Phương vào Nam hợp với ông Tôn Thất Hiệp, đắp đồn Kỳ Hòa (tức Chí Hòa) để chống lại với quân Pháp, thì tiếng súng đôi bên bắn nhau ì ầm đêm ngày không dứt. Các bậc chư Tăng, mặc dù có luyện tập tinh thần vô úy, nhưng thấy đánh nhau găng quá, nên cuối cùng cũng theo đoàn người chạy giặc mà tản mác về nông thôn. Hai chùa Giác Lâm và Giác Viên lúc này chỉ còn mấy ông sư già gan góc ra vào hủ hỉ với Tổ Hải Tịnh mà thôi. 

Cho đến năm Kỷ Tỵ (1869), tức là năm Tự Đức thứ 22, tuy xa xa còn văng vẳng tiếng súng chống Pháp, nhưng quanh vùng Gia Định - Chợ Lớn cũng tạm yên lành. Người Pháp muốn mua lòng dân chúng, nên họ dễ dãi mọi bề; dân chúng thấy dễ lần lượt rải rác hồi cư. Tăng chúng hai chùa Giác Lâm và Giác Viên lần hồi quay về đầy đủ. Năm này, Tổ Hải Tịnh đã 82 tuổi. Tổ nhận thấy tuổi già sức yếu, không còn trụ thế bao lâu, Tổ sắp đặt cho đệ tử lớn là thầy Minh Vi, hiệu Mật Hạnh, trụ trì chùa Giác Lâm, phụ việc thì Tổ tri cử thêm thầy Minh Lý, hiệu Quảng An, làm tri khách; chùa Giác Viên thì tổ đặt người đệ tử nhỏ là thầy Minh Khiêm, hiệu Hoằng Ân, làm trụ trì. 

* * * 

Đến năm Ất Hợi (1875), ngày mùng 8 tháng 11, nhằm năm thứ 29 đời vua Tự Đức, Tổ gọi hết đệ tử trong hai chùa tề tựu tại chùa Giác Lâm; Tổ dặn dò tất cả phải cố gắng học thông giáo lý, tìm hiểu con đường giải thoát, đừng đắm đuối hồng trần, nhất là muốn thảnh thơi giải thoát, thì phải nhận rõ sự việc đi ứng phú là bước đường đưa vào sa đọa, làm tiêu hao bổn tánh chơn như. Đến đúng ngọ ngày mùng 8, Tổ vui tươi mà thị tịch, Tổ trụ thế 88 năm, theo tuổi đạo được 73, vì từ ngày Tổ vào chùa quy y hành đạo trải qua 73 năm, không lúc nào mà Tổ quên đi sự hưng suy của đạo pháp; mỗi niệm của Tổ đều bộc lộ đạo đức vị tha. Vì vậy, trong thời gian Tổ hóa đạo, đức độ Ngài được ca ngợi khắp miền. “Đuốc tình thương được soi sáng nhiều nơi, chuông cảnh tỉnh truy hồn muôn vạn khách”. Tổ Hải Tịnh quy tịch, thầy Minh Vi tạo bài vị để thờ cả hai chùa, đến ngày lễ ky thì chùa Giác Lâm cúng trước, Giác Viên cúng sau. 

Đến khi lãnh trọng trách kế thừa quản xuất chùa Giác Lâm hoàn toàn, thì bấy giờ thầy Minh Vi đã 40 tuổi. Thầy hành đạo và rất quan tâm đến sự học của Tăng chúng trong chùa, nhưng vì thầy ít học cho nên thầy chia Tăng chúng trong chùa thành hai nhóm, luân phiên xuống chùa Giác Viên học kinh-luật với thầy Minh Khiêm hằng ngày, trừ ngày nào ở chùa có cúng kiếng thì nghỉ. Nhờ thế mà sau ngày Tổ Hải Tịnh quy tịch, thầy giữ vững được giềng mối đạo đức của chùa Giác Lâm và gây được cảm tình với chư Tăng và bổn đạo xa gần. Đến năm thầy Minh Vi 65 tuổi, thầy giao luôn quyền trụ trì chùa Giác Viên cho thầy Minh Khiêm, và thầy cho biết là năm ấy, thầy thấy trong người rất yếu, thầy nguyện nhập thất tu thiền cho đến ngày về Phật. 

* * * 

Lúc này, Tăng chúng trong chùa Giác Viên đông hơn chùa Giác Lâm, trong đó có sư Như Nhu, hiệu là Chơn Không; sư Như Phòng, hiệu là Hoằng Nghĩa, là có hạnh, có học hơn hết. Thầy Minh Khiêm giao cho Như Nhu trụ trì chùa Giác Viên, Như Phòng làm phó và kiêm luôn chức tri sự, quản lý mọi công việc trong chùa, phần thầy thì thầy lên xuống hai chùa, sách tấn Tăng chúng tinh tấn tu hành học tập. 

Thầy Minh Khiêm là một bậc cao tăng học rộng, hiểu nhiều đối với Tăng giới lúc bấy giờ. Thầy nhận thấy trong quá trình học tập Phật pháp dành cho lớp Sa di sơ cơ học đạo, không có một quyển kinh, luật nào bằng tiếng Nôm, tức là đọc bằng tiếng dân tộc Việt Nam, mà toàn bằng chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt. Vì vậy mà các ông đạo sáng, chiều đọc tụng làu làu mà không biết trong lời Kinh, Luật ấy nói gì, dạy gì. Thậm chí, có nhiều thầy Tỳ kheo, học đến kinh Pháp Hoa, luật Tứ Phần, luật Qui Ngươn v.v.. mà bảo giải nghĩa mấy chữ “Ma ha Bát nhã ba la mật đa”, mấy thầy cũng ấm ớ: ông nói vầy, thầy nói khác! 

Với nhận xét tiến bộ ấy, với quy tư đạo vị ấy, nó thúc giục Thầy phải tìm được điều kiện giải quyết. Thầy góp nhặt trong các bộ Tỳ ni (luật), rút gọn ra làm bộ luật nhỏ viết bằng Hán văn, dịch ra chữ Nôm, viết theo lối văn trường hàng, gọi là “luật Trường hàng”. Bộ luật này gồm 4 quyển: Tỳ ni, Sa di, Oai nghi và Cảnh sách. Chép chánh văn bằng chữ Hán, giải nghĩa văn bằng chữ Nôm (vì lúc bấy giờ, chữ quốc nghĩa chưa được phổ biến). Thầy tận tụy đêm ngày, giải nghĩa rồi phủ chánh, phủ chánh rồi giải nghĩa tiếp... tích cực như thế mấy năm mới hoàn thành. Thời lúc ấy có thầy Huệ Lưu, trụ trì chùa Huê Nghiêm ở Thủ Đức, phụ giúp phần sao y để đưa thợ khắc bản; thầy Huệ Lưu cũng là người trong chi Lâm Tế; dòng Đạo Bổn Nguyên. Khi khắc bản bộ luật Trường hàng, thầy rước thợ đến ăn ở tại chùa Giác Viên. Đến khi khắc bản xong, thì có một người cư sĩ đệ tử của thầy xin cúng tiền công và chi phí ăn uống thợ khắc bản bấy lâu.. 

Năm khắc bản xong là năm Giáp Ngọ (1894). Thầy Huệ Lưu có đề tựa ở trang đầu; trang chót có ghi phương danh của hai vị cư sĩ đã cúng dường chi phí khắc bản, và có ghi rõ là từng bản bộ luật Trường hàng cất ở kho kinh điển chùa Giác Viên. Hiện nay (1983) bản luật đó vẫn còn. Trang đầu bộ luật là lời tựa, và trang kế có hàng lớn: TỲ NI NHẬT DỤNG YẾU LƯỢC (bằng chữ Hán), tiếp ở dưới hai hàng song cước: PHÉP TẮC HẰNG DÙNG RẤT VÓN (bằng chữ Nôm), dài xuống mấy dòng, Thầy đề: "Giác Viên lan nhã Thiền Hòa, Hoằng Ân tỉnh nghĩa" (bằng chữ Hán), và hàng thứ nhì đề: "Hoa Nghiêm thiền viện, Tỳ kheo Huệ Lưu sao lục" (bằng chữ Hán). 

Tóm dịch: - Chùa Giác Viên, Thiền sư Hoằng Ân giải nghĩa; chùa Huê Nghiêm thiền viện, Tỳ kheo Huệ Lưu sao lục. Khi bộ luật Trường hàng in xong lần đầu được phổ biến các chùa ở miền Nam, chư sơn thiền đức các nơi gởi thơ về Giác Viên ca tụng và yêu cầu Tổ (đến đây xin phép chư tôn), độc giả cho tôi thay chữ thầy ra chữ “Tổ”, vì với công đức cao cả này, chắc chư tôn, độc giả cũng đồng ý là thầy rất xứng đáng cho chúng ta tôn xưng là Tổ - quyết định một ngày nào mời chư tôn các nơi về họp tại chùa Giác Viên, để cùng bản thảo đưa bộ luật Trường hàng vào Pháp điển, để làm quyển giáo khoa sơ cấp trong quá trình dạy đạo ở các chùa. 

Rồi nhân trong cuộc họp đó, chư tôn các nơi lại đưa quyết định nữa là từ đây trong mỗi trường kỳ (tức là đàn truyền giới) đều dùng bộ luật này làm giáo tài khảo thí: thứ nhất là khuyến khích các ông đạo nhỏ phải học thuộc lòng bộ luật này, thứ hai là chọn hai vị Thủ, Vĩ Sa di để đưa lên đàn thọ cụ, và nhận làm hai người phát từ của Hòa thượng Đường đầu truyền giới. Bắt đầu từ năm 1900, bộ luật Trường hàng nghiễm nhiên có một địa vị văn hóa cao lẫn văn chương gọn trong giới Phật học miền Nam, nó trở thành một giáo tài phải học của các ông đạo sơ cơ mới vào chùa. 

Năm Mậu Tuất (1898), vào giờ Thìn ngày 14 tháng 11, thầy Minh Vi đã an nhiên thị tịch tại chùa Giác Lâm. Thầy trụ thế 71 tuổi, 50 tuổi đạo. Tổ Minh Khiêm ngậm ngùi tình huynh đệ, tạo bài vị thờ ở bàn Tổ hai chùa, và hàng năm đến ngày ấy, thì chùa Giác Lâm kỵ ngày trước, chùa Giác Viên ngày sau. Qua năm Kỷ Hợi (1899), Tổ Minh Khiêm sai thầy Như Lợi cùng Tăng chúng hai chùa cùng nhau lo công việc trùng tu ngôi chánh điện chùa Giác Viên, vì lúc khai sơn tài chánh eo hẹp, nên cất rất thấp và dùng cây gỗ tạp mau hư. Lần này tuy trùng tu, nhưng sửa đổi hẳn mặt kiến trúc, nền móng rộng hơn. Khi tòa chánh điện làm gần xong, thì có bà thường trú trong chùa tên là Lương Thị Viết, pháp danh Từ Tâm, vốn con nhà giàu, mộ đạo xuất gia. Bà xin Tổ cho bà cúng tiền để sửa luôn nhà hậu Tổ cho được cân xứng với tòa chánh điện mới; Tổ chấp nhận.

Công việc xây cất gần 3 năm mới hoàn tất. Cho Tăng chúng hai chùa nghỉ xả hơi một năm; năm sau Tổ thấy thầy Như Nhu đã tịch, Tổ bèn tri cử thầy Như Phòng, hiệu Hoằng Nghĩa, làm trụ trì và thủ tọa; Như Lợi làm trụ trì chùa Giác Lâm, còn phần vì ngài cất một cái am ở giữa đường lên xuống hai chùa (tức là bây giờ gần bót Nguyễn Văn Cự), Ngài đặt là am Giác Đế; hàng đêm, giờ thiền định Tổ đều tịnh tọa tại am này. Ban ngày, có khi Tổ xuống Giác Viên hoặc về chùa Giác Lâm. 
Những việc giao dịch với bá tánh bổn đạo thì chùa nào phần ông trụ trì nấy lo, chỉ khi nào có những việc quan trọng và cần thiết, thầy mới tham dự để giải quyết. 

Đến năm Ất Tỵ (1905), Tổ thấy hai vị trụ trì hai chùa đều có đủ đạo đức và khả năng hành đạo đủ gánh vác việc chùa, Tổ rất an tâm và cho hai thầy trụ trì hay là Ngài sẽ đi vân du ít năm, thời gian không nhất định, để thêm tầm tri thức, đồng thời cũng tìm hiểu căn cơ hành đạo của Phật tử bốn phương, thỉnh thoảng sẽ về thăm chùa. Vậy hai thầy phải tự lập, chớ đừng trông chờ, ỷ lại vào Tổ nữa. Tổ một mình mang khăn gói, nhằm hướng lục tỉnh vân du, tới đâu Ngài cũng hỏi thăm chùa Phật vào nghỉ. Có nơi, thầy trụ trì nào biết Tổ thì vui mừng cầm Ngài ở lại và cho bổn đạo hay đến viếng Tổ, và thỉnh Ngài thuyết pháp cho bổn đạo nghe; có chùa, thầy trụ trì không biết Ngài thì tiếp đãi lơ là, bỏ Ngài nằm ở chùa, họ chỉ bàn thảo lo đi đám; nghe nói lo đi đám, Ngài cũng xin theo phụ tụng kinh không lấy tiền công đức; có chỗ gặp đám ma, đám cầu an, Ngài cũng đi theo. 

Từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho chỉ cách 60 - 70 cây số, nhưng thuở ấy xe cộ giao thông rất ít, nên chư sơn và tín đồ nghe đạo hạnh của Tổ thì nhiều, mà biết mặt thì ít. Vì vậy, Tổ dừng chân ở lại Mỹ Tho mấy tháng, với thái độ giao tiếp bình dị, khoan hòa của Ngài làm cho mấy người nông nổi, lúc đầu cho Tổ là một ông sư thường, chừng biết được Tổ và gần gũi Tổ thì họ lại gia tăng kính trọng quá mức, như có câu chuyện xảy ra như sau: Có lần, Tổ đi theo một sư ứng phú, đi đám tang của một bà Phật tử, vợ ông Hương chủ. Đám ma nhà giàu quàn 4 - 5 ngày mới chôn. Khi ăn cơm, ông sư ứng phú ăn mặn, Tổ ăn chay. Người dọn ăn muốn dọn riêng, nhưng ngại sắp xếp dọn riêng mất công; vì vậy, khi ăn cơm, Tổ ngồi chung với người ăn mặn.

Ngài mỉm cười rồi ngồi vào bàn ăn; tuy đồ chay đã nấu riêng sẵn, nhưng Ngài ăn thế nào mà ở nhà bếp quýnh lên, vì bị rầy chỉ có một người ăn mà nấu không đủ... Ngài nghe xầm xì như vậy mới nói: “Bao nhiêu cũng đủ, bao nhiêu cũng thiếu!”. Ngài cười và xuống uống nước. Có bà Hội đồng đi đám về thuật chuyện có ông thầy ăn hết đồ chay cho chồng nghe. Ông Hội đồng nghe nói, bảo vợ tỏ rõ dáng ông thầy; khi nghe kỹ rồi, ông Hội đồng nói: “Chắc chắn là bổn sư của tôi, mấy năm nay lo việc làm ăn, không lên thăm thầy được, bữa nay thầy đi đâu đây, mà lại đám ma ăn cơm?”. Ông vội vàng bảo vợ cùng đi lại đám, nếu phải thầy thì thỉnh thầy về nhà mình cho thầy nghỉ khỏe. 

Ông chủ đám thấy có Hội đồng đến, lật đật ra sân đón rước. Ông Hội đồng nói: - Tôi muốn gặp mặt ông thầy ăn chay. Vừa gặp Tổ, ông Hội đồng vội vàng bảo vợ quỳ xuống làm lễ ra mắt ngài, và thỉnh Tổ về nhà nghỉ. Cả đám ma nhốn nháo lên, đến khi ngã lẽ, mọi người cũng mừng cho bà chủ có phước: lúc qua đời được Tổ đến tụng kinh. Mọi người khi được biết Tổ Hoằng Ân, hầu hết ra sắp hàng làm lễ Tổ. Có ông Cai tổng, em của chủ đám, tuy không phải tín đồ đạo Phật, nhưng khi thấy đức độ và học vấn của Tổ, cũng trân trọng làm lễ ngài và quấn quýt một bên, để nghe ngài trả lời giáo lý cho những người hỏi đạo. Đêm lại, ông Cai tổng mời Tổ ngồi ghế giữa, rồi ông cung kính dâng lễ vật xin quy y với tổ. Ngài vui vẻ thuyết giới và truyền tam qui ngũ giới cho ông Cai tổng. Còn phần lễ vật ngài nhận xong, rồi đem trao cho ông sư ứng phú và nói phần này tôi tặng cho ông, nhờ ông mà thầy trò tôi gặp gỡ nơi đây... 

Ngài chưa nói hết lời thì có đoàn Tịnh độ của chùa bổn sư của bà chủ đến để hộ niệm, chẳng ngờ ông đại diện hội Tịnh độ gặp được Tổ bèn vân tập cả đoàn làm lễ Tổ trước rồi mới khai kinh cầu siêu. Ông sư ứng phú đụng lấy sự việc bất ngờ dồn dập, nên quýnh lên. Ông tiếp mâm lễ vật của Tổ đưa, mà vẫn quỳ trước Tổ... Đến khi đoàn Tịnh độ làm lễ xong, Tổ quay lại thì ông để mâm lễ vật vào lòng Tổ, rồi cúi lạy mà nói: Con xin trọn đời theo hầu hạ Tổ. 

* * * 

Xuống đến châu thành Mỹ Tho, Tổ trụ lại tại chùa Bửu Lâm. Người mộ đạo lần lượt đến xin quy y với Tổ rất nhiều. Thấy Phật tử tới lui đông, sợ làm rộn ràng cho nhà chùa, Tổ bèn xin Hòa thượng trụ trì cho ngài cất cái am bên chùa để ở, Tổ đặt tên là am Viên Giác. 
Ở Mỹ Tho được vài năm, ngài lại từ giã đạo bạn tiếp bước vân du, đi lần xuống miền Tây Vĩnh Long, Long Xuyên, Sa Đéc. Thật là: 

Túy thưởng yên hà thân ngoại cảnh. 
Lộng thành sanh diệt vọng trung chơn. 
Tạm dịch: 
Bạn với khói mây thân ngoại cảnh. 
Giỡn chơi còn mất vọng trong chơn. 

Một lúc Tổ vân du đến tỉnh Châu Đốc, ngài thấy núi Sam non xinh cảnh đẹp, lại có sẵn ngôi chùa Tây An ở xa châu thành rất yên tịnh, Tổ bèn xin người giữ chùa cho phép Tổ tá túc ở tu hành. Chùa Tây An do một tu sĩ không phải người tu theo đạo Phật dựng nên, theo quanh vùng quen gọi ông đạo ấy là Phật Thầy Tây An. Phật Thầy Tây An chết đã lâu, trong chùa người lo hương khói đều để tóc, người đến chùa quen gọi là “ông đạo”. Các ông đạo này ngày thường làm ruộng, rẫy tự sống, thỉnh thoảng cũng thọ lãnh của tiền của bá tánh đến cúng. Các ông đạo này không biết tụng kinh và giảng kinh theo đạo Phật, các ông chỉ biết làm bùa làm phép gọi là cứu dân độ thế, và đọc những bài gọi là “sấm giảng” của Phật Thầy Tây An truyền lại. Tổ Hoằng Ân được mấy ông đạo giữ chùa cho ở và giao cho Tổ chuyên lo phần tụng kinh giảng đạo, còn các ông chỉ chuyên lo bề bùa phép để cứu dân độ thế. Nơi đây cảnh vật u nhàn, khói mây sớm chiều đi về phóng khoáng! Bất giác Tổ nhớ lại hai câu liễn thờ Tổ ở chùa Giác Lâm và Giác Viên, Tổ lấy làm thích thú: 

Tự cổ thanh nhàn, thường dẫn yên hà vi bạn tử, 
Sơn thâm thể cách, chỉ bằng thảo mộc ký Xuân Thu. 
Tạm dịch: 
Chùa cổ, sư nhàn thường tiếp khói mây làm bạn thiết, 
Non thâm, khách vắng chỉ nhờ cây cỏ nhận Xuân Thu. 

Tổ ở chùa Tây An chừng một năm, qua tác phong đạo hạnh của Tổ đã cảm hóa được lòng của các ông đạo ở đây, họ sanh lòng tin phục bèn giao hết tiền bạc của bá tánh cúng dường cho chùa để Tổ quản lý. Bây giờ Tổ đề xướng các ông đạo nên dùng số tiền để xây dựng ngôi chánh điện và hậu tổ bằng ngói cho được sạch sẽ và trang nghiêm. Cũng vì ở lại núi Sam lâu năm, nên về sau trong giới Phật giáo miền Nam đều gọi Tổ là Tổ núi Sam. Kể ra mấy tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Tân An, Gia Định và Chợ Lớn đâu đâu cũng có đệ tử thọ phái quy y với Tổ. 

Có lần được xem như là lần cuối cùng, Tổ trở về thăm chùa Giác Lâm, Giác Viên, thầy Như Lợi xin Tổ cho từ chức trụ trì chùa Giác Lâm, vì thầy cảm thấy không đủ sức đảm trách nhiệm vụ này nữa. Tổ làm thinh thăm dò gần một tháng mới nhận lời, và ngài trạch cử ông thủ khố chùa Giác Viên là đệ tử thầy Như Phòng, pháp danh Hồng Hưng, pháp hiệu là Thạnh Đạo, làm trụ trì chùa Giác Lâm. 
Thầy Hồng Hưng nhận lãnh trách nhiệm trụ trì chùa Giác Lâm, năm đó thầy mới 24 tuổi, nhằm năm Canh Tý (1900). 

III. Sự nghiệp của người kế tục

Tạm nghỉ ở Giác Lâm hồi lâu, tổ Hoằng Ân thấy thầy Hồng Hưng cáng đáng được việc đạo. Ngài vân tập Tăng chúng lại tại am Giác Đế mà dặn dò: “Tôi vân du lần này không định lúc nào mới về, thầy Như Phòng nên chín chắn lựa người lập làm trưởâng tử để truyền thừa Phật pháp, nhất là phải giữ mãi sự liên lạc đạo pháp cũng như đời sống của hai chùa. Còn phần thầy Hồng Hưng thì tôi thấy đủ khả năng để đảm đương chùa Giác Lâm, nhưng tánh khí khái cũng nên lắng bớt. Nếu sau này tôi không về kịp sắp xếp thân thế của sư ông giám Giác Lâm, thì hai ông trụ trì nên hội nhau, xét thấy ông nào lâm cảnh nghèo thiếu quá, thì cho ông ấy am này để ở, để không dám quên Phật pháp!". Dặn dò xong hậu sự, sau ít ngày Tổ giã từ đại chúng, tái bước vân du. 

Tổ ghé chùa Bửu Lâm nghỉ lại am Viên Giác mấy tháng, rồi lần lên Châu Đốc. Ngài nghỉ ở chùa Tây An hơn một năm, ngài cảm thấy lưu phái của Lâm Tế thuộc dòng “Đạo Bổn Nguyên”, ngài đã đặt sâu nền móng ở đây, nhưng ngài còn ngại những lá cành về sau không được xum xuê bằng Chợ Lớn. Vì vậy ngài muốn gom hết sức già để bồi dưỡng thêm cho phát đạt, nhưng ngài hồi cố lại sức khỏe thấy không còn đủ để đảm đương công việc lớn lao ấy nữa! 

Đến năm Quý Sửu (1915), Tổ từ Châu Đốc về Mỹ Tho thăm chùa Bửu Lâm, rồi trụ tại am Viên Giác sắp xếp cuộc nhập thất lâu dài để tu thiền. Tăng, tín đồ chung quanh nghe Tổ về Mỹ Tho lâu ngày, ai nấy phân nhau tứ sự cúng dường cho Tổ. 
Ngoài giờ tiếp khách ra, trong khi nhập thiền, ngài cảm thấy tinh thần thay đổi khác thường, vì mới niệm tư duy tinh thần chuyển biến từ sát na muốn duy trì thiền trạng, nó vẫn dao động tự do. Bây giờ, ngài cảm nhận công năng hành đạo tại nhơn gian của ngài sắp chung kết. 

gài tập trung tinh thần kiểm điểm lại năm mươi mấy năm hành đạo với sự nghiệp từ bi của Tổ giao phó, ngài không một phút nào lơ lãng trách nhiệm. Giờ đây, trên không phụ nguyện cùng Phật, Tổ, dưới không tiêu cực với đệ tử, tín đồ; thế là còn gì bận bịu với trần gian! Một kiếp tu hành là một kiếp trui rèn gương trí huệ ngày thêm sắc bén, thế là được rồi! 

Từ ngày Tổ nhập thất, gặp giờ Tổ tiếp khách luận đạo, các vị kỳ lão quanh vùng thường đến đàm luận và hỏi han đạo lý. Tuy thấy Tổ thù tiếp chuyện trò tỉnh táo, nhưng ai nấy đều thấy sức khỏe của Tổ yếu lần. 
Cái tin sức khỏe của Tổ suy giảm chẳng bao lâu các nơi đều hay biết, vì thế hàng ngày đều có người đến viếng thăm. Chùa Giác Lâm, Giác Viên hay được tin ấy liền rần rộ xuống thăm tổ, muốn rước Tổ về Giác Lâm; nhưng hàng Tăng, tín đồ ở Mỹ Tho xin để Tổ ở am Viên Giác mới công bằng, vì ở Châu Đốc cũng như Chợ Lớn, đệ tử muốn đi thăm thì kể đường đi cũng không ai xa, ai gần bao nhiêu; chớ rước Tổ về Giác Lâm thì đệ tử ở Châu Đốc phải đi xa. Hơn nữa, đệ tử thì ai cũng đệ tử, thầy nằm ở đâu thì người ở đó phải lo nhiều, nay thầy nằm ở Mỹ Tho, thì đệ tử Mỹ Tho phải cáng đáng hết. 

Thấy nói đúng lý, nhóm đệ tử ở Chợ Lớn liền phái người thay phiên thường trực ở hầu Tổ tại am Viên Giác. Giờ Thìn ngày 26 tháng Giêng năm Giáp Dần (1914), Tổ cho gọi tất cả đệ tử hầu hạ đều đủ mặt, Ngài chậm chậm niệm hai câu: “Phật pháp miên trường - Chúng sanh dị độ” rồi từ từ nhắm mắt an nhiên quy tịch. Tổ trụ thế 65 năm, về tuổi đạo thì đối với công năng truyền thừa của ngài không thể lấy cái gì hư vọng ở thế gian mà đo lường đạo hạnh của Tổ được, bởi vì cả một đời hành đạo của Tổ, không một ngày nào mà ngài không nghĩ đến Phật pháp, không một giây phút nào mà Tổ không suy niệm đến nhân sanh. Hơn nữa, ngài không nói sự mất còn, sanh diệt ở thế gian không có gì là thường, là đoạn cả. Thường hay đoạn chỉ là hiện tượng của cảnh giới nhơn gian mà thôi. 

Sau giờ Tổ tịch, nhóm đệ tử của Tổ ở Mỹ Tho cùng nhau bàn tính: nhất định xây tháp an trí linh xu Tổ ở Mỹ Tho, chứ không cho đem về Giác Lâm. Nghe được ý kiến ấy, người đại diện Giác Lâm ở hầu bịnh Tổ vội vàng đáp xe về Chợ Lớn báo tin. Thầy Hoằng Nghĩa chùa Giác Viên và thầy Thạnh Đạo chùa Giác Lâm tập họp chư sơn thiền đức Chợ Lớn cùng bàn tính lựa lý lẽ chính xác để giành phần đem linh cữu Tổ về Giác lâm. Mọi người nhất trí là trong dòng “Đạo Bổn Nguyên” chi Lâm Tế do tổ Phật Ý truyền thừa ở miền Nam, thì tại chùa Giác Lâm đã có tháp của chữ “Tổ” là Tổ Tông, hiệu Viên Quang và chữ “Tiên” là Tiên Giác hiệu Hải Tịnh, thì nay Tổ chữ “Minh” là Minh Khiêm lại là đệ tử trực tiếp của Tổ Tiên Giác, nay phải đem linh xu của Tổ về chùa kế cận hai ngôi tháp kể trên, mới hợp tình hợp nghĩa. 

Xuống Mỹ Tho, thầy Hồng Hưng đem ý kiến trên trình bày, các đệ tử tín đồ có mặt thấy đúng, nên bằng lòng cùng nhau đưa linh cữu Tổ về Giác Lâm an táng. Trong hai ngày quàn linh cữu Tổ ở chùa Giác Lâm, thầy Như Phòng mang khăn tang trưởng tử đứng hàng đầu trong mỗi thời điện tế. Đến ngày đưa linh xu Tổ nhập tháp xong, những đệ tử của Tổ có mặt hôm đó cùng nhau góp tiền giao cho thầy Như Phòng xây tháp cúng dường Tổ. Bia tháp ghi: Từ Lâm Tế chính tông, tam thập bát thế thượng Hoằng hạ Ân húy Minh Khiêm Hòa thượng tôn sư chi bửu tháp. 

* * * 

Thầy Như Phòng hiệu Hoằng Nghĩa là con trai một của ông Hương chủ làng Bình Thới (địa phương hiện nay chùa Giác Viên), tên tục của thầy là Trần Văn Phòng. Thuở ấy, con trai của vị Hương chủ trong làng lại giàu có, người trong làng coi như một công tử con quan, cho nên tuy cha mẹ cậu ép buộc cậu vào chùa tu dưỡng, nhưng thầy chỉ học kinh luật lấy lệ chứ không nghĩ gì đến tư cách của một nhà tu. Bởi vậy thầy vẫn lén thầy và cha mẹ đi ngao du với bạn cũ ngoài đời. Những cuộc vui chơi nào không nhiều thì ít thầy vẫn tham dự, nhất là những cuộc liên hoan, thì thầy lãnh được bài nhì, và ngày thầy Như Nhu quy tịch thì thầy đã vâng lời cha mẹ sắp đi cưới vợ. 

Nhưng khi Tổ Minh Khiêm giao phó trách nhiệm gánh vác chùa Giác Viên, thì thầy nhóm họp bạn bè tại nhà cha mẹ, làm bữa tiệc liên hoan và tuyên bố từ giã bạn bè, và qua ngày sau thầy gởi thư từ hôn. Bắt đầu từ ngày lãnh trách nhiệm, thầy thay đổi lần sự sinh hoạt trong chùa. Thầy xây tháp và tạo bài vị thờ thầy Như Nhu, bắt buộc Tăng Ni trong chùa phải ăn mặc nâu sồng theo phép của người ở chùa, ai vi phạm thì bị xuất chúng. Trong ba rằm lớn, Tăng Ni trong chùa mỗi người phải tùy hỷ ít nhiều đóng góp tiền bạc để bố thí cho hành khất, phần thầy bao chót. Mỗi năm, sau ngày đưa chư Thiên, thầy sai làm 300 cái bánh qui thật to, để đem biếu cho bổn đạo (hiện nay khuôn bánh qui khổng lồ ấy đã sứt một chưn, còn cất ở kho tài vật chùa Giác Viên). 

Bây giờ chi phái Lâm Tế dòng “Đạo Bổn Nguyên” của chùa Giác Lâm chỉ còn giữ chữ “Như” là thầy Như Phòng. Vì vậy sự tôn kính trong chi phái, thì thầy Như Phòng là sư thúc thầy Hồng Hưng. Thầy Hồng hưng cảm thấy phải có một hình thể tôn ti, một sự liên hệ chặt chẽ của chi phái Giác Lâm, nên thầy chọn ngày mồng 3 tháng Chạp là ngày kỵ Tổ Viên Quang dùng làm ngày tảo tháp chư Tổ làm thông lệ hàng năm, thầy mời đông đủ chư sơn Chợ Lớn đến dự. Khi cúng ngọ thọ trai xong, thầy mời thầy Như Phòng ngồi thượng tọa, xong thầy quỳ xuống tách bạch giữa chư sơn là từ nay thầy giao quyền điều khiển chùa Giác Lâm cho sư ông Như Phòng, thầy chỉ thừa hành sự chỉ giáo của bổn sư thôi, và xin chọn ngày mồng 3 tháng Chạp làm ngày tảo tháp thường niên của chùa Giác Lâm. 

Sư ông Như Phòng chấp nhận đề nghị này và thầy dạy: Đây hai chùa, hễ chùa nào còn người vai vế lớn thì chịu trách nhiệm lãnh đạo chung cho hai chùa, như khi tôi tịch thì Hồng Hưng vai sư huynh phải điều khiển Tăng chúng chùa Giác Viên. Chư sơn thiền đức có mặt hôm đó tán dương và bằng lòng ghi nhớ ngày mồng 3 tháng Chạp, đến chùa Giác Lâm tảo tháp. Năm Mậu Thân (1908), thầy Như Phòng đứng ra tu tạo sửa chữa các tòa chánh điện, giảng đường và hậu tổ chùa Giác Lâm. Thầy Như Phòng lo về vật liệu, còn phần kiến trúc và trang trí thì thầy Hồng Hưng chịu trách nhiệm. Sửa chữa Giác Lâm xong, Tổ quay về sửa chữa chùa Giác Viên. Chùa Giác Viên ngày nay được nguy nga đồ sộ phần lớn là do công đức của Tổ Như Phòng. 

Đến năm Nhâm Tuất (1922), thầy Thạnh Đạo làm Hóa chủ kiêm Chủ kỳ, lập chúác thọ giới đàn tức trường kỳ tại chùa Giác Lâm, thỉnh Tổ Như Phòng làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới. Tục truyền, qua năm Quý Hợi (1923), một buổi sáng đầu năm có một bà lão đến chùa Giác Lâm xin gặp thầy Hồng Hưng. Khi được gặp thầy, bà lão chắp tay cung kính hỏi: - Bạch thầy, đây có phải chùa Cẩm Đệm không? Thầy Hồng Hưng đáp: - Phải. Bà lão nói tiếp: - Trong chùa có thầy nào là Hồng Hưng không? Thầy Hồng Hưng cười và nói: - Hồng Hưng là tôi đây, và thầy mời bà lão vào ghế ngồi uống nước. Sau đó bà lão mới nói: - Đêm qua tôi nằm chiêm bao thấy một vị Phật bảo tôi vào chùa Cẩm Đệm ở Phú Thọ hỏi cho gặp mặt thầy Hồng hưng, cho thầy hay là phải mau mau ra lấy cốt xá lợi của Tổ Phật Ý nằm trong tháp gần Chợ Đũi đem về chùa Cẩm Đệm mà phụng thờ... 

Thầy Hồng Hưng nghe bà lão nói như vậy, thầy sực nhớ lại có một năm Tổ Hoằng Ân có dặn thầy ra vườn Bờ-rô (nay là công viên Tao Đàn) tảo tháp. Thầy vội cảm ơn bà lão và gởi tiền cho bà về xe, nhưng bà không nhận, bà chỉ nhà của bà và bà dặn thầy Hồng Hưng ra Chợ Đũi hỏi nhà bà, bà sẽ dẫn lại ngôi tháp Tổ Phật Ý đã hư hoại. Thầy Hồng Hưng đưa bà lão về rồi, thầy vội xuống Giác Viên cho sư ông Như Phòng biết sự việc, và cho mời các vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ ở Chợ Lớn, ngày sau họp ở chùa Giác Lâm, để cùng nhau đến Chợ Đũi tìm tháp Tổ Phật Ý. Hôm sau khi tề tựu đông đủ, sư ông Như Phòng đến trước bàn Tổ quỳ và cầu nguyện Tổ Phật Ý hộ trì cho các đệ tử tiến hành công việc xin phép lấy cốt dễ dàng đem về chùa Giác Lâm xây tháp cúng dường. 

Khi ra Chợ Đũi đến nhà bà lão, bà rất vui mừng và hướng dẫn các thầy đến tận ngôi tháp của Tổ Phật Ý. Các thầy cùng nhau quét dọn quanh tháp sạch sẽ rồi lên nhang đèn làm lễ tháp. Bỗng có chiếc xe hơi chạy ngang qua đó rồi ngừng lại ngang hông tháp. Trên xe bước xuống một người Việt Nam và một người Ấn. Người Ấn hỏi người Việt mấy câu bằng tiếng Ấn và người Việt thông ngôn lại: - Quý thầy làm gì ở đây? - Thầy Hồng Hưng nói rõ lý do tụ họp làm lễ... 

Khi người Ấn được thông ngôn cho biết là muốn lấy cốt ở ngôi tháp này, thì người Ấn nói rằng: - Tôi làm ở Xã Tây, để tôi lãnh phần xin phép lấy cốt. Trong ba ngày nữa sẽ có giấy phép mang đến tận chùa Giác Lâm. Quả nhiên ba ngày sau, thầy Hồng Hưng tiếp được giấy phép, thầy bèn cho thầy Như Phòng hay và thầy lãnh trách nhiệm lấy cốt Tổ Phật Ý đem về chùa Giác Lâm. 

Hiện nay, bao nhiêu bửu tháp của các vị Tổ sư chi phái Lâm Tế nằm bên trong chùa Giác Lâm, mà ngôi tháp của Tổ Phật Ý nằm gần bìa, là vì Tổ Tông xây trước ở giữa rồi Tổ Viên Giác, Tổ Minh Khiêm, đến khi đem xá lợi Tổ Phật Ý về đành phải nằm vậy. 
Tổ Phật Ý là người đem chi phái Lâm Tế dòng Đạo Bổn Nguyên vào miền Nam trước tiên, và Tổ là người khai sơn chùa Sắc tứ Từ Ân. Đáng lẽ sau này gọi là chùa “Tổ đình” thì phải gọi chùa Từ Ân mới phải, nhưng từ ngày chùa Giác Lâm đem xá lợi Tổ Phật Ý về xây tháp cúng dường, thì từ đó chư sơn đều gọi chùa Giác Lâm là chùa Tổ đình, danh từ chùa Tổ đình tại miền Nam trong văn ý nhà chùa mới có từ đây.«
 
 

Những ngôi cổ tự đã mất ở Gia Định xưa
HUỲNH NGỌC TRẢNG 

Lật lại các bản đồ chiến sự 1860-1861, chúng ta thấy thực dân Pháp đã chiếm các chùa cổ ở Gia Định để thiết lập cái gọi là “phòng tuyến chùa chiền” để phòng ngự các cuộc tiến công của quân ta, nhất là hướng từ đại đồn Chí Hòa. Bắt đầu từ phía Tây thành Gia Định vào Chợ Lớn, phòng tuyến ấy có các “đồn - chùa”: 1/ Pagode Avancée (hay P.Barbé); 2/ Pagode des Mares; 3/ Pagode des Clochetons; 4/ Pagode Chinoise (hay P.de Cây Mai). Như vậy, các ngôi chùa cổ của đất Gia Định xưa đều bị quân giặc chiếm đóng và rồi phá hủy, vì đó là “tàn tích ngoại đạo”, giống như chúng đã phá hủy thành Gia Định và các thiết chế văn hóa truyền thống đàn, miếu, đền, từ vì chúng là “tàn tích của cựu trào”. 

1. Ngôi chùa mà thực dân Pháp gọi là “chùa Trước” (Pagode Avancée) chính là chùa Khải Tường ở địa điểm mà nay là nơi trưng bày tội ác chiến tranh (góc Võ Văn Tần - Lê Quý Đôn). Được gọi là “chùa Trước” vì từ thuở khai sơn cho đến lúc bị triệt hạ, ở khu vực thôn làng Hoạt Lộc (có tư liệu viết là Tân Lộc) hay xóm Chợ Đũi nói chung, có hai ngôi chùa: Khải Tường do Tổ Phật Ý khai sơn khoảng 1744, và chùa sau là chùa Từ Ân do một Thiền sư kết nghĩa huynh đệ với Phật Ý tạo lập vào khoảng 1752 mà vị trí nằm trong Công viên Văn hóa Tao Đàn ngày nay (1). 

I. Chùa Khải Tường là nơi thứ phi của Gia Long, trong giai đoạn tẩu quốc, có đến trú ngụ và hạ sinh Hoàng tử Đởm - sau này là vua Minh Mạng. Do đó, sau khi lên ngôi, năm Nhâm Thìn, Minh Mạng thứ 13 (1832), vua ra lệnh cho Bộ Lễ: “... Nhân đó nghĩ đến chỗ ta ở chỗ nhà cũ của Tổng quốc công phu nhân tại ngoại thành Gia Định, vậy sai quan địa phương tìm hỏi xem. 

“Đến đây, quan thành Gia Định tìm hỏi được di chỉ ở làng Tân Lộc, vẽ địa đồ dâng lên. 

“Vua dụ rằng: “Làng Tân Lộc ở phía hữu thành Gia Định, khi trước Hoàng thái hậu ta theo Hoàng khảo Thế Tổ Cao Hoàng đế ta vào nam, từng đóng lại ở nơi ấy. Thực là hợp với điềm tốt: “Cầu vồng trôi ở bến hoa”(*) nghĩ đến đất quý phát phúc càng nên giữ mãi dấu tích để khuyến khích sau này. Vậy nên dựng ngôi chùa ở ngay chỗ đất ấy, gọi là chùa Khải Tường, để ghi sự tốt lành to tát chứng tỏ nơi phát phúc lâu dài. 

“Vua bèn lấy của kho 300 lạng bạc, giao cho quan địa phương, theo cách thức đã định của Bộ Công, gọi thợ xây dựng. Lại mộ các sư đến ở, hạn là 20 người. Các lễ tiết hàng năm, có ruộng tự điền được đặt để sung cấp. Phàm gặp tiết Thánh thọ, tiết Vạn thọ và các lễ: ngày trừ tịch trồng cây nêu, Tết Nguyên đán, Tết Đoan dương, tiết Tam nguyên, ngày sóc, ngày vọng đều dâng đồ cúng chay và hương nến” (2). 

Theo tư liệu trong bài viết của Thiền Hòa tử Huệ Chí đã dẫn thì chùa Khải Tường được sắc tứ là “Quốc ân Khải Tường tự” và chùa Từ Ân cũng được sắc tứ. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, chùa Từ Ân dời về Tân Hóa (quận 11) và ở đây còn lưu giữ biển hiệu của chùa Khải Tường và một số tượng cổ của chùa Từ Ân. Chùa Khải Tường bị chiếm làm đồn do Trung úy Barbé làm đồn trưởng. Đêm 7-12-1860, tên Trung úy này bị nghĩa quân Trương Định phục kích giết chết khi hắn đang đi từ đồn chùa Trước đến đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares). Chính vì tên của viên Trung úy, thuộc Trung đoàn đệ tam Thủy quân lục chiến, chiếm chùa Khải Tường làm đồn này mà thực dân Pháp gọi là “chùa Barbé” (3). 

Chùa Barbé đi vào lịch sử không chỉ là nơi trú đóng của Gia Long, nơi sinh Hoàng tử Đởm, mà sự kiện viên Trung úy Barbé đền tội cũng được tiểu thuyết hóa và trở thành truyền thuyết dân gian. 

Hai tác giả người Pháp là Le Vardier và De Maubryan đã kể lại mối tình éo le của cô gái Bến Nghé là Thị Ba và viên Trung úy này trong tác phẩm Scènes de la vie Anamite - Khi Hoa (Nxb. P. Ollendorff, Paris 1884) và câu chuyện này, trong dân gian đã trở thành câu chuyện kể về người con gái biết gạt bỏ những riêng tư để giúp nghĩa quân kết liễu tên sĩ quan xâm lược, mà sau này được tái hiện trong vở cải lương Nàng Hai Bến Nghé. 

Đến nay, chùa Khải Tường chỉ còn lại ít di vật ở chùa Từ Ân, chùa Thiền Lâm (Hóc Môn), và pho tượng Di Đà (tạc bằng gỗ mít thếp vàng, cao 1,60m) hiện được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử (trong Thảo cầm viên). Theo lời tục truyền, đây là pho tượng được vua Minh Mạng dâng cúng nhân lễ lạc thành chùa Khải Tường vào khoảng năm 1832. Đây là di vật đã tồn tại qua năm tháng để làm chứng cho ngôi cổ tự đã biến mất. 

II. Theo P. Daudin và các sử liệu viết về cuộc đánh chiếm Gia Định hồi những năm 60 của thế kỷ trước, thì sau khi đánh hạ thành Gia Định, Arièr ở lại Sài Gòn với khoảng 800 lính chia nhau chiếm các chùa Khải Tường, đền Hiển Trung và chùa Cây Mai để làm đồn. 

Cơ sở thờ tự mà thực dân Pháp gọi là chùa Hiển Trung hay gọi chung là “chùa ở chỗ nhiều ao vũng” (Pagode des Mares). Đền Hiển Trung xây dựng vào năm Ất Mão (1795) và trùng tu vào năm 1804, để thờ các công thần đã từng theo giúp Nguyễn Ánh mà đứng đầu là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Thực ra, ở khu vực mà về sau gọi là “thành ô Ma” này, ngoài đền Hiển Trung còn có một ngôi chùa được xưng tụng là “đại bửu sát” của cả xứ Gia Định là Kim Chương tự. Theo Gia Định thành thông chí, chùa được Hòa thượng (HT) Đạt Bổn từ Qui Nhơn vào khai sơn năm 1755, được vua ban cho tấm biển đề là Kim Chương tự.

Khi HT Đạt Bổn mất, truyền lại cho đồ đệ là Quang Triệt. Ở đây, năm 1775, Lý Tài, người cầm đầu đạo quân Hòa Nghĩa - đã mượn chùa tôn Nguyễn Phước Dương làm vua Mục Vương, nên chùa lại được sắc tứ một lần nữa. Quang Triệt tịch, Quang Trạm kế tục; Quang Trạm mất, Quang Tuệ nối. Năm 1813, Thần võ quân Trần Nhơn Phụng vâng theo di chỉ của Cao hoàng hậu, ban một vạn quan tiền để trùng tu chùa và chỉnh lý kinh tạng, trống chuông cho thêm vẻ trang nghiêm: giữa là Phật điện, trước sau có Đông Tây đường, sơn môn, phương trượng, kinh thất, hương viện và phạn đường chạm trổ, tô son tốt đẹp, rộng cao (4). 

Năm 1859, khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, chùa Kim Chương vốn là ngôi quốc tự nên Tăng chúng đã cấp tốc dỡ chùa và chở Phật tượng rút về Mỹ Thiện (nay thuộc huyện Cái Bè, Tiền Giang). Ở đây, chùa đổi tên là chùa Hội Thọ. Trải qua bao cuộc chiến tranh, đến nay, chùa Hội Thọ còn bảo lưu được số bài vị các Tổ và tượng cổ của Kim Chương tự. Đây là những di tích mỹ thuật được tạo tác cách nay chí ít là 185 năm của đất Gia Định xưa. Ngoài tượng Di Đà được tạo tác bằng đất sét in khuôn, còn các tượng gỗ đều mang phong cách nghệ thuật của điêu khắc gỗ Phú Xuân. 

Cũng như tượng Phật Di Đà của chùa Khải Tường, các Phật tượng gỗ của chùa Kim Chương là cứ liệu chỉ định cho sự giao lưu văn hóa Phú Xuân - Gia Định, mà ở đó không chỉ là tác phẩm mà có thể là cả nghệ nhân chạm khắc gỗ. 

III. Ngôi chùa được gọi là “chùa Chuông” (Pagode des Clochetons) có tên gọi là chùa Kiểng Phước. Chùa bị thực dân Pháp chiếm làm đồn, gọi là đồn Kiến Khương. Ngôi chùa này không được chép trong tài liệu thư tịch Hán Nôm. Ngày nay, chúng ta có thể hình dung hình dáng kiến trúc của chùa qua bức tranh khắc được in trong sách của tác giả Pháp. 

IV. Chùa Cây Mai là ngôi chùa quá danh tiếng ở xứ Gia Định xưa, vì nơi đây là một danh lam và là một danh thắng với một gò đất nổi cao có nhiều cây Nam mai “nhành cỗi rườm rà, nhưng khi hoa nở không có tuyết, chỉ có lá hộ vệ mùi thơm mà thôi. Thứ hoa này thụ bẩm linh khí mà sinh ra, không đem trồng nơi trước được. Trên có chùa Ân Tôn đêm đêm đọc bối kinh, chuông mai trống chiều vang rền trong mây khói... Lại có suối chảy quanh chân gò, các du nữ chiều mát chống thuyền hái sen; gặp lúc giai tiết, văn nhân thi sĩ mang bầu rượu theo từng bực cấp leo lên ngâm vịnh tại nơi đầu gò, dưới gốc mai, hoa cùng văn tự nồng nực mùi hương...” (5). 

Chùa Cây Mai như vậy là tục danh của chùa Ân Tôn; Cây Mai là một gò đất và là một địa danh chỉ chung cho vùng Phú Lâm. Theo Đại Nam nhất thống chí thì chùa này là một thắng cảnh của Nam Trung và tục truyền hoa mai trắng (Nam mai, họ mù u) năm ra hoa, năm không ra hoa, biến đổi theo sự vãng phục của chùa. Đây là nơi thành lập thi xã đầu tiên của Gia Định. Trịnh Hoài Đức có hai bài thơ vịnh danh thắng này: Mai khâu vãn thiếu và Mai khâu túc hạc. Sách Đại nam nhất thống chí cũng có ghi lại một bài tứ tuyệt của một thi sĩ vô danh: 

Thiền môn hà xứ phỏng mai hoa 

Tạm gác chinh tiên luận Thích già 

Hương nhập trà bình yên chính noãn 

Nhất sinh trần lự bán tiêu ma 

Dịch: 

Cửa thiền ta đến viếng mai hoa 

Tạm gác chinh tiên luận Thích già 

Hương nhập trà bình đương ngút khói 

Một đời trần lụy nửa tiêu ma (6) 

Chùa Cây Mai danh tiếng là thế, nhưng sau khi Pháp chiếm làm đồn đã tiêu hủy sạch, không còn một di tích gì, ngoài một cội Nam mai cố gắng gượng sống để làm dấu nơi ngôi danh lam cổ tự đã từng tọa lạc, hầu an ủi những ai hoài cổ đã cất công đi tìm dấu xưa tích cũ. 

Thời gian tưởng như hững hờ là thế, nhưng lại mạnh mẽ vô cùng, cuốn trôi theo nó mọi thứ. Chiến tranh và tà kiến của kẻ xâm lược lại phá hoại dữ dội hơn... Những thành tựu từ buổi đầu của 300 năm lịch sử mà cha ông ta gầy dựng, mười phần nay không còn được một. Bởi vậy, cái gì xưa cũ còn lại là quý giá biết dường nào.« 

(1) Theo Thiền Hòa tử Huệ Chí: Lịch sử chùa Tổ đình Giác Lâm. Bản đánh máy của chùa Giác Lâm, 1983. 

(2) Theo Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ. Bản dịch của Viện Sử học, Nxb KHXH, H, 1962, tập XI, tr 173-174. 

* Cầu vồng trôi ở bến hoa: do điển tích mẹ Thiếu Hiệu là Nữ Ngung ở đời Hoàng đế, có sao lớn như cầu vồng sa xuống, trôi ở bến Hoa Chử. Nữ Ngung thấy mộng giao tiếp với sao ấy mà sinh ra Thiếu Hiệu (theo Bội văn vận phủ). 

(3) P.Daudin: Le stèle funéraire du captaine Barbé au cimetière de Saigon -B.S.E.I 1943, T.XVIII, No 1-2, p.9-16: Barbé bị giết ngày 7-12-1860. Chùa Khải Tường đổi thành chùa Barbé và “biến mất” vào năm 1880. Bọn Pháp cướp lấy bia đá của vua Thiệu Trị gởi vào đặt ở mộ Phạm Đăng Hưng (ở Gò Công) để làm bia mộ cho Barbé chôn ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi... 

(4) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí - Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa xb, S, 1972, tập Hạ, tr 88-89. 

(5) Trịnh Hoài Đức, Sđd, tập Thượng, tr 37-38. 

(6) Đại Nam nhất thống chí - Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa tb, S, 1973, tập Thượng, tr 97. 
 
 

Đặc điểm của Phật giáo Hoa tông ở Nam Bộ
pts trần hồng liên

Trong đoàn di dân từ miền Trung vào Nam khai phá vùng đất mới, có cả người Việt và những người từ Trung Quốc đến Việt Nam định cư vào nhiều thời điểm khác nhau. Phật giáo (PG) sử có đề cập đến sự hiện diện của nhiều Thiền sư Trung Hoa đến Việt Nam truyền đạo từ gần hai thiên niên kỷ trước. Với bề dày lịch sử đó đã có thể giúp định hình trên địa bàn cả nước và tại vùng đất mới Nam Bộ, đặc biệt là ở Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh, một dấu ấn của PG trong cộng đồng người Hoa có mặt gần 300 năm qua tại đây. Nhưng xét về cơ cấu tổ chức, PG Hoa tông ra đời chỉ gần 30 năm trở lại đây. Số lượng cơ sở thờ tự cũng như tu sĩ tương đối ít. Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan trong quá trình phát triển đã dẫn đến hiện tượng trên. Đó cũng là biểu hiện tất yếu của quá trình hội nhập văn hóa (inculturation) của cộng đồng người Hoa vào cộng đồng Việt. Tìm hiểu những đặc điểm chính của PG Hoa tông ở Nam Bộ, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh, sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn quá trình hội nhập này.

1- Điểm dừng chân của các Thiền sư Trung Hoa vào Đàng Trong từ những thế kỷ XVI, XVII đã được ghi lại nhiều trên vùng đất Hội An thuộc Quảng Nam-Đà Nẵng. Ở miền Đông Nam Bộ, nhiều chùa cổ còn đặt bài vị và nhắc đến sự có mặt của Thiền sư Bổn Quả (đời thứ 32) và Thiền sư Nguyên Thiều, đời thứ 33 của dòng Lâm Tế. Chùa Đại Giác, chùa Kim Cang, chùa Long Thiền... ở tỉnh Đồng Nai, thuộc Cù lao Phố xưa, đã có dấu chân hoằng hóa và những ngôi chùa do các Thiền sư Trung Hoa khai sáng và trụ trì. Tuy nhiên, rất hiếm chùa còn liên tục truyền thừa và duy trì sinh hoạt, nghi lễ thuần túy cũng như sử dụng kinh sách chữ Hán cho đến hiện nay.

Tìm lại vết tích ấy có thể nhắc đến vài ngôi chùa trên địa bàn Sài Gòn xưa. Trung tâm tụ cư quan trọng của cộng đồng di dân từ Trung Quốc sang định cư thuộc quận 5 ngày nay, những điểm tập trung đầu tiên của nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau là các hội quán. Nhiều người Hoa có tuổi hiện nay còn nhắc đến vài địa điểm lớn như Nhị Phủ miếu, Ôn Lăng hội quán, Thất Phủ Quan võ miếu... có các tu sĩ PG tạm trú.
Trước năm 1930, những tu sĩ Hoa theo đạo Phật sinh hoạt theo từng chùa thuộc tông phái là chính, chưa có tổ chức Giáo hội.

Năm 1945, Hòa thượng (HT) Thống Lương và Thanh Thuyền xây dựng chùa Nam Phổ Đà (quận 6). Cùng thời gian này, tại quận 11 có chùa Trúc Lâm do HT Lương Giác xây dựng; chùa Hoa Nghiêm (quận Bình Thạnh) do HT Thọ Dã (1952); chùa Từ Ân (quận 11) do HT Hoằng Tu (1955); chùa Vạn Phật (quận 5) do HT Diệu Hoa và Đức Bổn (1959); chùa Thảo Đường do HT Diệu Nguyên xây dựng vào năm 1960 ở quận 6...

Như vậy, giai đoạn giữa thế kỷ XX, PG trong cộng đồng người Hoa được phục hồi và phát triển hơn so với trước đó, và đã tạo tiền đề cho sự ra đời cơ cấu tổ chức của Giáo hội PG Hoa tông Việt Nam vào năm 1972, do HT Siêu Trần và Hòa thượng Thanh Thuyền đứng đầu.
Lần đầu tiên, đạo Phật của các tu sĩ Trung Quốc truyền vào Việt Nam chính thức có tổ chức rộng rãi và có tư cách pháp nhân. Văn phòng đặt tại 360A Bến Bình Đông, quận 7. Trụ sở Trung ương ở số 195 Nguyễn Tri Phương, quận 5.
Giáo hội có nội quy, điều lệ và mở đại hội thành lập Ban Chấp hành Trung ương vào ngày 20-5-1973.

2- Về phương diện thờ cúng, chùa của người Hoa có đặc điểm tượng thờ được đặt trong khánh để đảm bảo sự tinh khiết. Hầu hết các tượng đều được đưa về từ nhiều nước như Myanmar, Hồng Kông... Tam thế Phật là bộ tượng chính, đặt thờ bên cạnh bộ tượng 5 vị tại bàn ngoài cùng (5 vị này có khác với 5 vị được thờ tại các chùa cổ của người Việt) gồm : Phổ Hiền, Di Lặc, Quan Âm, Văn Thù, Địa Tạng Vương Bồ tát. Chùa Hoa còn thờ Phật Di Lặc và Ngọc Hoàng Thượng đế. Trên điện thờ, lư hương dùng đựng trầm được đốt trong các buổi đại lễ và ngọn đèn dầu phộng giữ cháy liên tục, tượng trưng cho chánh pháp không bao giờ tắt !

Bia công đức là một điểm đặc thù trong các chùa miếu của người Hoa, ghi lại tên và số tiền quyên góp vào việc dựng và trùng tu chùa... Tùy theo từng nhóm ngôn ngữ khác nhau, mỗi chùa có nét riêng trong đọc tụng lời kinh và pháp khí sử dụng theo phong cách riêng.
Ngoài một số chùa đặt tượng 18 La Hán, chùa Thảo Đường còn có tranh vẽ 500 La Hán, theo phong cách thờ La hán ở Trung Quốc. Hai vị Hộ pháp trong chùa Hoa là Vi Đà Hộ pháp và Già Lam Thánh chúng. Phía sau các chùa Hoa thường có Diên sanh đường, nơi đặt long vị của cư sĩ có công lớn với chùa. Trên các long vị này thường thờ Phật Dược Sư. Tên gọi Diên sanh đường vì là nơi chú nguyện phước báu cho các cư sĩ còn sống được mạnh khỏe, trường thọ. Khi cư sĩ đã mãn phần, được đưa vào đặt tại Công đức đường.
Vào những dịp lễ lớn, chùa Hoa còn tổ chức lạy các bộ sám lớn như sám Tam Thiên Phật, sám Vạn Phật, sám Lương Hoàng... Lễ tạ chư Thiên là lễ lớn và riêng có đối với các Tăng sĩ Phật tử theo PG Hoa tông. Lễ được tổ chức sau ngày lễ lạy sám trong năm. Lễ vật phong phú với 10 loại 24 thứ khác nhau.

Ảnh hưởng của phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian in đậm trong nghi thức thờ cúng tại chùa Hoa. Giấy tiền vàng bạc được xếp thành hình ống, đặt lên dĩa thành tháp 7 tầng, hoặc có dạng hoa sen... Trong PG Hoa tông, lễ quy y và thọ giới không tiến hành đồng thời như ở chùa Việt. Sáng xuất gia, chiều thọ giới. An cư kiết hạ không tập trung Tăng Ni cùng tu học mà nhập thất riêng, mỗi người tự ở hẳn trong Tăng đường; tùy phát nguyện có thể từ 49 đến 100 ngày. Lễ truyền và thọ giới thường có tục đốt liều trên đỉnh đầu.
Một trong những nguyên nhân làm cho PG Hoa tông có số lượng tu sĩ ít ỏi vì việc tu hành đòi hỏi sự kiên trì, không được hoàn tục, “thọ” nhiều giới..., trong khi cộng đồng người Hoa thì có tục con cái đông đúc mới là nhà có phúc lớn!
Khi hành lễ, Phật tử thường mặc áo tràng đen. Lúc hành lễ, Tăng sĩ có tục bó ống quần để bảo đảm sự thanh khiết.

3- Một trong những nét đặc thù của PG Hoa tông là công tác từ thiện - xã hội. Nhiều hội đoàn được hình thành từ việc bảo đảm cuộc sống của cộng đồng từ khi mới sang Việt Nam như Hội Sư Trúc Hiên (quận 5). Hoạt động chính của Hội là công tác từ thiện, bố thí áo quan, hộ niệm cho người qua đời, đặc biệt là thành lập đội cổ nhạc, chuyên phục vụ lễ hội truyền thống và đám tang. Hội Phật học mang tên Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm có trụ sở trung ương tại quận 5 và nhiều chi nhánh khắp Nam Bộ như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Sa Đéc, Đà Lạt... Ban Hộ niệm của Hội được hình thành từ yêu cầu cúng cầu siêu cho các gia đình theo PG Hoa tông có người quá vãng cần cầu siêu và đưa cúng tại từ đường, nghĩa trang...

Hoạt động từ thiện - xã hội được đẩy mạnh trong các chùa thuộc PG Hoa tông còn xuất phát từ quan niệm hoạt động từ thiện để lại phúc đức cho con cháu! Riêng trên địa bàn quận 5, nơi có đông người Hoa và chùa Hoa, đã có nhiều gương làm việc thiện, điển hình như Sư cô Tuệ Độ ở tịnh xá Quan Âm, có trên 1.000 hội viên; Từ Đức tịnh xá có Thượng tọa Tôn Thật là Trưởng ban Từ thiện của Báo Giác Ngộ. Tháng 12-1998 đại trai đàn chẩn tế kỳ an, kỳ siêu được tổ chức, do PG Hoa tông đề xướng, sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với bệnh nhân nghèo. Từ tiền ủng hộ của các tấm lòng từ thiện, ban tổ chức sẽ phát chẩn cho người nghèo sống lang thang. Trai đàn Vạn Nhân Duyên được tổ chức để gây quỹ xây dựng trường Chánh Giác (quận 11), Việt Tú (Mỹ Tho), Quảng Triệu (Thủ Dầu Một)...

4- Về việc truyền thừa, PG Hoa tông vẫn tiếp tục kế truyền các Thầy Tổ thuộc “Ngũ gia tông phái” ở Trung Quốc. Tuy vậy, phổ biến tại Việt Nam chỉ có hai dòng phái Lâm Tế và Tào Động. Đa số Tăng Ni người Hoa đều được truyền theo bài kệ của Trí Thắng Bích Dung : “Trí Huệ Thanh Tịnh...” của dòng Lâm Tế. Riêng dòng Tào Động chiếm số ít hơn, theo bài kệ pháp phái Vĩnh Xương Cổ Sơn: “Huệ Ngươn Đạo Đại Hưng...”. Chùa Từ Đức (quận 5), chùa Thảo Đường (quận 6)... đều thuộc phái Tào Động.

5- Những đặc điểm nêu trên của PG Hoa tông ở Nam Bộ là những nét lớn, chủ yếu, còn được lưu giữ đến nay, tạo nên nếp sinh hoạt đặc thù trong cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ. Đặc điểm ấy là bản sắc văn hóa Hoa trong PG ở Nam Bộ, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh. Gọi PG Hoa tông, theo sự phân phái trước đây để dễ phân biệt với nhiều giáo phái có mặt ở Sài Gòn trước năm 1975. Ngày nay, với một Ban Quản trị, đại diện có HT Đức Bổn, PG Hoa tông trực thuộc Giáo hội PG Việt Nam. HT là Thành viên Hội đồng Chứng minh và là Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội PG Việt Nam.

Dù rằng gần 300 năm qua, đã có khá nhiều ngôi chùa Hoa do các Thiền sư Trung Hoa sang truyền đạo đã dần dần bị biến đổi theo xu thế Việt hóa, nhiều lớp đệ tử của Sơ Tổ Nguyên Thiều đã là những Thiền sư Việt Nam, nhưng do quá trình cộng cư của hai cộng đồng Hoa - Việt mang tính hòa hợp, cố kết và tự nguyện nên những nét đặc sắc trong văn hóa PG vẫn còn được lưu giữ và được phát huy, nhất là trong lĩnh vực từ thiện - xã hội, đã góp phần lớn vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo; mang lại sự giàu mạnh và thịnh vượng cho đất nước Việt Nam, mà người Hoa là thành viên trong cộng đồng 54 dân tộc cả nước !«
 
 

300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh
THÍCH NỮ NHƯ LỘC 

Sài Gòn-Gia Định nằm trên hai phù sa cũ và mới. Vùng phù sa cũ từ Tây Ninh xuống Sài Gòn và từ Sài Gòn xuống Bà Rịa-Long Điền, vùng đất này cùng với địa mạo miền Đông Nam bộ. Vùng phù sa mới từ Nhà Bè trở xuống, là đất đai nhiều đầm lầy, sông rạch cùng địa mạo và sinh thái vùng miền Tây Nam bộ. Thành phố này đã tồn tại gần 300 năm (1698 - 1998), khoảng thời gian 75 năm từ năm 1623 đến 1698, có thể được coi là giai đoạn hình thành đầu tiên của Sài Gòn. Thời kỳ hàng ngàn gia đình Việt Nam từ miền Bắc, miền Trung vào khai hoang lập ấp ở vùng Đồng Nai và lưu vực sông Cửu Long. Lúc đó xứ Đồng Nai-Gia Định còn là một vùng đất hoang vu, sông nhiều cá sấu, rừng rậm nhiều thú dữ, những dân khi lưu tán đến đây đã nói như sau: 

“Đồng Nai xứ sở lạ lùng, 

Dưới sông cá lội, trên rừng cọp um.” 

Các Tăng sĩ Phật giáo (PG) cũng đã cùng lưu dân Thuận-Quảng vào hoằng hóa ở phương Nam, buổi đầu PG Gia Định như một nhánh của các tông phái PG miền Trung, để rồi sau đó phát triển vững mạnh ở Đồng Nai-Gia Định. Những vị Tăng có công truyền đạo ở miền Trung vào miền Nam gồm có tổ Phật Ý, tổ Thiên Thai, tổ Viên Quang, tổ Thiền Phương, tổ Liễu Thiền... 

Tổ Phật Ý thuộc chi phái Lâm Tế thứ 35 đã từ miền Trung vào Nam truyền bá đạo Phật. Tổ cùng đi với những người dân được chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) mộ vào để khai khẩn đất đai. Khi vào tới Gia Định, Tổ đã dừng lại ở làng Tân Lộc, xã Minh Hương, phủ Tân Bình dựng lên cái am nhỏ (am này sau được vua Gia Long trùng kiến và sắc tứ gọi là sắc tứ Từ Ân). Dân chúng đi vào đây, lúc xa quê cũng nhớ đến mồ mả tổ tiên, nên khi thấy có một nhà sư lập chùa, họ tìm đến qui y ngày một đông. 

Tổ Thiên Thai cũng là một trong những vị Tăng đem đạo Phật miền Trung vào hoằng hóa ở miền Nam. Năm 30 tuổi, Tổ vào trụ trì chùa Phước Linh Tam Phước ở Bà Rịa, không những có công sáng lập phái Thiên Thai Thiền Giáo tông ở Bà Rịa, mà Tổ còn là người đầu tiên vào núi Cố khai phá thạch động để xây dựng chùa Thiên Thai, cũng là vị Tăng đầu tiên lên núi Dinh (Bà Rịa) khai phá rừng hoang biến thành rừng vú sữa phì nhiêu cho môn đệ tông Thiên Thai no ấm tu học sau này. Năm 1934, Tổ cho xây dựng thêm một ngôi Thiên Bửu Tháp, ngôi Thiên Bửu Tháp này được người trưởng môn phái Thiên Thai Thiền Giáo tông là Hòa thượng (HT) Thích Thiện Hào trùng tu lại chánh điện vào năm 1990. 

Tổ Viên Quang, đặc biệt là người Trung Hoa, do không chịu sống dưới sự cai trị của nhà Mãn Thanh, đã bỏ Trung Hoa qua Việt Nam xin thần phục chúa Nguyễn. Năm 1679, Tổ được chúa Hiền Nguyễn Phước Tần cho vào khai khẩn vùng đất Đồng Nai. Tại đây Tổ quy y thọ giáo với Tổ Phật Ý ở chùa Từ Ân, đến năm 1772, Tổ được Tổ Phật Ý cử vào trụ trì chùa Giác Lâm, đến năm 1798, Tổ cho trùng kiến chùa Giác Lâm và sau đó xây dựng chùa Giác Viên. Tổ thuộc phái Thiền Lâm Tế thứ 33, sau Tổ Phật Ý. 

Nếu chúng ta có dịp viếng thăm những ngôi chùa tháp của các tổ và những cao tăng đã dày công xây dựng và truyền bá PG vào xứ Gia Định-Sài Gòn nói riêng, vùng Nam bộ nói chung; trong đó vừa là những vị có đạo pháp uyên thâm, vừa am hiểu sâu về nghệ thuật kiến trúc, đã trực tiếp tham gia vào việc xây dựng chùa tháp, mà ngày nay do từ những giá trị độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc, những ngôi chùa tháp ấy đều đã trở thành là những di tích lịch sử văn hóa của Tp. Hồ Chí Minh. 

Năm 1698 được coi là cái mốc thời gian thành lập của Sài Gòn, bởi vì năm này chúa Nguyễn bắt đầu chia đặt các đơn vị hành chánh ở vùng đất mới phương Nam. Sau đó Sài Gòn trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực đang khai phá. Trên mảnh đất này, bằng lao động sáng tạo và ý thức dân chủ, người dân Sài Gòn-Gia Định đã tạo cho mình dáng đứng Việt Nam, với những giá trị nhân văn cao quý. 

“Có ai tìm được khắp chân trời góc biển, 

Một thành phố trẻ măng nhưng lịch sử rất lạ lùng” 

Tuy dân cư phần lớn là lưu dân miền Bắc, miền Trung di dân vào Nam, và lưu dân người Hoa đa số từ miền Nam Trung Hoa do trung thành với triều nhà Minh, không chịu sống dưới sự cai trị của nhà Mãn Thanh di dân đến; nhưng vào sống ở Sài Gòn thì không còn phân biệt Bắc, Trung, Nam, Hoa hay Khmer nữa, mà chỉ là người Sài Gòn. Bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, con người ở đây luôn luôn năng động, sáng tạo và ngày càng trưởng thành trong đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, đấu tranh chống áp bức bất công, đấu tranh để bảo vệ tổ quốc và xây dựng thành phố này như ngày hôm nay. 

Có những tên người dù năm tháng đã trôi qua, nhưng mỗi khi nhắc tới là như thấy cả ý chí quật cường, tinh thần đấu tranh bất khuất của cả dân tộc. Có những tên đất mà mỗi khi nghe đến là như hình dung được diễn biến lịch sử của cuộc đấu tranh oanh liệt chống ngoại xâm. Từng con đường, góc phố, từng con sông, cái cầu, khu chợ đều chứng kiến lịch sử đấu tranh hiển hách của bao thế hệ. Một trong những tên gọi mà mọi người nhắc đến với lòng tự hào sâu sắc ấy là thành phố của chúng ta - Tp. Hồ Chí Minh... vùng đất xưa kia mang tên Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định. Trương Quang Lục trong bài hát “Thành phố 300 năm” đã viết như sau: 

“... Từ bãi đất bồi phù sa đã vươn lên. Cha anh ta đã vượt khó nguy khẩn hoang mở đất. Bao nhiêu năm đã đổ máu xương mồ hôi nước mắt. Thành phố 300 năm gian khổ trong vinh quang. Thành phố 300 năm dáng đứng Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh rực tên vàng”.

PG Gia Định-Sài Gòn trong hoàn cảnh lịch sử nhất định đã trở thành một thực thể chính trị. Các tổ chức, các phong trào đấu tranh trong suốt thời kỳ chống thực dân và đế quốc xâm lược đã góp phần trong công cuộc mưu cầu độc lập cho tổ quốc. Những thành tích lớn lao đó là một trong những mặt hoạt động tích cực của PG Gia Định-Sài Gòn. Trong công cuộc đấu tranh chống Mỹ-Diệm vào những năm 1962-1963, đồng bào Phật tử và hơn 500 Tăng Ni đã biểu tình và có đến hàng ngàn Tăng Ni tuyệt thực hưởng ứng. Con đường mang tên Thích Quảng Đức nhắc cho chúng ta nhớ đến tinh thần đấu tranh bất khuất của một nhà sư qua hình thức cúng dường làm cho toàn thế giới phải rung động. (Ngoài đời dùng từ hy sinh, trong đạo dùng từ cúng dường... là một hình thức phóng xả tất cả cho chúng sanh, cho đạo pháp). Đó là hình thức cúng dường “vị Pháp thiêu thân” của HT Thích Quảng Đức. Ngọn lửa ấy đã được đốt lên cao vòi vọi, tỏa khắp hoàn vũ, cảm động tới chư Thiên. Con đường thứ hai mang tên Sư Vạn Hạnh càng nhắc cho chúng ta nhớ đến thời quá khứ oanh liệt của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ở miền Bắc vào thế kỷ XI; là người đã mở đường cho vị vua khai sáng triều đại nhà Lý: một triều đại oanh liệt nhất - Bắc đánh Tống, Tây cự Đại Lịch, Nam dẹp Chiêm Thành; là người đã đem PG xây dựng nền độc lập về văn hóa và chính trị cho dân tộc Việt Nam. 

Trong quá trình phát triển khởi thủy từ miền Bắc Việt Nam, PG đã lan truyền xuống miền Trung, miền Nam gọi là hệ phái Bắc tông. Xuống miền Nam gặp PG Nam tông từ Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia truyền qua. Trong khi PG chưa thống nhất được hai hệ phái Bác tông và Nam tông thì miền Nam bị thực dân Pháp đô hộ. Dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, đạo Phật dường như không còn chỗ đứng. Hầu hết những ngôi chùa được sắc tứ ở thời nhà Nguyễn đều bị thực dân Pháp phá hủy toàn bộ. Chùa sắc tứ Từ Ân, theo Đại Nam nhất thống chí, do Tổ Phật Ý từ miền Trung vào đến Gia Định đã dừng lại ở làng Tân Lộc, xã Minh Hương, phủ Tân Bình, dựng lên cái am nhỏ. Am này được vua Gia Long trùng kiến vào năm Gia Long nguyên niên 1802 và được vua Minh Mạng sắc tứ vào năm 1821. 

Chùa Khải Tường, theo Đại Nam nhất thống chí, được vua Minh Mạng trùng kiến năm 1836 và phong là Quốc ân Khải Tường, được phong Quốc ân vì khi Nguyễn Ánh tránh quân Tây Sơn chạy vào Gia Định đã chọn hai chùa trên làm nơi tá túc. Vua ở chùa Từ Ân, còn hậu phi của vua thì ở hậu liêu của chùa Khải Tường. Chính tại nơi đây, thái tử Đởm (vua Minh Mạng sau này) đã ra đời. Cho nên sau này thái tử lên ngôi (là vua Minh Mạng), đã cho trùng tu hai ngôi chùa này và sắc phong. Khi làm lễ chùa Quốc ân Khải Tường, nhà vua có gởi từ Huế vào một pho tượng bằng gỗ thếp vàng. Tượng này nay được trưng bày ở bảo tàng lịch sử: gian phòng Sài Gòn - Bến Nghé, vì từ năm 1867 sau cuộc giao tranh giữa quân ta với quân Pháp, chùa Khải Tường đã bị phá hủy toàn bộ. Chùa Sắc tứ Từ Ân cũng không còn, nay được xây cất lại ở gần Phú Lâm vào cuối thế kỷ XIX. 

- Mai Khâu tự (chùa Gò Mai): chùa xây trên gò mai đặc biệt toàn mai trắng, tuy không được sắc phong nhưng theo Gia Định thành thông chí và Đại Nam nhất thống chí thì Mai Khâu tự lúc đó là một danh lam thắng cảnh, những cây mai trắng đẹp nên thơ ở đây đã khiến cho các văn nhân thi sĩ lui tới ngâm vịnh, tiêu biểu có bài Mai khâu túc hạc và bài Mai khâu vãng thiều của Trịnh Hoài Đức. Một văn sĩ khi đi qua chùa gò Mai cũng đã để lại bài thơ như sau: 

“Thiền môn hà xứ phỏng mai hoa 

Tạm yết chinh tiên thuyết Phan gia 

Hương nhập trà bình yên chích noãn 

Nhất sinh trầm lự bán tiêu ma”. 

Tạm dịch: 

“Cửa thiền ta đến viếng hoa mai 

Tạm gác chinh tiên luận Thích già 

Hương quyện bình trà đang ngút khói 

Một đời trần lụy nửa tiêu ma”. 

Rất tiếc chùa gò Mai với những cây mai trắng đã bị phá hủy vào thời Pháp thuộc. 

Có thể nói, mãi đến đầu thế kỷ XX, PG mới bắt đầu hoạt động trở lại với sự sáng lập của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, và sau đó là sự ra đời của các hội đoàn như Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Hội Phật học Nam Việt, Hội Tăng già Việt Nam, Hội Lục hòa Tăng, Hội Tăng già Nguyên thủy, Hội Tăng già Khất sĩ... Như vậy đến năm 1950, PG Việt Nam đã có đến sáu tập đoàn lớn, ba tập đoàn thuộc Tăng già gồm có: Hội Việt Nam PG Bắc Việt, Hội Việt Nam Phật học Trung Việt, Hội Việt Nam Phật học Nam Việt. Riêng Sài Gòn lúc ấy có khoảng 20 chi hội như Hội PG người Việt gốc Miên, Hội PG người Việt gốc Hoa, Hội Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm... Tuy phong phú đa dạng, nhưng do tùy duyên theo mỗi địa phương khiến PG tổ chức riêng biệt, không hòa hợp thành một lực lượng thống nhất, cho nên việc truyền bá chánh pháp không được thuận lợi, tăng ni phật tử lúc đó càng mong mỏi thống nhất PG hơn nữa. Vào năm 1950, một cuộc hội nghị thống nhất PG Việt Nam được tổ chức tại chùa Từ Đàm, Huế, mục đích để thống nhất các tập đoàn, các chi hội thành khối thống nhất. Như trong tờ hiệu triệu PG mang tính chất lịch sử vào tháng 5 năm 1951 đã ghi như sau: 

"Thời cuộc hiện đại đã cho nhân loại thấy rõ hạnh phúc chân thật trong đạo Phật, nên càng ngày quy ngưỡng càng đông. Chính là lúc những nhà có sứ mạng truyền đạo và những phật tử chân chánh phải cần kíp thống nhất ý chí, lực lượng để hoằng dương chánh pháp của đức Thích Ca, hầu góp phần xây dựng nền hòa bình, an lạc. 

"Ở nước ta, do tùy duyên theo mỗi địa phương, PG tổ chức riêng biệt, nhưng với tình thế hiện tại, chúng ta không thể rời rạc nhau mà phải thống nhất lại thành một đoàn thể lớn mạnh để truyền bá chánh pháp được nhiều thuận lợi...".

Sự kiện thống nhất PG tháng 5 năm 1951 tuy mang tính chất lịch sử nhưng kéo dài không bao lâu. PG Việt Nam vẫn chưa được thống nhất, bởi vì sau hiệp định Genève được ký kết thì nước Việt Nam bị cắt đôi. Mãi đến 30 năm sau, sau khi miền nam được giải phóng, Tp Sài Gòn bước sang một giai đoạn mới, từ năm 1975 đến nay, hơn 20 năm qua Tp. Hồ Chí Minh đã phát huy được truyền thống tốt đẹp, tạo ra được những thành tựu kinh tế-xã hội có ý nghĩa tích cực. Đó là trợ duyên cho Giáo hội PG Việt Nam đi đến thống nhất thực sự. Vào tháng 11 năm 1981 qua kỳ Đại hội đại biểu PG toàn quốc lần I tại Hà Nội, có đầy đủ đại biểu của 9 tập đoàn PG đại diện cho tăng tín đồ Việt Nam, mục đích hòa hợp, đoàn kết các hệ phái trong PG Việt Nam, phát huy tinh thần thống nhất PG, thống nhất về ý chí và hành động, thống nhất về lãnh đạo và tổ chức, trên cơ sở tôn trọng các pháp môn biệt truyền của từng hệ phái và thống nhất hành động theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. 

Đạo Phật du nhập vào Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ II dương lịch, PG Việt Nam đã có gần 2000 năm trong suốt chiều dài lịch sử 4000 dựng nước và giữ nước của dân tộc, điều đó nói lên tính “khế lý, khế cơ” của tổ trong công cuộc hoằng hóa và chấn hưng PG như tổ Thiện Chiếu, tổ Khánh Hòa, tổ Khánh Anh, tổ Huệ Quang... Trong quá trình phát triển của PG, sự truyền bá đạo pháp, sự thịnh phát của tăng già và sự tiến hóa của các nghệ thuật văn học PG, phần lớn tùy thuộc vào sự ủng hộ của chính quyền. Cho nên khi chính quyền được thành lập thì chùa cũng được thiết lập. Vào thời nhà Nguyễn không ít chùa do các vua chúa xây dựng và ngự chế hoặc được vua sắc tứ, tức là được liệt vào văn hóa tín ngưỡng có phần chính thống. Chẳng hạn như: 

- Chùa Non Nước ở Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, sau này vua Thành Thái đổi tên là chùa Linh Ứng, các vua nhà Nguyễn từ vua Gia Long đến vua Thành Thái đều ngự chế và vị tăng sĩ đầu tiên ở chùa Linh Ứng cũng được vua ban sắc Tăng cang. Chùa Linh Ứng là một Phật tích quan trọng ở miền Trung. 

- Chùa Từ Ân, huyện Tân Bình, phủ Gia Định, được vua Minh Mạng sắc tứ năm 1821. 

- Chùa Khải Tường, huyện Tân Bình, phủ Gia Định, được vua Minh Mạng phong “Quốc ân” năm 1836. 

- Chùa Tam Bảo ở Rạch Giá, Hà Tiên, cũng được vua Gia Long sắc tứ, vì có công “giúp quân gạo muối tạo nên duyên”. 

Ở Gia Định-Sài Gòn vào buổi đầu khai hoang chùa chiền không có bao nhiêu, càng không có những ngôi chùa uy nghiêm tráng lệ như Thái Lan, Campuchia. Mãi đến đầu thế kỷ XX, những ngôi chùa cổ bị hư hại vì chiến tranh dần dần được tu bổ, nhiều chùa mới cũng được xây dựng do công lao của chư Tăng ni, Phật tử, hình thể kiến trúc hoàn toàn thay đổi hẳn lối xưa. 

Những ngôi chùa cổ có di tích lịch sử văn hóa được tu bổ lại sau chiến tranh như: 

- Chùa Giác Lâm: là một ngôi chùa cổ nhất thành phố, có bề dày lịch sử hơn 240 năm, nằm trên gò đất cao gọi là gò Cẩm Sơn, được bao quanh bởi những hàng cây rợp bóng mát, đặc biệt ở sân trước có cây bồ đề do chính Đại đức Narada mang từ Tích Lan sang trồng tặng. Chùa được tổ Viên Quang trùng kiến năm 1789, làm lễ lạc thành năm 1804. 

- Chùa Giác Viên: được xây bên hố đất cách chùa Giác Lâm độ 2 km, nên cũng được gọi là chùa Hố Đất. Khi tổ Viên Quang trùng kiến chùa Giác Lâm thì chùa Giác Viên lúc đó chỉ là một cái am nhỏ thời Quốc ân. Sau khi làm lễ lạc thành chùa Giác Lâm, tổ Viên Quang mới sửa cái am nhỏ này thành chùa gọi là Quan Âm viện. Đến năm 1850 niên hiệu Tự Đức thứ 4, tổ Hải Tịnh đổi hiệu Quan Âm viện lại là Giác Viên tự. 

Năm 1909, do công đức của tổ Như Phòng trùng kiến thứ 2, chùa Giác Lâm và chùa Giác Viên mới được tráng lệ như ngày nay. Trong hai chùa này vẫn còn lưu giữ những di vật PG xưa nhất. Đó là những pho tượng gỗ quý hiếm tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc của đất Sài Gòn-Gia Định xưa kia. Những tấm bao lam, những nét chạm khắc trên nóc theo dạng “lưỡng long tranh châu”, trúc cúc điểu mai, long lân quy phụng giàu tính dân tộc truyền thống; những câu đối của Trịnh Hoài Đức từ thế kỷ trước, những bộ ván tính tuổi cả trăm năm dài đến 6m rưỡi. 

- Chùa Châu Thới ở Biên Hòa đã có hơn 300 năm. Năm Tự Đức thứ 3, chùa đã có tên là Chiêu Thái Sơn và được vào Quốc sử quán. Thiền sư Khánh Long là người đầu tiên đặt nền móng cho chùa Châu Thới vào năm 1612. Núi Châu Thới được chọn làm cứ điểm trong cuộc chiến tranh giữa quân Nguyễn và quân Tây sơn, và sau này là “đắc địa” của nhiều cán bộ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp-Mỹ. 

- Chùa Phụng Sơn: cũng gọi là chùa Gò vì chùa được xây trên một gò đất, vào thời vua Gia Long (1802 - 1820), do tổ Liễu Thông gốc người Thanh Hóa khởi công xây dựng. Truyền thuyết kể: mỗi chiều tổ đi dạo quanh gò lần chuỗi niệm Phật. Một hôm có một con chim phụng bay đến đậu trên cây ngô đồng cất tiếng hót, do đó tổ mới quyết định đặt tên chùa là Phụng Sơn tự. Chùa được trùng tu năm 1904, hoàn thành năm 1915. 

- Chùa Kiến Phước (Tây Đường) ở làng Long Kiến, tỉnh Gia Định, cũng là một ngôi chùa cổ được thành lập năm 1866. Ngôi chùa hiện nay là sự sáp nhập của 2 ngôi chùa cũ: chùa sắc tứ Kiến Phước và Phước Điền tự. Vị sư đầu tiên về chùa này trụ trì là tổ Mật Đa thuộc dòng Lâm Tế thứ 37. Khi Pháp chiếm thành Gia Định, lấy chùa làm đồn bót án ngữ mặt hậu thành Gia Định. Dưới thời kháng chiến chống Pháp, chùa Kiến Phước là cơ sở hội hợp giúp đỡ tiền bạc cho cách mạng, là nơi nuôi dưỡng thương binh từ mặt trận Bà Quẹo đưa về. Chùa có 2 bảo vật quý: 

- Một pho tượng A Di Đà bằng đồng 

- Một bức thêu A Di Đà phóng quang, do một mũi kim thêu niệm một danh hiệu Phật A Di Đà, nên tổ đặt tên là “Nhứt niệm nhứt châm”. Bức thêu này được trưng bày ở chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một) trong buổi khai kỳ mở đàn truyền giới, nhưng nay đã bị thất lạc. 

Những ngôi chùa mới được xây dựng vào giữa thế kỷ 20 thường được xây bằng bê-tông cốt sắt, ít dùng gỗ, diện tích cũng không được rộng lớn, chỉ chứa vài chục vị Tăng và vài trăm tín đồ đến làm lễ. Một kiểu kiến trúc hoàn toàn mới là chùa lầu, trên lầu là chánh điện thờ Phật, dưới là giảng đường làm nơi thuyết pháp và hội họp; văn phòng và chỗ ở của chư Tăng thì hai bên. Có chùa xây thêm một ngôi tháp cao bảy tầng làm tiêu biểu. Chẳng hạn như chùa Ấn Quang xây dựng xong vào năm 1956, chùa Xá Lợi xây dựng xong vào cuối năm 1957, chùa Vĩnh Nghiêm khởi công năm 1964 hoàn thành năm 1971 đều theo kiến trúc mới này. Ngôi tháp chùa Vĩnh Nghiêm đặc biệt cao 40m có bảy tầng. Đỉnh tháp có chín bánh xe vòng tròn và mấy hình khối tròn gọi là Long xa và Quy châu, được coi là ngôi tháp đồ sộ nhất ở Tp. Hồ Chí Minh. 

Đền miếu đình lăng cũng được xây dựng như một trong những thành tố của thiết chế văn học tín ngưỡng của thôn làng, và ở một khía cạnh nào đó cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của PG. Chẳng hạn như đền Hùng Vương được xây dựng để tưởng nhớ các vua Hùng có công dựng nước, như Hồ Chủ tịch đã nói: “các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Bởi vì biết uống nước nhớ nguồn là biết giữ lấy linh hồn của dân tộc mình vốn có bề dày hơn bốn ngàn năm văn hiến. 

- Lăng Ông ở Bà Chiểu được xây dựng để tưởng nhớ ngài Tả quân Lê Văn Duyệt dưới thời nhà Nguyễn. Có thể nói Lăng Ông là một trong những di tích lịch sử văn hóa mang dấu ấn lịch sử của Sài Gòn. 

- Đền thờ Trần Hưng Đạo được xây dựng để tưởng nhớ người có công đánh đuổi quân xâm lược Nguyên Mông vào triều đại nhà Trần thế kỷ thứ XIII. 

- Gần đây nhất là đền Bến Dược khởi công năm 1993, khánh thành giai đoạn I vào tháng 12 năm 1995, nằm trong quần thể của khu di tích lịch sử địa đạo Bến Dược-Củ Chi. Đền được xây dựng để tưởng nhớ công ơn to lớn của đồng bào chiến sĩ đã chiến đấu hy sinh trên vùng đất Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp, Mỹ. 

Nói khác đi, đạo Phật từ suốt buổi đầu đến cuối thế kỷ XIX đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa nói chung của đất nước, sự gắn bó mật thiết của PG với vận mệnh dân tộc, khổ nhục cùng cam, vinh quang cùng hưởng trong suốt chiều dài lịch sử gần 2000 năm đã hình thành một sinh hoạt PG Việt Nam đầy sức sống với nhiều đổi mới. “Nhậåt tân, hựu nhật tân” mỗi ngày mỗi mới, mới thêm mãi mãi. Nếu như trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, TP.HCM hướng tới trong niềm tin và sức mạnh kinh tế của nền sản xuất hàng hóa-hiện đại hóa, với kinh nghiệm đã tích lũy trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước XHCN, thì Giáo hội PG Việt Nam trong nhiệm kỳ IV này, đứng trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI cần phải phát huy thêm nữa truyền thống hòa hợp và tinh thần thống nhất ý chí và hành động theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, Giáo hội cũng cần mở rộng hơn nữa sự đóng góp và cộng tác rộng rãi không phân biệt tông môn, hệ phái của nhiều vị giáo phẩm có đạo hạnh trong sáng và kiến giải sâu rộng về giáo lý, cũng như hàng ngũ trí thức phật tử Việt Nam trong và ngoài nước, cho các hoạt động nghiên cứu Phật học và phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam... Nếu năm 1998 là cái mốc để PGnhìn lại những thành tựu hoằng hóa đạo pháp, sự trưởng thành của Giáo hội, cũng như những đóng góp của PG Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh cho đạo cho đời trong những chặng đường lịch sử thăng trầm suốt 300 năm qua, thì năm 1998 cũng là cái mốc để Giáo hội PG Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa của thế kỷ phát huy hơn nữa sứ mạng hoằng dương chánh pháp, chú trọng đào tạo tăng tài, làm cho đạo pháp ngày càng xương minh, đồng thời đóng góp hữu hiệu vào sự nghiệp đổi mới trên đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc.«
 
 

Nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn- Gia Định- TP.Hồ Chí Minh, ôn lại 
truyền thống Phật giáo Việt Nam
TRÍ CHƠN 

Đạo Phật có mặt tại Việt nam từ lúc nào? Ai là người đầu tiên gieo hạt Giác ngộ trên mảnh đất Rồng Tiên này? Cho đến nay, câu trả lời vẫn còn là chủ đề lớn đang nghiên cứu, chưa được giải quyết thỏa đáng. Gần đây có một số sử gia đã đưa ra một vài luận cứ rằng: “... Ngay sau đại hội kết tập kinh điển lần thứ 3 tại thành phố Pataliputra - Ấn Độ, trước Tây lịch 300 năm, vua Asoka cùng với Đại lão Hòa thượng (HT) Tissa Mogaliputta đã cử và đẩy mạnh các phái đoàn Như Lai sứ giả trên đường truyền bá Phật pháp tới các nước Viễn Đông, Trung Đông, Đông bộ Địa Trung Hải, Sri Lanka và toàn cõi bán đảo Đông Dương, trong đó có Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, do hai vị cao tăng Sona và Uttara truyền tới. Hầu hết các nơi đều có những dấu ấn bằng chùa, tháp, cột đá hay bia đá để ghi lại công đức của vua Asoka” (1). 

“... Ở Giao Châu, tại thành Nê Lê có bảo tháp của vua Asoka... chính là Đồ Sơn hiện nay” (2). 

Trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, có sự tích Chử Đồng Tử hay truyện Đầm Nhất Dạ, (dự đoán) xảy ra vào thời Hùng Vương thứ 18 (khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên) kể về cuộc hội kiến của Chử Đồng Tử với một Thiền sư Phật giáo (PG) như sau: 

“Đồng Tử cùng với các lái buôn đi theo ra biển, ở ngoài khơi có ngọn núi danh tiếng gọi là Quỳnh Viên sơn, trên núi có am nhỏ, thuyền buôn ghé đậu để lấy nước ngọt. Đồng Tử lên chơi trên am gặp một nhà sư trẻ tên là Phật Quang, truyền giáo lý cho (...). Đồng Tử trở về nói hết cho Tiên Dung (vợ Đồng Tử) nghe về đạo Phật, bèn bỏ nghề buôn bán, rủ nhau đi tìm thầy học đạo” (3). 

Trích dẫn câu chuyện để luận chứng rằng, trước Tây lịch 300 năm có nhà sư (tên Phật Quang) ở Việt Nam; điều đó cũng có nghĩa là đạo Phật đã có mặt trên quê hương ta từ thời điểm này. 

Cho dù có đoàn Như Lai sứ giả của Ấn Độ có mặt tại Giao Châu (VN), có bảo tháp ghi lại công đức của Đại đế Asoka ở Đồ Sơn, có Chử Đồng Tử hội kiến Thiền sư Phật Quang thật sự xảy ra dưới thời Hùng Vương 18 thì cũng chỉ là những luận cứ chưa được lịch sử công nhận. Câu chuyện Chử Đồng Tử cũng không có một chứng cớ nào xác định là đã xảy ra dưới thời Hùng Vương 18 (300 tr.TL); chỉ biết chuyện viết trong Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh hiệu đính năm Hồng Đức thứ 23 (1492). Song, ta cũng nên tôn trọng những luận cứ này trong khi nghiên cứu lịch sử, để tiếp tục cuộc hành trình tìm về cội nguồn đích thực của lịch sử PG Việt Nam. 

Những Thiền sư đầu tiên có mặt tại Giao Châu (VN) được sách sử ghi đậm tên tuổi với những mốc thời gian cụ thể; đó là: Mahajtivaka (Ma Ha Kỳ Vực - người Tây Trúc) và Ksudara (Khâu Đà La - người Nam Thiên Trúc) năm 188; Meoupo (Mâu Bác - người quận Thương Ngô, Trung Hoa) năm 194; Káng Sen Houci (Khương Tăng Hội - người Sogdiane, thuộc Liên bang Nga hiện nay) năm 200 - 247; Tche Kiang Liang (Chi Cương Lương - người Scythia - Nhục Chi) năm 266. 

Như vậy, đạo Phật có mặt tại Việt Nam - theo chính sử - là cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ III, sau năm thế kỷ so với các luận cứ vừa nêu trên. 

Đến thế kỷ thứ 6 vào năm 580, một Thiền sư người Nam Thiên Trúc, sang Việt Nam hoằng đạo, trụ tại chùa Pháp Vân (Hà Bắc). Đó là Thiền sư Vinitaruci (Tỳ Ni Đa Lưu Chi), đệ tử của Thiền sư Tăng Xán (Nhị tổ Trung Hoa). Dòng thiền này trải qua 633 năm với 19 đời truyền thừa. 

Năm 820 có Thiền sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu - Trung Hoa vân du sang Việt Nam truyền bá Phật pháp. Dòng thiền Vô Ngôn Thông duy trì gần năm thế kỷ trải qua 17 đời lưu truyền. 

Bước sang thế kỷ thứ 10, đạo Phật tiến dần đến đỉnh cao của sự hưng thịnh. Dưới triều đại nhà Đinh (968-980) vào năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng sắc phong Thiền sư Ngô Chân Lưu làm Tăng thống và ban tước hiệu Khuông Việt Thái sư. Đây là vị Tăng thống đầu tiên trong lịch sử PG Việt Nam, mở màn cho thời kỳ huy hoàng tráng lệ của PG dân tộc. Sang triều Lê (980-1009), PG vẫn tiếp tục phát triển; tuy nhiên dưới thời của ông vua ăn chơi, trác táng vô đạo Lê Long Đĩnh (Lê Ngọa Triều - 1005-1009), tình hình phát triển của PG có phần bị khựng lại. Sự sa đọa của hôn quân Lê Long Đĩnh được trả bằng cái giá: kết thúc triều Lê. Và, triều đình được thay thế bằng những minh quân họ Lý, tiếp theo là họ Trần. 

Đạo Phật dưới 2 triều đại Lý (1010-1225) và Trần (1225-1400) được xem là thời vàng son, trở thành quốc giáo của dân tộc. 

Đạo Phật sáng ngời ở thời kỳ này một phần do (hầu hết) các vị vua đều chánh tín Tam bảo như Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), con nuôi của Thiền sư Khánh Vân, thọ giáo với Thiền sư Vạn Hạnh; vua Lý Thái Tông, đệ tử Thiền sư Thiền Lão, sắc chỉ lập 950 ngôi chùa sau khi bình Chiêm ở Châu Hoan (Nghệ An); vua Lý Thánh Tông, đệ nhất Tổ của Thiền phái Thảo Đường; Lý Anh Tông, đệ tử đời thứ 10 và Lý Cao Tông, đời thứ 16 của Thiền phái Thảo Đường... Điều quan trọng hơn khiến PG lớn mạnh vẫn là do đức tu hành và tài hoằng đạo của các Thiền sư như: Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Huệ Sinh, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Thông Biện, Chân Không, Minh Không, Không Lộ, Đạo Huệ, Giác Hải... các Thiền sư này phần nhiều là Tăng thống, Quốc sư hoặc ít cũng được các vua thỉnh vào cung giảng đạo trong triều đình. 

Sang triều Trần - nhất là ở các vị vua đầu - thì dường như không có sự cách biệt giữa một ông vua với một Thiền sư. Nói cách khác, một nhà vua đồng thời cũng là một nhà tu như hoàng đế Trần Thái Tông, hoàng đế Trần Nhân Tông... Những tác phẩm: Thiền tông chỉ nam, Kim Cương Tam Muội kinh chú giải, Bình đẳng lễ sám văn (3 tác phẩm này đã thất lạc chỉ còn bài tựa), Lục thì sám hối khoa nghi, Khóa hư lục... của Trần Thái Tông cũng đủ cho ta thấy được “chất Phật” trong ông hiện rõ một cách huyền nhiệm qua các luận phẩm. Đặc biệt sự xuất gia của vua Trần Nhân Tông với đạo hiệu Trúc Lâm Đại Đầu Đà, được xem như một sự kiện “vị tằng hữu”, “đại sự nhơn duyên” của PG Việt Nam. Sự kiện vua Trần Nhân Tông đi tu và trở thành Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm không khác sự kiện Hoàng thái tử Siddhàrtha (Sĩ Đạt Ta) vượt thành tìm đạo và chứng đạo với tôn hiệu Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni). Không quá đáng khi cho rằng Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm là Phật tổ của PG Việt Nam. 

Ngoài ra, còn có các vua: Thánh Tông, Anh Tông, Minh Tông... đều là những vị vua quy Phật, ăn chay, đọc kinh, hộ trì Tam bảo, tham nghiên giáo lý. 

Nhìn lại dòng sử Việt - Phật ở hai triều đại Lý - Trần, thấy rằng, đạo Phật đã phát triển đến cực độ, nhất là thời Trần Nhân Tông. PG ở hai thời này đều phát triển mạnh, nhưng mỗi thời mang một phong cách khác nhau. Ở triều Lý, xuất hiện nhiều Thiền sư lỗi lạc, và hầu hết những vị này đều được vua tôn sùng, mời làm cố vấn chính sự. Sang triều Trần thì hầu hết các vị vua đều là những trí thức PG, áp dụng Phật lý vào việc trị quốc an dân. 

Bình luận về sự phát triển PG ở hai giai đoạn này, sử gia Nguyễn Lang viết: 

“Trong buổi đầu lập quốc thời Lý, các vua Lý rất cần đến các Thiền sư. Không những họ cần đến những vị này để liên kết nhân tâm, họ còn cần đến sức học, công tác giáo dục, công tác ngoại giao và kế hoạch của những ông thầy tu nữa. Đến đời Trần thì tình trạng khác hẳn; các vua Trần đều học giỏi mà lại rất giỏi về đạo Phật, nên liên hệ giữa các vua và các Thiền sư không phải là để nhờ cậy về phương diện kế hoạch, công tác. Các ông vua như: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông đều có căn bản vững chắc Phật học. Họ ủng hộ PG một phần vì họ là Phật tử, một phần cũng vì muốn liên kết nhân tâm trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Thời đại Nhân Tông là thời đại mà PG hưng thịnh đến cực đôå" (4).

Tiếc thay, càng về sau, những vị vua họ Trần đều tỏ ra yếu kém nên Hồ Quý Ly thao túng triều đình, cài tay chân thân tín nắm giữ những chức vụ then chốt trong triều cung và quân đội. Đến tháng 2 năm 1400, Hồ Quý Ly truất phế vua Trần Thiếu Đế (mới 3 tuổi) rồi tự xưng vương, lập nên nhà Hồ; triều Trần xem như chấm dứt từ đây. 

Kể từ khi họ Hồ lên ngôi nắm quyền cai trị cũng là lúc đạo Phật đi vào mạt vận. Bảy năm sau, khi nhà Minh phương Bắc đặt chân lên đất Việt, đạo Phật lại càng mù mịt hơn. 

Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự hiện diện của các Thiền sư Trung Hoa trên nước Việt như: Viên Cảnh, Viên Khoan, Nguyên Thiều, Giác Phong, Tử Dung, Từ Lâm, Pháp Bảo, Pháp Hoa, Tế Viên... và các Thiền sư Việt Nam như : Hương Hải, Chân Nguyên, Liễu Quán, Tính Tuyền, Như Hiện, Như Trừng..., mạch sống PG phần nào được hồi phục. 

Đang trên đà tiến triển ấy thì, đến thế kỷ XIX, thực dân phương Tây sang xâm lược nước ta, PG lại bước vào cuộc nhiễu nhương.

Sang thập niên 20 của thế kỷ này, do ảnh hưởng của phong trào chấn hưng PG ở các nước Á châu, nhất là PG Trung Hoa mà Đại sư Thái Hư là người chủ xướng, PG Việt Nam cũng theo đó được khởi sắc, chấn hưng. HT Khánh Hòa là linh hồn của công cuộc chấn hưng PG Việt Nam. Trợ lý cho HT có Sư Thiện Chiếu, một vị sư trẻ, năng nổ, tháo vát trong tổ chức. 

Năm 1927, sư Thiện Chiếu đi Hà Nội về mang theo chương trình chấn hưng PG Trung Hoa, đã thúc đẩy các Tăng sĩ Nam Kỳ gấp rút thực hiện các công cuộc chấn hưng. 

"Tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1929), HT Khánh Hòa đích thân đi vận động hầu hết các chùa lớn ở miền Nam và cử một phái đoàn do Giáo thọ Thiện Chiếu hướng dẫn ra miền Trung và miền Bắc để vận động phong trào chấn hưng PG" (5). Trong khi đó tại miền Nam, HT Khánh Hòa đã đem chương trình cải tổ PG của Tổng hội PG Trung Hoa mà Sư Thiện Chiếu đã đem về từ Hà Nội, bàn thảo với quý HT: Huệ Quang, Thiện Niệm, Từ Nhân, Chơn Huệ... và các cư sĩ trí thức như: Ngô Văn Chương, Phạm Ngọc Vinh... để đi đến việc tổ chức Hội Phật học.

Năm 1930, Hội Phật học đầu tiên ra đời là Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, HT Từ Phong, chùa Giác Hải (Chợ Lớn) được bầu làm Hội chủ ; HT Khánh Hòa, đệ nhất Phó Hội chủ; ông Trần Nguyên Chấn (người của chính quyền Pháp), đệ nhị Phó Hội chủ; cư sĩ Nguyễn Văn Nhơn, Thư ký ; và một số hội viên cả thảy 188 người. Trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn (Cầu Muối - Sài Gòn). Năm 1931, Thống đốc Nam Kỳ - ông Jkrautheimer - đã ký duyệt, chính thức công nhận Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học là tổ chức hợp pháp.

Sau Hộåi Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, các Hội Phật học khác liên tiếp ra đời trên cả ba miền đất nước, như: Hộåi An Nam Phật học Trung Kỳ (1932), Liên đoàn Phật học xã (1933), Hộåi Lưỡng Xuyên Phật học (1934), Hội PG Bắc Kỳ (1934), Hội Phật học Kiêm Tế (1937), Hội Tăng Ni Chỉnh lý Bắc Việt (1949), Hội Phật học Nam Việt (1950), Giáo hội Tăng già Nam Việt (1951) v.v...

Bước sang thập niên 1950, PG phát triển rõ nét, các hội đoàn không ngớt ra đời. Giới lãnh đạo PG mới tính đến chuyện thống nhất các tổ chức hội đoàn thành Tổng hội hay Giáo hội. 

Các kỳ thống nhất PG từ thập niên 1950 về sau được lịch sử ghi đậm nét là:

- Thống nhất PG 1951 tại chùa Từ Đàm - Huế, nhằm kết hợp 6 tập đoàn PG thành một tổ chức có tên Tổng hội PG Việt Nam.

- Thống nhất Phật giáo 1952 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, nhằm liên kết các bậc cao tăng lãnh đạo PG trên ba miền đất nước để thành lập Giáo hội Tăng già Toàn quốc Việt Nam.

- Thống nhất PG 1958 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội và Hội PG Thống nhất Việt Nam ra đời.

- Thống nhất PG vào cuối năm 1963, đầu năm 1964, để kết hợp 11 tập đoàn PG khác nhau thành tổ chức lớn mạnh mang tên Giáo hội PG Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).

Như vậy, trong hai thập niên 1950,1960, có đến 4 lần thống nhất PG ; ở thập niên 1950 có 3 lần. Kỳ thống nhất PG vào đầu năm 1964 tại miền Nam được xem là kỳ thống nhất lớn mạnh nhất, Giáo hội đã kết hợp được 11 tổ chức PG khác nhau và quy tụ được một khối lượng tín đồ khổng lồ của các tỉnh miền Trung và miền Nam làm hậu thuẫn. Phải thừa nhận rằng, các tổ chức PG trước đó, chưa có tổ chức nào quy mô và hiện đại như cơ chế tổ chức của GHPGVNTN. Sức mạnh của Giáo hội này đã làm cho thế giới biết nhiều hơn về PG Việt Nam; song, bên cạnh đó cũng có những khuyết điểm trầm trọng không tránh khỏi.

Giáo hội này vẫn chưa thống nhất PG được một cách toàn diện. Mặc dù đã quy tụ được 11 tập đoàn khác nhau nhưng vẫn còn một số Giáo hội tương đối lớn hoạt động riêng lẻ như: Giáo hội Lục hòa Tăng Việt Nam, đạo Phật Khất sĩ Việt Nam (lúc này hệ phái Khất sĩ chưa thành lập Giáo hội), Giáo hội Thiền Tịnh Đạo tràng... chứng tỏ sự thống nhất này chưa toàn triệt. Trên danh nghĩa tuy đã thống nhất, sự thống nhất này còn yếu về mặt đoàn kết hòa hợp; nên chỉ 3 năm sau đó, 1967, Giáo hội bị phân hóa thành hai khối hoạt động theo 2 bản Hiến chương khác nhau. Sự phân hóa này ngày càng trầm trọng hơn dẫn đến chống đối kịch liệt và xung đột nhau vào đêm 5/5/1970 tại Việt Nam Quốc tự. Đây là hệ quả chia rẽ trầm trọng của Giáo hội này. Mặc dù bị chia rẽ (tất nhiên có yếu đi), GHPGVNTN vẫn tồn tại và hoạt động cho đến khi Giáo hội PG Việt nam ra đời. Đại hội kỳ VII của Giáo hội này được khai mạc vào sáng 23/1/1977 tại Văn phòng Viện Hóa đạo (chùa Ấn Quang, Q.10) gồm 160 đại biểu của 54 đơn vị trực thuộc tham dự. HT Thích Trí Thủ, nhân danh Viện trưởng tân nhiệm, đã ký Thông bạch 7 điểm, trong đó có điểm thứ 6 nguyên văn như sau: “Đại hội cẩn ủy Giáo hội trung ương tiếp tục vận động thống nhất PG cả nước trong tinh thần đạo pháp và truyền thống dân tộc” (Trích tiểu sử cố HT. Thích Trí Thủ).

l Thống nhất PG năm 1981, Giáo hội PG Việt Nam ra đời 

Trưa ngày 30/4/1975, lá cờ sao vàng trên nền nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên dinh Độc Lập, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: nước Việt Nam được giải phóng hoàn toàn. Ngày 25/4/1976, cuộc tổng tuyển cử được tổ chức trên toàn quốc thành công, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kỷ nguyên của sự thống nhất thật sự, độc lập thật sự mà dân tộc suốt gần 2000 năm sống trong đô hộ và nô lệ nhiều hơn trong độc lập và tự do. Một trang sử mới bắt đầu cho dân tộc từ đây. 

Sự thống nhất đất nước đã mang đến sự thống nhất các tổ chức trong xã hội. Đó là qui luật tất yếu, mà PG là một tổ chức xã hội không ở trường hợp ngoại lệ. 

Sẽ không có sự kiện một tổ chức cũ nằm trong chế độ mới mà hoạt động phát triển nhịp nhàng. Sẽ không có một sự phát triển ổn định của một thân thể khi không có sự chuyển đổi tế bào. Sự đoàn kết hòa hợp hướng đến phát triển không thể không đặt trên căn bản thống nhất. Đó là quy luật. 

Do đó, sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Ban liên lạc PG yêu nước thành phố Hồ Chí Minh ra đời (1975), tiếp theo là Ban vận động thống nhất PG Việt Nam được thành lập (1980), giới lãnh đạo Ban vận động thống nhất PG đã quyết định năm 1981 là năm thống nhất PG toàn diện. Thế là, sáng ngày 4/11/1981 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, khai mạc Hội nghị đại biểu thống nhất PG Việt Nam, có 165 đại biểu của 9 Giáo hội, hệ phái tham dự; đến ngày 7/11/1981 thì Hội nghị bế mạc, khai sinh Giáo hội PG Việt Nam. 

Nguyện vọng thống nhất PG là nguyện vọng chung của Tăng Ni Phật tử trên căn bản đạo pháp - dân tộc. 

Sự ra đời của Giáo hội PG Việt Nam dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều tất định của lịch sử. 

Hiện nay, “Giáo hội PG Việt Nam là tổ chức PG duy nhất đại diện cho PG Việt nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và ngoài nước” (Lời nói đầu Hiến chương Giáo hội PG Việt Nam).
 
 

(1) Đạo Phật Việt Nam, Thích Đức Nghiệp, THPG TP. HCM ấn hành 1995, tr.4. 

(2) Lịch sử PG Việt Nam, Nguyễn Tài Thư chủ biên. Viện Triết học Hà Nội xuất bản 1988, tr.22. 

(3) Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Đăng Thục, Nxb TP. HCM 1992, tr.250-251. 

(4) Việt Nam PG sử luận - tập 1, Nguyễn Lang, Nxb Văn hóa Hà Nội 1994, tr.481. 

(5) Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ - Việt Nam từ thế kỷ XVII đến 1975, Trần Hồng Liên. Nxb Khoa học Xã hội 1995, tr.53. 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Sáu 2016(Xem: 5893)
Trong quá trình hình thành và phát triển Phật giáo, Phật tử Việt Nam tiếp nhận ba truyền thống Tu Tập chính yếu, đó là Thiền, Tịnh và Mật; nếu vận dụng tu tập đúng pháp thì có khả năng giải hóa mọi phiền não và được giải thoát. Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông.
09 Tháng Năm 2016(Xem: 6183)
Có những mất mát không gì bù đắp được, có những sự chia ly diệu kỳ như huyền sử. Kẻ ở cứ mãi nhớ thương, hồi ức đong đầy nơi khóe mắt. Người đi mỉm cười thinh lặng vô ngôn, có chút tiếc nuối mình vẫn chưa làm được gì nhiều cho đạo pháp như lòng hằng mong muốn. Cầu nguyện Hòa Thượng sớm trở lại cõi Ta Bà để giáo hóa chúng sinh. Nước sông Côn, đầm Thị Nại, biển Đề Gi, ngày đó sẽ xanh hơn trong hơn, cá nhởn nhơ bơi lội từng đàn trong giòng nước mát rượi như cam lồ tịnh thủy.Chúng con mãi mãi ngóng đợi trông chờ.
29 Tháng Ba 2016(Xem: 5563)
Những Thiền sư VN đã sống trọn vẹn đời mình theo những điểm căn bản của Đại thừa như vậy, và một khi phát khởi tâm Bồ đè, Trí Huệ soi thấy Tánh Không, lòng Đại Bi, phương tiện thiện xảo được phát triển một cách trọn vẹn, đã làm nên cái đặc trưng mà chúng ta thường nói là tính cách nhập thế của Phật Giáo Việt Nam.
18 Tháng Giêng 2016(Xem: 7539)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ.
12 Tháng Giêng 2016(Xem: 6121)
Danh từ Nhân gian Phật giáo xuất hiện lần đầu tại Việt Nam trên Tuần báo Đuốc Tuệ do Hội Phật Giáo Bắc Kỳ xuất bản tại Hà Nội. Số đầu ra ngày 10/12/1935. Đuốc Tuệ hoạt động được 10 năm thì bị đình bản vì có cuộc cách mạng giành độc lập năm 1945.
01 Tháng Giêng 2016(Xem: 7931)
Từ khi biết đến tác phẩm quý “Thiền sư Khương Tăng Hội” này tôi đã đi rất nhiều chùa để tìm xem ở những đâu có thờ Tổ Khương Tăng Hội. Tiếc thay, tìm mãi mà không thấy. Nơi nơi chỉ thấy thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma, một vị tổ người Ấn Độ đã mang Đạo Phật vào Trung Quốc rồi sau này mới lan sang đến Việt Nam.
01 Tháng Giêng 2016(Xem: 6397)
Khi học về truyền thống sinh động của thiền tập đạo Bụt, chúng ta đã bắt đầu từ Ấn Độ rồi sang Việt Nam. Khi nói về thiền Việt Nam, chúng ta có cơ hội xét lại thiền tông ở Trung Quốc. Chúng ta làm khác với cách thông thường là từ Ấn Độ đi sang Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc mới về Việt Nam. Lý do là vì ở Việt Nam chúng ta có thiền phái Tăng Hội, được thiết lập vào thế kỷ thứ 3, tức 300 năm trước ngày tổ Bồ-Đề Đạt-Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa để dạy thiền.
01 Tháng Giêng 2016(Xem: 6792)
Bài này viết được là nhờ thu thập công trình nghiên cứu trong luận án Phó Tiến sĩ của Budden Gyoshi (Phật Điển Hành Tư): Buddhism in Vietnam, the Period of Introduction and Development (Murdoch University, 1979).
23 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6176)
Thầy Thích Hạnh Tuấn là một trong những bậc Tăng tài của Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh nói riêng và của Phật Giáo Việt Nam nói chung trong thời đại ngày nay.